Tải bản đầy đủ (.pdf) (108 trang)

Luật phá sản 2004 cơ sở pháp lý bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của các chủ nợ

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1 MB, 108 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƢỜNG ĐẠI HỌC LUẬT TP. HỒ CHÍ MINH
_________________________

LÊ THỊ ĐÀO

LUẬT PHÁ SẢN 2004 – CƠ SỞ PHÁP LÝ
BẢO VỆ QUYỀN VÀ LỢI ÍCH HỢP PHÁP
CỦA CÁC CHỦ NỢ

Chuyên ngành: LUẬT KINH TẾ, NHỮNG VẤN ĐỀ TRỌNG TÀI
Mã số

: 60.38.50

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC

Người hướng dẫn khoa học: TS. Nguyễn Thành Đức

Tp. Hồ Chí Minh - 2006


LỜI CAM ĐOAN

Tôi xin cam đoan công trình nghiên cứu
khoa học này là của riêng tôi. Mọi số liệu, kết
quả nghiên cứu được trong đề tài là hoàn toàn
trung thực và chưa từng công bố trong bất kỳ
công trình nào. Tôi xin chịu trách nhiệm hoàn
toàn về tính xác thực naøy.
Tác giả đề tài



Lê Thị Đào


MỤC LỤC
DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT ....................................................................
CHƢƠNG 1. NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CƠ BẢN VỀ VIỆC ĐẢM
BẢO QUYỀN VÀ LỢI ÍCH HỢP PHÁP CỦA CÁC CHỦ NỢ ......................
1.1. Những vấn đề lý luận chung về phá sản và pháp luật phá sản .............
1.1.1. Khái niệm phá sản ....................................................................................
1.1.2. Phân loại phá sản ......................................................................................
1.1.3. Vai trò của pháp luật phá sản trong nền kinh tế thị trường ......................
1.2. Khái quát về quyền và lợi ích hợp pháp của các chủ nợ........................
1.2.1. Khái niệm và phân loại chủ nợ .................................................................
1.2.2. Khái niệm quyền và lợi ích hợp pháp của các chủ nợ .............................
1.3.

Các nguyên tắc cơ bản đảm bảo quyền và lợi ích hợp pháp của
các chủ nợ trong quá trình giải quyết phá sản ở nƣớc ta ....................
1.3.1. Nguyên tắc pháp chế ..................................................................................
1.3.2. Nguyên tắc bình đẳng giữa các chủ nợ ......................................................
1.3.3. Nguyên tắc hoà giải ..................................................................................
1.3.4. Nguyên tắc nhân đạo .................................................................................
CHƢƠNG 2. THỰC TRẠNG ĐẢM BẢO QUYỀN VÀ LỢI ÍCH HỢP
PHÁP CỦA CÁC CHỦ NỢ THEO PHÁP LUẬT PHÁ SẢN HIỆN
HÀNH ...................................................................................................................
2.1. Quyền của chủ nợ trong quá trình giải quyết phá sản .............................
2.1.1. Quyền nộp đơn yêu cầu mở thủ tục phá sản ............................................
2.1.2. Quyền có đại diện trong Tổ quản lý, thanh lý tài sản (Điều 9 Luật
phá sản) .................................................................................................................

2.1.3. Quyền yêu cầu Toà án ra các quyết định cần thiết nhằm bảo toàn
tài sản của doanh nghiệp hợp tác xã lâm vào tình trạng phá sản ..........................
2.1.4. Quyền tham gia Hội nghị chủ nợ và biểu quyết những vấn đề thuộc
thẩm quyền của Hội nghị chủ nợ. ..........................................................................


