Tải bản đầy đủ (.pdf) (68 trang)

SỰ XUẤT HIỆN HAI KHỐI QUÂN SỰ ĐỐI ĐẦU NATO - VÁCXAVA VÀ CUỘC CHẠY ĐUA VŨ TRANG GIỮA HAI KHỐI ĐÔNG - TÂY (1947 - 1970) - KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (740.73 KB, 68 trang )


BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC TÂY BẮC




NGÔ KIM OANH





SỰ XUẤT HIỆN HAI KHỐI QUÂN SỰ ĐỐI ĐẦU
NATO - VÁCXAVA VÀ CUỘC CHẠY ĐUA VŨ TRANG
GIỮA HAI KHỐI ĐÔNG - TÂY (1947 - 1970)




KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC






SƠN LA, NĂM 2013

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC TÂY BẮC






NGÔ KIM OANH





SỰ XUẤT HIỆN HAI KHỐI QUÂN SỰ ĐỐI ĐẦU
NATO - VÁCXAVA VÀ CUỘC CHẠY ĐUA VŨ TRANG
GIỮA HAI KHỐI ĐÔNG - TÂY (1947 - 1970)





CHUYÊN NGÀNH: LỊCH SỬ THẾ GIỚI

KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC

Người hướng dẫn: Ths. Đặng Thị Hồng Liên



SƠN LA, NĂM 2013

LỜI CẢM ƠN


Hoàn thành khóa luận này, em xin chân thành cảm ơn sự giúp đỡ của các
thầy cô giáo trong khoa Sử - Địa. Đặc biệt là sự hướng dẫn, chỉ đạo tận tình của
cô giáo Đặng Thị Hồng Liên.
Em xin bày tỏ lòng biết ơn, sự tạo điều kiện giúp đỡ của thư viện Trường
ĐH Tây Bắc, thư viện Sơn La và sự ủng hộ, động viên, giúp đỡ của các bạn sinh
viên lớp K50 ĐH sư phạm Lịch Sử.

Sơn La, tháng 5 năm 2003
Tác giả
Ngô Kim Oanh


MỤC LỤC
MỞ ĐẦU 1
1. Lí do chọn đề tài 1
2. Lịch sử vấn đề 2
3. Mục đích, ý nghĩa, nhiệm vụ của đề tài 3
4. Giới hạn đề tài, cơ sở tài liệu, phương pháp nghiên cứu 3
5. Bố cục 3
CHƯƠNG 1: SỰ XUẤT HIỆN HAI KHỐI QUÂN SỰ ĐỐI ĐẦU NATO -
VÁCXAVA 5
1.1. Bối cảnh quốc tế dẫn đến sự xuất hiện hai khối quân sự đối đầu 5
1.1.1. Trật tự thế giới mới sau chiến tranh thế giới thứ hai 5
1.1.2. Sự đối lập về mục tiêu và chiến lược giữa hai cường quốc từ sau chiến
tranh thế giới thứ hai 7
1.1.2.1. Mục tiêu và chiến lược của Mỹ 7
1.1.2.2. Mục tiêu và chiến lược của Liên Xô 8
1.2. Sự xuất hiện hai khối quân sự đối đầu 11
1.2.1. Sự ra đời của khối Hiệp ước Bắc Đại Tây Dương (NATO) 11
1.2.2. Sự ra đời của khối Hiệp ước Hữu nghị, Hợp tác và Tương trợ

(VÁCXAVA) 15
1.2.3. Tác động của việc hình thành hai khối quân sự trong mâu thuẫn Xô -
Mỹ 17
Tiểu kết chương 1 19
CHƯƠNG 2: CUỘC CHẠY ĐUA VŨ TRANG GIỮA HAI CỰC XÔ - MỸ
VÀ XUNG ĐỘT QUÂN SỰ TRONG CUỘC CHẠY ĐUA VŨ TRANG
GIỮA HAI KHỐI ĐÔNG - TÂY (1947 - 1970) 20
2.1. Chiến lược quốc phòng của Mỹ và Liên Xô 20
2.1.1. Chiến lược quốc phòng của Mỹ 20
2.1.2. Chiến lược quốc phòng của Liên Xô 22
2.2. Lực lượng quân sự giữa hai khối đối đầu 24
2.3. Các khối quân sự và căn cứ quân sự ra đời 28
2.3.1. Mỹ thành lập liên minh quân sự 29
2.3.1.1. Hiệp định an ninh Mỹ - Nhật (9/1951) 29
2.3.1.2. Liên minh quân sự Thái Bình Dương giữa Mỹ - Australia - New
Zealand (ANZUS) 31
2.3.1.3. Tổ chức Hiệp ước Đông Nam Á (SEATO - Southeast Asia Treaty
Organization) 32
2.3.1.4. Sự ra đời của Khối quân sự CENTO 34
2.3.2. Liên Xô đưa quân thiết lập căn cứ quân sự 36
2.3.2.1. Liên Xô tập trung quân ở Đông Đức 36
2.3.2.2. Liên Xô thiết lập căn cứ ở Mông Cổ 38
2.3.2.3. Rải quân ở biên giới Xô - Trung 39
2.4. Những xung đột quân sự ở các khu vực trong cuộc chạy đua vũ trang
giữa hai khối Đông - Tây (1947 - 1970) 41
2.4.1. Mỹ - Xô can thiệp chiến tranh ở châu Á 41
2.4.2. Xô - Mỹ trong các cuộc khủng hoảng chính trị ở Hungary và Tiệp Khắc 47
2.4.3. Can thiệp của Xô - Mỹ ở Trung Đông 51
2.4.4. Đối đầu Xô - Mỹ tại Cuba 56
Tiểu kết chương 2 60

KẾT LUẬN 61
TÀI LIỆU THAM KHẢO

1
MỞ ĐẦU
1. Lí do chọn đề tài
Cuộc chiến tranh thế giới thứ hai (1939 - 1945), trên tất cả các bình diện từ
thời gian đến quy mô, cường độ cuộc chiến và nhất là sự tàn phá hủy diệt đều
vượt trội so với cuộc chiến tranh (1914 - 1918). Như một nghịch lí của lịch sử,
con người càng tiến dài hơn trên con đường văn minh, tiến bộ thì sự chém giết
lẫn nhau càng tàn bạo hơn từ các phương tiện kỹ thuật tân kỳ đến sự lùi lại hành
hạ thân xác và chà đạp nhân phẩm con người theo kiểu dã man trung cổ. Nhưng
sự tàn bạo phi nhân tính ấy đã bị trừng phạt, các nước phát xít Đức, Italia và
Nhật Bản đã bị đánh bại hoàn toàn.
Một trật tự thế giới mới được xác lập bằng những thỏa thuận của Hội nghị
tam cường Xô - Mỹ - Anh tại Ianta, thể hiện sự phân chia khu vực ảnh hưởng
trên thế giới chủ yếu là giữa hai siêu cường Mỹ và Liên Xô, những lực lượng
chủ lực đánh bại chủ nghĩa phát xít quốc tế. Với bản chất chế độ chính trị - xã
hội khác nhau, hai nước đã nhanh chóng từ liên minh chống phát xít trở thành
đối địch nhau, mỗi nước tập hợp chung quanh mình các nước đồng minh lập
thành hai phe tư bản chủ nghĩa và xã hội chủ nghĩa. Làm cho tình hình thế giới
lại lâm vào tình trạng căng thẳng, phức tạp chủ yếu giữa hai siêu cường Mỹ và
Liên Xô. Điều này đã trở thành nhân tố chi phối chủ yếu, trong quan hệ quốc tế
thời kỳ này, sự mâu thuẫn giữa hai siêu cường Xô - Mỹ càng trở nên quyết liệt
với việc thành lập hai khối quân sự NATO – VÁCXAVA. Đây là hai khối quân
sự lớn nhất toàn cầu, đối địch nhau, đều chạy đua vũ trang, trang bị những vũ
khí hiện đại để tăng cường sức mạnh của khối mình. Sự kình địch và chạy đua
vũ trang của hai khối quân sự đối địch này, là cuộc đối đầu chính của cuộc
“Chiến tranh lạnh”.
Thế nhưng, cho đến nay vẫn chưa có công trình nghiên cứu nào đề cập đến

vấn đề này một cách trình tự và hệ thống: Sự xuất hiện hai khối quân sự đối đầu
NATO - VÁCXAVA và cuộc chạy đua vũ trang giữa hai khối Đông - Tây (1947
- 1970) vẫn chưa được làm rõ. Với mong muốn đóng góp sức lực nhỏ bé của
mình để nhìn nhận một lần nữa về một cuộc chiến do Mỹ phát động và Liên Xô
theo đuổi, mà cả hai đều tránh đụng đầu trực tiếp nhưng lại lâm vào các cuộc
chiến tranh cục bộ thay thế. Tạo ra một cuộc “Chiến tranh lạnh” giữa hai siêu
cường Xô - Mỹ đồng thời là đại diện cho hai khối Đông - Tây, một cuộc chiến
tranh khác lạ đưa đến những cuộc chạy đua vũ trang quyết liệt nhưng không ai
thắng ai, chỉ dùng lại ở thế cân bằng, tạo nên một sự khác biệt so với các cuộc
chiến tranh trong lịch sử loài người.

