Tải bản đầy đủ (.docx) (26 trang)

(Skkn 2023) một số biện pháp rèn kĩ năng viết văn miêu tả cho học sinh lớp 5

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (3.23 MB, 26 trang )

PHẦN I. MỞ ĐẦU
1. Lí do chọn đề tài:
Từ ngàn đời nay, tinh thần hiếu học đã trở thành một truyền thống tốt đẹp
của dân tộc Việt Nam ta. Cho đến tận ngày nay, truyền thống ấy vẫn ngày càng
được phát triển và nhân rộng. Việc học tập để lĩnh hội tri thức mới giúp cho thế
hệ trẻ tiếp thu được những tinh hoa văn hóa, khoa học kĩ thuật của nhân loại,
vững vàng hội nhập quốc tế là vấn đề cấp bách đang được toàn đảng, toàn dân
quan tâm hàng đầu. Để đáp ứng được vấn đề này, hệ thống giáo dục là yếu tố cốt
lõi. Trong hệ thống giáo dục thì giáo dục bậc Tiểu học là rất quan trọng. Trong
chương trình Tiểu học, cùng với mơn Tốn, mơn Tiếng Việt có nhiệm vụ hình
thành và phát triển cho học sinh các kĩ năng sử dụng Tiếng Việt để học tập và
giao tiếp. Thông qua việc dạy học Tiếng Việt góp phần rèn luyện tư duy, cung
cấp cho học sinh những kiến thức sơ giản về xã hội, tự nhiên và con người, về
văn hóa, văn học của Việt Nam và nước ngồi. Đồng thời, mơn Tiếng Việt cịn
góp phần bồi dưỡng cho các em tình u cái đẹp, yêu quê hương, đất nước, hình
thành và phát triển nhân cách tốt đẹp của con người trong thế kỷ mới.
Mơn Tiếng Việt trong chương trình Tiểu học gồm nhiều phân môn khác
nhau như Tập đọc, Luyện từ và câu, Kể chuyện, Tập viết, Chính tả, Tập làm
văn. Mỗi phân mơn đều có những đặc trưng riêng song khó hơn cả đối với người
dạy cũng như người học chính là phân môn Tập làm văn.
Tập làm văn là phân môn rất quan trọng trong chương trình Tiểu học. Nó
khơng chỉ giúp cho học sinh hình thành các kĩ năng nghe , nói, đọc, viết mà cịn
rèn cho học sinh khả năng giao tiếp, quan sát, phân tích tổng hợp và đặc biệt cịn
hình thành cho học sinh những phẩm chất tốt đẹp của con người mới hiện đại và
năng động. Dạy Tập làm văn là dạy học sinh cách nhìn nhận cuộc sống xung
quanh trong thực tế vốn có của nó với cảm xúc thực của các em. Đồng thời cũng
dạy các em cách ghi lại sự nhìn nhận ấy qua các văn bản, còn gọi là đoạn văn,
bài văn một cách chính xác về đối tượng, về ngữ pháp Tiếng Việt.
Tập làm văn lớp 5 gồm nhiều nội dung, một trong những nội dung chính
của chương trình Tập làm văn 5 là văn miêu tả. Nó có hệ thống xây dựng lí
thuyết riêng cho từng thể loại như: tả người, tả cảnh, tả đồ vật, tả cây cối, tả con


vật... và ở từng thể loại đòi hỏi giáo viên phải có những cách rèn khác nhau để
học sinh đạt được những kĩ năng cần thiết. Một bài văn miêu tả hay phải làm
cho người đọc thấy được hiện ra trước mắt mình con người, cảnh vật, con vật, ...
cụ thể, sống động như nó vẫn tồn tại trong thực tế cuộc sống. Như vậy, có thể
xem văn miêu tả là một bức tranh về sự vật và ngôn từ. Qua đó bồi dưỡng cho
các em tình u q hương, đất nước, vốn sống, vốn ngôn ngữ, khả năng giao


2

tiếp. Để viết được bài văn hay, các em cần rèn luyện năng lực quan sát, năng lực
thu thập thông tin, năng lực tưởng tượng, năng lực phân tích tổng hợp và các
khả năng biểu đạt, bố cục, tạo phong cách. Bởi vậy làm thế nào để cho học sinh
viết văn hay và có hiệu quả là cả một vấn đề rất khó khăn, cần phải suy nghĩ và
dày cơng nghiên cứu của những người làm công tác giáo dục.
Mục đích, tầm quan trọng của việc dạy và học Tập làm văn là như vậy,
nhưng thực tế hiện nay, rất hiếm gặp những “mầm non” văn học, hiếm gặp
những bài văn hay in đậm dấu ấn học trò Tiểu học. Phần lớn bài văn của các em
mang phong cách “đơn giản, sơ sài”. Khá hơn chút nữa là sự đủ ý nhưng khô
khan, “na ná” giống văn mẫu (văn của cô, của bạn hoặc trong tài liệu tham
khảo). Mặt khác, nhiều học sinh cịn e dè, khơng thích học Tập làm văn, cảm
giác viết được bài văn thật khó khăn.
Vậy nên vấn đề đặt ra là làm thế nào để học sinh viết được những bài văn
hay, súc tích, sinh động, phát huy được vốn sống, vốn hiểu biết của các em. Có
lẽ đây là vấn đề mà nhiều giáo viên trăn trở, muốn tìm những giải pháp thích
hợp tháo gỡ được tình trạng trên. Xuất phát từ lý do đó, với tinh thần ham học
hỏi, tơi xin mạnh dạn nghiên cứu, đúc kết kinh nghiệm và quyết định chọn đề
tài: “Một số biện pháp rèn kĩ năng viết văn miêu tả cho học sinh lớp 5”.
2. Mục đích nghiên cứu
- Tìm hiểu những thuận lợi, khó khăn trong q trình dạy và học phân mơn

Tập làm văn nói chung và dạng văn miêu tả nói riêng của giáo viên và học sinh.
Từ đó, đưa ra một số biện pháp để phát huy các ưu điểm và khắc phục những
hạn chế khi dạy và học văn miêu tả.
- Giúp học sinh có hứng thú với phân mơn Tập làm văn, yêu thích viết văn.
3. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu
- Đối tượng: Học sinh lớp 5.
- Phạm vi nghiên cứu: Dạng bài văn miêu tả, phân môn Tập làm văn lớp 5.
4. Nhiệm vụ nghiên cứu
- Nội dung chương trình môn Tập làm văn lớp 5.
- Biện pháp rèn kĩ năng viết văn miêu tả cho học sinh lớp 5.
5. Phương pháp nghiên cứu
- Phương pháp phân tích tài liệu.
- Phương pháp khảo sát.
- Phương pháp thống kê, phân tích đánh giá.
- Phương pháp tổng kết kinh nghiệm.
- Phương pháp thực nghiệm sư phạm.
6. Thời gian nghiên cứu
- Năm học 2021 – 2022, từ tháng 9 năm 2021 đến tháng 3 năm 2022.


