Tải bản đầy đủ (.pdf) (51 trang)

Quá trình hình thành đường lối kháng chiến của Đảng những năm 1945 – 1947 - Khóa luận tốt ngiệp đại học

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (871.04 KB, 51 trang )

LỜI CẢM ƠN

Em xin chân thành cảm ơn cô giáo, Thạc sĩ Tống Thanh Bình đã tận tình
hướng dẫn, giúp đỡ em hoàn thành Khóa luận này.
Em xin cảm ơn các thầy, cô giáo trong tổ Lịch sử Việt Nam, Khoa Sử - Địa,
Thư viện nhà trường, các bạn trong tập thể lớp K50 Đại Học Sư Phạm Lịch Sử,
đã giúp em tìm kiếm tài liệu, động viên em hoàn thành Khóa luận này.
Trong quá trình hoàn thành Khóa luận này, em không thể tránh khỏi những
thiếu xót, hạn chế. Em kính mong nhận được sự quan tâm, góp ý của quý thầy,
cô và các bạn để Khóa luận của em hoàn thiện hơn.
Em xin chân thành cảm ơn!

Sơn La, tháng 05 năm 2013
Sinh viên thực hiện


Hà Thị Đạt













MỤC LỤC


MỞ ĐẦU 1
1. Lí do chọn đề tài 1
2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề 2
3. Đối tượng, nhiệm vụ, phạm vi nghiên cứu 3
4. Nguồn tài liệu và phương pháp nghiên cứu 3
5. Đóng góp của đề tài 4
6. Cấu trúc của đề tài 4
CHƯƠNG 1. CƠ SỞ ĐẢNG TA ĐỀ RA ĐƯỜNG LỐI CUỘC KHÁNG
CHIẾN 5
1.1. Cơ sở lí luận 5
1.2. Cơ sở thực tiễn 5
1.2.1. Thế giới 5
1.2.2. Việt Nam 6
1.2.2.1. Trong lịch sử 6
1.2.2.2. Hoàn cảnh của đất nước ta khi bước vào cuộc kháng chiến toàn
quốc. 7
CHƯƠNG 2. QUÁ TRÌNH HÌNH THÀNH ĐƯỜNG LỐI KHÁNG CHIẾN 10
2.1. Lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến 11
2.2. Chỉ thị toàn quốc kháng chiến 13
2.3. Tác phẩm “Kháng chiến nhất định thắng lợi” 15
CHƯƠNG 3. NỘI DUNG ĐƯỜNG LỐI KHÁNG CHIẾN 21
3.1. Kháng chiến toàn dân 21
3.2. Kháng chiến toàn diện 22
3.3. Kháng chiến lâu dài 33
3.4. Kháng chiến tự lực cánh sinh 39
KẾT LUẬN 45
TÀI LIỆU THAM KHẢO
PHỤ LỤC

1

MỞ ĐẦU
1. Lí do chọn đề tài
Cuộc kháng chiến chống Pháp đầy khó khăn, gian khổ của nhân dân ta kết
thúc thắng lợi vào năm 1954. Thắng lợi của cuộc kháng chiến chống Pháp (1945
– 1954) bắt nguồn từ nhiều nguyên nhân cả chủ quan và khách quan: xuất phát
từ truyền thống yêu nước của dân tộc, đường lối chính trị quân sự đúng đắn sáng
tạo của Đảng, sự ủng hộ giúp đỡ to lớn của bạn bè quốc tế; trong đó nhân tố có
tính chất quyết định nhất là nhờ có đường lối chính trị và quân sự đúng đắn,
khoa học, phù hợp của Đảng…
Tuy nhiên, nhiều công trình được công bố, chưa tìm hiểu, nghiên cứu, đánh
giá cho thực sự sâu sắc, chi tiết về quá trình hình thành đường lối kháng chiến
của Đảng, đặc biệt là sự sáng tạo của Đảng khi đề ra nội dung cuộc kháng chiến
“toàn dân, toàn diện, lâu dài và tự lực cánh sinh”. Vì vậy, việc lựa chọn “Quá
trình hình thành đường lối kháng chiến của Đảng những năm 1945 – 1947” làm
đề tài nghiên cứu có ý nghĩa khoa học và thực tiễn.
Về khoa học:
Làm rõ thêm điều kiện chủ quan và khách quan đưa đến sự hình thành
Đường lối kháng chiến của Đảng với phương châm: toàn dân, toàn diện, lâu dài
và tự lực cánh sinh.
Làm rõ thêm quá trình chuẩn bị kháng chiến của nhân dân ta về mọi mặt:
kinh tế, chính trị, văn hóa và giáo dục.
Làm rõ quá trình kêu gọi, phát động toàn dân tham gia kháng chiến và quá
trình toàn dân tham gia kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược để bảo vệ
độc lập, tự do của Tổ quốc.
Làm rõ Đường lối lãnh đạo của Đảng và Bác Hồ trước quyết tâm quay trở
lại xâm lược của thực dân Pháp.
Về thực tiễn:
Bổ sung thêm nguồn tài liệu nghiên cứu về thời kỳ kháng chiến chống thực
dân Pháp (1946 – 1954).
Làm tài liệu tham khảo trong giảng dạy cho giáo viên, sinh viên khi nghiên

cứu, học tập về Đường lối lãnh đạo của Đảng.
Góp phần giáo dục truyền thống yêu nước, lòng tự hào dân tộc và sự
thành kính đối với Đảng và Hồ Chủ tịch cho nhân dân nói chung và thế hệ trẻ
nói riêng.

2
Vai trò, tác dụng của Đường lối kháng chiến đối với sự thắng lợi của cuộc
kháng chiến chống Pháp 1945 – 1954, với nội dung: Toàn dân, toàn diện, lâu dài
và tự lực cánh sinh. Khẳng định sự sáng tạo của Đảng ta, trong việc vận dụng
một cách đúng đắn và sáng tạo chủ nghĩa Mác – Lênin vào thực tiễn cách mạng
Việt Nam.
2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề
Quá trình hình thành đường lối kháng chiến của Đảng với nội dung:
“Trường kỳ, toàn dân, toàn diện, lâu dài và dựa vào sức mình là chính”, đã thu
hút được sự quan tâm của nhiều nhà nghiên cứu, nhiều nhà hoạt động chính trị,
nhà khoa học, giáo viên, sinh viên và được đề cập trong một số công trình tiêu
biểu là:
+ Kiều Xuân Bá, (1995) Lịch sử Đảng Cộng sản Việt Nam, Nhà xuất bản
Giáo dục. Tác phẩm đã nghiên cứu và làm sáng tỏ đường lối lãnh đạo của Đảng
và Bác Hồ trong thời kỳ kháng chiến chống thực dân Pháp (1946 – 1954). Tác
phẩm đã khẳng định được đường lối kháng chiến của Đảng, với nội dung:
“Trường kì, toàn dân, toàn diện, lâu dài và tự lực cách sinh”, hoàn toàn phù hợp
với thực tiễn cách mạng Việt Nam trong thời điểm đó.
+ Cuốn Lê Mậu Hãn, Trần Bá Đệ, Nguyễn Văn Thư (1995), Đại cương lịch
sử Việt Nam, tập 3, Nhà xuất bản Chính Trị Quốc gia. Tác phẩm đã đề cập đến
hoàn cảnh lịch sử, nội dung đường lối kháng chiến của Đảng ta trong giai đoạn
1945 – 1954.
+ Trần Bá Đệ, Nguyễn Xuân Minh, Lê Cung (2004) Lịch sử Việt Nam 1945
– 1975, Nhà xuất bản Đại học sư phạm. Công trình, đã nêu những nét sơ lược,
về toàn bộ quá trình kháng chiến chống Pháp của nhân dân Việt Nam.