2
Xuất phát từ những mong muốn trên tôi mạnh dạn lựa chon đề tài “Sự xuất
hiện hai khối quân sự đối đầu NATO - VÁCXAVA và cuộc chạy đua vũ trang
giữa hai khối Đông - Tây (1947 - 1970)” làm khóa luận tốt nghiệp của mình.
2. Lịch sử vấn đề
Nghiên cứu về “Chiến tranh lạnh” giữa hai siêu cường Mỹ và Liên Xô
cũng như sự ra đời của hai khối quân sự NATO - VÁCXAVA và cuộc chạy đua
vũ trang giữa hai khối Đông - Tây, đặc biệt trong giai đoạn 1947 - 1970 đã thu
hút được sự quan tâm của nhiều nhà nghiên cứu, nhiều nhà hoạt động chính trị,
nhà khoa học, giáo viên, sinh viên. Có rất nhiều công trình nghiên cứu đã được
công bố, cụ thể như sau:
Trong cuốn sách “Đặc biệt tin cậy – Vị đại sứ ở Oasinhtơn qua sáu đời
tổng thống Mỹ” của Đôbưnhin A, xuất bản năm 2001. Cuốn sách này viết khá
kỹ về chính sách ngoại giao của Mỹ và Liên Xô, qua đó đánh dấu cục diện hai
phe, hai cực Xô - Mỹ và sự đối đầu căng thẳng trong quan hệ quốc tế.
Cuốn sách “Nước Mỹ nửa thế kỷ - chính sách đối ngoại của Hoa Kỳ trong và
sau Chiến tranh lạnh” của Thomasr. M. C. Comick, xuất bản năm 2004, đã chỉ ra
âm mưu và kế hoạch của Mỹ trong việc thực hiện “chiến lược toàn cầu” nhằm mục
đích thống trị thế giới, dùng sức mạnh quân sự để thống trị các nước khác.

Năm 2008, NXB Giáo dục đã cho xuất bản cuốn sách “Lịch sử quan hệ
quốc tế hiện đại (1945 - 2000)” của Trần Nam Tiến. Đã làm sáng tỏ bức tranh
tổng thể về quan hệ quốc tế của một giai đoạn lịch sử đầy những bước quanh co,
phức tạp. Một phần nội dung chủ yếu của cuốn sách thể hiện sự chạy đua giữa
hai siêu cường lúc bấy giờ là Liên Xô và Mỹ.
Nhà xuất bản Giáo dục và nhà xuất bản Đại học sư phạm đã xuất bản các
loại giáo trình “Lịch sử thế giới hiện đại” trong đó có bài trình bày khái quát về
sự xuất hiện hai khối quân sự đối đầu và cuộc chạy đua vũ trang giữa hai khối
Đông - Tây.
Ngoài ra, còn một số công trình khác như: “42 đời tổng thống Mỹ”(William
AD Egre Gorio, NXB Chính trị quốc gia, năm 1988); “Một số chuyên đề lịch sử
thế giới” (Vũ Dương Ninh, NXB Đại học Quốc gia Hà Nội, năm 2002).
Nhìn chung, các công trình trên mới chỉ đề cập đến một cách chung nhất về
cuộc “Chiến tranh lạnh” sau chiến tranh thế giới thứ hai trên bình diện rộng,
nhưng chưa có công trình nghiên cứu một cách chuyên sâu về việc thành lập hai
khối quân sự lớn nhất toàn cầu, đối địch nhau, chạy đua vũ trang để trang bị

3
những vũ khí hiện đại nhằm tăng cường sức mạnh cho khối mình, thể hiện cuộc
đối đầu chính trong “Chiến tranh lạnh” vẫn chưa được làm rõ.
Vì vậy, trên cơ sở các công trình nghiên cứu và các tài liệu liên quan đã
giúp tôi đi vào nghiên cứu làm rõ: Sự xuất hiện hai khối quân sự đối đầu
NATO - VÁCXAVA và cuộc chạy đua vũ trang giữa hai khối Đông - Tây
(1947 - 1970).
3. Mục đích, ý nghĩa, nhiệm vụ của đề tài
Tìm hiểu về sự xuất hiện hai khối quân sự đối đầu NATO - VÁCXAVA và
cuộc chạy đua vũ trang giữa hai khối Đông - Tây giúp người đọc hiểu rõ hơn về
cuộc đối đầu chính trong “Chiến tranh lạnh” đã diễn ra hơn nửa thế kỷ và đến
nay đã chấm dứt được hơn hai mươi năm. Nhưng dư âm và hệ quả của nó vẫn
còn kéo dài. Bên cạnh việc đề cao những nỗ lực của Liên Xô nhằm mục tiêu duy

trì hòa bình và đạt thế cân bằng chiến lược với Mỹ, là bài học cảnh tỉnh cho
những tư tưởng muốn vươn lên bá chủ thế giới như Mỹ trong giai đoạn hiện nay.
Cũng như, những tổ chức muốn chạy đua vũ trang để tiến hành những hoạt
động quân sự có ảnh hưởng trực tiếp đến an ninh và hòa bình thế giới.
4. Giới hạn đề tài, cơ sở tài liệu, phương pháp nghiên cứu
Sự hình thành hai khối quân sự lớn nhất toàn cầu NATO và VÁCXAVA do
Mỹ và Liên Xô đứng đầu, tạo ra một cuộc chạy đua vũ trang rất tốn kém và đầy
nguy hiểm giữa hai siêu cường đánh dấu cụ diện đối đầu Đông - Tây, cuốn hút
từng quốc gia, từng khu vực chịu ảnh hưởng sâu xắc của cuộc đối đầu này. Vì
thế phạm vi của đề tài tôi chỉ muốn làm rõ sự xuất hiện hai khối quân sự đối đầu
NATO - VÁCXAVA và cuộc chạy đua vũ trang giữa hai khối Đông - Tây trong
giai đoạn 1947 - 1970.
Cơ sở tài liệu là nguồn tài liệu chính thống: giáo trình và tư liệu từ mạng
Internet, từ tạp chí nghiên cứu lịch sử, các sách báo của thư viện tỉnh Sơn La,
thư viện Trường ĐH Tây Bắc.
Phương pháp nghiên cứu: Để làm sáng tỏ vấn đề, đề tài thực hiện bằng hai
phương pháp là phương pháp lịch sử và phương pháp lôgic. Ngoài ra, đề tài còn
sử dụng một số phương pháp khác như: Thu thập nguồn tài liệu, so sánh, đối
chiếu, tổng hợp, phân tích.

5. Bố cục

4
Ngoài phần mở đầu, kết luận, tài liệu tham khảo, đề tài kết cấu thành hai
chương:
Chương 1: Sự xuất hiện hai khối quân sự đối đầu NATO - VÁCXAVA
Chương 2: Cuộc chạy đua vũ trang giữa hai cực Xô - Mỹ và xung đột quân
sự trong cuộc chạy đua vũ trang giữa hai khối Đông - Tây (1947 – 1970)
























CHƯƠNG 1: SỰ XUẤT HIỆN HAI KHỐI QUÂN SỰ ĐỐI ĐẦU

5
NATO - VÁCXAVA
1.1. Bối cảnh quốc tế dẫn đến sự xuất hiện hai khối quân sự đối đầu
1.1.1. Trật tự thế giới mới sau chiến tranh thế giới thứ hai
Đầu năm 1945 trong bối cảnh Hồng quân Liên Xô đang truy quét phát xít
ra khỏi biên giới đất nước và chuẩn bị tác chiến trên lãnh thổ các nước Đông Âu
đang chịu sự chiếm đóng của Đức quốc xã. Trong khi đó, quân đội đồng minh

Mỹ - Anh cũng giành thắng lợi trong nỗ lực mở mặt trận thứ hai, ở Tây Âu và
mặt trận Thái Bình Dương. Như vậy, chiến tranh thế giới thư hai, không còn bao
lâu nữa sẽ kết thúc bằng thắng lợi của phe Đồng minh và thất bại chắc chắn của
phe phát xít. Tình hình đó đã đặt ra yêu cầu cho các nước Đồng minh phải nhanh
chóng tiêu diệt chủ nghĩa phát xít, tổ chức lại thế giới sau chiến tranh và phân
chia thành quả chiến tranh.
Trong bối cảnh đó, Hội nghị tam cường Liên Xô, Mỹ và Anh giữ vai trò
nòng cốt trong phe Đồng minh gặp nhau tại thành phố Ianta (bán đảo Crimea,
nay thuộc Ukraine) để đưa ra các biện pháp quan trọng nhằm đánh bại nhanh
chóng các nước phát xít, kết thúc chiến tranh. Đồng thời thiết lập một nền hòa
bình lâu dài trên trái đất. Hội nghị thượng đỉnh diễn ra từ ngày 4 đến ngày
11/2/1945 với sự tham gia của Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng Liên Xô - Xtalin,
Tổng thống Mỹ - F.Rudơven và Thủ tướng Anh - Sơcsin, cùng các phụ tá thân
cận của họ. Do liên quan đến lợi ích của mỗi quốc gia mà Hội nghị Ianta đã diễn
ra trong bầu không khí gay go, quyết liệt. Tuy nhiên, vì lợi ích chung có liên
quan trực tiếp đến nền hòa bình, an ninh và trật tự thế giới mới sau chiến tranh
nên cuối cùng các bên tham gia Hội nghị cũng đã đạt được sự đồng thuận về vấn
đề phối hợp hành động để chống Trục phát xít giai đoạn kết thúc chiến tranh. Ở
châu Âu và châu Á - Thái Bình Dương, việc tiêu diệt hoàn toàn chủ nghĩa phát
xít Đức và xây dựng những bảo đảm thật sự để nước Đức không còn khả năng
gây chiến tranh một lần nữa, chấp nhận những điều kiện để đáp ứng việc Liên
Xô tham gia chiến tranh chống Nhật (Bảo vệ nguyên trạng và công nhận nền
độc lập của Mông Cổ, trả lại Liên Xô những quyền lợi của đế quốc Nga ở Viễn
Đông trước chiến tranh Nga - Nhật 1904 ). Ngoài ra, ba cường quốc thống
nhất thành lập tổ chức Liên Hợp Quốc dựa trên nền tảng và nguyên tắc cơ bản là
sự nhất chí giữa năm cường quốc - Liên Xô, Mỹ, Anh, Pháp và Trung Quốc, để
giữ gìn hòa bình, an ninh và trật tự thế giới sau chiến tranh. Cuối cùng, cũng tại
Hội nghị này, các nước lớn đã đạt được thỏa thuận về việc phân chia phạm vi
ảnh hưởng ở châu Âu và châu Á, đặt cơ sở cho việc hình thành một trật tự thế
giới mới sau khi chiến tranh kết thúc.