3

PHẦN II. NỘI DUNG
1. Cơ sở lí luận
1.1. Mục tiêu của phân môn Tập làm văn nói chung và văn miêu tả nói riêng
Tập làm văn là một phân môn mang tính tổng hợp và sáng tạo cao. Tổng
hợp các kiến thức, kĩ năng từ các phân môn Tập đọc, Kể chuyện, Chính tả,
Luyện từ và câu, ... để viết một bài Tập làm văn.
Theo quan điểm tích hợp, các phân môn được tập hợp lại xung quanh trục
chủ điểm và các bài đọc. Nhiệm vụ cung cấp kiến thức và rèn luyện kĩ năng gắn

bó chặt chẽ với nhau. Như vậy, muốn dạy – học có hiệu quả Tập làm văn miêu
tả, nhất thiết người giáo viên phải dạy tốt Tập đọc, Kể chuyện, Chính tả, Luyện
từ và câu. Vì trong các bài đọc, trong câu chuyện, trong các bài tập luyện từ và
câu thường xuất hiện các đoạn văn, khổ thơ có nội dung miêu tả rất rõ về cảnh
vật, thiên nhiên, con người,...
Bài Tập làm văn nếu không sáng tạo sẽ trở thành một bài văn khô cứng,
góp nhặt của người khác, nội dung bài văn sẽ không hồn nhiên, trong sáng, mới
mẻ như tâm hồn của các tác giả nhỏ tuổi.
Chất lượng Tập làm văn là chất lượng của cảm thụ văn học, của các kĩ
năng nghe, nói, đọc, viết tiếng mẹ đẻ. Cho nên, thầy và trị phải soạn giảng và
học tập tích cực, nghiêm túc, hiệu quả mới mong nâng cao một cách bền vững
chất lượng môn Tiếng Việt ở lớp cuối cấp Tiểu học.
1.2. Nghiên cứu chương trình của phân mơn Tập làm văn lớp 5 trong sách
giáo khoa
Chương trình sách giáo khoa Tiếng Việt lớp 5 đã chỉ rõ mục đích của việc
dạy Tập làm văn là:
- Trang bị kiến thức và rèn luyện kỹ năng làm Tập làm văn cho học sinh.
- Mở rộng vốn sống, rèn luyện tư duy, bồi dưỡng tâm hồn, cảm xúc, thẩm
mỹ, hình thành nhân cách cho học sinh.
Hệ thống bài học, bài tập trong sách giáo khoa có sự thay đổi, đảm bảo
cung cấp đầy đủ kiến thức và rèn luyện kỹ năng làm văn cho học sinh theo đúng
mục đích đề ra.Chương trình chủ trương dạy cho học sinh kết hợp luyện tập thực
hành về văn kể chuyện, miêu tả và đặc biệt chú trọng dạy đoạn văn và dạy kĩ về
đoạn. Rèn kỹ năng viết văn miêu tả được coi là nhiệm vụ trọng tâm trong
chương trình Tập làm văn lớp 5.
Chương trình văn miêu tả lớp 5 được tổ chức theo một trình tự gồm nhiều
bước, mỗi bước đều có u cầu cụ thể về việc vận dụng những kiến thức đã biết
được để hình thành phát triển một loại kĩ năng bộ phận, làm tiền đề cho bước
phát triển tiếp theo.



4

1.3. Đặc điểm tâm sinh lí của học sinh cuối cấp Tiểu học
Học sinh Tiểu học ln có nhu cầu được trao đổi, giao lưu, trò chuyện,
chia sẻ với bạn bè những thu nhận mới lạ của mình. Vì vậy, các em rất thích tả
lại cho bạn hay người khác những gì mình đã nghe, đã quan sát được. Vì thế khi
học Tập làm văn, đặc biệt là văn miêu tả, học sinh Tiểu học thường rất hứng thú.
Tuy nhiên, hứng thú của các em ảnh hưởng nhiều tới việc tiếp nhận kiến thức.
Khi có sự hứng thú, say mê với giờ học thì các em nhanh chóng nắm được kiến
thức và thực hành kiến thức đó. Giáo viên có thể tổ chức giờ học bằng cách đưa
ra các vấn đề, các tình huống giả định gần gũi với đời sống hàng ngày quen
thuộc với học sinh để kích thích sự hứng thú của các em, tạo điều kiện cho việc
tiếp nhận kiến thức được tốt nhất.
Học sinh lớp 5 đã bắt đầu hướng tới tri giác những thuộc tính, những bộ
phận, những chi tiết cụ thể, nhiều vẻ của đối tượng. Điều này tạo điều kiện thuận
lợi cho việc quan sát, tìm ý của học sinh, biết quan sát có lựa chọn và tìm ra
những chi tiết bản chất, chi tiết cụ thể. Với trí tưởng tượng, các em có thể viết
được những bài văn miêu tả giàu hình ảnh, sống động đến bất ngờ.
Học sinh Tiểu học cũng có sự liên tưởng khá phong phú. Từ một sự vật,
sự việc quan sát được, các em có thể liên tưởng tới những sự vật, sự việc khác
có nét tương đồng. Nhờ có liên tưởng, bài văn của các em có những hình ảnh ví
von, so sánh rất hồn nhiên, chân thật nhưng vơ cùng hấp dẫn và lí thú.
2. Cơ sở thực tiễn
2.1. Thực trạng vấn đề
2.1.1. Thuận lợi:
- Ban giám hiệu hết sức quan tâm, tạo mọi điều kiện tốt nhất cho việc dạy
và học, đặc biệt là việc đổi mới phương pháp dạy học nhằm nâng cao chất lượng
giáo dục.
- Năm 2021-2022, đa số học sinh trong lớp tơi có ý thức ham học hỏi,

ngoan, biết vâng lời.
- Phụ huynh đa phần rất quan tâm đến việc học của con em mình.
- Bản thân tơi là một giáo viên trẻ, luôn cố gắng học tập kinh nghiệm giảng
dạy từ đồng nghiệp, luôn hăng say trong công việc. Khả năng tiếp thu cũng như
tiếp cận các chương trình dạy học có ứng dụng cơng nghệ khá nhanh.
2.1.2. Khó khăn
- Năm nay, vì tình hình dịch bệnh Covid-19 diễn biến phức tạp nên ngay từ
đầu năm học, học sinh đã học online. Việc dạy - học trực tuyến dẫn đến sự
tương tác giữa GV và HS gặp nhiều khó khăn: một số em không mở camera,


5

không bật mic tương tác, đường truyền mạng chập chờn, học sinh thiếu sự tập
trung khi học qua màn hình, …
- Trong q trình giảng dạy, giáo viên cịn chưa chú trọng được nhiều đến
việc rèn cho học sinh kĩ năng quan sát và dùng ngôn ngữ diễn đạt lại những gì
mình đã quan sát được. Bên cạnh đó, vì khơng có nhiều thời gian nên giáo viên
cũng chưa tổ chức được nhiều hoạt động nhằm phát triển tư duy ngơn ngữ ở học
sinh.
- Học sinh cịn chưa hứng thú học Tập làm văn vì cho rằng phân mơn này
rất khó. Nhiều em chưa nắm được cấu trúc ngữ pháp nên sử dụng dấu câu tùy
tiện. Các em thường hay làm theo khuôn mẫu, giáo viên gợi mở dàn bài, gợi ý
thế nào các em viết thế đó, chưa biết cách dùng từ, đặt câu nên câu văn, bài văn
thường cụt ngủn, diễn đạt không trôi chảy. Đôi khi tả nhưng giống như trả lời
câu hỏi. Từ dàn bài có sẵn cũng không biết cách để chuyển thành bài văn.
- Vốn từ ngữ của các em còn hạn chế nên khi viết văn thường bị lặp lại từ,
lời văn chưa lưu lốt, diễn đạt chưa trơi chảy, thiếu hình ảnh, cảm xúc. Thêm
việc cả năm các em chỉ ở trong nhà, hạn chế ra đường vì tình hình dịch bệnh
phức tạp nên các em ít được quan sát cảnh vật cũng như giao tiếp bên ngồi.