+ Cuốn “Tổng kết cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp thắng lợi và bài
học” (1996), Ban chỉ đạo tổng kết chiến tranh, trực thuộc Bộ chính trị, Nhà xuất
bản Chính trị Quốc gia, Hà Nội. Tác phẩm đã phân tích và làm rõ sự đúng đắn,
sáng tạo của Đảng khi vận dụng Chủ nghĩa Mác – Lênin vào thực tiễn cách
mạng Việt Nam.
+ Tác phẩm “Kháng chiến nhất định thắng lợi” của đồng chí Trường Chinh.
Tác phẩm đã xác định kẻ thù, mục đích của cuộc kháng chiến, phương châm và lí
do vì sao Đảng và nhân dân ta lại đề ra nội dung cuộc kháng chiến “toàn dân, toàn
diện, lâu dài, và tự lực cánh sinh”
+ Cuốn “Một số chuyên đề Lịch sử Việt Nam, Lịch sử thế giới và phương
pháp dạy học lịch sử” của Tiến sĩ Phạm Văn Lực (chủ biên) (2011), Nhà xuất

3
bản Đại học sư phạm Hà Nội. Trong cuốn sách có chuyên đề “Kết hợp hai
nhiệm vụ kháng chiến với kiến quốc 1945 – 1954”. Chuyên đề này đã làm rõ
được cơ sở để Đảng ta đề ra đường lối kháng chiến chống thực dân Pháp xâm
lược, phân tích tình hình trong nước và quốc tế, những yêu cầu cấp thiết đặt ra
cho lịch Việt Nam thời điểm đó là phải thực hiện hai nhiệm vụ: Kháng chiến và
Kiến quốc.
+ Trong một số bài viết trên tạp chí Nghiên cứu Lịch sử Đảng. Tác giả đã
đánh giá và khẳng định, sự thắng lợi của cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp
của nhân dân ta là nhờ có sự lãnh đạo tài tình của Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh.
+ Ngoài ra, những vấn đề này còn được đề cập trong một số công trình, bài
viết như: Khóa luận tốt nghiệp, các bài tham luận, hội thảo trong nước và Quốc
tế về cuộc kháng chiến chống Pháp của nhân dân Việt Nam, hoặc một số hối ký
của các đồng chí lãnh đạo Đảng, nhà nước, bài viết trên các Tạp chí nghiên cứu
Lịch sử…
Tuy nhiên, tất cả các công trình nghiên cứu trên chỉ mới phản ánh ở những
góc độ, khía cạnh nào đó về sự hình thành đường lối kháng chiến của Đảng,
phương châm kháng chiến của Đảng.

Tựu chung lại, các công trình trên là nguồn tài liệu quí báu và là sự định
hướng để tôi đi sâu vào nghiên cứu đề tài này để làm rõ một số vấn đề khoa học
mà các công trình khác chưa làm sáng tỏ được.
3. Đối tượng, nhiệm vụ, phạm vi nghiên cứu
+ Đối tượng nghiên cứu: Đề tài bước đầu nghiên cứu “Quá trình hình
thành đường lối kháng chiến của Đảng những năm 1945 – 1947” và ý nghĩa của
đường lối đó trong công cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược lần
hai từ 1945 – 1954.
+ Nhiệm vụ đề tài: Tìm hiểu về quá trình hình thành đường lối kháng chiến
của Đảng những năm 1945 – 1947, Làm rõ nội dung đường lối kháng chiến:
toàn dân, toàn diện, lâu dài, tự lực cách sinh. Chứng minh Đường lối lãnh đạo
của Đảng là hoàn toàn đúng đắn và sáng tạo.
+ Phạm vi nghiên cứu: Đề tài nghiên cứu về quá trình hình thành Đường lối
kháng chiến của Đảng những năm 1945 – 1947.
4. Nguồn tài liệu và phương pháp nghiên cứu
- Nguồn tài liệu: Khóa luận chủ yếu sử dụng các nguồn tài liệu đã được
công bố trong các công trình nghiên cứu ở trong nước như: Giáo trình, Chuyên

4
khảo, Tạp chí và một số hồi kí của các đồng chí trong Ban lãnh đạo của Đảng.
- Phương pháp nghiên cứu: Trên cơ sở nền tảng của phương pháp luận sử
học Mác - xít và tư tưởng Hồ Chí Minh. Khóa luận chủ yếu thực hiện bằng các
phương pháp sau: lôgic, so sánh, đối chiếu, phân tích tư liệu…
5. Đóng góp của đề tài
Đề tài góp phần làm rõ hơn về quá trình hình thành đường lối kháng chiến
cũng như nội dung của đường lối trong giai đoạn 1945 – 1954. Điều đó không
chỉ có ý nghĩa quan trọng trong kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược lần
hai, mà còn là bài học kinh nghiệm quý giá của Đảng và nhân dân ta trong cuộc
kháng chiến chống đế quốc thực dân Mĩ xâm lược, và giành thắng lợi năm 1975.
6. Cấu trúc của đề tài

Ngoài phần mở đầu, kết luận, tài liệu tham khảo, đề tài kết cấu thành ba
chương:
Chương 1. Cơ sở Đảng ta đề ra đường lối cuộc kháng chiến
Chương 2. Quá trình hình thành đường lối kháng chiến của Đảng
Chương 3. Nội dung đường lối kháng chiến






5
CHƯƠNG 1
CƠ SỞ ĐẢNG TA ĐỀ RA ĐƯỜNG LỐI CUỘC KHÁNG CHIẾN
1.1. Cơ sở lí luận
Cách mạng tháng Tám thành công, cách mạng Việt Nam phải đối mặt với
nhiều khó khăn thử thách do thù trong, giặc ngoài gây ra. Để bảo vệ thành quả
của Cách mạng tháng Tám, củng cố chính quyền dân chủ nhân dân và giữ vững
nền độc lập của dân tộc, đòi hỏi Đảng, Chính phủ phải có chủ trương sách lược
đúng đắn, sáng suốt, trong đó có việc giải quyết vấn đề kháng chiến - kiến quốc.
Chủ nghĩa Mác – Lênin nói về vấn đề chiến tranh và hòa bình một cách rất
chung chung, Mác nói: “Cách mạng vô sản nổ ra ở các nước tư bản”. Đến thời
đại đế quốc chủ nghĩa, Lênin phát triển chủ nghĩa Mác trong hoàn cảnh mới
“Cách mạng vô sản sẽ bùng nổ ở khâu yếu nhất trong sợi dây truyền đế quốc
chủ nghĩa” hoặc “Giành chính quyền đã khó, giữ chính quyền càng khó hơn”
hoặc khi nói về mối quan hệ giữa hai cuộc cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân
và cách mạng xã hội chủ nghĩa, Lênin cũng nói “Giữa hai cuộc cách mạng dân
tộc dân chủ nhân dân và cách mạng xã hội chủ nghĩa không có bức tường thành
ngăn cách” [12, 371].
1.2. Cơ sở thực tiễn

1.2.1. Thế giới
Cách mạng tháng Mười thành công, nước Nga Xô Viết phải đối mặt với
muôn vàn khó khăn thử thách, bị 14 nước đế quốc bao vây, bọn phản cách mạng
ở khắp mọi nơi… Trong hoàn cảnh lịch sử đó, Đảng cộng sản Liên xô đã đề ra
“Chính sách cộng sản thời chiến” và cứu nguy được cho cách mạng.
Trong cuộc chiến tranh ái quốc vĩ đại chống lại phát xít Đức trong cuộc
chiến tranh thế giới thứ hai (1939 – 1945), Xtalin có nói đến mối quan hệ giữa
quốc phòng, tiền tuyến với hậu phương “Ai có quốc phòng vững mạnh, người đó
chiến thắng”.
Hoặc như: “Muốn tiến hành chiến tranh một cách nghiêm chỉnh phải có một
tổ chức lãnh đạo vững mạnh Một đội quân dù có hùng hậu nhất thế giới nhưng
nếu nó không được sự chỉ đạo đúng đắn, sáng tạo của Chính phủ thì sẽ tan dã sau
một tuần lễ”.[12, 371].
Xtalin cũng đề cập đến sự thử thách của chiến tranh: “Lịch sử chiến tranh
dạy rằng: Chỉ có nước nào mạnh hơn đối phương của mình về mặt phát triển, tổ
chức kinh tế, về kinh nghiệm, tài nghệ và tinh thần, kiên cường đoàn kết của

6
nhân dân trong suốt quá trình chiến tranh thì mới chịu đựng được những thử
thách đó”. [12, 371].
Những nhà quân sự lỗi lạc như: Na – pô – lê – ông đều coi trọng việc xây
dựng đường lối lãnh đạo đấu tranh và phải chuẩn bị thật chu đáo việc bảo đảm
hậu cần.
Ở Trung Quốc, xưa nay trong các cuộc chiến tranh, đường lối đấu tranh là
một trong những nhân tố thường xuyên quyết định kết quả được hay thua của
hai bên. Không ít nhà quân sự lỗi lạc, nhà tư tưởng vĩ đại đã nêu rõ tầm quan
trọng của đường lối lãnh đạo trong chiến tranh: Tôn tử coi chiến thuật là chỗ dựa
chủ yếu của hành động quân sự, là cơ sở để tiến hành chiến tranh, qua đó nhấn
mạnh: chiến tranh phải có đường lối lãnh đạo nhanh nhạy, đúng đắn và sáng tạo;
quân đội nào không có đường lối lãnh đạo đúng đắn, thì không thể nào giành