6
Ở châu Âu, quân đội Liên Xô sẽ chiếm đóng miền Đông Đức, Đông Béclin
và các nước Đông Âu do Hồng quân Liên Xô giải phóng; còn quân đội Mỹ,
Anh, Pháp chiếm đóng miền Tây Đức, Tây Béclin, Italia và một số nước Tây Âu
khác. Như vậy, vùng Đông Âu thuộc phạm vi ảnh hưởng của Liên Xô, còn vùng
Tây Âu thuộc phạm vi ảnh hưởng của Mỹ.
Ở châu Á - Thái Bình Dương, các cường quốc tham gia Hội nghị cũng thống
nhất, để quân đội Mỹ được quyền chiếm đóng Nhật Bản, quân đội Liên Xô chiếm
đóng Bắc Triều Tiên và quân đội Mỹ chiếm đóng Nam Triều Tiên, lấy vĩ tuyến 38
làm ranh giới. Các vùng còn lại của châu Á (Đông Nam Á, Tây Á, Nam Á ) vẫn
thuộc phạm vi ảnh hưởng truyền thống của các nước phương Tây.
Những quyết định của Hội nghị cấp cao Ianta về những vấn đề quan trọng
nhất của thế giới sau chiến tranh đã đặt những tiền đề cơ sở, có tính chất nền
tảng cho việc hình thành một trật tự thế giới mới sau chiến tranh - thường được
gọi là “Trật tự thế giới hai cực Ianta”.
Sau khi phát xít Đức đầu hàng Đồng minh vô điều kiện, chiến tranh kết
thúc ở châu Âu, nhiều mâu thuẫn mới và nhiều vấn đề quốc tế mới lại nổi lên.
Sự đoàn kết trong chiến tranh nay đã trở thành sự nghi kị lẫn nhau. Có thể thấy
rõ điều này ngay sau khi F.Rudơven qua đời (ngày 12/4/1945), người lên thay là
phó Tổng thống Truman, trong một cuộc họp tại Nhà Trắng (ngày 23/4/1945) đã
tuyên bố: “Tôi chủ trương phải có sự cứng rắn trong chính sách của mình đối
với nước Nga”[14,145]. Đường lối cứng rắn này nhanh chóng nhận được sự
hưởng ứng từ Thủ tướng Anh Churchill. Ngày 6/5/1945, Churchill đề nghị
Truman nhanh chóng tổ chức Hội nghị thượng đỉnh lần thứ ba giữa Liên Xô -
Anh - Mỹ để giải quyết tiếp những vấn đề đặt ra khi Đức đầu hàng. Sau nhiều
lần trì hoãn, cuối cùng ba cường quốc thỏa thuận tiến hành Hội nghị thượng
đỉnh Tam cường tại Potsdam (Đức) trong nửa sau tháng 7/1945. Hội nghị diễn ra
từ ngày 17/7 đến ngày 25/7 và từ ngày 28/7 đến ngày 2/8/1945, bị gián đoạn do
kết quả bầu cử Quốc hội Anh. Bất chấp những nghi kị các nhà lãnh đạo ba đại

cường quốc vẫn thông qua những quyết định quan trọng. Hội nghị tập trung vào
giải quyết vấn đề Đức trên cơ sở những thỏa thuận của Hội nghị Ianta, đề ra
những nguyên tắc cơ bản đối với Đức: phi quân sự hóa, phi quốc xã hóa và dân
chủ hóa, trừng phạt tội phạm chiến tranh, kiểm soát và giới hạn khả năng ngành
công nghiệp nặng sao cho nước Đức không thể phục hồi nền công nghiệp quân
sự. Hội nghị xác định rõ tiền bồi thường của Đức sẽ được “trích từ những vùng
bị chiếm đóng” bằng cách tịch thu các thiết bị công nghiệp. Riêng Liên Xô sẽ
nhận thêm từ các vùng chiếm đóng của phương Tây 15% thiết bị công nghiệp cơ
bản còn sử dụng được và hoàn chỉnh (chủ yếu công nghiệp luyện kim, hóa chất,

7
cơ khí) và thêm 10% thiết bị công nghiệp vốn không cần cho nền kinh tế thời
bình của Đức. Về số phận của những nước Đồng minh hay chư hầu của Đức
quốc xã trong chiến tranh: các bộ trưởng ngoại giao của Liên Xô, Mỹ, Anh,
Pháp và Trung Quốc được giao trách nhiệm soạn thảo các Hòa ước sẽ kí với các
nước (Italia, Bulgaria, Phần Lan, Hungari, Romania).
Ngoài ra, Hội nghị còn đi đến thỏa thuận những nguyên tắc trong việc giải
quyết vấn đề Nhật Bản sau chiến tranh và ra bản “Tuyên cáo Pôtxđam kêu gọi
Nhật Bản đầu hàng”. Trong đó, nêu rõ chủ quyền của Nhật trở lại đất Nhật
chính thống chủ yếu ở trong bốn đảo: Hônsư, Hốccaiđô, Kiusiu, Sicôcư. Trừng
trị tội phạm chiến tranh, Nhật Bản chỉ được phát triển công nghiệp hòa bình, thủ
tiêu lực lượng vũ trang và giải tán quân đội Nhật Bản. Hội nghị Pôtxđam còn
giải quyết được nhiều việc quan trọng khác, như thành lập Hội đồng ngoại
trưởng các cường quốc (Liên Xô, Mỹ, Anh, Pháp, Trung Quốc) để giải quyết
vấn đề dự thảo Hòa ước với các nước phát xít bại trận.
Như vậy, những nghị quyết của Hội nghị Potsdam vừa tiếp tục khẳng định,
vừa cụ thể hóa, vừa bổ sung cho những quyết định của Hội nghị thượng đỉnh
Ianta về việc phối hợp hành động kết thúc chiến tranh ở mặt trận Thái Bình
Dương và thiết lập trật tự thế giới mới sau khi chiến tranh kết thúc. Có thể nói,
hai Hội nghị thượng đỉnh Ianta và Potsdam đã xác lập địa vị ưu thế của hai đại

cường Liên Xô và Mỹ trong quan hệ quốc tế thời hậu chiến tranh thế giới thứ
hai và đã góp phần tạo ra cục diện lưỡng cực kéo dài trong suốt thời kì Chiến
tranh lạnh.
1.1.2. Sự đối lập về mục tiêu và chiến lược giữa hai cường quốc từ sau
chiến tranh thế giới thứ hai
1.1.2.1. Mục tiêu và chiến lược của Mỹ
Nước Mỹ tham gia chiến tranh trong điều kiện an toàn và thuận lợi nên đã
làm giàu và phát triển mạnh mẽ về các mặt. Trong thời kì đầu, Mỹ lại đứng
trung lập đóng vai trò lái súng bán vũ khí cho các nước tham chiến, cho nên tư
bản Mỹ đã thu được 114 tỉ đô la lợi nhuận. Mỹ đã làm giầu trên sự đổ nát của
châu Âu và thế giới. Vì thế sau chiến tranh Mỹ trở thành nước giầu mạnh nhất,
chiếm ưu thế tuyệt đối về mọi mặt trong thế giới tư bản chủ nghĩa. Về quân sự,
lục quân, hải quân và không quân cũng vượt lên hàng đầu, bỏ xa các nước khác.
Thời gian đầu sau chiến tranh, Mỹ lại nắm độc quyền về bom nguyên tử. Về tài
chính, Mỹ có khối lượng vàng dự trữ lớn nhất thế giới “gần 25 tỉ đô la năm
1949, chiếm gần 3/4 khối lượng vàng của thế giới tư bản”[15,285]. Sau chiến
tranh, Mỹ là chủ nợ duy nhất trên thế giới, ngay cả Anh và Pháp trước đó đã
từng là chủ nợ nay cũng phải đi vay Mỹ. Về kinh tế, sản lượng công nghiệp Mỹ