2.1.5. Quyền xây dựng phương án phục hồi hoạt động kinh doanh của
doanh nghiệp, hợp tác xã trình Hội nghị chủ nợ xem xét, quyết định (Điều
68 Luật phá sản) .....................................................................................................
2.1.6. Quyền được thanh toán các khoản nợ từ tài sản của doanh nghiệp,
hợp tác xã (Điều 37 Luật phá sản) .......................................................................
2.1.7. Quyền được bù trừ nghĩa vụ (Điều 48 Luật phá sản) .................................
2.1.8. Quyền khiếu nại đối với các quyết định của Toà án, Tổ quản lý, thanh
lý tài sản. ................................................................................................................
2.2. Luật phá sản quy định các biện pháp nhằm ngăn chặn doanh
nghiệp mắc nợ làm thất thoát tài sản sau khi có quyết định mở thủ
tục phá sản của Toà án.................................................................................
2.3. Luật phá sản quy định hậu quả của việc tuyên bố doanh nghiệp,
hợp tác xã bị phá sản ...................................................................................
2.4. Tài sản phá sản và cách xử lý đối với tài sản phá sản ..............................
2.5. Một số vấn đề liên quan khác nhằm bảo vệ quyền và lợi ích hợp
pháp của các chủ nợ. ....................................................................................
2.5.1.Đối tượng bị tuyên bố phá sản .....................................................................
2.5.2. Căn cứ xem xét doanh nghiệp, hợp tác xã lâm vào tình trạng phá sản .......
CHƢƠNG III. MỘT SỐ KIẾN NGHỊ, GIẢI PHÁP NHẰM HOÀN
THIỆN LUẬT PHÁ SẢN TRONG VIỆC BẢO VỆ QUYỀN VÀ LỢI
ÍCH HỢP PHÁP CỦA CÁC CHỦ NỢ .............................................................
3.1. Sự cần thiết phải hoàn thiện pháp luật về phá sản ...................................
3.2. Một số kiến nghị, giải pháp hoàn thiện ......................................................
3.2.1. Về quyền của chủ nợ ...................................................................................

3.2.2. Về chế tài trong phá sản ..............................................................................
3.2.3. Về tài sản phá sản và cách xử lý đối với tài sản phá sản ............................
3.2.4. Về việc giải phóng nợ cho con nợ là chủ doanh nghiệp tư nhân, thành
viên hợp danh trong công ty hợp danh ..................................................................
3.2.5 Một số kiến nghị khác ..................................................................................
KẾT LUẬN ............................................................................................................
TÀI LIỆU THAM KHẢO .....................................................................................


DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT
Ký hiệu viết tắt
LPS
DN
DNTN
HTX
HNCN
SXKD
NCKH

Giải thích
Luật phá sản
Doanh nghiệp
Doanh nghiệp tư nhân
Hợp tác xã
Hội nghị chủ nợ
Sản xuất kinh doanh
Nghiên cứu khoa học


PHẦN MỞ ĐẦU

1.

Tính cấp thiết của Luận văn
Đối với một nền kinh tế thị trường, "thương trường là chiến trường"
nên trong các cuộc cạnh tranh ắt sẽ có kẻ thắng, người thua. Những chủ thể
kinh doanh nào không đáp ứng được những đòi hỏi khắc nghiệt của thương
trường sẽ bị loại bỏ nhường chỗ cho những DN kinh doanh hiệu quả. Như
vậy, phá sản là một hiện tượng mang tính tất yếu khách quan của nền kinh tế
thị trường. Đây là một hiện tượng hết sức phức tạp, gây ảnh hưởng lớn đến
quyền lợi của chủ nợ, người lao động, trật tự xã hội và cả nền kinh tế quốc
gia. Do đó, để điều tiết nền kinh tế, bình ổn thị trường và lành mạnh hoá các
hoạt động kinh doanh, nhà nước phải “khai tử" cho các DN làm ăn thua lỗ,
kém hiệu quả bằng một thủ tục đặc biệt là thủ tục phá sản. LPS đã tạo ra môi
trường tin cậy để các chủ nợ, nhà đầu tư an tâm bỏ vốn làm ăn. Đặc biệt để
tạo điều kiện duy trì và phát triển thị trường vốn thì mục tiêu chủ yếu và quan
trọng nhất của LPS là bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của các chủ nợ. LPS
DN 1993 - văn bản pháp luật đầu tiên tạo hành lang pháp lý điều chỉnh một
cách toàn diện và đầy đủ trình tự thủ tục phá sản. Nhưng trong quá trình vận
hành và thực thi, LPS DN đã bộc lộ những thiếu sót làm hạn chế hiệu lực và
hiệu quả trên thực tiễn. Hơn 9 năm thi hành, toàn ngành Toà án chỉ thụ lý 151
đơn yêu cầu tuyên bố phá sản nhưng chỉ giải quyết được 95 đơn (trong đó ra
quyết định tuyên bố phá sản với 46 doanh nghiệp, đình chỉ giải quyết 11 vụ,
tạm đình chỉ và hoà giải thành 26 vụ, ra quyết định khơng mở thủ tục 12 vụ).
Trước thực trạng đó, Quốc hội đã ban hành LPS 2004 nhằm khắc phục kịp
thời những hạn chế của LPS DN 1993. LPS mới ra đời đã tạo cơ sở pháp lý
tốt hơn cho việc bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của chủ nợ. Tuy nhiên,
thực tiễn luôn vận động và biến đổi, các quan hệ nợ nần ngày càng phức tạp
và đặc biệt với xu thế hội nhập kinh tế quốc tế hiện nay địi hỏi LPS ngày
càng phải hồn thiện hơn để xích lại gần với pháp luật quốc tế. Do vậy việc
tìm hiểu và nghiên cứu một cách có hệ thống những quy định của LPS trong

việc bảo vệ quyền lợi chủ nợ để qua đó kiến nghị điều chỉnh những điểm chưa
phù hợp với thực tiễn là rất cần thiết. Chính vì thế, tác giả chọn đề tài: "LPS