được thắng lợi, trong chiến tranh không thể tồn tại được.
Nhìn chung vai trò của cơ quan đại diện cho quyền lực cao nhất của đất
nước đều được các nhà chiến lược, các nhà quân sự đánh giá cao và yêu cầu
những nhà lãnh đao, những người cầm quân phải quan tâm thường xuyên trong
thời chiến cũng như thời bình. Bởi lẽ, chiến tranh là sự đối mặt toàn diện của các
bên tham chiến; bên nào cũng phải huy động đến mức cao nhất sức người, sức
của, mọi cơ sở vật chất đều bị thử thách tiêu hao. Do đó, cần phải được bổ sung
và phát triển. Trong chiến tranh, đường lối lãnh đạo phải kịp thời, chính xác,
động viên tinh thần chiến đấu cho quân đội; đảm bảo giữ vững và tăng cường
tiềm lực kinh tế và quốc phòng. Sức mạnh của Đảng là sức mạnh của tất cả yếu
tố chính trị, kinh tế, quân sự, văn hóa xã hội. Những yếu tố đó có liên quan chặt
chẽ với nhau tạo thành một thể hoàn chỉnh. Vì vậy, Đảng trở thành nhân tố
quyết định đến thắng lợi của cuộc chiến tranh.
1.2.2. Việt Nam
Sau khi cách mạng tháng Tám thành công, nhất là sau khi cách mạng nước
ta bước vào cuộc kháng chiến toàn quốc chống thực dân Pháp xâm lược khó
khăn, thiếu thốn về mọi mặt, lại bị bao vây cô lập “trong vòng vây” của chủ
nghĩa đế quốc; thực dân Pháp mạnh hơn ta về kinh tế, quân sự lại được các nước
đế quốc ủng hộ đang tìm cách cướp nước ta lần thứ hai.
1.2.2.1. Trong lịch sử
Kế thừa kinh nghiệm chống giặc ngoại xâm của dân tộc
Trong lịch sử dựng nước và giữ nước của dân tộc, do nước ta là một nước
nhỏ yếu, nước nghèo lại tồn tại bên cạnh một đế chế Trung Hoa rộng lớn đầy

7
tham vọng đồng hóa và thôn tính đối với dân tộc ta; có thể nói, không triều đại
Trung Quốc nào không xâm lược Việt Nam. Trong hoàn cảnh đó, để đánh thắng
được giặc ngoại xâm, giữ vững độc lập dân tộc, cha ông ta phải có nghệ thuật
giữ nước. Một trong những nghệ thuật đó, là biết kết hợp giữa kinh tế với quốc
phòng mà tiêu biểu nhất là chính sách “ngự binh ư nông”. Tư tưởng đó có nghĩa

là gửi quân đội trong nông nghiệp, thời bình làm kinh tế, lúc chiến tranh các
chiến binh này có thể xung trận Tư tưởng đó dần phát triển thành tư tưởng vĩ
đại lấy dân làm gốc “đẩy thuyền đi cũng là dân, lật thuyền cũng là dân”… Nhờ
vậy, ông cha ta đã đánh thắng được ngoại xâm bảo vệ độc lập dân tộc. Bài học
này, được Đảng ta vận dụng đề ra Đường lối kháng chiến. [10, 373].
1.2.2.2. Hoàn cảnh của đất nước ta khi bước vào cuộc kháng chiến
toàn quốc.
Sau cách mạng tháng Tám, bên cạnh những thuận lợi, cách mạng Việt Nam
vừa trong tình thế bao vây cô lập lại vừa phải đối mặt với muôn vàn khó khăn
thử thách do thù trong và giặc ngoài gây ra.
* Về mặt thuận lợi:
Cách mạng tháng Tám thành công, Đảng cộng sản Đông Dương, đứng đầu
là Chủ tịch Hồ Chí Minh trở thành Đảng cầm quyền trong cả nước, lại đúc rút
được kinh nghiệm trong 15 năm tổ chức và lãnh đạo cách mạng. Từ năm 1950,
cách mạng Việt Nam lại đón nhận được sự ủng hộ, giúp đỡ của Liên Xô, Trung
Quốc, các nước xã hội chủ nghĩa và các nước tiến bộ trên toàn thế giới.
Nhân dân Việt Nam, sau hơn một thế kỷ sống kiếp đời nô lệ. Đến nay
được sống trong độc lập, tự do nên quyết tâm bằng bất cứ giá nào cũng phải bảo
vệ quyền độc lập tự do đã giành được.
* Khó khăn:
Sau khi cách mạng tháng Tám thành công, cách mạng Việt Nam phải đối
mặt với nhiều khó khăn và thử thách do thù trong và giặc ngoài gây ra.
+ Về kinh tế, nền kinh tế nước ta vốn nghèo nàn, lạc hậu, lại bị kiệt quệ do
chính sách thống trị bóc lột tàn bạo của thực dân phong kiến, nhất là trong thời gian
chiến tranh (1939 – 1945). Hậu quả trầm trọng đó, làm cho nạn đói cuối năm 1944
đầu năm 1945, đã cướp đi sinh mạng của hơn hai triệu đồng bào miền Bắc.
Sau khi cách mạng tháng Tám thành công, 9 tỉnh đồng bằng Bắc bộ và Bắc
Trung bộ đê vỡ, tình trạng lụt lội, thất bát diễn ra nghiêm trọng. Vụ mùa năm
1945 thu hoạch chỉ bằng một nửa vụ mùa năm 1944 mà lại phải cung cấp lương
thực cho hơn 6 vạn quân Nhật và 20 vạn quân Tưởng; do đó, ở miền Bắc nạn


8
đói có nguy cơ tái diễn trên diện rộng. Công nghiệp, lạc hậu, đình đốn, phần lớn
xí nghiệp bị tàn phá, sản xuất chưa được phục hồi. Thương nghiệp thì ngưng trệ,
bế tắc, hàng hóa khan hiếm, đắt đỏ, sự giao lưu buôn bán với nước ngoài chưa
được khôi phục.
+ Về tài chính, ngân sách Trung ương lúc này chỉ có 1.230.000 đồng, trong
đó gần một nửa là rách nát, không thể lưu hành được. Nhà nước chưa kiểm soát
được ngân hàng Đông Dương. Thêm vào đó, quân Tưởng khi vào Việt Nam đã
tung giấy bạc “quan kim” và “quốc tệ” đã hết hạn sử dụng ra thị trường Việt
Nam làm lũng đoạn nặng nề hơn nền tài chính của ta.
+ Về xã hội, do chính sách cai trị theo kiểu “ngu dân” của thực dân Pháp đã
để lại cho dân tộc ta một “di sản” văn hóa hết sức lạc hậu: Hơn 90% dân số
không biết chữ, các tệ nạn xã hội như nghiện rượu, hút thuốc phiện, mê tín dị
đoan… rất trầm trọng và phổ biến.
+ Về chính trị, chính quyền dân chủ nhân dân mới ra đời, chưa có kinh
nghiệm quản lí. Ở trong nước, bộ máy chính quyền được xác lập từ Trung ương
tới địa phương, tuy nhiên ở một số nơi chính quyền vẫn chưa thực sự nằm trong
tay những người cách mạng.
Quân đội thường trực đang trong quá trình xây dựng, chưa được huấn luyện
phần lớn cán bộ chỉ huy chưa hiểu biết về quân sự và kinh nghiệm chiến đấu.
Hơn nữa trang bị vũ khí thô sơ, thiếu thốn, chủ yếu là giáo mác, mã tấu một số ít
là súng trường và súng máy.
Mặt trận dân tộc thống nhất, tuy phát triển rộng rãi, nhưng chưa được củng
cố vững chắc. Trong khi đó, kẻ thù lại đang ra sức thực hiện âm mưu chia rẽ và
lôi kéo – do đó vấn đề đại đoàn kết, đoàn kết tôn giáo là những vấn đề lớn được
đặt ra bức thiết lúc đó. [3, 374].
+ Về quân sự
Ở miền Bắc: Khoảng hai mươi vạn quân của Tưởng Giới Thạch do tướng
Lư Hán và Tham mưu trưởng Hà Ứng Khâm chỉ huy đã lũ lượt kéo vào miền

Bắc nước ta đóng ở Hà Nội và hầu hết các thành phố thị xã ở miền Bắc. Quân
Tưởng vào Việt Nam với ý đồ tiêu diệt Đảng Cộng sản Đông Dương, phá tan
mặt trận Việt Minh, giúp bọn phản cách mạng Việt Nam đánh đổ chính quyền
nhân dân, lập chính phủ phản động làm tay sai cho chúng. Quân Tưởng đã đưa
ra khẩu hiệu “Cầm Hồ, diệt cộng” (Cầm chân chủ tịch Hồ Chí Minh, tiêu diệt
Đảng cộng sản Đông Dương) và điên cuồng chống phá cách mạng.