8
chiếm quá nửa tổng sản lượng công nghiệp của thế giới tư bản (56,4 năm 1948).
Sản lượng nông nghiệp cũng gấp hai lần sản lượng của Anh, Pháp, Cộng hòa
liên bang Đức, Italia, Nhật cộng lại (1949).
Có thể nói, Mỹ vượt trội hơn tất cả các nước trở thành đế quốc đầu sỏ thế
giới, lớn mạnh về quân sự, kinh tế cũng như uy tín về chính trị. Từ đây tham vọng
làm bá chủ thế giới của Mỹ ngày càng bộc lộ, giới thống trị Mỹ đề ra chiến lược
toàn cầu, âm mưu thống trị toàn thế giới. Bởi giới thống trị Mỹ cho rằng: sau
chiến tranh sẽ là “thời đại của Mỹ”. Thời đại Mỹ có thể dùng sức mạnh để buộc
các dân tộc phải phục tùng. Mỹ đã đề ra ba mục tiêu cho“ chiến lược toàn cầu”:
“Một là: Ngăn chặn, đẩy lùi, tiến tới tiêu diệt hệ thống xã hội chủ nghĩa thế

giới.
Hai là: Đàn áp phong trào giải phóng dân tộc, phong trào hòa bình dân chủ
thế giới.
Ba là: Nô dịch các nước tư bản đồng minh, tập hợp các lực lượng phản
động quốc tế đặt dưới sự lãnh đạo của Mỹ” [13,290].
Để đạt được ba mục tiêu trên, chính sách cơ bản của Mỹ là chính sách
chiến tranh, chính sách thực lực, âm mưu dựa vào “thế mạnh” để khuất phục
các dân tộc khác. Mỹ ráo riết chạy đua vũ trang, phát triển lực lượng hạt nhân
lập các khối quân sự chiến lược và kí kết với nhiều nước những Hiệp ước
quân sự tay đôi, cho phép Mỹ đóng quân và xây dựng các căn cứ quân sự trên
lãnh thổ các nước đó. Vì vậy, Mỹ và liên minh các nước phương Tây phát
động “Chiến tranh lạnh”.
“Chiến tranh lạnh” là từ do Baruch, tác giả của kế hoạch nguyên tử lực
của Mỹ ở Liên Hợp Quốc đặt ra, xuất hiện đầu tiên trên báo Mỹ ngày 26/7/1947.
Theo phía Mỹ “Chiến tranh lạnh” là “chiến tranh không nổ súng, không đổ
máu” nhưng luôn ở tình trạng chiến tranh nhằm “ngăn chặn” rồi “tiêu diệt”
Liên Xô , mục đích “ngăn chặn” nhằm chống chủ nghĩa cộng sản, chống Liên
Xô và cách mạng thế giới. Vì lúc này, cao trào giải phóng dân tộc diễn ra sôi nổi
ở khắp các lục địa của châu Á, châu Phi và khu vực Mỹ Latinh sau khi hoàn
thành cách mạng dân tộc, dân chủ nhân dân, một số nước đã tuyên bố đi lên chủ
nghĩa xã hội cùng với Liên Xô hợp thành một hệ thống xã hội chủ nghĩa hùng
mạnh, ảnh hưởng của chủ nghĩa xã hội ngày càng lớn vì chủ nghĩa xã hội là chỗ
dựa tin cậy của phong trào đấu tranh vì hòa bình, độc lập dân tộc, dân chủ và
tiến bộ xã hội.
1.1.2.2. Mục tiêu và chiến lược của Liên Xô
Chiến tranh thế giới thứ hai kết thúc, đã gây cho đất nước Xô Viết những

9
tổn thất nặng nề về người và của. Hầu như toàn bộ miền Tây của đất nước bị tàn
phá, Xtalingrát chỉ còn là những đống đổ nát. Các thành phố như: Pôntava,

Kháccốp, Cremênchuc, Xêvaxtôpôn, Dapôrôgie, Xmôlenxcơ, Nôvôrôxixcơ
gần như bị san bằng. Những công trình lớn như: nhà máy thủy điện Đơnhep, các
nhà máy luyện kim Adốp và Dapôrôgie, nhà máy sản xuất nông nghiệp Rôxtốp
phải ngừng hoạt động. Theo những số liệu chính thức: “trong chiến tranh hơn
27 triệu người dân Xô Viết đã hi sinh trên chiến trường, 1.710 thành phố, hơn
70 nghìn làng mạc, 31.853 cơ sở công nghiệp , 65 nghìn cây số đường sắt, 98
nghìn nông trại tập thể , 1.876 nông trường quốc doanh bị tàn phá nặng
nề”[7,141]. Nhân dân Liên Xô dưới sự lãnh đạo của Đảng, bắt tay vào công
cuộc khôi phục và phát triển đất nước với cả nhiệt tình và sự hi sinh cao cả cùng
với tinh thần tự lực tự cường đã hoàn thành thắng lợi kế hoạch 5 năm khôi phục
kinh tế (1945 - 1950) trong vòng 4 năm 3 tháng. Công nghiệp được phục hồi vào
năm 1947. Đến năm 1950, tổng sản lượng công nghiệp tăng 73% so với mức
trước chiến tranh, hơn 6.200 xí nghiệp được phục hồi hoặc xây dựng mới đi vào
hoạt động. Sản xuất nông nghiệp năm 1950 đạt mức trước chiến tranh. Đặc biệt
trên lĩnh vực khoa học kĩ thuật phát triển nhanh chóng. Năm 1949, Liên Xô chế
tạo thành công bom nguyên tử, phá thế độc quyền vũ khí nguyên tử của Mỹ.
Với tư thế là người chiến thắng vĩ đại sau chiến tranh, uy tín chính trị và
địa vị quốc tế của Liên Xô được đề cao hơn bao giờ hết. Là một nước xã hội chủ
nghĩa hùng mạnh (một trong hai cực của trật tự Ianta) là chỗ dựa của phong trào
cách mạng thế giới. Trước tình hình trên, các nước phương Tây (do Mỹ cầm
đầu) đã thực hiện chính sách thù địch với Liên Xô, bao vây kinh tế, phát động
chiến tranh lạnh, chạy đua vũ trang, chuẩn bị cuộc chiến tranh tổng lực nhằm
tiêu diệt Liên Xô và các nước xã hội chủ nghĩa.
Để đối phó lại âm mưu của Mỹ, Đảng và nhà nước Xô Viết đã thực hiện
chính sách nhằm mục tiêu và phương hướng cơ bản là:
“Đảm bảo những điều kiện thuận lợi cho công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã
hội, loại trừ nguy cơ chiến tranh, duy trì hòa bình và an ninh thế giới, mở rộng
việc hợp tác với các nước xã hội chủ nghĩa.
Góp phần củng cố và thúc đẩy sự tiến bộ của hệ thống xã hội chủ nghĩa,
phát triển quan hệ hữu nghị, bình đẳng với các nước mới giải phóng.

Duy trì và phát triển quan hệ với các nước tư bản chủ nghĩa, trên cơ sở
chung sống hòa bình, hợp tác thiết thực cùng có lợi.
Đoàn kết quốc tế với các Đảng Cộng sản và các đảng dân chủ cách mạng,
với phong trào công nhân quốc tế và phong trào đấu tranh giải phóng của các
dân tộc” [13,260].

10
Những mục tiêu phương hướng trên được thực hiện thông qua những hành
động thực tiễn, những biện pháp cụ thể. Với các Hiệp ước đoàn kết, hữu nghị và
hợp tác, Liên Xô đã giúp đỡ tích cực về vật chất cũng như tinh thần cho các
nước xã hội chủ nghĩa.
Trong công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội, Liên Xô đã đấu tranh không
mệt mỏi cho nền hòa bình và an ninh thế giới, kiên quyết chống lại âm mưu gây
chiến xâm lược của chủ nghĩa đế quốc và các thế lực phản động. Liên Xô cũng
đi đầu trong việc ủng hộ sự nghiệp đấu tranh vì dân tộc, dân chủ và tiến bộ xã
hội của nhân dân các dân tộc. Với tư cách là một trong những nước sáng lập tổ
chức Liên Hợp Quốc, Liên xô đã đề ra nhiều sáng kiến nhằm củng cố hòa bình,
tôn trọng độc lập chủ quyền của các dân tộc và phát triển sự hợp tác quốc tế.
Như thế, sau chiến tranh thế giới thứ hai, địa vị quốc tế của Liên Xô được
đề cao hơn bao giờ hết. Là nước chủ nghĩa xã hội lớn nhất, hùng mạnh nhất,
Liên Xô lúc này trở thành chỗ dựa cho nền hòa bình cũng như phong trào cách
mạng thế giới.
Sự đối lập về mục tiêu và chiến lược giữa hai cường quốc Liên Xô và Mỹ
từ sau chiến tranh thế giới thứ hai đã mở ra một thời kì mới trong lịch sử quan
hệ quốc tế. Bóng dáng Trật hai cực đã bắt đầu xuất hiện kể từ khi Học thuyết
Truman công bố ngày 12/3/1947 tại Quốc hội Hoa Kỳ “Thế là một ván bài Go
(một lối chơi cờ của Nhật) đã bắt đầu diễn ra trên quy mô hành tinh, mỗi siêu
cường quốc đặt ra các quân cờ của mình tăng cường các vùng do nó chi phối,
đe dọa những vùng mà phía bên kia tỏ ra yếu kém, với những thời kì đặc biệt
căng thẳng khiến cho cả hai bên phải áp dụng những biện pháp để không đi