1


2004 - cơ sở pháp lý bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của các chủ nợ"
làm Luận văn tốt nghiệp của mình.
2.
Mục đích và nhiệm vụ của Luận văn
Mục đích nghiên cứu: Nghiên cứu những quy định của LPS 2004 trong
việc bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của chủ nợ trên cơ sở thực tế. Phát hiện
những hạn chế còn tồn tại và đề xuất những phương hướng hồn thiện LPS.
Nhiệm vụ nghiên cứu:
+
Phân tích và làm rõ những vấn đề lý luận trong việc bảo vệ
quyền và lợi ích hợp pháp của chủ nợ.
+
Đánh giá thực trạng bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của chủ nợ
trên cơ sở so sánh với LPS DN 1993 và LPS nước ngồi. Qua đó phân tích
những hạn chế, bất cập còn tồn tại.
+
Đề xuất một số kiến nghị, giải pháp nhằm hoàn thiện LPS trong
việc bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của chủ nợ.
3.
Phạm vi nghiên cứu:
Luận văn tập trung nghiên cứu những quy định cơ bản về việc đảm bảo
quyền và lợi ích hợp pháp của chủ nợ trên cơ sở phân tích những vấn đề lý
luận và thực trạng áp dụng pháp luật hiện hành, có đối chiếu với LPS DN
1993 và so sánh với pháp luật phá sản các nước trên thế giới. Từ đó đưa ra

một số kiến nghị để tiếp tục hoàn thiện LPS ở nước ta.
4.
Phƣơng pháp nghiên cứu:
Để thực hiện đề tài, tác giả vận dụng phương pháp luận chủ nghĩa MácLênin và tư tưởng Hồ Chí Minh, quan điểm của Đảng cộng sản Việt Nam và
Nhà nước ta về xây dựng nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần có sự quản
lý của nhà nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa, về đẩy mạnh xây và hoàn
thiện khung pháp luật phù hợp với nền kinh tế thị trường mang tính chất đặc
thù của nước ta trong giai đoạn hiện nay.
Các phương pháp nghiên cứu cụ thể là phương pháp so sánh, phân tích
và tổng hợp để làm sáng tỏ nội dung đề tài.
5.

Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của đề tài:
Luận văn sẽ là công trình nghiên cứu có giá trị tham khảo cho những
người làm cơng tác pháp luật, những người có nhu cầu quan tâm tìm hiểu,

2


nhất là các sinh viên luật, đặc biệt là trong việc xây dựng các văn bản hướng
dẫn thi hành LPS và hồn thiện LPS.
6.

Tình hình nghiên cứu:
Từ sau Đại hội VI của Đảng, nước ta mới đi lên xây dựng nền kinh tế
thị trường nên pháp luật phá sản còn khá mới, LPS DN chưa đáp ứng được
những yêu cầu thực tiễn. Do đó, có rất nhiều bài viết, cơng trình nghiên cứu
đóng góp cho việc xây dựng và hồn thiện pháp luật phá sản . Điểu hình như
Luận văn cao học của tác giả Bùi Xuân Hải (2000) với đề tài Hoàn thiện pháp
luật phá sản doanh nghiệp, tác giả Lê Hữu Trí (2003) với đề tài LPS DN