Điều này dẫn đến tình trạng thiếu trải nghiệm thực tế, thiếu hiểu biết về đặc
điểm của đối tượng mà mình miêu tả. Do đó, bài văn sơ sài, miêu tả chưa phù
hợp.
Ví dụ: Học sinh nơng thơn sẽ ít được tiếp xúc với các khu vui chơi, giải trí,
cơng viên, vườn thú,... Học sinh thành thị sẽ ít có cơ hội tiếp cận với cảnh gặt
lúa, cày ruộng, ngắm trăng, chèo xuồng, ... Mặc dù hiện nay trình độ khoa học kĩ
thuật rất phát triển, các em có thể xem và biết được những điều mình quan tâm
qua mạng internet nhưng những điều mà các em tìm hiểu qua internet sẽ khơng
thể bằng trải nghiệm thực tế của bản thân. Từ đó dẫn đến một số bài văn của học
sinh được viết như sau: “Nhà em có ni một con gà trống rất đẹp. Con gà cao
gần 1 mét và nặng 200 gam.”
- Do hạn chế của chương trình sách giáo khoa và phương pháp giảng dạy
của giáo viên như đã nói ở trên, cùng với sự lơ là trong học tập của các em đã
dẫn việc dạy và học Tập làm văn chưa đạt đến kết quả cao. Phần lớn các em
chưa thực sự chủ động trong việc lĩnh hội kiến thức, do đó càng ít có sự sáng
tạo. Nhiều khi chưa nắm vững được các kĩ năng cơ bản để làm bài (tìm hiểu đề,
quan sát lập dàn ý, lập dàn bài, triển khai ý, liên kết ý, liên kết đoạn...) dẫn đến
nhiều em còn làm bài lạc đề, sắp xếp ý lộn xộn, rời rạc. Đặc biệt là có những em
chưa phân tích kĩ đề bài nên chưa làm đúng yêu cầu của đề và chưa có thái độ,
tình cảm như đề bài yêu cầu.


6

Ví dụ: Trong bài văn tả người thân của em, học sinh chỉ viết được bài văn
bằng trình độ của học sinh lớp 2 và thiên về văn kể: "Bố em là thợ xây. Bố em rất
cao. Bố em có nước da ngăm đen, tóc xoăn. Em rất yêu bố.”
Hay: M
" ẹ có cái tai rất to để nghe em nói cho rõ. Mẹ cịn có cái mũi dài để
ngửi. Cái miệng hay cười. Trông mẹ em rất xinh.”

- Hệ thống ý trong bài văn của các em còn nghèo nàn. Chỉ rập khuôn theo
sách giáo khoa, theo gợi ý của cơ giáo hoặc bài văn mẫu, ít có sáng tạo của bản
thân. Số học sinh tìm được ý diễn đạt mới mẻ là rất hiếm. Khi miêu tả, học sinh
chưa biết chọn lọc những nét tiêu biểu để tả nên đã biến bài văn thành bài kể
lan man và cũng ít biết lồng tình cảm, cảm xúc của mình vào bài. Bài văn của
các em đa phần là dùng những câu đơn để diễn đạt nên còn rời rạc, nặng nề về
liệt kê, kể lể. Bài làm còn nhiều nét sơ lược, các chất để làm văn có hồn thì thật
là hãn hữu vì các em chưa thực sự rung động trước đối tượng tả. Một thực
trạng rất phổ biến và dễ thấy ở các em là chưa biết tự lập dàn bài trước khi viết
thành bài văn. Do vậy mà thường thiếu sót, các ý sắp xếp lộn xộn, lủng củng.
Ví dụ: Khi viết bài văn tả cơ giáo (thầy giáo), học sinh viết: "Cô giáo em rất
đẹp, hằng ngày cô giảng bài rất hay, viết chữ rất nhanh, rất đẹp, rất yêu quý em.”
- Việc đọc sách của các em hiện nay cũng đang bị xem nhẹ, phần lớn các
em ít quan tâm đến việc đọc mà chủ yếu lại dành nhiều thời gian cho phim ảnh,
trò chơi điện tử. Nếu có đọc thường là truyện tranh, thậm chí có truyện khơng
mang tính giáo dục. Thời gian dành cho các em quan sát cũng như đầu tư vào
Tập làm văn cũng hạn chế nên vốn kiến thức về cuộc sống, về văn học của các
em cũng hạn chế. Chính điều này tác động khơng nhỏ đến việc học văn miêu tả
ở các em.
- Trình độ dân trí đã được nâng cao nhưng đối với phân môn tập làm văn,
nhiều phụ huynh cũng không biết hướng dẫn cho con em mình.
2.2. Nguyên nhân của thực trạng
- Khi làm văn, học sinh chưa xác định được yêu cầu trọng tâm của đề bài.
- Học sinh không được quan sát trực tiếp đối tượng miêu tả.
- Khi quan sát, các em khơng có kĩ năng quan sát: quan sát những gì, quan
sát từ đâu? Làm thế nào phát hiện được nét tiêu biểu của đối tượng cần miêu tả.
- Không biết hình dung bằng hình ảnh, âm thanh, cảm giác về sự vật miêu
tả khi quan sát.
- Vốn từ đã nghèo nàn lại không biết sắp xếp như thế nào để bài viết mạch
lạc, chưa diễn đạt được bằng vốn từ ngữ, ngơn ngữ của mình về một sự vật, cảnh

vật, về một con người cụ thể nào đó.