được quá xa”[10,264]. Mối quan hệ đồng minh trong cuộc chiến tranh chống
phát xít đã nhanh chóng tan rã để thay thế bằng quan hệ xuất phát trên những lợi
ích hoàn toàn khác nhau, luôn đấu tranh không khoan nhượng. Từ quan hệ đối
đầu giữa hai nước Liên Xô và Mỹ chuyển thành quan hệ đối đầu giữa hai phe:
phe xã hội chủ nghĩa và phe tư bản chủ nghĩa. Thế giới lại lâm vào tình trạng
“Chiến tranh lạnh” giữa hai siêu cường và trở thành nhân tố chi phối chủ yếu
trong quan hệ quốc tế thời kì này. Sự mâu thuẫn giữa hai siêu cường càng trở
nên quyết liệt với việc hình thành hai khối quân sự NATO và VÁCXAVA do
Mỹ và Liên Xô đứng đầu, tiến hành chạy đua vũ trang, trang bị vũ khí hiện đại
để tăng cường sức mạnh của khối mình. Sự kình địch và chạy đua vũ trang của
hai khối quân sự này là cuộc đối đầu chính của “Chiến tranh lạnh”, đã làm cho
tình hình thế giới ngày càng căng thẳng. Cuốn hút nhiều quốc gia, từng khu vực
chịu ảnh hưởng sâu sắc của cuộc đối đầu này.

11
Quan hệ giữa Liên Xô và Mỹ mặc dù mâu thuẫn, nhưng vẫn phụ thuộc
và kiềm chế nhau, đều thực hiện chiến lược phòng ngự, đều tránh đụng đầu
trực tiếp với nhau. Vì thế, về đại cục, hòa bình thế giới được duy trì trong
suốt thời kì chiến tranh lạnh và cả sau đó để không diễn ra một cuộc chiến
tranh thế giới thứ III.
1.2. Sự xuất hiện hai khối quân sự đối đầu
1.2.1. Sự ra đời của khối Hiệp ước Bắc Đại Tây Dương (NATO)
Ngay sau khi chiến tranh thế giới thứ hai kết thúc, tình hình thế giới chuyển
biến mau lẹ, ngày càng có lợi cho Liên Xô và các nước xã hội chủ nghĩa, bất lợi
cho Mỹ và đồng minh của Mỹ. Đầu năm 1947 ở các nước Đông Âu, khu vực
ảnh hưởng của Liên Xô, chính quyền lần lượt vào tay nhân dân lao động. Ở Thổ
Nhĩ Kì, Hy Lạp, phong trào đấu tranh vũ trang do Đảng Cộng sản lãnh đạo dấy
lên mạnh mẽ. Ở Pháp, Italia, Bỉ, Đảng Cộng sản tham gia chính phủ thực hiện
những cải cách về kinh tế, xã hội tiến bộ. Ở châu Á, Quân giải phóng Trung
Quốc đã giáng cho quân đội Tưởng Giới Thạch những đòn chí mạng. Trong bối

cảnh như thế, Mỹ đã đẩy mạnh chiến lược toàn cầu chống lại phong trào cách
mạng thế giới. Tổng thống Truman khẳng định rõ tham vọng bá chủ của Mỹ:
“Dù muốn hay không muốn, chúng ta phải công nhận thắng lợi mà chúng ta đạt
được đã đặt lên nhân dân Mỹ gánh nặng là tiếp tục trách nhiệm lãnh đạo thế
giới” [14,245].
Trong lúc những mâu thuẫn giữa hai khối Đông - Tây bắt đầu nổi lên,
Chính phủ các nước Tây Âu đã lựa chọn con đường theo Mỹ, chấp nhận kế
hoặch Macsan (kể cả Tây Đức) để đạt được mục tiêu theo cách gọi là “phòng
vệ”. Không những vậy, Mỹ còn thực hiện chính sách ngăn chặn (Contaimet
Policy) nhằm “ngăn chặn” sự bành trướng của chủ nghĩa cộng sản rồi tiến tới
tiêu diệt nó. Chính sách “ ngăn chặn” được đề ra trên những kết luận của Kenân
(Georges Kennan) một chuyên gia về Liên Xô của Mỹ cho rằng: Sau chiến tranh
Liên Xô sẽ bị suy yếu, kiệt quệ cả về vật chất và tinh thần, chỉ cần đặt trước
Liên Xô một lực lượng mạnh mẽ thì trong một thời gian từ 10 đến 15 năm - Liên
Xô sẽ tự bị tiêu diệt và sẽ ngăn được chủ nghĩa cộng sản bành trướng trên thế
giới . Kennân chủ trương “ngăn chặn lâu dài” ngăn chặn một cách duy trì
nhưng phải cứng rắn và cảnh giác với những khuynh hướng xâm lược của người
Nga, điều đó là một nhân tố chủ yếu của bất kì chính sách nào của Mỹ đối với Nga.
Vì vậy, Kennân cho rằng đối với Liên điều cốt lõi là: “Phải có một chính sách dài
hạn nhưng kiên quyết ngăn chặn sự bành trướng của Liên Xô” [11,234] nhằm làm
cho Liên Xô suy yếu, bị tan dã.

12
Nhưng để thực hiện chính sách “ ngăn chặn” thì Mỹ cần tiến thêm một bước
nữa, đó là tiến hành thành lập các khối quân sự xâm lược, nhằm tập hợp các lực
lượng phản cách mạng đặt dưới sự chỉ huy của Mỹ để bao vây Liên Xô, các nước
dân chủ nhân dân Đông Âu và các nước có cao trào giải phóng dân tộc.
Bước đầu tiên trên con đường xây dựng các khối quân sự xâm lược là
“Hiệp định phòng thủ Tây bán cầu” kí kết giữa Mỹ và các nước chư hầu Mỹ ở
hội nghị Riô đơ Gianêrơ (Riodeianeiro) tháng 9 năm 1947. Tiếp theo Hiệp định

trên, theo đề xuất của thủ tướng Anh - Attlec và sự hưởng ứng nhiệt tình của
Pháp, một số nước Tây Âu xúc tiến kế hoạch xây dựng một khối liên kết chính
trị, quân sự để chống lại ảnh hưởng của Cộng sản ở châu Âu. Từ ngày 4 đến
ngày 12/3/1948, năm nước (Anh, Pháp, Bỉ, Hà Lan, Lucxembua) họp Hội nghị
thương lượng trên cơ sở dự thảo Hiệp ước của Bộ ngoại giao Anh. Ngày
17/3/1948, sau khi được các Chính phủ chấp thuận, năm nước trên đã kí Hiệp
ước Brussels. Nội dung chủ yếu của Hiệp ước là thiết lập mối liên kết về chính
trị và quân sự giữa năm nước thành viên, nhằm chống lại một cuộc xâm lược từ
bên ngoài (Hiệp ước có giá trị trong vòng 50 năm kể từ ngày ký ). Hiệp ước bao
gồm 10 điều khoản, đặc biệt trong điều 4 của Hiệp ước nêu rõ: “Nếu như nước
kí kết hiệp ước là đối tượng bị tấn công ở khu vực châu Âu, các thành viên khác
của hiệp ước sẽ hành động theo quy định của điều 51 Hiến chương Liên Hợp
Quốc để hỗ trợ mặt quân sự” [14,72]. Từ Hiệp ước Brussels, dẫn tới việc hình
thành một tổ chức gọi là Liên hiệp Tây Âu (WEU - Western European Union).
Đây được xem là một trong những bước “dậm nhảy” cho việc hình thành một
liên minh quân sự sau này là Hiệp ước Bắc Đại Tây Dương (NATO).
Mỹ hưởng ứng với việc hình thành liên minh quân sự phương Tây nhưng
không thỏa mãn vì liên minh này không có tác dụng lớn về mặt quân sự và Anh
lại chiếm địa vị lãnh đạo trong khối này. Hơn nữa, Mỹ gặp khó khăn khi tham
gia vào khối liên hiệp Tây Âu, vì trong luật pháp của liên bang có quy định
chính quyền Mỹ không được thiết lập liên minh quân sự với Tây Âu trong thời
bình. Cho nên, Mỹ cố nắm lấy khối này và dựa vào khối này làm nòng cốt cho
việc xây dựng “Khối Bắc Đại Tây Dương - NATO” rộng lớn hơn, trong đó Mỹ
sẽ giữ vai trò lãnh đạo.
Để xúc tiến việc thành lập, Mỹ đã tiến hành những cuộc vận động trong
quốc hội Mỹ và thương lượng giữa Mỹ với khối Liên hiệp Tây Âu.
Ngày 11/6/1948, Thượng nghị viện Mỹ Vandenbeng trong cuộc họp thứ
80, phiên họp thứ hai đã bỏ phiếu thông qua Nghị quyết thượng viện số 239 hay
còn gọi là “Nghị quyết Vandenbeng”. Theo Nghị quyết này, Vandenbeng giới