dưới góc độ so sánh, tác giả Nguyễn Trường Nhật Phượng với đề tài Chế độ
pháp lý về phá sản - thực tiễn thi hành và hướng hoàn thiện, Đề tài nghiên
cứu khoa học cấp Bộ của trường Đại học Luật Tp.Hồ Chí Minh do
TS.Nguyễn Thái Phúc làm chủ nhiệm Một số định hướng hoàn thiện pháp
luật phá sản doanh nghiệp. Đặc biệt, khi LPS được ban hành đã thể hiện
được rất nhiều điểm mới tiến bộ, khắc phục được những hạn chế của LPS
Doanh nghiệp. Tuy nhiên, việc tìm hiểu và nghiên cứu để tìm ra những bất
cập của nó để hồn thiện hơn nữa là vấn đề ln được đặt ra, nhất là trong giai
đoạn hội nhập kinh tế quốc tế hiện nay. Dù đi vào thực tiễn cuộc sống khơng
lâu nhưng đã có rất nhiều tác giả nghiên cứu về LPS, đặc biệt là PGS.TS
Dương Đăng Huệ đã có một cách nhìn tồn diện về pháp luật phá sản nước ta
với cơng trình nghiên cứu Pháp luật phá sản của Việt Nam, tác giả Đinh
Ngọc Thu Hương (2005) với đề tài Địa vị pháp lý của Toà án trong thủ tục
phá sản theo LPS 2004 và nhiều bài viết trên tạp chí, diễn đàn như tác giả Vũ
Hồng Vân với bài viết Quy định của LPS năm 2004 về nộp đơn yêu cầu mở
thủ tục phá sản; Vai trò của LPS trong việc bảo vệ người lao động;
TS.Nguyễn Thái Phúc với bài viết LPS 2004 - những tiến bộ và hạn chế
v.v…. Mỗi tác giả trên đều nghiên cứu và có giải pháp để hồn thiện pháp
luật phá sản nhưng ở mỗi khía cạnh khác nhau, chưa ai nghiên cứu về khía
cạnh bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của chủ nợ. Từ thực tiễn sôi động của
thị trường, tác giả nhận thức sâu sắc việc bảo vệ quyền lợi của chủ nợ khi con
nợ rơi vào trình trạng phá sản. Điều đó đã thơi thúc tác giả chọn đề tài nghiên

3


cứu này nhằm đáp ứng những đòi hỏi bức xúc của lý luận cũng như thực tiễn
hiện nay.
7.


Bố cục đề tài
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, nội dung
của Luận văn được chia làm 3 chương:
Chương 1. Những vấn đề lý luận cơ bản về việc đảm bảo quyền và lợi
ích hợp pháp của chủ nợ.
Chương 2. Quyền và lợi ích của chủ nợ theo pháp luật phá sản hiện
hành, thực trạng áp dụng.
Chương 3. Một số kiến nghị, giải pháp nhằm hoàn thiện LPS trong
việc bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của chủ nợ

4


CHƢƠNG I
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CƠ BẢN VỀ VIỆC
ĐẢM BẢO QUYỀN VÀ LỢI ÍCH HỢP PHÁP
CỦA CÁC CHỦ NỢ
1.1 Những vấn đề lý luận chung về phá sản và pháp luật phá sản
1.1.1 Khái niệm phá sản
Hiện tượng phá sản phát sinh từ rất sớm. Về phương diện ngôn ngữ
hiện có khá nhiều thuật ngữ dùng để thể hiện khái niệm về phá sản. Trong
tiếng La tinh Phá sản được biểu đạt bằng hai từ: Ruin (sự khánh tận) và Banca
Rotta (hình ảnh quầy hàng của thương nhân bị thu mất khi vỡ nợ), trong tiếng
Anh có các từ như Insolvency, Bankruptcy; trong tiếng Pháp là Baqueroute….
Còn trong từ điển tiếng Việt, Phá sản là "lâm vào tình trạng khánh kiệt tài sản,
bị vỡ nợ do kinh doanh thua lỗ". Mặc dù có sự khác nhau trong việc sử dụng
thuật ngữ để chỉ khái niệm phá sản nhưng tựu chung lại thì bản chất của vấn
đề đều nói về tình trạng khơng trả được nợ, mất khả năng thanh toán nợ đến
hạn của con nợ.
Khái niệm về phá sản là vấn đề cực kỳ quan trọng và bất kỳ LPS nước

nào cũng phải quan tâm hàng đầu để giải quyết. Khi bàn về vấn đề này, tác
giả Nguyễn Tấn Hơn đã cho rằng: định nghĩa phá sản có lẽ là khó nhất đối với
các nhà lập pháp. Vì tùy thuộc vào định nghĩa này trong pháp luật phá sản
của mỗi quốc gia mà sự can thiệp của nhà nước vào hiện tượng phá sản sớm
hay muộn, lập trường của Nhà nước nghiêng về bảo vệ lợi ích của chủ nợ hay
con nợ nhiều hơn1. Để hiểu và nhìn nhận đúng hơn về khái niệm phá sản,
chúng ta phải xem xét khái niệm này ở nhiều bình diện và góc độ khác nhau:
- Dưới góc độ kinh tế-xã hội, phá sản theo nghĩa rộng đề cập đến thất
bại kinh tế mang tính quyết định của con nợ, cịn về mặt xã hội phá sản đồng
1

Nguyễn Thái Phúc (2005), “Luật phá sản 2004-những tiến bộ và hạn chế”, Tạp chí Khoa học pháp lý, số 6
(31)/2005, tr.38.