7

- Do điều kiện kinh tế của địa phương còn nhiều khó khăn, nhiều hộ gia
đình chỉ chăm lo sản xuất, làm kinh tế gia đình nên một số phụ huynh chưa thực
sự quan tâm đến việc học của học sinh. Một số em chưa có các tài liệu tham
khảo phục vụ cho phân mơn Tập làm văn (ngồi sách giáo khoa), bởi vậy ảnh
hưởng khơng ít tới kết quả học Tập làm văn của các em.
- Nguyên nhân cuối cùng là trách nhiệm của người giáo viên. Phân môn
Tập làm văn là một phân mơn mang tính tổng hợp và sáng tạo, nhưng lâu nay
người giáo viên (nhất là giáo viên lớp 4, lớp 5) chưa có cách phát huy tối đa
năng lực học tập và cảm thụ văn học của học sinh; chưa bồi dưỡng được cho các
em lịng u q Tiếng Việt, ham thích học Tiếng Việt để từ đó các em nhận ra
rằng đã là người Việt Nam thì phải đọc thơng viết thạo Tiếng Việt và phát huy
hết ưu điểm của tiếng mẹ đẻ.
3. Các biện pháp đã tiến hành
3.1. Biện pháp 1: Điều tra, phân loại đối tượng học sinh
Để nắm được tình hình học tập và khả năng làm văn của mỗi học sinh thì
việc điều tra, phân loại học sinh là một việc làm không thể thiếu đối với giáo
viên ngay từ đầu năm. Điều tra, phân loại học sinh là cơ sở để giáo viên điều
chỉnh nội dung, lựa chọn phương pháp, xác định được những yêu cầu cần đạt
cho phù hợp với từng đối tượng học sinh lớp mình. Từ đó, đưa ra những bài tập
vừa sức với học sinh, xua tan cảm giác “sợ” học tiết Tập làm văn ở một số em
đồng thời nó cịn kích thích sự ham thích khi được học phân mơn này.
Vào đầu năm nhận lớp, tôi đã tổ chức kiểm tra đánh giá về việc viết văn
của học sinh với đề văn như sau: “Em hãy tả một cây bóng mát trong sân trường
em”. Kết quả bài làm của các em đạt được như sau :
- Số học sinh hoàn thành bài viết tốt là : 5 em

- Số học sinh hoàn thành bài viết là: 31 em
- Số học sinh chưa hoàn thành bài viết: 11 em
Sau khi nhận được kết quả, tơi căn cứ vào q trình học tập hằng ngày, kết
hợp với những ý kiến tham khảo thêm ở các giáo viên cũ và phụ huynh học sinh
để phân loại học sinh thành các nhóm theo khả năng. Từ các nhóm phân chia đó,
trong q trình giảng dạy, tơi sẽ đề ra các yêu cầu cần đạt cho mỗi nhóm giúp
các em hoàn thành bài văn đạt kết quả hơn.
3.2. Biện pháp 2: Giúp học sinh hiểu rõ khái niệm và đặc điểm của văn miêu tả
Trước hết, tôi giúp HS hiểu được khái niệm và đặc điểm của văn miêu tả:
* Khái niệm: Miêu tả là một thể loại văn bản mà trong đó người viết dùng
ngơn ngữ có tính nghệ thuật của mình để tái hiện, sao chụp lại hình ảnh chân
dung của đối tượng miêu tả với những đặc điểm nổi bật cả về hình thức bên


8

ngoài lẫn những phẩm chất bên trong nhằm giúp người tiếp nhận có những hiểu
biết và rung cảm cảm nhận đối tượng đó như được trực tiếp tiếp xúc với đối
tượng thơng qua các giác quan của mình.
* Đặc điểm:
+ Bài văn miêu tả được xây dựng trên cơ sở những hình ảnh, những ấn
tượng về đối tượng mà người viết thu lượm, cảm nhận được thông qua các giác
quan trực tiếp của mình. Bài văn miêu tả là thể loại văn bản mang tính nghệ
thuật cao, mang tính sáng tạo, tính cá thể của người viết. Ngơn ngữ trong văn
miêu tả là ngôn ngữ nghệ thuật giàu sức gợi tả gợi cảm và là ngôn ngữ của
những biện pháp nghệ thuật. Tả là mô phỏng, là tô vẽ lại, là so sánh ví von, nhân
hóa bằng hình ảnh chứ khơng phải là kể lể.
+ Văn miêu tả mang tính chất miêu tả thẩm mỹ, dù miêu tả bất kỳ đối
tượng nào, dù có bám sát thực tế đến đâu thì văn miêu tả cũng khơng bao giờ là
sự sao chép, chụp ảnh máy móc những sự vật, hiện tượng mà là kết quả của sự

nhận xét, tưởng tượng, đánh giá hết sức phong phú. Đó là sự miêu tả thể hiện
được cái mới, cái riêng biệt của đối tượng thông qua cảm nhận của mỗi người...
3.3. Biện pháp 3: Làm giàu vốn từ cho học sinh
Nếu học kiểu bài kể chuyện, học sinh chỉ tái hiện lại nội dung câu chuyện
đã nghe, đã đọc là có thể đạt được yêu cầu cơ bản của đề bài thì văn miêu tả địi
hỏi phải có một vốn từ phong phú mới có thể làm bài. Thế giới quanh ta rất
phong phú, đa dạng và không ngừng biến đổi. Người viết văn không thể “vẽ”
được một cảnh một người nếu bản thân người ấy thiếu vốn từ, vốn sống.
Làm giàu vốn từ cho học sinh có nghĩa là giúp cho các em nắm một số từ
gợi tả để có thể dùng trong miêu tả. Tôi nhận thấy các em không thể viết văn là
do vốn từ của học sinh tiểu học còn quá nghèo nàn, các em chỉ xoay quanh
những từ quen thuộc mà ít mở rộng hoặc tìm những từ ngữ gợi tả cảm xúc, hình
ảnh, âm thanh vì vậy các em thường viết những đoạn văn khơ khan, thiếu tính
gợi tả, gợi cảm không hấp dẫn người đọc, người nghe. Cụ thể, khi tơi cho các
em tìm từ ngữ trên padlet thì đa số các em chỉ tìm được những từ đơn giản, chưa
phong phú và sinh động.
(Phụ lục 1: Học sinh tìm từ ngữ miêu tả trên trang padlet)
Vậy để rèn kĩ năng sử dụng từ ngữ hay trong viết văn tả cảnh cần đưa ra
cho các em một số từ ngữ, hình ảnh gợi mở để làm sao các em tự bật ra được từ
ngữ đa dạng, phong phú hơn giúp cho câu văn trở nên sinh động hơn. Từ những
từ ngữ thường dùng, tôi đã hướng các em chủ động trong tìm từ qua bài giảng
với tên gọi: “tìm kim cương” hoặc “tìm những viên đá quý”. Vốn từ ngữ phong