9
Dựa vào quân đội của Tưởng Giới Thạch các Đảng phái phản động như
Việt quốc, Việt cách, bọn Tơrốtkít theo gót quân đội Tưởng trở về nước hoạt
động. Chúng chiếm giữ một số nơi ở Yên Bái, Vĩnh Yên, Móng Cái. Chúng
quấy nhiễu cướp phá, giết người, giải truyền đơn, ra báo Việt Nam, Thiết thực,
Đồng tâm, nhằm vu cáo nói xấu Việt Minh, chống chính quyền cách mạng và
đòi gạt các Bộ trưởng là Đảng viên Đảng cộng sản ra khỏi Chính phủ, chúng gây
ra nhiều vụ bạo loạn, bắt cóc, tống tiền, ám sát các cán bộ cách mạng của Đảng.
Quân Tưởng và bọn tay sai phản động là kẻ thù nguy hiểm đang đe dọa hàng
ngày, hàng giờ đối với chính quyền cách mạng và nhân dân ta.
Ở miền Nam: Tình hình còn nghiêm trọng hơn, ngoài việc lấy danh nghĩa
quân đồng minh vào giải giáp quân đội Nhật từ vĩ tuyến 16 trở vào, ngày 6/9/1945
quân Anh khoảng (1,5 vạn) kéo vào Sài Gòn, chúng đã thả tù binh của Pháp bị
quân đội Nhật giam giữ dịp 9/3/1945 và trang bị vũ khí cho lực lượng này. Được sự
giúp đỡ của thực dân Anh, quân Pháp đang tìm mọi cách quay trở lại xâm lược
nước ta lần thứ hai. Từ ngày 2/9/1945 giữa lúc nhân dân Sài Gòn mít tinh mừng
ngày tuyên bố độc lập của nước Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa, một số phần tử
thực dân phản động người Pháp đã núp trong những khu nhà bắn vào đoàn mít tinh
làm 47 người chết và nhiều người bị thương. Đến ngày 23/9/1945 quân Pháp nổ
súng chiếm đóng Sài Gòn mở đầu cuộc xâm lược Việt Nam lần thứ hai.
Ngoài ra, trên đất nước ta lúc đó còn khoảng 6 vạn quân Nhật đã nổi dậy
theo chân quân Anh đánh vào lực lượng vũ trang của ta, dọn đường cho quân
Pháp đánh chiếm Sài Gòn và nhiều nơi khác.

Một số thành tựu mà nhân dân ta đạt được trong công cuộc chống “giặc
đói”, “giặc dốt”, giải quyết khó khăn về tài chính… chỉ làm dịu đi những khó
khăn chồng chất mà nhân dân ta đang phải đối mặt chứ chưa được giải quyết dứt
điểm, trong khi đó thực dân Pháp lại quyết tâm cướp nước ta thêm một lần nữa.
Về phía thực dân Pháp
Trong khi đó thực dân Pháp mạnh hơn ta về kinh tế quân sự, được các nước
đế quốc cùng bọn tay sai ủng hộ; chúng lại có quân đội dày dặn kinh nghiệm
thực dân…
Trong bối cảnh lịch sử đó, để kháng chiến được và đưa cuộc kháng chiến đi
đến thắng lợi, đòi hỏi phải có tư tưởng đường lối đúng đắn phù hợp. [10, 374].

10
CHƯƠNG 2
QUÁ TRÌNH HÌNH THÀNH ĐƯỜNG LỐI KHÁNG CHIẾN

Nước Việt nam, cần hòa bình để kiến thiết đất nước. Vì vậy, Chính phủ
nước Việt Nam dân chủ cộng hòa đã kiên trì giải quyết mối quan hệ bang giao
hòa bình và hợp tác với chính phủ Pháp. Việt Nam đã phải ký Hiệp định sơ bộ 6
/3/1946 và Tạm ước 14/9/1946.
Nhưng Việt Nam càng nhân nhượng, thì thực dân Pháp càng lấn tới. Những
người cầm đầu chính phủ Pháp lúc bấy giờ, tuy có khác nhau ít nhiều trong cách
giải quyết bang giao Pháp Việt, song đều có một quyết tâm chung là giành
quyền thống trị của chúng ở Việt Nam và toàn bộ bán đảo Đông Dương với bất
cứ giá nào. Trong đó cực đoan và phản động nhất là các tướng tá điều hành quân
sự ở Đông Dương như: Đacgiăngliơ, Valuy, Pinhông…
Hiệp định Sơ bộ 6 – 3 vừa được kí kết đã bị thực dân Pháp phản động phản
bội. Quân Pháp đã tấn công các phòng tuyến của quân ta ở Nam Bộ và Nam
Trung Bộ. Ngày 10/4/1946, tướng Valuy đã kí và ban hành “phương án số 2”
nhằm thực hiện các biện pháp hữu hiệu có tác dụng làm biến đổi dần “cái kịch
bản” của một hành động thuần túy quân sự thành “kịch bản của cuộc đảo

chính”. Philip Dơvie, qua nghiên cứu các nguồn tài liệu lưu trữ về cuộc chiến
tranh của Pháp chống Việt Nam đã nói: “Cái bộ ba Đacgiăngliơ – Pinhông –
Valuy sau khi cân nhắc đắn đo kỹ lưỡng, đã cố tình gây ra cuộc xung đột nhằm
loại bỏ ông Hồ Chí Minh và Việt Minh trước khi nối tiếp lại những cuộc đàm
phán đã dự định”. [3, 174].
Thực dân Pháp đã trắng trợn phá hoại làm cho các cuộc đàm phán ngoại
giao giữa Việt Nam và Pháp không đạt được kết quả. Chúng lập ra cái gọi là
“Chính phủ Nam kỳ tự trị” do bác sĩ Nguyễn văn Thinh cầm đầu, tách Nam kỳ
ra khỏi Việt Nam thống nhất.
Các cuộc hành binh lấn chiếm của chúng được diễn ra liên tục ở Nam Bộ
và Nam Trung Bộ.
Quân Pháp đã ngang nhiên nắm quyền kiểm soát thuế quan ở Hải Phòng,
Valuy trực tiếp ra lệnh cho đại tá Đơbe, chỉ huy cho quân Pháp đóng ở Hải
Phòng bằng mọi lực lượng có trong tay, phải nhanh chóng làm chủ Hải Phòng,
đẩy quân đội Việt Nam ra khỏi thành phố. Cùng với việc đánh chiếm Hải Phòng,
quân Pháp cũng đã tiến công, chiếm đánh Lạng Sơn.

11
Quân đội Pháp đánh chiếm Hải Phòng và Lạng Sơn, vào ngày đầu hạ tuần
tháng 11/1946, bắt đầu mở rộng cuộc chiến tranh xâm lược trên quy mô lớn và quyết
liệt đối với miền Bắc. Đó là màn diễn đầu tiên của một “kịch bản cuộc đảo chính”.
Tiếp tục dã tâm của mình, đầu tháng 12/1946, thực dân Pháp làm cho tình
hình càng nghiêm trọng hơn. Thực dân Pháp đã tăng thêm quân, chiếm đóng trái
phép ở Đà Nẵng và Hải Dương, đưa thêm viện binh đến Hải Phòng, mở rộng
đánh chiếm Đồ Sơn, Đình Lập. Quân đội Pháp đã liên tiếp nổ súng, ném lựu đạn
vào nhiều nơi ở Hà Nội. Ngày 17/12, quân Pháp cho xe phá các công sự của ta ở
phố Lò Đúc, đặc biệt chúng gây ra vụ tàn sát đẫm máu ở phố Hàng Bún và phố
Yên Ninh.
Ngày 18 – 12, tướng Móoclie gửi cho ta hai tối hậu thư đòi chiếm đóng Sở
tài chính, đòi ta phải phá bỏ mọi công sự và chướng ngại trên các đường phố,

đòi để chúng làm nhiệm vụ giữ gìn trị an ở Hà Nội. Chúng tuyên bố nếu các yêu
cầu trên không được Chính Phủ Việt Nam chấp nhận thì chậm nhất vào sáng
20/12/1946 quân Pháp sẽ chuyển sang hành động.
Ngọn lửa chiến tranh xâm lược của thực dân Pháp bùng cháy trên toàn
quốc là điều không thể tránh được nữa, vì Pháp quyết định sẽ châm ngòi vào
ngày 20/12 bất cứ giờ phút nào.
Tình thế khẩn cấp đòi hòi Đảng, nhà nước – đứng đầu là chủ tịch Hồ Chí
Minh, phải có một sự chọn lựa lịch sử, phải kịp thời, có một quyết định để
chuyển xoay vận nước đang lâm nguy.
Trên cơ sở vận dụng một cách sáng tạo chủ nghĩa Mác – Lênin vào hoàn
cảnh thực tế Việt nam, đúc rút bài học kinh nghiệm của cha ông trong quá trình
đấu tranh chống ngoại xâm; cùng các văn kiện quan trọng để kịp thời chỉ đạo
toàn dân tích cực chuẩn bị kháng chiến.
2.1. Lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến
Ngày 18, 19/12/1946 tại Vạn Phúc, Hà Đông, ban thường vụ Trung ương
Đảng họp mở rộng do Hồ Chí Minh chủ trì, đã quyết định chủ trương phát động
cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp trên phạm vi cả nước, và đề ra đường lối
chủ trương của Đảng.
Trong bối cảnh đó, Ban Thường vụ Trung ương đã điện cho các chiến khu,
các tỉnh ủy và chị thị “hãy sẵn sàng”.
Chiều 19/12/194, Bộ trưởng Bộ quốc phòng Võ Nguyên Giáp, đã quyết
định chuyển đến các đơn vị lực lượng vũ trang mệnh lệnh về ngày của cuộc giao
chiến trong toàn quốc.