5


nghĩa với "tán gia bại sản". Do vậy, trước đây người ta nhìn nhận hiện tượng
vỡ nợ với cảm giác hổ thẹn và sợ hãi. Họ thường có những định kiến xấu về
phá sản, coi đó là điều "xui xẻo" và muốn tránh xa. Thậm chí, pháp luật cịn
cho phép các chủ nợ có quyền tự xử với con nợ khi con nợ khơng có khả năng
thanh tốn nợ như băm xác con nợ thành nhiều mảnh phụ thuộc vào số chủ
nợ, bắt cóc con nợ làm nơ lệ… (pháp luật của Nhà nước Chủ nô La Mã). Cho
đến đầu thế kỷ 20, ở nhiều nước Âu Mỹ, phá sản vẫn cịn bị nhìn nhận như là
một hành vi nguy hiểm cho xã hội - tội phạm và bị trừng phạt rất nghiêm
khắc. Con nợ không chỉ chịu trách nhiệm tài sản với chủ nợ mà cịn phải chịu
hình phạt tù giam và tử hình. Ở nước ta, Bộ luật Thương mại Trung phần
1942 - Đạo luật Thương mại đầu tiên của người Việt Nam vay mượn pháp
luật phá sản của Pháp cũng đã quy định những chế tài khắt khe với người vỡ
nợ, coi người vỡ như tội phạm, cùng với án khánh tận phải bắt giam người

khánh tận (Điều 189). Người khánh tận ngoài việc bị mất quyền quản trị, tài
sản bị niêm phong còn bị tước quyền bầu cử, bị cấm một số hành vi kinh
doanh và quản lý, án khánh tận được ghi vào lý lịch tư pháp của người vỡ nợ.2
Như vậy, quan niệm cũ luôn bảo vệ chủ nợ bằng cách trừng phạt đối với con
nợ. Với các quy định đó, có lẽ các nhà làm luật hy vọng sẽ răn đe và ngăn
chặn được tình trạng phá sản. Nhưng thực tiễn đã chứng minh, ngay cả những
hình phạt nghiêm khắt nhất cũng khơng thể ngăn chặn được những vụ phá sản
mới. Con nợ sợ trách nhiệm hình sự nên dù lâm vào tình trạng vỡ nợ vẫn tiếp
tục hoạt động kinh doanh chấp nhận mọi rủi ro để tìm cách thốt khỏi tình
trạng khó khăn của mình.
Ngày nay, cùng với sự phát triển của xã hội, của nền kinh tế thị trường,
quan niệm và cách nhìn nhận về phá sản cũng có nhiều thay đổi và phát triển.
Pháp luật phá sản ngày càng nhân đạo hơn và có các quy định đúng đắn hơn
về bản chất của quan hệ phá sản. Con nợ khơng bị coi như những tội phạm và
cũng khơng cịn bị áp dụng hình phạt. Con nợ chỉ chịu trách nhiệm tài sản
trước các chủ nợ trừ trường hợp phá sản do lừa đảo để trốn nợ. Phá sản được
nhìn nhận là hiện tượng khách quan của nền kinh tế thị trường. Trong nền
2

Phạm Duy Nghĩa (2003), “Đi tìm triết lý của Luật phá sản”, Bài tham luận tại hội thảo góp ý Luật phá sản
(sửa đổi), ngày 20/11/2003 tại VCCI, Báo điện tử Trung tâm xúc tiến phát triển phần mềm doanh nghiệp.

6


kinh tế thị trường với đa hình thức sở hữu tư liệu sản xuất, nhiều loại hình DN
cùng song song tồn tại. Các loại hình DN đều có quyền tự chủ về tài chính,
bình đẳng và tự do kinh doanh, tự do cạnh tranh. Do đó, hoạt động kinh
doanh là một hoạt động chứa nhiều rủi ro. Khi bước chân vào con đường
kinh doanh đầy mạo hiểm đó, khơng một nhà kinh doanh nào muốn mình bị