13
thiệu một “phương pháp” thương lượng đảm bảo “An ninh cá thể quốc gia cũng
như an ninh tập thể theo Hiến chương Liên Hợp Quốc”[6,73]. Nghị quyết đã tạo
điều kiện pháp lí cho Mỹ tiến hành tham gia một liên minh quân sự nước ngoài
trong thời bình. Đây có thể nói là một cuộc cách mạng thực sự trong lịch sử đối
ngoại của Mỹ.
Ngày 25 và 26/10/1948, ngoại trưởng năm nước khối Liên hiệp Tây Âu
đã nghiên cứu và hoàn toàn tán thành một Hiệp ước, thành lập một liên minh
phòng thủ Đại Tây Dương. Không lâu sau đó, vào ngày 29 -10 -1948, Canađa
cũng tuyên bố tán thành một Hiệp ước như vậy. Đến cuối tháng 11 năm 1948,
năm nước WEU (Liên hiệp Tây Âu) gửi đến Washington bản dự thảo sơ bộ
Hiệp ước Bắc Đại Tây Dương. Ngày 10/12/1948, cuộc đàm phán bắt đầu diễn
ra tại Washington với nhiệm vụ đầu tiên là xây dựng hoàn chỉnh nội dung
khung Hiệp ước.
Sau một quá trình căng thẳng, cuối cùng vào ngày 15/3/1949 các nước
WEU và Canađa đã đồng ý nhất trí với nội dung của bản soạn thảo sơ bộ đồng
thời mời: NaUy, Đan Mach, Iceland, Bồ Đào Nha và Italy tham gia Hiệp ước.
Tổ chức Hiệp ước Bắc Đại Tây Dương (NATO) được công bố thành lập vào
ngày 18/3/1949, trong đó các phần cam kết về quân sự là nội dung chủ yếu tổ
chức NATO. Hiệp ước, bao gồm 14 điều khoản. Đặc biệt trong điều 4 và 5 nêu
rõ: “Một cuộc tấn công vũ trang chống lại một hoặc nhiều nước thành viên ở
châu Âu hay Bắc Mỹ sẽ bị coi như tấn công tất cả các nước thành viên, do vậy
họ thỏa thuận rằng nếu một cuộc tấn công như vậy diễn ra, mỗi nước thành viên
sẽ chiếu theo quyền tự vệ riêng, hay tập thể được điều 51 Hiến chương Liên Hợp
Quốc thừa nhận. Ngay lập tức hỗ trợ với tư cách riêng hoặc có phối hợp với các
thành viên khác, cho một nước hay những nước bị tấn công bằng một hành động
mà mình gọi là cần thiết, kể cả bằng cách sử dụng lực lượng vũ trang để phục
hồi và duy trì an ninh vùng Bắc Đại Tây Dương” [6,74]. Như vậy, mỗi nước
thành viên có quyền hành động đơn phương hay phối hợp với nhau.
Để Hiệp ước có hiệu lực phải có sự phê chuẩn của các quốc gia thành viên

và các văn kiện phê chuẩn sẽ trao cho Mỹ lưu trữ. Hiệp ước không có giới hạn
thời gian, nhưng có quy định rằng có thể xem xét lại sau 10 năm (điều 12). Sau
20 năm mỗi nước thành viên có quyền chấm dứt sự tham gia với điều kiện thông
báo trước một năm.
Hiệp ước được kí kết vào ngày 4/4/1949 nhưng để Hiệp ước bắt đầu có giá
trị thực sự thì cần có sự phê chuẩn của các nước tham gia. Vì vậy, mà trong
Quốc hội Mỹ cũng trải qua 12 ngày căng thẳng tranh cãi đến từng điều khoản

14
của Hiệp ước Bắc Đại Tây Dương. Cuối cùng, vào ngày 21/8/1949, Thượng
viện thông qua Hiệp ước với 82 phiếu thuận /13 phiếu trống. Bốn ngày sau
25/8/1949 các quốc gia tham gia phê chuẩn. Hiệp ước bắt đầu có giá trị thật sự.
Như vậy, tổ chức Hiệp ước Bắc Đại Tây Dương gọi tắt là NATO (North Atlantic
Treaty Orgnisation) đã ra đời.
Về mục đích của Hiệp ước NATO, trên các văn bản giấy tờ kí kết về hình
thức là bảo vệ hòa bình cho Mỹ - Tây Âu nhưng thực chất Mỹ muốn thao túng
các nước tư bản phương Tây để chĩa mũi nhọn vào Liên Xô và các nước xã hội
chủ nghĩa, nhằm đạt được mục tiêu cho chiến lược toàn cầu cũng như âm mưu
bá chủ thế giới của Mỹ.
Về hệ thống tổ chức, cơ quan cao nhất của NATO là Hội đồng tổ chức Hiệp
ước Bắc Đại Tây Dương, gồm đại diện thường trực Chính phủ của tất cả các nước
thành viên, các vị Bộ trưởng của các nước đó (Bộ ngoại giao, Quốc phòng hoặc
Tài chính) và một Tổng thư kí đứng đầu bộ phận thường trực của Hội đồng. Trực
thuộc Hội đồng có Ủy ban quân sự do Tổng tham mưu trưởng ba nước Mỹ, Anh,
Pháp đảm nhiệm và Ủy ban kế hoạch (về hàng hải, về giao thông đường bộ, về
dầu khí). Ngoài ra, trực thuộc Ủy ban Quân sự có Bộ tư lệnh tối cao quân đội
đồng minh của NATO (do Đại tướng Mỹ Eisenhoner là Tổng tư lệnh đầu tiên) và
các tư lệnh khác tại Bắc Đại Tây Dương - Địa Trung Hải. Các Bộ tư lệnh này sẽ
tập hợp quân đội các thành viên trong khối NATO để trở thành một lực lượng vũ
trang liên kết. Các cơ quan chủ yếu của NATO đặt ở thủ ở Pari (Pháp), riêng

nhóm thường vụ của Uỷ ban Quân sự đặt tại Washington (Mỹ).
Với sự tham gia của hầu hết các cường quốc tư bản hàng đầu, NATO trở
thành liên minh quân sự và chính trị quan trọng nhất và hùng mạnh nhất của
phương Tây. Đã xác lập trên thực tế vai trò lãnh đạo của Mỹ về chính trị và
quân sự ở Tây Âu. Tháng 10 năm 1949, Quốc hội Mỹ thông qua chương trình
viện trợ quân sự gồm 1.314 triệu USD, trong đó viện trợ cho các nước thuộc
châu Mỹ và Canađa dưới hình thức cho vay, viện trợ cho Hy Lap và Thổ Nhĩ Kỳ
theo tinh thần của “Học thuyết Truman”, viện trợ cho các nước thành viên
NATO ở châu Âu một tỉ USD [11,234].
Như vậy, sau “Chủ nghĩa Truman”và “Kế hoạch Macsan” việc thành lập
tổ chức Hiệp ước Bắc Đại Tây Dương (NATO), là một bước tiến mới và cũng là
một bộ phận quan trọng trong việc thực hiện những âm mưu thống trị thế giới
của Mỹ. Thực chất, khối NATO là một công cụ của chính sách bành trướng xâm
lược của Mỹ. Vì thế ngay sau khi mới thành lập, khối NATO đã chứa chất
những mâu thuẫn nội bộ gay gắt: Anh và Mỹ tranh giành nhau quyền lãnh đạo

15
và ảnh hưởng trong khối NATO, sau khi vươn lên Pháp và Tây Đức cũng đấu
tranh gay gắt đòi Mỹ chia sẻ quyền lãnh đạo .
1.2.2. Sự ra đời của khối Hiệp ước Hữu nghị, Hợp tác và Tương trợ
(VÁCXAVA)
Nếu như Mỹ tìm cách lôi kéo các nước Đồng minh về phía mình bằng các
biện pháp kinh tế, chính trị và quân sự vừa để thao túng, vừa để tạo ra khối các
nước đối lập với Liên Xô và các nước xã hội chủ nghĩa. Thì Liên Xô cũng bí
mật kí một loạt Hiệp ước song phương hữu nghị, hợp tác, liên minh và tương trợ
có giá trị trong 20 năm.
Tính đến cuối năm 1948, Liên Xô đã lần lượt kí các Hiệp ước song phương
với các nước xã hội chủ nghĩa Đông Âu: Nam Tư (ngày 11/4/1945), Ba Lan (ngày
21/2/1945), Romania (ngày 4/2/1948), Hunggari (ngày 18/2/1948), Bungari (ngày
18/3/1948). Cùng thời gian này, các nước dân chủ nhân dân Đông Âu cũng đã tiến

hành kí kết những Hiệp ước hữu nghị, hợp tác và tương trợ lẫn nhau: “Nam Tư -
Ba Lan (ngày 18/3/1946), Nam Tư - Tiệp Khắc (ngày 9/5/1946), Nam Tư -
Bungari (ngày 8/8/1947), Ba Lan - Bungari (ngày 29/3/1948), Tiệp Khắc - Bungari
(ngày 23/4/1948), Bungari - Hunggari (ngày 16/7/1948).” [6,167].
Các Hiệp ước được kí kết giũa Liên Xô và các nước Đông Âu, giữa các
nước Đông Âu với nhau đã liên kết các nước này thành một khối quân sự. Nếu
một trong những nước tham gia kí kết lâm vào tình trạng chiến tranh, bị nước
ngoài xâm lược, các nước trong liên minh được xem như là những mắt xích có
liên đới và có trách nhiệm tương trợ. Các Hiệp ước này bảo đảm an ninh cho
từng nước, nhưng Liên Xô do lực lượng quân sự mạnh nhất, có quân đội đóng
trên lãnh thổ các nước đó (trừ Nam Tư và Albania), nên Liên Xô có ảnh hưởng
lớn và giữ vai trò quyết định trong việc phòng vệ và trong chính sách đối ngoại
của các nước thuộc hệ thống xã hội chủ nghĩa, mới được thành lập ở Đông Âu.
Đặc biệt, sau khi cách mạng Trung Quốc thắng lợi và nước Cộng hòa nhân
dân Trung Hoa thành lập, ngày 14/2/1950 hai chính phủ Liên Xô và Trung Quốc
đã kí kết “Hiệp ước hữu nghị liên minh tương trợ Xô - Trung”, xác định về mặt
pháp lí khối Liên minh giữa Liên Xô và Trung Quốc nhằm chống lại mọi âm
mưu tấn công xâm lược của chủ nghĩa đế quốc bên ngoài. Ngoài ra, Liên Xô còn
cho Trung Quốc vay tiền, giúp đỡ chuyên gia và kĩ thuật để Trung Quốc có thể
khôi phục và phát triển kinh tế.
Kể từ năm 1949, tình hình thế giới ngày càng trở nên căng thẳng với việc
Mỹ và các đồng minh của Mỹ đẩy mạnh chính sách “Chiến tranh lạnh” ráo riết