12
Theo chỉ thị của Trung ương, 20h ngày 19/12/1946, tín hiệu bắt đầu cuộc
kháng chiến trong toàn quốc được phát ra. Bộ trưởng Bộ quốc phòng đã công bố
mệnh lệnh chiến đấu, hạ lệnh cho toàn thể lực lượng vũ trang phải nhất tề đứng
dậy, phải xông tới mặt trận giết giặc cứu nước.
Ngay giữa lúc tiếng súng kháng chiến toàn quốc rền vang ở Hà Nội và trên

toàn quốc, “Lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến” của chủ tịch Hồ Chí Minh được
truyền đi khắp cả nước. Người kêu gọi:
“Hỡi đồng bào toàn quốc!
Chúng ta muốn hòa bình, chúng ta phải nhân nhượng. Nhưng chúng ta càng
nhân nhượng, thực dân Pháp càng lấn tới, vì chúng quyết tâm cướp nước ta lần nữa!
Không! Chúng ta thà hy sinh tất cả chứ nhất định không chịu mất nước,
không chịu làm nô lệ.
Hỡi đồng bào!
Chúng ta phải đứng lên!
Bất kỳ đàn ông, đàn bà, người già, người trẻ, không chia tôn giáo, đảng
phái, dân tộc. Hễ là người Việt Nam thì phải đứng lên đánh thực dân pháp để
cứu tổ quốc. Ai có súng dùng súng, ai có gươm dùng gươm, không có gươm thì
dùng cuốc thuổng gậy gộc. Ai cũng phải ra sức chống thực dân Pháp cứu nước.
Hỡi anh em vệ sĩ quốc quân!
Giờ cứu nước đã đến, ta phải hy sinh đến giọt máu cuối cùng để giữ gìn
đất nước.
Dù phải gian lao kháng chiến, nhưng với một lòng kiên quyết hi sinh, thắng
lợi nhất định thuộc về dân tộc ta.
Việt nam độc lập và thống nhất muôn năm!
Kháng chiến thắng lợi muôn năm!”
Tiếp đến, ngày 21/12/1946, Người đã gửi thư đến nhân dân Việt nam, nhân
dân Pháp và nhân dân các nước Đồng minh nói rõ mục tiêu và ý chí đấu tranh vì
độc lập tự do của Việt Nam và khẳng định: “Cuộc kháng chiến lâu dài và rất
gian khổ. Dù phải hi sinh bao nhiêu, thời gian kháng chiến đến bao giờ, chúng
ta cũng nhất định phải chiến đấu đến cùng, đến bao giờ nước Việt Nam được
hoàn toàn thống nhất”. [3; 173].
Lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến của chủ tịch Hồ Chí Minh là tiếng gọi
của non sông đất nước, động thấu trái tim và khối óc của mọi người Việt Nam

13

yêu nước, khơi dậy mạnh mẽ chủ nghĩa dân tộc, truyền thống anh hùng bất
khuất, làm cho cả nước đứng lên chiến đấu bằng sức mạnh của chủ nghĩa anh
hùng cách mạng và trí tuệ của người Việt Nam với mọi thứ vũ khí sẵn có, với
một ý chí “quyết tử, cho tổ quốc “quyết sinh”, một thái độ chính trị dứt khoát và
kiên định: “thà hi sinh tất cả chứ nhất định không chịu mất nước, nhất định
không chịu làm nô lệ”.
Lời kêu gọi kháng chiến là một bản cương lĩnh kháng chiến mang tính khái
quát cao, chứa đựng tư tưởng, quan điểm, đường lối chiến tranh nhân dân, toàn
dân đánh giặc, lâu dài, tự lực cánh sinh và nhất định thắng lợi.
Đảng quyết tâm phát động kháng chiến toàn quốc theo quan điểm chiến
tranh nhân dân là một quyết định đúng, kịp thời và là điểm xuất phát cơ bản cho
mọi thắng lợi về sau của cuộc kháng chiến.
2.2. Chỉ thị toàn quốc kháng chiến
Trong hoàn cảnh đất nước đang lâm nguy, cuối tháng 12/1946, Ban thường
vụ Trung ương Đảng đã công bố rộng rãi “Chỉ thị toàn dân kháng chiến” và nêu
một cách tóm tắt nội dung đường lối và chính sách kháng chiến bao gồm: mục
đích, tính chất, chính sách, cách đánh, chương trình kháng chiến, cơ quan lãnh
đạo kháng chiến, khẩu hiệu tuyên truyền để hướng dẫn các Đảng bộ và cơ quan
chỉ đạo kháng chiến các cấp thi hành.
Về mục đích của cuộc chiến tranh: đánh đuổi chủ nghĩa thực dân xâm lược
đế quốc Pháp, giành độc lập và toàn vẹn lãnh thổ cho dân tộc.
Về tính chất cuộc kháng chiến của ta
Trong lịch sử có hai loại chiến tranh: chiến tranh chính nghĩa và chiến tranh
phi nghĩa. Chiến tranh chính nghĩa: là những cuộc chiến tranh chống bọn áp
bức, bọn xâm lược giành tự do, độc lập; Chiến tranh phi nghĩa: là những cuộc
chiến tranh xâm lược hoặc “bình định” cốt chiếm nước người hoặc cướp tự do
hạnh phúc của con người.
Nhân dân ta đã đánh thực dân Pháp để giành tự do, độc lập, để tự vệ, để tự
giải phóng, vì vậy cuộc kháng chiến của ta là một cuộc chiến tranh cách mạng
của nhân dân, chiến tranh tự vệ của dân tộc, là chiến tranh chính nghĩa, chiến

tranh tiến bộ. Trái lại, thực dân Pháp đang chiếm lại nước ta hòng trở lại áp bức,
bóc lột nhân dân ta, cho nên chiến tranh xâm lược của thực dân Pháp là cuộc
chiến tranh phi nghĩa, chiến tranh phản động.

14
Chiến tranh chính nghĩa bao giờ cũng được nhân dân, những người thực sự
dân chủ, những dân tộc nhiệt liệt ủng hộ. Chiến tranh phi nghĩa bao giờ cũng bị
dư luận tiến bộ của nhân dân yêu chuộng hòa bình thế giới nguyền rủa, chê cười.
Nhân dân các nước Ấn Độ, Miến Điện, Nam Dương, Mã Lai khen ngợi, cổ
vũ nhân dân ta.
Đó là một trong nhiều nguyên nhân làm cho tinh thần binh sĩ Pháp bạc
nhược, tinh thần quân đội ta kiên quyết.
Xét về mặt khác, cuộc cách mạng tháng Tám tuy đã giành chính quyền cho
nhân dân Việt Nam, nhưng chưa làm cho nước Việt Nam được hoàn toàn giải
phóng. Cuộc kháng chiến này sẽ hoàn thành nhiệm vụ giải phóng dân tộc.
Cuộc kháng chiến của Việt Nam không những có tính chất dân tộc giải
phóng, mà có tính chất dân chủ mới. Nó là một bộ phận của trào lưu dân chủ
rộng rãi đang cuồn cuộn trên thế giới.
Kế tục sự nghiệp của cách mạng tháng Tám, cuộc kháng chiến này chính là
một cuộc chiến tranh cách mạng có tính chất dân tộc độc lập và dân chủ tự do.
Trong lò lửa kháng chiến, một nước Việt Nam mới đang được rèn đúc; nước
Việt Nam độc lập, thống nhất, dân chủ và giàu mạnh – một nước Việt Nam dân
chủ mới.
Cuộc kháng chiến này là một cuộc chiến tranh nhân dân. Đại đa số nhân
dân nước ta là nông dân. Hầu hết các chiến sĩ quân đội chủ lực và dân quân, du
kích của ta cũng là nông dân. Cho nên cuộc kháng chiến này thực tế là một cuộc
chiến tranh nông dân do giai cấp công nhân lãnh đạo.
Trong cuộc chiến tranh này, nhân dân Việt Nam không đấu tranh cho riêng
mình. Nhân dân Việt Nam vừa đấu tranh để tự cứu mình, vừa đấu tranh cho hòa
bình thế giới. Bọn phản động Pháp đánh chiếm Việt nam ngày nay là một bộ

phận khăng khít của phản động thế giới. Trong hàng ngũ chúng, có bọn tài phiệt
phát xít Pháp đã cộng tác với Đức quốc xã. Trong quân đội chúng, có rất nhiều
lính Đức trước đây đã có chân trong các tổ chức phát xít của Hitle, hợp tác với
bọn tài phiệt phát xít Pháp và làm tay sai cho chúng, đánh chiếm Việt Nam.
Vì thế, nhân dân Việt nam đánh thực dân phản động Pháp tức là đánh
những lực lượng phát xít còn sót lại, tức là đánh bọn phá hoại hòa bình thế giới,
đánh bọn đã công nhiên phản bội Hiến chương Liên Hiệp Quốc và Hiến chương
Đại Tây Dương.
Nhân dân Việt Nam nhận rõ rằng chỉ khi nào quét sách được bọn thực dân
phản động Pháp ra khỏi Việt Nam thì nhân dân hai nước Việt – Pháp vốn yêu