thất bại. Nhưng do sự biến động khó lường của thị trường và các yếu tố khách
quan khác nên tình trạng kinh doanh thua lỗ xảy ra là điều khó tránh khỏi đối
với bất kỳ nhà kinh doanh nào. Theo thống kê của Ngân hàng thế giới, tỷ lệ
rủi ro là ¼, có nghĩa là cứ đầu tư thành lập 100 DN thì sẽ có khoảng 25 DN bị
phá sản. Thậm chí có những DN bị phá sản ngay sau khi mới thành lập.3
Ở Anh và Đức trước kia mục tiêu chủ yếu của LPS đã "hướng vào chủ
nợ" mà chống lại việc tổ chức lại. Do có nhiều phê phán nên LPS của Anh
năm 1986 và của Đức năm 1994 đã được sửa đổi theo hướng tăng cường khả
năng tổ chức lại và nâng cao khả năng tồn tại của những DN bị lâm vào tình
trạng khó khăn về tài chính. Ngược lại ở Mỹ, Pháp và Nhật Bản LPS lại bị
phê phán vì mục tiêu chủ yếu " hướng vào con nợ", quá nghiêng về biện pháp
tổ chức lại DN mà chèn ép quyền lợi của các chủ nợ. LPS sửa đổi ở Mỹ, Pháp
năm 1994 và Luật phục hồi dân sự của Nhật Bản năm 1999 đã có một số quy
định nhằm tăng cường vị trí của chủ nợ. Tuy nhiên, hai xu hướng này của
LPS ngày càng xích lại gần nhau.
Xu hướng chung, Pháp luật phá sản trên thế giới ngày nay bên cạnh
việc quan tâm đến bảo vệ quyền lợi chủ nợ còn chú ý tới việc phục hồi hoạt
động SXKD cho con nợ. LPS không đồng nghĩa với giải thể DN và phát mại
sản nghiệp của người mắc nợ mà cịn trở thành cơng cụ tái tổ chức kinh
doanh.
- Dưới góc độ tài chính, phá sản là tình trạng mất khả năng thanh toán
nợ đến hạn của chủ thể kinh doanh. Tình trạng mất khả năng thanh tốn được
biểu hiện ở hai trường hợp. Trường hợp thứ nhất, khi chủ thể kinh doanh
không trả được nợ đến hạn, không thực hiện được nghĩa vụ tài sản - trả tiền.
Đây chỉ là sự phá sản thực tế, là một biểu hiện bên ngồi về tình hình tài
3

Trường Đại học Luật Hà Nội (2006), Giáo trình Luật thương mại tập 2, Nhà xuất bản Công an Nhân dân,
tr.333


7


chính khơng lành mạnh của doanh nghiệp. Con nợ có thể có những khó khăn
tạm thời do thiếu tiền mặt như chưa bán được hàng, chưa thu được tiền hàng
hoặc khơng đủ các tài sản có khả năng thanh tốn nhanh, hoặc do DN đầu tư
quá lớn vào máy móc thiết bị, bất động sản v.v… Khi cân đối giữa tổng tài
sản của con nợ với các khoản nợ thì giá trị trong tổng tài sản lớn hơn giá trị
các khoản nợ. Do vậy, nếu có thời gian hoặc nếu áp dụng các biện pháp tài
chính cần thiết thì con nợ có thể vượt qua khó khăn tài chính đó và khơi phục
lại được khả năng thanh tốn của mình. Trường hợp thứ hai là trường hợp cân
đối giữa tổng giá trị tài sản và tổng giá trị các khoản nợ, con nợ có số nợ phải
trả vượt quá tổng giá trị tài sản. Trong trường hợp này thì tình trạng mất khả
năng thanh tốn có tính chất tuyệt đối, khơng cịn khả năng cứu vãn. Nếu có
cho thêm thời gian hoặc áp dụng các biện pháp tài chính cần thiết như tìm
nguồn tín dụng mới, tìm người bảo lãnh nợ mới thì cũng khơng khắc phục
được tình trạng này và tiếp tục rơi vào tình trạng nợ nần mới.
- Dưới góc độ pháp lý, phá sản là tình trạng mất khả năng thanh toán nợ
đến hạn của con nợ và tình trạng này phải được Tồ án thừa nhận trong các
bản án của mình. Vấn đề đặt ra là dựa vào điều kiện gì để xem xét một con nợ
rơi vào tình trạng mất khả năng thanh tốn các khoản nợ đến hạn. Hiện nay,
tuỳ thuộc vào điều kiện kinh tế - xã hội và quan điểm lập pháp của mỗi quốc
gia nên pháp luật của các nước trên thế giới xác định tình trạng mất khả năng
thanh tốn là khác nhau. Một số nước áp dụng phương pháp định lượng quy
định rõ chỉ số nợ đến hạn chưa được thanh tốn để xác định một DN lâm vào
tình trạng phá sản. Ví như LPS của Singapore 1995 xác định tình trạng mất
khả năng thanh tốn là việc con nợ khơng trả được khoản nợ có giá trị từ 2000
Dola Singapore trở lên (Điều 61). LPS ngày 22/04/1999 và luật về Tòa án
phá sản và thủ tục phá sản ngày 01/04/1999 của Thái Lan thì chủ nợ được
quyền xúc tiến thủ tục tuyên bố phá sản khi con nợ mắc nợ một số tiền không