9

phú sẽ giúp các em diễn đạt đa dạng những điều định nói, định viết. Có thể làm
giàu vốn từ cho các em bằng hình thức tìm từ ngữ theo từng đề tài nhỏ.
Các em sẽ lần lượt được mở rộng từ ngữ theo từng đề tài nhỏ và cuối
cùng giáo viên sẽ tổng hợp lại thành một bản word gửi phụ huynh in ra cho các

em áp dụng vào viết câu, viết đoạn văn.
(Phụ lục 2: Một số từ ngữ miêu tả học sinh đã tìm được)
Qua hướng dẫn trên học sinh sẽ tự mình làm giàu được vốn từ và sử dụng
một cách có hiệu quả khi viết các đoạn văn tả cảnh khác nhau.
Những cách làm như trên nhằm trang bị cho học sinh vốn từ chuẩn bị tốt
điều kiện cho các em làm bài viết.
3.4. Biện pháp 4: Trau dồi kĩ năng nói và kĩ năng viết cho học sinh
Qua một vài năm giảng dạy cũng như dự giờ thăm lớp, tôi thấy hầu hết học
sinh cịn chưa tốt về mặt nói, viết câu văn hay. Chính vì điều đó trong giờ dạy,
tơi coi trọng nhiệm vụ luyện nói, luyện viết cho học sinh. Mỗi khi cho các em
trả lời câu hỏi, trình bày một điều gì, tơi thường uốn nắn ngay những lỗi như:
nói trống khơng, nói lặp, diễn đạt lủng củng... Đi đơi với việc làm trên, trong giờ
trả bài, tôi thường chữa kĩ những câu mà các em viết sai ngữ pháp, hướng dẫn
chữa những câu, đoạn diễn đạt lủng củng nên nhiều em dần dần khắc phục được
lỗi này.
Đối với những học sinh yếu, thường viết câu sai ngữ pháp, tôi chỉ đặt ra
cho các em yêu cầu viết đúng, sau đó yêu cầu viết câu văn dài hơn. Với những
em đã viết câu đúng, tơi khuyến khích các em luyện viết câu văn hay. Để động
viên khuyến khích kịp thời những học sinh có bài văn hay, trong tiết trả bài tơi
thường khen ngợi những bài văn đó trước lớp và chọn những câu văn, đoạn văn,
bài văn tiêu biểu đọc cho cả lớp tham khảo. Mỗi lần được khen ngợi và được
nghe trực tiếp những câu văn, đoạn văn hay tơi cảm thấy như các em đã có thêm
những niềm vui mới cho những bài văn tiếp theo.
Ngoài trực tiếp nói hay viết trên lớp, ở phân mơn Tập làm văn, tơi cịn đặc
biệt chú ý đến việc rèn kĩ năng nói, viết vào các tiết Luyện từ và câu, Tập đọc
rồi giao thêm bài tập ngoài giờ để bồi dưỡng kĩ năng này như:
- Luyện viết câu văn cho gợi tả hơn .
- Hướng dẫn các em luyện viết câu văn có sử dụng biện pháp tu từ.
Ví dụ: Giáo viên tổ chức cho học sinh tham gia trò chơi “Nhà ảo thuật ”.
Giáo viên cho một câu văn đơn giản, các em sẽ sử dụng biện pháp tu từ để biến

hóa làm sao cho câu văn hay, sinh động, giàu hình ảnh.
(Phụ lục 3: Một số câu văn sử dụng biện pháp nghệ thuật học sinh viết được qua
trò chơi“Nhà ảo thuật”)


10

Khi hướng dẫn học sinh viết câu văn sinh động, gợi cảm... tôi kết hợp
hướng dẫn các em kĩ năng liên kết câu. Từ những gợi ý đó, tơi thấy hầu hết các
bài văn của các em viết đúng thể loại, đúng yêu cầu của đề bài. Đặc biệt, đến bài
kiểm tra văn giữa học kì 2, cả lớp đã có trên 50% số bài văn đạt điểm khá, giỏi.
3.5. Biện pháp 5: Rèn kĩ năng sắp xếp ý, dựng đoạn văn
Khi đã có tài liệu, có ý nhưng việc sắp xếp các ý một cách có thứ tự vào bài
quả là một cơng việc khó. Trên thực tế học sinh chỉ biết cách quan sát, biết tìm ý
nhưng sắp xếp ý đúng trình tự hợp lý thì các em lại rất lúng túng. Các em không
biết nên đưa ý nào vào trước, ý nào sắp xếp sau. Nhiều học sinh rơi vào tình
trạng quan sát được gì viết nấy, nghĩ gì viết nấy mà khơng cần biết ý văn đó có
lơgic hay khơng, có đi theo trình tự miêu tả hay không, dẫn đến bài viết lủng
củng, lộn xộn trong cách miêu tả. Ví dụ như khi tả một cây ăn quả, đang tả bộ
phận lá cây lại quay xuống tả rễ cây rồi lại vòng lên tả quả và tả thân cây. Cách
tả như vậy cho thấy học sinh không biết cách sắp xếp ý. Cho nên khi dạy tôi đã
đưa ra và hướng dẫn tỉ mỉ cho các em cách sắp xếp và nhất là các bài đầu của
thể loại mới. Sắp xếp có thể theo thứ tự thời gian, không gian, tâm lý,... Tránh
đang tả chi tiết xa lại xen tả chi tiết gần dẫn đến bài làm lộn xộn.
Tôi nhận thấy nếu không rèn viết đoạn văn, khi vào bài các em chỉ viết
những câu tả từng bộ phận ngắn gọn chỉ từ 1-2 câu và ý văn chưa có sự sắp xếp.
Thì nay tơi hướng các em chọn bộ phận đặc biệt mà các em thích nhất để tả (từ
5-7 câu) thì các em đã viết hay hơn. Tôi cũng không quên lưu ý các em phải viết
câu mở đoạn và câu kết đoạn.
(Phụ lục 4: Đoạn văn tả đôi bàn tay mẹ học sinh viết sau khi được giáo viên

hướng dẫn)
Khi đã rèn câu, rèn đoạn văn nổi bật, tôi bắt đầu cho các em dựng đoạn
thân bài. Tôi chia ra từng phần tùy theo mỗi dạng bài miêu tả. Ví dụ với đề bài
tả người thân, tôi cho các em tả ngoại hình trước rồi hướng dẫn tả tính cách và
hoạt động. Với phần tả tính cách và hoạt động, các em viết khá chung chung và
ngắn gọn nên tơi đã có những gợi ý. Các em sẽ thực hiện theo gợi ý và xếp
những ý văn đã viết thành đoạn văn.
(Phụ lục 5: Một số đoạn văn tả ngoại hình, tính tình, hoạt động của người thân
học sinh viết trên padlet)
Để bài văn thu hút được sự chú ý của người đọc, tôi hướng dẫn các em tập
trung cao vào phần mở bài. Với những học sinh khả năng viết văn cịn hạn chế,
tơi động viên các em mở bài trực tiếp, cịn lại tơi hướng dẫn kĩ các em đi theo
cách mở bài gián tiếp và cho các em thấy được những ưu điểm của từng cách
mở bài để các em lựa chọn cách mở bài cho mình hợp lý nhất.