15
chuộng tự do, độc lập mới có thể hòa bình hợp tác trong khối Liên hiệp Pháp và
trong đại gia đình dân chủ thế giới.
Như vậy, cuộc kháng chiến của nhân dân Việt Nam là cuộc chiến tranh tiến
bộ vì tự do, độc lập, dân chủ và hòa bình.
2.3. Tác phẩm “Kháng chiến nhất định thắng lợi”
Để giải thích và phát triển quan điểm, đường lối kháng chiến của Đảng và
Hồ CHí Minh, Trường Chinh – Tổng Bí thư Ban chấp hành Trung ương Đảng
Cộng sản Đông Dương đã viết một loạt bài đăng trên báo Sự thật từ số 70 đến số
81 và nhân dịp kỷ niệm lần thứ hai ngày Nam Bộ kháng chiến, tác giả đã sửa
chữa bổ sung và in thành tác phẩm Kháng chiến nhất định thắng lợi.
Tác phẩm khẳng định rõ:
1. Kẻ thù dân tộc Việt Nam cần phải đánh đổ
“Dân tộc Việt Nam đang làm một cuộc chiến tranh thần thánh, giành độc
lập tự do, giữ gìn lãnh thổ của tổ tiên để lại.” Cả nước đang vùng dậy đánh giặc
– Bọn thực dân phản động Pháp.
Thực dân phản động Pháp, đó là kẻ thù không đội trời chung của ta. Đó là
kẻ thù chính. Đó là kẻ thù đáng muôn đời nguyền rủa. Đó là kẻ thù chúng ta
phải xông lên mà chặn lại, mà bắn giết, băm vằm.

Tác phẩm khẳng định, chúng ta không đánh nước Pháp vì nước Pháp là một
nước dân chủ đã hứa trong bản Hiến Pháp mới – “Không làm một cuộc chiến tranh
xâm lược nào và không bao giờ dùng sức mạnh xâm phạm đến tự do của một dân
tộc”. [5, 363], chúng ta cũng không đánh nhân dân Pháp, vì nhân dân Pháp vốn yêu
chuộng “tự do, bình đẳng, bắc ái”, họ không muốn xâm chiếm nước ta vì con trai
họ chết trận mà lợi thì chỉ ít một số nước tư bản được hưởng. Ta càng đánh thì nhân
dân Pháp càng oán ghét bọn thực dân Pháp; họ sẽ đòi chính phủ Pháp phải đình
chiến và triệt hồi bọn phản động Pháp ở Đông Dương đang đi ngược lại ý nguyện
của họ và bôi nhọ thanh danh của nước Pháp mới.
Chúng ta cũng không đánh tất cả các hạng thực dân Pháp. Hồ chủ tịch nói:
“Có những người tài chính và kinh tế Pháp muốn kinh doanh ở xứ ta. Họ
hiểu rằng muốn kinh doanh sinh lợi, thì phải thật thà cộng tác với ta. Muốn
cộng tác, thì phải để ta độc lập thống nhất, đó là hạng thực dân không phản
động. Còn những bọn cứ muốn dùng âm mưu hoặc vũ lực để dìm Việt Nam
xuống, đó là thực dân phản động”. [12, 372]

16
Chúng ta chỉ đánh bọn thực dân phản động Pháp, bọn dùng “âm mưu hoặc
dùng vũ lực để dìm Việt Nam xuống”, không chịu thừa nhận quyền độc lập và
thống nhất của ta. Ta càng đánh thì những phần tử thực dân tương đối ngoan cố
càng nhận rõ chiến tranh xâm chiếm Việt nam là một việc chỉ có hại. Họ sẽ phản
đối bọn thực dân ngoan cố, cực đoan và chủ trương giảng hòa với Việt Nam.
Chúng ta càng không bài Pháp, không bài ngoại. Chúng ta chỉ bài trừ thực
dân phản động Pháp. Vì vậy, ta đánh Pháp nhưng không bỏ lỡ cơ hội nào để
tuyên truyền lính Pháp, lính lê dương, lính thuộc Pháp và luôn luôn đối đãi tử tế
với họ khi họ bị bắt làm tù binh.
Về phần lính ngụy, là người nước ta, phần đông xuất phát từ nông dân. Họ
bị thực dân lợi dụng để đánh lại Tổ quốc. Ta càng cần phải ra sức tuyên truyền,
vận động làm cho họ giác ngộ để họ vác súng chạy sang hàng ngũ kháng chiến,
cùng ta tiêu diệt bọn thực dân xâm lược, lập công chuộc tội với đồng bào.

Ta làm được như thế thì hàng ngũ của địch sẽ bị tan rã, bọn thực dân phản
động Pháp sẽ bị cô lập. “Cô lập kẻ thù để đánh đổ nó” đó là một sách lược
thông thường của một giai cấp, một dân tộc quyết chiến và quyết thắng. [5, 366]
2. Tác phẩm xác định lý do vì sao nhân dân ta phải kháng chiến:
Trong lời kêu gọi đồng bào kháng chiến, ra ngày 22/12/1946, Hồ chủ
tịch nói:
“Chúng ta muốn hòa bình, chúng ta phải nhân nhượng. Nhưng! Chúng
ta càng nhân nhượng, thực dân Pháp càng lấn tới, vì chúng quyết tâm cướp
nước ta lần nữa”. Pháp là tên đế quốc thực dân, chúng tham lam, tàn nhẫn,
giày xéo lên chính nghĩa. Chúng đánh ta thì ta phải đánh lại để tự vệ, bảo vệ
non sông đất nước.
Đồng chí Trường Chinh cũng đã lấy những dẫn chứng rất cụ thể vạch trần
bộ mặt gian ác của thực dân Pháp và khẳng định lí do vì sao chúng ta phải chiến
đấu đến cùng.
- Tháng Tám năm 1945, Nhật bại, nhân dân ta khởi nghĩa giành chính quyền.
+ Ngày 23/9/1945, thực dân pháp đánh chiếm Sài Gòn, mở đầu cuộc chiến
tranh xâm lược nước ta một lần nữa.
Chúng không thi hành hiệp định Sơ bộ, không những không đình chiến
trong Nam Bộ, lại lập chính phủ bù nhìn của cái gọi là “nước Nam kỳ tự trị” và
đánh chiếm miền tây Nam Trung bộ, định lập “nước Tây kỳ”, đồng thời đánh ta
ở Sơn La, Lai Châu, thuộc Bắc bộ, định lập “nước Thái’, và đánh chiếm vùng

17
Lạng Sơn – Hải Ninh, định lập nước “Nùng” chiếm miền bờ biển từ Hải phòng
đến Móng Cái, định lập “Khu vực liên bang”.
+ Pháp lợi dụng lòng thành thật của ta mà đem quân đi khắp các vùng thôn
quê, bắt bớ các nhà yêu nước trong Nam, đặt lại ban “hội tề”, một thứ chính
quyền bù nhìn của Pháp ở các làng.
+ Chúng phong tỏa cửa biển Hải Phòng và cướp lấy thuế quan của ta, làm
cho Chính phủ ta gặp nhiều khó khăn về tài chính.

+ Chúng ngăn cản việc thu thuế quan của Chính phủ ta, bắn vào nhân viên,
công an và thuế quan của ta trong khi họ thi hành nhiệm vụ.
+ Đácgiăngliơ và Valuy hạ lệnh chiếm dứt Hải Phòng và Lạng Sơn, đồng
thời cho đổ bộ hàng nghìn quân Pháp lên Đà Nẵng trái hẳn với Hiệp định đã kí.
Nhân dân ta không tin được lời nói của Pháp nữa, dưới sự chỉ đạo của
Đảng đã tích cực chuẩn bị đối phó với mọi việc sảy ra. Các khu đất, các chiến
hào chiến lũy mọc lên ở Hà Nội, và các nơi khác có quân pháp chiếm đóng.
+ Quân Pháp đem súng cối, liên thanh, đại bác, lựu đạn tiến công vào khu
Yên Ninh, xông vào các nhà hiếp đàn bà, giết trẻ em, cướp phá của cải gây ra
tình trạng chiến tranh ngay giữa thành Hà Nội.
+ Ngày 18/12/1946, Quân Pháp chiếm đóng hai công sở của Chính phủ
Việt Nam: một của Bộ phận tài chính, một của Bộ giao thông công chính. Đồng
thời, Moóclie, tên sát nhân ở khu phố Yên Ninh, hạ tối hậu thư buộc Chính phủ
ta tước vũ khí của tự vệ và dọa chiếm hẳn lấy Sở công an ở Thủ đô.
Thực dân phản động Pháp rắp tâm lấn tới. Không khí xung đột Việt – Pháp
gay go đến cực điểm thì đêm 19/12/1946, do một việc khiêu khích của lính Pháp
ở Hà Nội, tiếng súng đã nổ tại Thủ đô và cuộc xung đột Việt – Pháp lan khắp
nước Việt Nam.
Sự thật đã chứng tỏ rằng: kẻ bội ước, xé “Hiệp đinh” 6/3/1946 và “Tạm
ước” 14/9 là thực dân phản động Pháp. Kẻ gây ra chiến tranh đánh ta khắp ba kỳ
là thực dân phản động Pháp. Thực dân phản động dùng vũ lực chiếm lại nước ta,
chia cắt nước ta ra nhiều mảnh.
Ta không thể nhân nhượng với chúng được nữa, vì nhân nhượng nữa thì
Chính phủ ta hóa thành bù nhìn cho Pháp và nhân dân ta biến thành trâu ngựa.
Vì thế, phải kháng chiến, phải đánh thực dân phản động Pháp để bảo toàn
đất nước, giữ vững chủ quyền dân tộc.