16
chạy đua vũ trang và thành lập liên minh quân sự nhằm chuẩn bị một cuộc chiến
tranh chống Liên Xô và các nước xã hội chủ nghĩa. Tháng 4 năm 1949, tổ chức
Hiệp ước Bắc Đại Tây Dương (NATO) ra đời với sự tham gia của 12 nước tư
bản phương Tây làm cho tình hình thế giới căng thẳng, bởi đây là liên minh
quân sự lớn nhất, quan trọng nhất của Mỹ và các đồng minh. Tiếp đó là việc tái
vũ trang Cộng hòa Liên bang Đức và kết nạp nước này vào NATO, đe dọa

nghiêm trọng đến nền an ninh của Liên Xô và các nước xã hội chủ nghĩa Đông
Âu. Vì theo, Liên Xô việc Tây Đức được kết nạp vào NATO với tư cách là một
thành viên độc lập làm tiêu tan mọi khả năng thống nhất nước Đức bằng con
đường dân chủ và hòa bình, đây là âm mưu của các nước phương Tây nhằm biến
Tây Đức thành một tiền đồn thù địch chống hệ thống các nước xã hội chủ nghĩa
ở châu Âu.
Trước tình hình đó, các nước: Liên Xô, Anbani, Balan, Bungari, Cộng hòa
dân chủ Đức, Hunggari, Rumani và Tiệp Khắc họp tại Vácxava ngày 14/5/1955.
Tám nước tham gia hội nghị đã kí kết Hiệp ước hữu nghị, hợp tác và tương trợ
(gọi tắt là Hiệp ước VÁCXAVA). Mang tính chất là một liên minh phòng thủ
về quân sự và chính trị của các nước xã hội chủ nghĩa ở châu Âu.
Theo Hiệp ước, các thành viên trong tổ chức, cam kết không dùng vũ lực
trong quan hệ quốc tế và giải quyết các vấn đề tranh chấp bằng biện pháp hòa
bình, tuyên bố sẵn sàng tham gia mọi hoạt động quốc tế nhằm tìm kiếm các biện
pháp tích cực để bảo vệ hòa bình và an ninh thế giới, cắt giảm vũ khí, cấm phổ biến
các vũ khí giết người hàng loạt. Trong trường hợp một hay nhiều nước tham gia
Hiệp ước bị nước khác tấn công thì các nước cam kết có nhiệm vụ giúp đỡ “Bằng
mọi phương tiện được xem là cần thiết, kể cả bằng lực lượng vũ trang” [3,100].
Đặc biệt, trong điều 5 của Hiệp ước quy định việc thành lập Bộ chỉ huy quân đội
các thành viên Hiệp ước. Các bên thỏa thuận không tham gia bất kì liên minh hay
liên hiệp nào hoặc ký bất kì thỏa ước nào có nội dung đi ngược lại mục đích của
Hiệp ước VÁCXAVA. Hiệp ước VÁCXAVA cho phép bất kì nước nào cũng có
thể gia nhập, nếu họ sẵn sàng bảo vệ hòa bình và an ninh chung.
Hiệp ước bắt đầu có hiệu lực từ ngày 5/6/1955 và có giá trị trong vòng 20
năm. Cộng hòa nhân dân Trung Hoa được mời tham dự với tư cách là quan sát
viên đã tuyên bố hoàn toàn đồng tình và ủng hộ Hiệp ước VÁCXAVA, đồng
thời nhấn mạnh trong các trường hợp có chiến tranh xâm lược ở châu Âu, nhân
dân Trung Quốc sẽ cùng nhân dân anh em đấu tranh cho thắng lợi cuối cùng.
Như vậy, tổ chức Hiệp ước VÁCXAVA mang tính chất là một liên minh phòng
thủ về quân sự và chính trị của các nước xã hội chủ nghĩa ở châu Âu.


17
Về cơ cấu tổ chức Hiệp ước VÁCXAVA gồm: Uỷ ban tư vấn chính trị, để
trao đổi ý kiến về các vấn đề mà các thành viên cùng quan tâm. Bộ chỉ huy liên
hiệp lực lượng vũ trang được tách ra theo sự thỏa thuận của các nước thành viên,
sau này lập thành Ủy ban các Bộ trưởng quốc phòng các nước thành viên.
Sau khi ra đời với những hoạt động của mình, tổ chức Hiệp ước VÁCXAVA
đã có những ảnh hưởng tích cực và to lớn đối với sự phát triển tình hình ở châu
Âu và thế giới. Như một đối trọng với NATO, tổ chức Hiệp ước VÁCXAVA đã
có những ảnh hưởng tích cực và to lớn đối vơi sự phát triển tình hình ở châu Âu
và thế giới. Sự lớn mạnh của Liên Xô và các thành viên đã đưa tới sự hình thành
thế chiến lược cân bằng về sức mạnh quân sự giữa các nước xã hội chủ nghĩa và
các nước tư bản chủ nghĩa. Với mục đích cao cả là giữ gìn hòa bình, an ninh
châu Âu và thế giới các nước thành viên Tổ chức Hiệp ước VÁCXAVA đã
nhiều lần bày tỏ ý đồ sẵn sàng giải thể trong điều kiện khối NATO cũng đồng
tình làm như thế.
1.2.3. Tác động của việc hình thành hai khối quân sự trong mâu thuẫn
Xô - Mỹ
Cuộc đối đầu giữa Liên Xô và Mỹ, giữa chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa tư
bản không phải chỉ bắt đầu từ sau chiến tranh thế giới thư hai, mà nó nảy sinh
ngay từ sau cách mạng tháng Mười (1917) với sự ra đời của nước Nga Xô viết.
Lúc bấy giờ, các nước tư bản phương Tây đã tập trung lực lượng và tìm mọi
cách “bóp chết” nước Nga Xô viết: 14 nước tư bản đã đưa quân can thiệp chống
nước Nga trong những năm 20 - 30 của thế kỉ XX, đặc biệt trong cuộc xâm lược
Liên Xô của nước Đức trong những năm 1941 - 1945. Mặc dù vậy, nhà nước
chủ nghĩa xã hội đầu tiên vẫn đứng vững, tồn tại và ngày càng hùng mạnh.
Trong chiến tranh thế giới thứ hai, Liên Xô và các nước Mỹ, Anh, Pháp đều là
nạn nhân của cuộc xâm lược phát xít và họ đã liên minh với nhau để chống chủ
nghĩa phát xít, nhưng mâu thuẫn giữa Liên Xô và các nước tư bản này vẫn luôn
luôn tồn tại. Khi chiến tranh thế giới thứ hai kết thúc, chủ nghĩa phát xít bị tiêu

diệt thì mâu thuẫn giữa Liên Xô và các nước Mỹ, Anh, Pháp lại nổi lên. Các
nước này từ quan hệ đồng minh chuyển sang quan hệ đối đầu, đây là một trong
những nguồn gốc của cuộc “Chiến tranh lạnh”. Hơn nữa, từ hội nghị Ianta
(2/1945), Liên Xô, Mỹ, Anh thỏa thuận với nhau phân chia phạm vi ảnh hưởng
đối các khu vực trên phạm vi thế giới. Cũng vì thế, “Chiến tranh lạnh” là kết
quả tất yếu của cuộc chiến tranh giành và mở rộng phạm vi thế lực giữa Liên Xô
và Mỹ, mà thường được gọi là hai cực trong trật tự thế giới mới được xác định
từ hội nghi Ianta.