11

Ví dụ: Với đề văn Tả một người thân (ơng, bà, cha, mẹ, anh, em…) của em:
+ Có học sinh vào bài trực tiếp: “Trong gia đình, ai tơi cũng quý nhưng
người mà tôi yêu quý nhất vẫn là bà nội tôi.” (Mở bài chỉ một câu nhưng đủ ý).
+ Có em mở bài chân thật, xúc động: “Mùa xuân đã về! Cháu thêm một
tuổi, nhưng xuân này cháu vĩnh viễn khơng được thấy bà, bà có biết khơng?
Cháu nhớ bà lắm, ước gì cháu được nghe bà kể chuyện trong mỗi tiếng ru, giấc
ngủ, bà ơi!”
+ Có em mở bài rất thực và tình cảm: “Sau mỗi giờ tan học là tơi lại trở về
mái ấm gia đình thật nhanh, nơi đó có tất cả những người thân mà tơi u q
nhất, người có ảnh hưởng với tơi nhất đó là mẹ tơi, người đã tần tảo sớm hơm
để nuôi chị em tôi khôn lớn thành người.”
Từ những cách mở bài trên, tôi đã rút ra kết luận để các em hiểu rằng: Vào

bài trực tiếp hay gián tiếp bằng cách nhắc lại một câu nói, một tiếng khóc hay
tiếng cười… bao giờ cũng phải bám sát yêu cầu của đề, để viết được bài văn với
nội dung tốt, mang tính nghệ thuật cao.
Khơng chỉ mở bài, kết bài cũng góp phần khơng nhỏ vào sự thành cơng của
bài văn. Chính vì điều đó, ngồi các tiết dạy dựng đoạn kết bài trên lớp, vào các
tiết hướng dẫn học, tơi cịn hướng dẫn các em kĩ hơn, cụ thể hơn các cách kết
bài để làm sao sau khi đọc bài văn người đọc có ấn tượng tốt về bài văn của
mình.
Ví dụ: Với đề văn Tả một người thân (ông, bà, cha, mẹ, anh, em…) của em,
các em đã có các cách kết bài như sau:
+ “Bà của tơi như thế đấy!” hoặc “Bà ơi, cháu yêu bà lắm!”
+ “Chị là tất cả của tôi. Chị mãi mãi là tấm gương sáng để soi đường cho
tôi, là người bạn để tơi có thể tâm sự khi vui hay lúc tôi buồn nhất. Tôi sẽ cố
gắng học giỏi, vâng lời cha mẹ để chị mãi mãi yêu quý tôi.”
+ “Bây giờ tuy bà tôi đã đi xa nhưng tôi vẫn không thể nào quên được
những kỷ niệm thời thơ ấu bên bà. Tôi nguyện sẽ cố gắng học tập thật giỏi để
làm vui lòng bà.”
+ “Mẹ ơi, con yêu mẹ lắm! Con tự hứa với lịng mình là sẽ hiếu thảo,
ngoan ngoãn, nghe thầy, yêu bạn, chăm chỉ học tập để xứng đáng với những gì
mẹ đã hy sinh vì chúng con.”
Nhờ hướng dẫn cẩn thận từ khâu quan sát, tìm ý, sắp xếp ý đến việc hướng
dẫn cách mở bài và kết bài nên bài viết của các em ngày càng có nhiều điểm tiến
bộ, nhiều em đã khắc phục được những điểm yếu kém trước đây như sắp xếp ý
lộn xộn, tả thiếu chính xác, viết lan man không trọng tâm.


12

3.6. Biện pháp 6: Xây dựng phong trào đọc sách tích cực nhằm phát triển kĩ
năng viết văn cho học sinh

Đọc sách là một việc làm hữu ích đối với các em. Qua bài văn, bài thơ hay
câu chuyện sẽ giúp các em tiếp thu được ở đó nhiều điều bổ ích, lý thú. Các em
sẽ học được ở đó cách diễn đạt, bố cục, dùng từ, ... Qua những hình ảnh sinh
động, nội dung câu chuyện hay, bài văn hay mà các em bắt gặp được sẽ giúp cho
các em thêm yêu quê hương, đất nước, con người...Và rồi hình ảnh cây đa, bến
nước, con đị, những tình cảm chân thành nồng thắm của người với người sẽ
giúp các em có nguồn cảm hứng viết được các bài văn hay. Tuy vậy, nên đọc
sách gì? Đọc sách như thế nào? Và nguồn tài liệu đó ở đâu ra? Điều đó người
giáo viên phải có nhiệm vụ hướng dẫn.
Trên thực tế, nguồn sách rất phong phú và đa dạng nên giáo viên cần chọn
và hướng cho học sinh tìm đọc những cuốn sách có nội dung lành mạnh như
truyện cổ tích, truyện lịch sử, truyện khoa học. Những cuốn sách phục vụ cho
chương trình tiểu học của nhà xuất bản Giáo dục: Cảm thụ văn học; Những bài
văn hay; Những bài văn chọn lọc; Tuyển tập các đề thi học sinh giỏi cấp Tiểu
học môn Tiếng Việt; Nâng cao Tiếng Việt lớp 4, 5; Bồi dưỡng học sinh giỏi
môn Tiếng việt lớp 4, 5; Chuyện cổ tích mẹ kể con nghe... Những loại sách này
giúp học sinh nâng cao kiến thức phục vụ và hỗ trợ cho môn học, tạo cho học
sinh thói quen đọc sách tích cực, khơng đọc những cuốn sách có nội dung xấu và
sách khơng phù hợp với lứa tuổi.
Bên cạnh đó, để đọc sách báo có hiệu quả, giáo viên cịn phải hướng dẫn
cho các em phương pháp và thời gian đọc sách. Đọc sách phải có sự nghiền
ngẫm, suy nghĩ để cảm nhận được cái hay, cái đẹp của câu chuyện hay bài văn
mình đọc. Khi đọc xong nên ghi chép những từ ngữ, những ý hay hoặc đoạn văn
mà mình u thích. Tích lũy những điều bổ ích đó sẽ làm giàu vốn văn học cho
các em.
Ví dụ: Khi đọc các bài thuộc thể loại văn miêu tả, học sinh có thể ghi lại
những câu văn, câu thơ hoặc đoạn văn, đoạn thơ giàu hình ảnh như sau:
“Những đêm trăng sáng, dịng sơng là một đường trắng lung linh dát
vàng.”
“Dãy Tam Đảo như bức tường xanh sừng sững chắn ngang bên phải đỡ

lấy mây trời cuồn cuộn.”
“… Đó là một buổi chiều mùa hạ có những đám mây trắng bay lơ lửng
trên trời cao. Con chim Sơn Ca cất lên tiếng hót ca ngợi tự do thiết tha đến nỗi
khiến người ta phải ao ước giá mình cũng có một đơi cánh. Nhưng bỗng cơn


13

dông kéo tới. Những đám mây trắng bị xua đuổi rất nhanh, nhường chỗ cho
những đám mây đen kịt. Chim Sơn Ca bị dạt về phía chân trời xa…”
Khi phát động phong trào đọc sách, tôi lưu ý học sinh đọc các loại sách báo
phù hợp với lứa tuổi. Ngoài việc tự đọc, tơi cịn cho một số em có kĩ năng đọc
tốt đọc các tin, bài, tác phẩm hay trong 15 phút sinh hoạt đầu buổi. Nhìn chung
học sinh rất hứng thú nghe và cảm nhận được nhiều cái hay, cái đẹp trong thơ
văn; về đặc điểm, tính cách của từng nhân vật trong mỗi câu chuyện. Sự cảm
nhận đó chính là nội dung sẽ giúp các em có được một tiết sinh hoạt câu lạc bộ
văn học phong phú, sơi nổi góp phần nâng cao vốn kiến thức văn học cho các
em.
3.7. Biện pháp 7: Tạo hứng thú học tập cho học sinh từ việc chấm và chữa bài
Dạy tập làm văn, người dạy phải gửi cả tâm hồn mình vào trong bài dạy,
thầy trị phải đắm mình vào đối tượng miêu tả theo một dòng cảm xúc, cùng hịa
chung tình cảm để cùng tìm hiểu và cảm nhận đối tượng với niềm say mê, thích
thú. Muốn vậy người giáo viên phải có sự chuẩn bị kỹ lưỡng trước khi lên lớp,
phải nỗ lực sáng tạo trong suốt q trình dạy học. Chỉ có nghiên cứu sáng tạo
mới cho giáo viên có được những giờ dạy văn miêu tả mới mẻ, sâu sắc, sinh
động, hiệu quả cao.
Muốn bồi dưỡng học sinh Tiểu học viết văn hay, người giáo viên trước
hết phải có một thái độ, ý thức quan sát tìm hiểu thế giới xung quanh, tìm hiểu
cuộc sống con người một cách nghiêm túc, tỉ mỉ, công phu để có vốn hiểu biết
phong phú về các đề tài, chủ điểm,... Đồng thời, giáo viên phải trau dồi vốn