trả được từ 01 bath trở lên đối với con nợ là cá nhân và 02 triệu bath trở lên
đối với con nợ là công ty và các pháp nhân khác. Luật khơng có khả năng
thanh tốn và luật đình chỉ Giám Đốc cơng ty của Anh ban hành năm 1986
cũng dùng phương pháp định lượng nhưng mang tính tương đối. Theo luật
này, một DN bị coi là mất khả năng thanh toán nợ đến hạn và bị đưa vào thủ

8


tục giải quyết phá sản khi có một số nợ trên 50 bảng. Ở Nga, LPS năm 2002
lại quy định điều kiện để xác định con nợ lâm vào tình trạng phá sản khi
khoản nợ tối thiểu khơng thanh tốn được phải đạt tới mức 100.000 rúp nếu
con nợ là DN hoặc 10.000 rúp nếu con nợ là cá nhân cộng với thời gian quá
hạn phải từ 90 ngày trở lên. Đối với các DN độc quyền thì khoản nợ phải đạt
tới mức 500.000 rúp và thời gian quá hạn phải từ 06 tháng trở lên. Tuy nhiên
quy định về thời gian quá hạn 06 tháng này chỉ có hiệu lực sau năm 2005.
Việc quy định một khoản nợ tối thiểu đến hạn nhưng khơng được thanh tốn
làm căn cứ xác định tình trạng phá sản là phù hợp vì nó giúp hạn chế những
trường hợp khoản tiền yêu cầu quá nhỏ, không tương xứng với tầm quan
trọng của việc mở thủ tục giải quyết yêu cầu phá sản. Nó hạn chế được tình
trạng lạm dụng thủ tục phá sản của một số chủ nợ nhất là các khoản nợ nhỏ,
đồng thời cũng hạn chế được tình trạng chiếm dụng vốn một cách quá giới
hạn cho phép của con nợ. Tuy nhiên, phương án này cũng không quy định cụ
thể về thời gian bao lâu mà con nợ không thanh tốn được khoản nợ tối thiểu
đến hạn, trong khi đó con nợ có thể gặp khó khăn nhất thời về tài chính mà
chưa thanh tốn được. Điều này nó cũng dễ dẫn tới nhiều trường hợp thủ tục
phá sản được tiến hành khi DN chưa thật sự khó khăn về tài chính.
Một số nước lại sử dụng phương án dựa trên cơ sở hành vi (phương
pháp định tính) để xác định tình trạng mất khả năng thanh tốn của con nợ.
Phương án này không ấn định một giá trị cụ thể về số nợ mà chỉ cần con nợ

không thanh tốn được nợ đến hạn là đã lâm vào tình trạng phá sản. Theo
LPS Trung Quốc 1986 xí nghiệp bị thua lỗ nghiêm trọng vì quản lý kinh
doanh khơng giỏi, khơng thể thanh tốn món nợ đã đến hạn, bị tuyên bố phá
sản( Điều 3). Ở Hungary, LPS năm 1991 quy định: nếu DN bị rơi vào một
trong các trường hợp sau đây đều bị xếp vào loại khơng có khả năng thanh
tốn:
Sau 60 ngày khơng trả được lương cho cán bộ cơng nhân viên
của mình hoặc q hạn 30 ngày không trả được nợ cho các chủ nợ mà con nợ
khơng có thảo luận gì với các chủ nợ hoặc thấy trước khơng có khả năng
thanh tốn được các khoản nợ sẽ đến hạn trong vịng một năm.
Đã có lệnh buộc phải trả nợ, nay đến hạn vẫn chưa trả được nợ