18
Hồ Chủ Tịch nói:

“Không! Chúng ta thà hi sinh tất cả, chứ nhất định không chịu mất nước, nhất định
không chịu làm nô lệ” (Lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến, ngày 19/12/1946).
Tinh thần “quyết tử cho tổ quốc quyết sinh”, thấm nhuần trong mỗi người
dân Việt
Phản động Pháp lại hết sức tuyên truyền đổ cho ta đánh trước hôm
19/12/1946. Kì thực, chúng muốn che lấp tội lỗi của chúng: đã đánh ta trước từ
hôm 20/11/1946 ở Hải Phòng, Lạng sơn và hôm 7/12/1946 ở Thủ đô. Hơn nữa,
chúng đã đánh ta ngay từ khi kí hiệp định Sơ bộ 6/3/1946 và trước đó nữa.
Chúng la lối: Việt Nam bội ước, cố làm cho thiên hạ quên hành động bội ước
của chúng.
Nhưng sự thật bao giờ cũng vẫn là sự thật, và chúng phải hoàn toàn chịu
trách nhiệm trước lịch sử, trước thế giới, trước nhân dân Pháp, về hành động bội
ước của mình.
Trên thế giới ai là người có lương tri đều phải công nhận nhân dân ta hết
sức yêu chuộng hòa bình, Chính phủ ta ôn hòa đến cực điểm, nhưng đã phải
đánh thì kiên quyết đánh! Nín nhịn đã nung nấu trong lòng dân tộc ta biết bao
uất hận, nổ thành một sức mạnh xung thiên!
Đánh để làm gì?
Pháp đã kí hiệp định với Việt Nam, tại sao bọn tự nhận là đại diện cho
nước Pháp lại chỉ muốn bắt riêng mình nhân dân Việt Nam thi hành hiệp định
ấy, còn chúng thì tự tiện dày xéo lên nó? Tại sao bọn thực dân phản động mà
Đácgiăngliơ và bè lũ đầy tớ giám trơ tráo “hạ tối hậu thư”?
Để chống lại thái độ bội tín, phi nghĩa, láo xược của thực dân phản động
Pháp, nhân dân Việt Nam phải đánh!
Thực dân Pháp đã áp bức, bóc lột nhân dân Việt Nam ngót một thế kỉ nay.
Trong năm năm chiến tranh vừa qua, chúng lại mở cửa Đông Dương đón phát
xít Nhật, rồi cùng phát xít Nhật đày đọa nhân dân ta trong muôn trùng khổ ải.
Ngày nay, chúng thấy ta giành được chính quyền, giành được độc lập tự do,
chúng lo cho quyền lợi bất chính của chúng. Chúng nhìn ta bằng cặp mắt hằn
học, căm hờn. Mặc dù “Tạm ước” 14/9/11946, ta thừa nhận quyền lợi kinh tế và

văn hóa của chúng.
“Ôi! Quyền lợi chúng xây đắp bằng xương máu của nhân dân ta” [3, 373].
Chúng đã không đủ sức giữ, để lọt vào tay Nhật và chính ta đã chiếm lại từ cuộc

19
khởi nghĩa tháng Tám. Chúng muốn nhân dân ta đi lính, đi phu, nộp sưu, nộp
thuế cho chúng. Chúng muốn “bịt mồm, khóa miệng, treo kẹp, đánh đập, bắn
giết, tù đày nhân dân ta như trước”.
Để quét sạch bọn thực dân Pháp hèn nhát, tham tàn, nhân dân Việt Nam
Phải đánh! Ông cha ta đã đổ biết bao nhiêu máu vì giặc Pháp! Ngày nay ta
lại phải đổ máu nữa vì giặc Pháp! Biết bao thanh niên trai tráng nước ta đã hi
sinh trên máy chém và trong ngục tù của thực dân Pháp? Biết bao đàn bà bị
hiếp, con nít bị thiêu? Biết bao mẹ mất con, anh mất em, chồng lìa vợ? Biết bao
nhà bị đốt, làng bị càn, bạc vàng, thóc lúa bị vơ vét? Biết bao nhà thờ, lăng tẩm
bị xâm phạm, chùa chiền, miếu mạo bị đốt phá tan hoang?
Để tiêu trừ bọn phản động Pháp, để tự vệ, để bênh vực văn minh và chính
nghĩa, nhân dân Việt Nam phải đánh!
Tiếng súng kháng chiến đang sặc sự căm hơn của nhân dân Việt Nam vào
mặt bọn phản động Pháp.
Tiếng súng kháng chiến lâu dài đã nổ! Phải giành cho được, độc lập và
thống nhất thật sự của dân tộc Việt Nam. Độc lập và thống nhất trong khối Liên
hiệp Pháp nếu cần, nhưng nhất định phải độc lập và thống nhất! Pháp phải tôn
trọng “Hiệp đinh” 6/3/1946 và “Tạm ước” 14/9/1946 để tức thời công nhận
Việt Nam hoàn toàn độc lập, đất nước Việt Nam hoàn toàn thống nhất, có thế
hòa bình mới trở lại. Nếu không, nhân dân Việt nam chỉ có một cách là đánh,
đánh và đánh – đánh cho chết hết giống tham tàn, phản động trên đất Việt Nam
yêu giấu của ngàn xưa. [5, 374]
Bọn phản động Pháp trực lập chính phủ bù nhìn cho toàn cõi Việt nam rồi
tuyên bố công nhận Việt Nam “Độc lập” và “Thống nhất” giả hiệu với “Chính
phủ” ấy. Nhưng nhất định mưu gian của Pháp sẽ thất bại, vì nhân dân Việt Nam

không phải dễ bị lừa bịp như chúng tưởng.
Kháng chiến Việt Nam nhất định sẽ thành công, Việt Nam độc lập thống
nhất muôn năm!
Tác phẩm đã vạch ra một phương châm quyết chiến với thực dân Pháp để
giành độc lập, thống nhất thật sự cho Tổ quốc, giữ vững và mở rộng chế độ cộng
hòa dân chủ Việt Nam vào công cuộc bảo vệ hòa bình, dân chủ trên thế giới.
Dưới sự chỉ đạo của chủ tịch Hồ Chí Minh, vị anh hùng của dân tộc. Một
cuộc tổng hợp những kinh nghiệm lịch sử và kinh nghiệm nước ngoài đang được
thực hiện, đặng chuyển bại thành thắng. Vì vậy, mặc dù thực dân Pháp hung

20
hãn, quỷ quyệt đến bậc nào, thì cuộc kháng chiến của nhân dân ta nhất định sẽ
thắng lợi.
Như vây, đường lối kháng chiến của Đảng được vạch ra thông qua: “Lời
kêu gọi toàn quốc kháng chiến”, “Chỉ thị toàn quốc kháng chiến” và tác phẩm
“Kháng chiến nhất định thắng lợi”. Qua đó nhân dân ta đã chuẩn bị và sẵn sàng
bước vào cuộc kháng chiến chống thực dân xâm lược Pháp với nội dung: toàn
dân, toàn diện, lâu dài và tự lực cánh sinh. Nhờ có đường lối lãnh đạo đúng đắn,
sáng tạo, nhanh nhạy và kịp thời của Đảng, quân và dân ta đã chiến thắng giặc
Pháp – kẻ thù hung hãn và quỷ quyệt, giành độc lập, tự do cho đất nước.