ngôn ngữ của mình nhất là vốn ngơn ngữ văn miêu tả. Phải đọc nhiều, viết
nhiều, phải rèn luyện cả tâm hồn tình cảm của mình, biết yêu mến mọi vật, mọi
người, gần gũi gắn bó với sự vật, thế giới xung quanh để có sự nhạy cảm, nắm
bắt cái mới, cái riêng để hướng dẫn học sinh, tạo hứng thú cho học sinh bằng cái
mới, cái sáng tạo.
Điều trước tiên tạo được sự hứng thú học tập ở mỗi học sinh là sự đón
nhận kết quả bài làm của mình từ giáo viên. Vì vậy, việc chấm bài và chữa bài
thường xuyên là việc làm mà giáo viên không thể xem nhẹ. Trên cơ sở tìm hiểu
kết quả là con đường ngắn nhất giúp giáo viên có thể đến gần với từng đối tượng
học sinh, nắm bắt được tình hình và khả năng viết văn của các em. Thế nhưng
trong thực tế nhiều giáo viên rất ngại chấm bài vì công việc này mất nhiều thời
gian. Khi chấm bài giáo viên mới chỉ đọc và chấm bài theo mức độ bài làm chứ
chưa chú trọng đến phát hiện lỗi trong bài làm của học sinh do đó khi trả bài
thường nhận xét chung chung, khơng đúng quy trình và u cầu của tiết trả bài.


14

Cũng có giáo viên chưa thật chú trọng đến tiết trả bài, dạy tiết này cịn q sơ sài
vì xem tiết trả bài khơng có tác dụng lớn đến hiệu quả bài làm học sinh.
Đề có kết quả như mong đợi, tôi luôn cố gắng chấm bài kiểm tra thật kĩ và
cẩn thận nhằm phát hiện được những ưu điểm của bài văn như: dùng từ đúng,
dùng từ sáng tạo, bố cục chặt chẽ, liên kết câu và liên kết đoạn hợp lý, bài viết
có cảm xúc,… Nắm chắc các lỗi phổ biến mà các em mắc phải: sai chính tả,
dùng từ chưa chính xác, câu văn chưa hồn chỉnh, thiếu hoặc thừa thành phần
chủ vị, chưa rõ nghĩa, lặp từ, lặp ý, dùng hình ảnh so sánh chưa phù hợp,… Sau
đó, tất cả những ưu khuyết điểm đó đều được tôi ghi cụ thể (lỗi sai, đối tượng
học sinh) để làm cơ sở cho việc chữa bài và tôi cũng ghi cẩn thận vào cột lời phê
trong bài kiểm tra của các em. Trong q trình chấm bài, tơi chọn ra bài tiêu
biểu của lớp, chọn thêm bài hay của những năm trước cho các em tham khảo.

Khi trả bài kiểm tra cho học sinh, tôi dành thời gian cho các em đọc lại bài
và lời phê, nhận xét của giáo viên. Sau đó, tơi nhận xét đầy đủ, chi tiết những ưu
điểm và nhược điểm về bài làm của học sinh. Nêu gương những bài văn hay có
sáng tạo để cả lớp học tập và động viên nhắc nhở những bài viết chưa đạt yêu
cầu để các em sửa sai và bổ sung ngay. Để động viên, khuyến khích các em, tơi
chỉ nêu tên những em có bài văn hay, không nêu tên những học sinh bài làm
chưa đạt yêu cầu. Tiếp đến, các em sẽ dựa vào mẫu phiếu học tập để chữa lại bài
văn của mình.
Để phát triển năng lực tự học, tự giải quyết vấn đề của học sinh, trước tiên
tôi cho các em tự phát hiện và sửa lỗi. Trong một vài tiết trả bài khác, tơi cho
các em thảo luận nhóm bàn giúp nhau sửa lỗi để các em tăng cường kĩ năng giao
tiếp và làm việc nhóm. Về phía mình, tơi đến gần, quan sát các em, nếu các em
gặp khó khăn, tôi sẽ dùng các câu hỏi gợi mở để học sinh tự phát hiện lỗi và sửa
lỗi. Người giáo viên cần phải chú ý sát sao đến học sinh nhất là với đối tượng là
những học sinh chưa hoàn thành bài.
Ví dụ: Trong bài văn tả cây cối (Tuần 27) của em Phan Thị Phương Ngọc
(lớp 5A5) có câu văn: “Rất nhiều quả táo chín có màu đỏ như chiếc đèn lồng
gắn trên cây táo.” Theo tôi, em đã biết tìm hình ảnh so sánh, tuy nhiên cách diễn
đạt cịn lặp từ, sử dụng văn nói. Tơi đã gợi ý, hướng dẫn em lựa chọn từ ngữ để
sửa lại câu văn cho hay hơn vào phiếu học tập của mình.
(Phụ lục 6: Phiếu học tập của HS Phan Thị Phương Ngọc - Lớp 5A5)
Cuối cùng, tôi thấu hiểu, mỗi đoạn văn, bài văn hay chính là thành quả
của cơng sức các em học tập và cũng chứa đựng tình cảm mà các em dành cho
đối tượng miêu tả. Tôi luôn khen ngợi các em có bài văn hay và động viên các


15

em có bài văn tiến bộ. Sau đó, tơi mời những em học sinh có bài văn hay lên đọc
trước lớp cho các bạn nghe. Khi đọc xong, tôi hướng dẫn các em phân tích:

+ Bài văn đó hay ở điểm nào?
+ Em học tập được những gì từ bài văn của bạn?
Như vậy, qua tiết Tập làm văn trả bài, học sinh không chỉ được củng cố
khắc sâu kiến thức lí thuyết cơ bản mà cịn sửa chữa được những lỗi của mình,
của bạn đã mắc. Đồng thời học sinh còn học tập và phát huy được những ưu
điểm trong bài viết của mình và của bạn để từ đó làm bài được tốt hơn. Tơi có
lưu lại các đoạn văn, bài văn hay của các em học sinh để từ đó nhân rộng cho
các em học sinh khác học tập.
4. Kết quả SKKN
Qua những biện pháp tôi đã áp dụng được nêu ở trên, đến giữa học kì II
năm học 2021 – 2022, các em HS đã nắm được một số vốn kiến thức nhất định
để học có hiệu quả phân môn Tập làm văn. Cả lớp đều u thích mơn học,
khơng sợ sệt khi đến tiết Tập làm văn như đầu năm học nữa. Bài làm của các em
đa số đã có tiến bộ, học sinh nắm được cách sắp xếp ý, bố cục chặt chẽ, dùng từ
chính xác, viết câu văn trơi chảy, mạch lạc, bước đầu có hình ảnh, cảm xúc, hiểu
và vận dụng khá tốt các biện pháp tu từ trong các bài tập làm văn của mình. Các
em cảm thụ được bài văn, đọc bài trôi chảy, hiểu đúng nội dung bài, nhất là rất
tự tin khi đến tiết học Tập làm văn.