18
Tuy nhiên, sau chiến tranh thế giới thứ hai tình hình thế giới chuyển biến
mau lẻ ngày càng có lợi cho Liên xô và các nước xã hội chủ nghĩa, bất lợi cho
Mỹ và các đồng minh của Mỹ, bởi sự ra đời của hệ thống xã hội chủ nghĩa tác
động tới chiều hướng phát triển của nhiều quốc gia trên thế giới. Tình hình trên
đã dẫn tới một vấn đề trong chiến lược của Mỹ và các nước đồng minh, không
thể không tính đến sự lớn mạnh của chủ nghĩa cộng sản.
Trong bối cảnh như thế, Mỹ không thể không có những phản ứng lại.
Tháng 3 -1947 Tổng thống Mỹ Truman đã đọc diễn văn tại Quốc hội Mỹ, chính
thức đưa ra học thuyết của mình. Theo Truman thì các nước Đông Âu “vừa bị
cộng sản thôn tính” và những đe dọa tương tự đang diễn ra nhiều nước khác ở
châu Âu, ở Italia, Pháp và cả Đức nữa. Vì vậy, Mỹ phải đứng ra “đảm nhận sứ
mệnh lãnh đạo thế giới tư do” phải giúp đỡ các dân tộc thế giới chống lại “sự đe
dọa” của chủ nghĩa cộng sản, chống lại sự “bành trướng”, của nước Nga, giúp
đỡ bằng mọi biện pháp kinh tế, quân sự. Tổng thống Mỹ đã phát động cuộc
chiến tranh chống Liên Xô và các nước xã hội chủ nghĩa . Như vậy, học thuyết
Truman đã mở đầu cho cuộc “Chiến tranh lạnh” và cuộc chiến tranh này đã diễn
ra theo tư tưởng và mục tiêu của Mỹ, tiến tới lãnh đạo thế giới tự do chống lại
sự đe dọa của chủ nghĩa cộng sản, chống lại Liên Xô và các nước xã hội chủ
nghĩa, ngăn chăn chủ nghĩa xã hội không cho lan ra các khu vực khác.
Sự hình thành hai khối quân sự lớn nhất toàn cầu NATO và VÁCXAVA do

Mỹ và Liên Xô đứng đầu, đối địch nhau, chạy đua vũ trang của hai khối quân
quyết liệt. Đây cũng chính là cuộc đối đầu chính của “chiến tranh lạnh”, trong
nửa cuối thế kỉ XX đã làm cho tình hình thế giới ngày càng căng thẳng. Đánh
dấu cục diện của hai phe, sự đối đầu Đông - Tây trong quan hệ quốc tế và cuốn
hút từng quốc gia, từng khu vực chịu ảnh hưởng sâu xắc của cuộc đối đầu này.
Trong suốt thời gian tồn tại và hoạt động của mình hai tổ chức này đã ráo riết
chạy đua vũ trang và tiến hành những hoạt động quân sự, có ảnh hưởng đến an
ninh và hòa bình thế giới.
Khối quân sự NATO được thành lập, dưới sự cầm đầu của Mỹ, được che
đậy dưới danh từ lừa bịp như “phòng thủ để bảo vệ hòa bình và an ninh chung”,
“bảo vệ tự do”. Khối quân sự NATO đã trở thành một trung tâm gây chiến, xâm
lược của đế quốc Mỹ chuyên câu kết với các thế lực phản động của các nước tư
bản để tiến hành những hành động phản cách mạng ở châu Âu và thế giới. Đối
với phe tư bản mà nói, khối NATO là một tổ chức quân sự, chính trị qua đó đế
quốc Mỹ khống chế các nước ký kết về quân sự (để Mỹ thiết lập các căn cứ
quân sự, đóng quân và buộc các nước hội viên phải cung cấp nhân, tài, lực).

19
Điều này tác động lớn đối từng quốc gia tham gia khối NATO nói riêng và cục
diện thế giới cũng trở nên căng thăng bởi các khối quân sự do Mỹ đứng đầu hình
thành thế bao vây, cô lập Liên Xô và các nước xã hội chủ nghĩa.
Ngược lại, khối VÁCXAVA do Liên Xô đứng đầu được thành lập nhằm
duy trì hòa bình, an ninh châu Âu, củng cố tình hữu nghị, sự hợp tác và sức
mạnh của các nước xã hội chủ nghĩa anh em. Là một tổ chức mang tính chất liên
minh phòng thủ về quân sự, chính trị của các nước xã hội chủ nghĩa ở châu Âu.
Khối VÁCXAVA trở thành đối trọng với khối NATO và góp phần không nhỏ
vào việc ổn định an ninh, chính trị trên thế giới. Với vai trò của mình khối
VÁCXAVA đã góp phần kiềm chế những hoạt động quân sự của khối NATO,
giảm bớt nguy cơ chiến tranh, buộc khối NATO phải tôn trọng một số quyền lợi
chủ quyền của các dân tộc bị áp bức trên thế giới.

Tiểu kết chương 1
Mỹ và Liên Xô giành vị trí sau chiến tranh thế giới thứ hai, chi phối các
vấn đề quân sự của châu Âu bằng tổ chức liên phòng Bắc Đại Tây Dương
(NATO) và Hiệp ước VÁCXAVA. Mỹ quảng bá dân chủ tự do và chủ nghĩa tư
bản trong khi Liên Xô cổ vũ chủ nghĩa cộng sản và một nền kinh tế kế hoạch tập
trung và cả hai đều tránh đụng đầu trực tiếp nhưng lại lâm vào các cuộc chiến
tranh cụ bộ thay thế. Điều này tạo ra một cuộc “Chiến tranh lạnh” chủ yếu giữa
hai siêu cường Xô - Mỹ đồng thời là đại diện cho hai khối Đông - Tây, một cuộc
chiến tranh khác lạ không chỉ vì cái tên mà còn về hình thái, về diễn biến, về
cách đánh giá, nhận định những sự kiện những thành bại, và đặc biệt là hệ quả
đối với cục diện thế giới. Một cuộc chiến tranh do hai siêu cường đứng đầu và
chi phối mâu thuẫn hết sức gay gắt, những cuộc chạy đua vũ trang quyết liệt
nhưng không ai thắng ai, chỉ dùng lại ở thế cân bằng, tạo nên một sự khác biệt
so các cuộc chiến tranh trong lịch sử loài người.

20
CHƯƠNG 1: CUỘC CHẠY ĐUA VŨ TRANG GIỮA HAI CỰC XÔ - MỸ
VÀ XUNG ĐỘT QUÂN SỰ TRONG CUỘC CHẠY ĐUA VŨ TRANG
GIỮA HAI KHỐI ĐÔNG - TÂY (1947 - 1970)
2.1. Chiến lược quốc phòng của Mỹ và Liên Xô
2.1.1. Chiến lược quốc phòng của Mỹ
Sau chiến tranh thế giới thứ hai, Mỹ tập trung phần lớn vào công nghiệp
quân sự với sự tập trung sản xuất và tư bản Mỹ là rất cao: 10 tập đoàn tài chính
lớn (Morgan, Rockfeller ), khống chế toàn bộ nền kinh tế, tài chính Mỹ chủ
yếu là kinh doanh công nghiệp quân sự, sản xuất vũ khí và có liên hệ mật thiết
với Bộ Quốc phòng Mỹ - là cơ quan đặt mua hàng quân sự. Nhờ kinh doanh
công nghiệp quân sự và buôn bán vũ khí, mà những khoản lợi nhuận kếch xù
chảy vào những két sắt của các nghiệp đoàn công nghiệp quân sự của Mỹ. Chỉ
năm 1969 số lượng các hợp đồng bán vũ khí chiếm khoản tiền là 120 tỉ USD.
Khoảng một nửa số tiền đó rơi vào vòng luân chuyển của các công ty quân sự

Mỹ với thị trường bên ngoài [2,21] Do đó, ở Mỹ đã hình thành nên cái mà người
ta gọi là tổ hợp quân sự công nghiệp - tức là một liên minh chặt chẽ giữa giới
công nghiệp và giới quân sự, giữa bọn trùm tư bản lũng đoạn với Lầu năm góc
(Trụ sở Bộ Quốc phòng Mỹ - biểu tượng của quân đội Hoa Kỳ) và chính phủ
Mỹ nói chung. Đứng đầu các tập đoàn này có thể nắm giữ cả các chức vụ cao
nhất trong chính quyền, kể cả chức Tổng thống. Điều đó đã quyết định đến
chính sách phản động hiếu chiến và xâm lược của Chính phủ Mỹ. Không chỉ
chống đối công nhân và các lực lượng dân chủ, tiến bộ ở Mỹ, tấn công vào đời
sống của người lao động. Giới thống trị Mỹ còn đề ra chiến lược toàn cầu, âm
mưu thống trị toàn thế giới và chống lại sự bành trướng của chủ nghĩa cộng sản.
Vì vậy, Mỹ tập trung mọi nỗ lực chống Liên Xô và khối VÁCXAVA, đầu tư
phát triển lực lượng quốc phòng, bố trí các đơn vị cho các hệ thống vũ khí đều
dựa trên cơ sở đánh giá mối đe dọa từ Liên Xô. Mỹ và phương Tây nỗ lực hiện
đại hóa quân đội, hoạnh định các chính sách tác chiến và tăng ngân sách cho
công nghiệp quân sự.
Ngành công nghiệp và các cơ sở nghiên cứu của chính phủ Mỹ, phối hợp
chặt chẽ với nhau để duy trì ưu thế về số lượng vũ khí. Dành các khoản ngân
sách đầu tư cho công nghiệp quốc phòng và phát triển công nghệ Mỹ để dần dần
xóa bỏ khoảng cách công nghệ so với Liên Xô.
Chiến lược quốc phòng của Mỹ còn được dựa trên sự bố trí lực lượng của
Tổ chức Hiệp ước VÁCXAVA, chủ yếu ở các nước xã hội chủ nghĩa như Đông

×