21
CHƯƠNG 3
NỘI DUNG ĐƯỜNG LỐI KHÁNG CHIẾN

Đường lối kháng chiến được Đảng ta đề ra với bốn nội dung: “kháng chiến
toàn dân, kháng chiến toàn diện, kháng chiến trường kỳ và dựa vào sức mình là
chính”; mỗi nội dung đều thể hiện được tư tưởng Kháng chiến – Kiến quốc của
Đảng, Chủ tịch Hồ Chí Minh và được hiểu như sau:
3.1. Kháng chiến toàn dân

Cuộc kháng chiến của ta được Đảng xác định ngay từ đầu là cuộc kháng
chiến toàn dân. Đối với quân Pháp hung tàn, nhân dân ta đã khéo léo lợi dụng
chiến thuật bất hợp tác, chiến thuật du kích và chiến thuật trường kỳ kháng
chiến. Nhưng muốn chiến thắng được địch, chỉ trông chờ vào tiền phương thì
chưa đủ, vì chiến tranh sẽ ảnh hưởng sâu sắc đến tất cả các ngành hoạt động
kinh tế chính trị văn hóa của cả nước. Vì vậy muốn kháng chiến lâu dài để đi tới
thắng lợi cuối cùng, cần phải động viên hết thảy mọi lực lượng mới mong đi đến
thắng lợi cuối cùng: Cậu bé chăm chỉ học hành trong nhà trường cũng là kháng
chiến; các công chức, các nhà văn, nhà báo mải miết trước bàn giấy cạnh tủ sách
cũng là kháng chiến, các y sĩ, bác sĩ lăn lộn trên giường bệnh cũng là kháng
chiến; Các nhà giàu có đem hết tài lực mở mang xưởng thợ, khai thác ruộng đất
cũng là kháng chiến. Đó là toàn dân kháng chiến.
Muốn thực hiện toàn dân kháng chiến, ngoài việc động viên quân sự chính
trị, ngoại giao, còn phải động viên cả tinh thần lẫn kinh tế. Trong giờ phút
nghiêm trọng, một mất một còn, quốc gia dân tộc phải đứng trên hết mọi sự.
Nếu quyền lợi của dân tộc không còn thì quyền lợi và sự nghiệp của cá nhân
cũng mất.
Người Do Thái chỉ vì không có nước nên đã bị lăng nhục đến cực điểm,
thậm chí không sao gửi chân được ở đất Đức. Rồi cả sinh mệnh và tài sản đều bị
chà đạp một cách thảm thương đau đớn.
Vì vậy, trước nguy cơ dân tộc bị mất độc lập, dù phải hy sinh đến đâu cũng
phải giữ cho được độc lập. Phải làm cho tất cả các tầng lớp nhân dân đều tập
chung tâm trí vào lợi ích của dân tộc mà phấn đấu. Dù đau khổ đến đâu mặc
lòng, ai cũng phải trổ hết tài năng, làm hết nhiệm vụ để sáng tạo tất cả cái gì có
thể giúp ích cho kháng chiến để làm cho mọi việc được tăng tiến.
Chiến tranh chống Pháp lần một kết thúc, gia tài chúng ta “phải hưởng
thụ” hầu như đổ nát, ruộng đất bị bỏ hoang rất nhiều, xưởng thợ, nhà máy, hầm

22
mỏ vì chiến tranh làm thiếu nguyên liệu nên phải đình đốn. Đường giao thông bị

phá hủy la liệt, làm cho nghề buôn bị ngưng trệ. Về tài chính lại càng khốn quẫn
hơn nữa, bao nhiêu vàng bạc đều bị giặc Pháp cướp đi hết. Vì vậy, nhiệm vụ số
một của chúng ta là phải động viên nhân lực, động viên công nghiệp, nông
nghiệp, thương mại, giao thông, tài chính. Bao nhiêu trai tráng, phải chịu huấn
luyện vũ trang để chờ đưa ra mặt trận, còn bao nhiêu ở lại phải gắng công, gắng
sức ở đồng ruộng cũng như ở nhà máy để sản xuất ra thật nhiều thóc gạo, quân
nhu đồ dùng cho chiến sĩ ngoài tiền phương, và cứu dân nghèo đói ở hậu phương.
Các nhà giàu có, góp vốn lại mở công ty để kinh doanh công nghiệp, nông
nghiệp, tài chính, giao thông, để tăng gia sản xuất giao lưu buôn bán. Các thanh
niên nên cố gắng học tập kỹ thuật để trở thành những tay chuyên môn nhân tài.
Thực hiện “mỗi người dân là một chiến sĩ, mỗi làng xóm là một pháo đài”. Quân ta
càng đánh thì lực lượng càng thống nhất, càng mạnh. Đồng thời nếu không động
viên để toàn dân tham gia kháng chiến thì không có lực lượng đánh lâu dài, muốn
có được lực lượng đánh lâu dài phải huy động toàn dân tham gia kháng chiến.
3.2. Kháng chiến toàn diện
Muốn thực hiện “toàn dân kháng chiến” thì kháng chiến phải có nhiều
hình thức: Quân sự, chính trị, văn hoá… Thông qua những hình thức kháng
chiến toàn diện như thế thì toàn dân mới phát huy được hết năng lực của mình
trong cuộc kháng chiến
Mặt khác, thực dân Pháp không những đánh ta về mặt quân sự mà còn phá
ta cả về kinh tế, chính trị, văn hoá…, vì vậy ta không những phải kháng chiến
trên mặt trận quân sự mà phải đánh bại mọi âm mưu phá hoại kinh tế, chính trị,
và văn hoá của chúng phải kháng chiến toàn diện.
Kháng chiến về mặt quân sự, tức là dùng mọi cách mưu mẹo tiêu diệt lực
lượng của địch, giữ gìn và phát triển lực lượng của ta, dùng vũ lực quét sạch
địch ra khỏi nước ta.
Phương châm tác chiến của ta là tích cực tiến công giải quyết mau trong
từng trận.
Ta bị đánh, địch mạnh hơn ta. Nếu ta chỉ chủ thế, bị đánh đâu đỡ đó thì
càng đánh càng suy nhược, càng đánh càng thua. Cho nên, trong các chiến dịch

và chiến đấu, phải tìm chỗ yếu của địch mà đánh, phải tích cực tiến công để tiêu
diệt địch. Đã tiến công phải đánh mau, giải quyết mau (Chiến lược đánh lâu,
nhưng chiến dịch và chiến thuật giải quyết mau). Có dùng chiến thuật tấn công
nhanh chóng mới tiêu diệt được từng phần quân địch. Kết quả của nhiều trận

23
tiêu diệt từng phần góp lại sẽ làm cho lực lượng địch bị suy nhược, quân địch
mất thị trường, lực lượng ta được bổ sung, sĩ khí quân ta vững. Cứ như thế cho
đến một trình độ nào đó, ta sẽ đủ sức tổng phản công, đánh thắng địch trên khắp
các mặt trận, thu hồi toàn bộ đất nước.
Muốn tích cực tiến công tiêu diệt địch trong từng trận phải năng dùng phép
đánh vận động linh hoạt, tiến thật sâu, rút thật xa; tập trung nhanh chóng, công
kích chớp nhoáng, phân tán mau lẹ. Nói một cách khác, về chiến thuật, ta phải
năng dùng du kích chiến và vận động chiến.
Du kích chiến là cách đánh bằng những đội dân quân hoặc những đội quân
chính quy tương đối nhỏ, cải trang, biến thành thường dân và trà trộn trong nhân
dân; vũ khí thô sơ nhưng tinh thần tích cực; luồn sau lưng địch mà đánh bất
thình lình; lừa địch bên phải để đánh địch bên trái; tụ lại để đánh chia ra để
tránh; chặn đường giao thông, quấy rối trong phố; đốt phá kho tàng, công thự
của địch; làm cho địch mất ăn, mất ngủ; làm cho địch tiêu hao, mỏi mệt, lo âu;
làm cho địch què, mù, đói khát,vv… ba phép đánh thường dùng nhất của du kích
là tập kích, phục kích và quấy rối. Tác chiến phải phối hợp với phá hoại, phá
hoại cũng là một cách kháng chiến thần diệu của quân du kích hoặc của quân
chính quy ít vũ khí hơn địch.
Vận động chiến là cách đánh bằng quân chính quy hoặc quân du kích họp
lại thành đội tương đối lớn, phối hợp với quân chính quy, dùng vũ khí ít, nhiều
tinh xảo, tập trung mau lẹ, tiến công chớp nhoáng; bao vây địch để tiêu diệt
chúng, dùng cách đánh vòng phía đằng sau hơn là đánh thẳng trước mặt; tiến
chóng, rút mau; trên một mặt trận dài và sâu (có khi cả nước), các bộ phận tác
chiến phân công, ăn ý, đánh theo một kế hoạch chung, làm cho địch bối rối,

hoảng hốt tán loạn, đến nỗi bị tiêu diệt hoặc bỏ trận địa mà rút. Đặc điểm của
vận động chiến là: Bộ đội đánh theo kiểu lưu động và tiêu diệt.
Muốn thắng địch, phải dùng du kích chiến và vận động chiến tức là cách
đánh nửa du kích, nửa vận động. Nhưng không phải là tuyệt đối không dùng vận
động chiến. Trận địa chiến là cách đánh dàn thành mặt trận mà đánh của quân
chính quy; đào hào; đắp lũy ngăn địch lấn đất và lừa chỗ địch yếu hoặc lúc địch
hớ hênh, tiến chiếm trận địa.
Ta còn kém địch về vũ khí mà vội dùng trận địa chiến thì thua. Cho nên, du
kích chiến và vận động chiến là những lối đánh chính, trận địa chiến lúc này chỉ
là lối đánh phụ. Còn du kích chiến và vận động chiến thì tùy theo điều kiện chủ
quan và khách quan, tùy theo điều kiện cụ thể của từng nơi và từng lúc mà dùng
du kích chiến nhiều hơn vận động chiến hay là ngược lại. Tuy vậy, vì nhân dân

×