16

PHẦN III. KẾT LUẬN, KHUYẾN NGHỊ
1. Kết luận
Qua vài năm giảng dạy, tuy thời gian cịn ít ỏi nhưng tơi nhận thấy để có
thể truyền cho học sinh cảm hứng u thích phân mơn Tập làm văn, giúp học
sinh lớp 5 làm được bài văn miêu tả sinh động, đúng kiểu bài, đòi hỏi giáo viên
phải dành nhiều thời gian, cơng sức nghiên cứu soạn giảng, có lịng nhiệt tình
với học sinh và tâm huyết với nghề nghiệp. Sau thời gian đầu tư nghiên cứu và
áp dụng những biện pháp dạy học như trên, học sinh lớp tơi đã có chuyển biến

tích cực về chất lượng phân mơn Tập làm văn nói riêng và mơn Tiếng Việt nói
chung. Hầu hết học sinh đều nắm được kĩ năng để làm một bài văn miêu tả. Bên
cạnh miêu tả những cái chung của đối tượng, các em còn phát hiện ra những nét
riêng, độc đáo. Bài văn của học sinh trở nên sinh động, có hình ảnh, bộc lộ cảm
xúc chân thực. Các em dần thoát ly được văn mẫu, tự tin, hứng thú diễn đạt
những quan sát, nhận xét của mình một cách mạch lạc, trơi chảy, có sáng tạo.
Và đây là kết quả kiểm tra của các em học sinh lớp tôi, tuy ảnh hưởng
nhiều do học online nhưng với mỗi bài văn tiến bộ, hình ảnh trong văn đặc sắc
hơn đầu năm và bài văn giàu cảm xúc hơn cũng giúp tôi vui hơn trong việc
truyền tải kiến thức cho các em.
Bảng số liệu kết quả bài kiểm tra Tiếng Việt của học sinh lớp 5A5
(năm học 2021 - 2022)
Thời điểm

Số HS

Hoàn thành tốt

Hoàn thành

Chưa hoàn thành

Giữa HKI

47

14

29,8%


33

70,2%

0

0%

Cuối HKI

47

18

38,3%

29

61,7%

0

0%

Giữa HKII

47

23


48,9%

24

51,1%

0

0%

Có thể nói, bước đầu thành cơng trong việc dạy Tập làm văn miêu tả cho
học sinh lớp 5 là nguồn động viên rất lớn cho tôi. Tôi sẽ đem kinh nghiệm này
tiếp tục áp dụng để giảng dạy phân môn Tập làm văn ở các năm sau, với mong
muốn lớn nhất của tôi là giúp học sinh nâng cao chất lượng môn Tiếng Việt cấp
Tiểu học.
Tôi nghĩ rằng nội dung đề tài này khơng có nhiều điểm mới, đó chỉ là
nhiệm vụ hằng ngày của giáo viên mà thôi. Nhưng đồng thời tôi cũng tin rằng
nếu lâu nay ta làm chưa tốt thì bây giờ ta dốc hết tâm huyết vào, tận tuỵ với học
sinh, soạn giảng nghiêm túc thì chắc chắn sẽ gặt hái được thành cơng. Rất mong
nhận được sự đồng tình của q thầy cơ và các bạn đồng nghiệp lớp 4- 5.


17

2. Khuyến nghị:
Để dạy học có hiệu quả Tập làm văn ở Tiểu học (nhất là văn miêu tả ở lớp
4, 5) tơi xin có vài đề nghị sau:
2.1. Đối với Phịng Giáo dục và Đào tạo Thanh Trì:
- Thường xuyên tổ chức các chuyên đề dạy học để giáo viên có điều kiện
học hỏi, trau dồi chun mơn, nghiệp vụ.

- Tạo điều kiện để giáo viên được tham gia học tập, nâng cao trình độ
chun mơn, nghiệp vụ.
2.2. Đối với nhà trường:
- Thường xuyên tổ chức sinh hoạt chuyên môn về chuyên đề phân môn Tập
làm văn để giáo viên học hỏi và nắm chắc phương pháp dạy học nhất là thể loại
miêu tả đồng thời học hỏi kinh nghiệm lẫn nhau trong quá trình dạy học.
2.3. Đối với giáo viên:
- Mỗi giáo viên cần xác định vai trò chủ đạo của mình trong việc đổi mới
phương pháp dạy học. Trước mỗi bài dạy cần tìm hiểu kĩ nội dung bài học, sưu
tầm tư liệu phục vụ cho bài giảng; lựa chọn phương pháp dạy học phù hợp với
đối tượng học sinh. Người giáo viên luôn phải chủ động tự học, tự bồi dưỡng
chuyên môn, nghiệp vụ, bồi dưỡng vốn sống, vốn từ ngữ.
- Đối với những bài khó mà mình cịn vướng mắc, giáo viên cần mạnh dạn,
chủ động đưa ra bàn bạc trong buổi sinh hoạt chuyên mơn. Đồng thời cần phải
tích cực dự giờ, thăm lớp để học hỏi kinh nghiệm bạn bè, đồng nghiệp.
Trên đây, tôi đã mạnh dạn đưa ra một số ý kiến nhằm giúp cho giáo viên và
học sinh dạy - học văn miêu tả đạt kết quả tốt hơn. Tôi rất mong nhận được sự
quan tâm góp ý của các cấp lãnh đạo và bạn bè đồng nghiệp để tôi tiến bộ hơn
và thêm kinh nghiệm giảng dạy.
Tôi xin chân thành cảm ơn!
Thanh Trì, ngày 15 tháng 4 năm 2022
Tơi xin cam đoan nội dung SKKN của bản thân,
không sao chép của người khác. Nếu vi phạm tơi
xin hồn tồn chịu trách nhiệm.
Người viết

Nguyễn Thanh Hảo


PHỤ LỤC

Phụ lục 1: Một số từ ngữ miêu tả học sinh tìm được trên padlet

Học sinh tìm từ ngữ tả bộ phận của cây trên padlet

Thi đua theo tổ tìm từ ngữ tả người (tả ngoại hình)


Phụ lục 2: Một số từ ngữ miêu tả học sinh đã tìm được


Từ ngữ tả đôi mắt



×