9


-

Không thực hiện đúng các cam kết với các chủ nợ trước pháp

luật.
Phù hợp với thơng lệ đó và kế thừa kinh nghiệm một số nước trên thế
giới, LPS 2004 nước ta cũng đưa ra những căn cứ rất đơn giản để xác định
một DN lâm vào tình trạng phá sản: "Doanh nghiệp, HTX khơng có khả năng
thanh tốn được các khoản nợ đến hạn khi chủ nợ có yêu cầu thì coi là lâm
vào tình trạng phá sản" (Điều 3). Phương án này có ưu điểm là đơn giản, dễ
áp dụng và ít tốn kém vì khơng cần kết quả kiểm tốn. Quy định như vậy cịn
tạo điều kiện để các chủ nợ có thể kịp thời can thiệp ở mức hợp lý và công
bằng nhằm cùng với DN mắc nợ giải quyết các khó khăn về tài chính như
việc thương lượng giảm các khoản nợ, tạm ngưng tính lãi suất các khoản nợ.
Đồng thời nó cũng giúp cho các chủ đầu tư yên tâm đầu tư tài chính vào

doanh nghiệp, giúp cho các DN dễ dàng tiếp cận với các khoản vay hơn.
Nhưng nó lại có nhược điểm là thủ tục phá sản dễ bị lạm dụng, ví như khi có
một khoản nợ rất nhỏ và chậm thanh tốn một vài ngày, nhưng chủ nợ có thể
nộp đơn yêu cầu Toà án tuyên bố phá sản. Nhược điểm này có thể khắc phục
được bằng cách quy định cụ thể khoản tiền nợ tối thiểu và khoản thời gian
chậm thanh tốn.
Luật về tình trạng khơng có khả năng thanh toán của Đức lại xác định
những lý do chung để có thể mở thủ tục tuyên bố phá sản: Đó là việc khơng
thể thanh tốn được nợ hoặc khơng thể thanh toán đựơc nợ trong thời hạn sắp
tới hoặc tổng các khoản nợ vượt quá tài sản hiện có của DN (Điều 16).
Phương án này có ưu điểm là nó tạo điều kiện dễ dàng trong việc nộp đơn và
xác định chính xác hơn tình trạng khó khăn về tài chính. Nhưng phương án
này cũng khơng xác định cụ thể về khoản tiền nợ tối thiểu khơng thanh tốn
được nên nó cũng có thể bị lạm dụng, mặt khác, nó địi hỏi cần phải có kết
quả kiểm tốn để biết được giá trị tổng tài sản hiện có của con nợ. Hoạt động
kiểm toán bị tốn kém sẽ làm phát sinh thêm chi phí cho q trình giải quyết
phá sản trong khi con nợ đang gặp khó khăn về tài chính và cịn mất thêm cả
về thời gian nữa.
Như vậy, thuật ngữ phá sản đã có từ rất lâu nhưng cho đến nay LPS các
nước vẫn chưa định nghĩa một cách trực tiếp thế nào là phá sản mà chỉ đưa ra

10


những căn cứ để xem xét một con nợ bị lâm vào tình trạng phá sản. Từ những
phân tích trên, chúng ta thấy có ba phương pháp để xác định một DN lâm vào
tình trạng phá sản. Một là: phương pháp dựa trên cơ sở hành vi, tức là điều
kiện chỉ cần DN khơng thanh tốn nợ đến hạn thì có thể xác định được DN đó
lâm vào tình trạng phá sản. Hai là: phương pháp định lượng, ấn định một giá
trị nào đó để làm ranh giới pháp lý xác định một DN lâm vào tình trạng phá

sản. Ba là: xác định lý do dựa vào sự kết hợp của hai phương pháp định lượng
và phương pháp hành vi. Dù các cách xác định là khác nhau nhưng nói chung
dưới góc độ pháp lý thì phá sản được hiểu là hiện tượng chủ thể mắc nợ thực
sự lâm vào tình trạng mất khả năng thanh tốn nợ đến hạn và bị toà án tuyên
bố phá sản theo quy định của pháp luật.
1.1.2 Phân loại phá sản
Phân loại phá sản có vai trị rất quan trọng trong q trình giải quyết
phá sản. Để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của chủ nợ, việc phân loại thể
hiện rõ thái độ của Nhà nước đối với DN phá sản. Có nhiều cách phân loại
phá sản dựa vào các căn cứ khác nhau. Cụ thể như sau:
Căn cứ vào tính chất của sự phá sản thì phá sản được chia ra thành
phá sản trung thực và phá sản gian trá.
Phá sản trung thực là sự phá sản do những nguyên nhân có thực gây ra.
Những nguyên nhân này có thể là do chủ quan cũng có thể là do khách quan
mang lại.
Nguyên nhân chủ quan có thể là:
Sự yếu kém về năng lực tổ chức, quản lý hoạt động kinh
doanh của người kinh doanh
Do những rủi ro từ những biến động trên thương trường
như sự biến động tỷ giá hối đoái, lãi suất, vấn đề lạm phát…. gây ra sự biến
động giá cả hàng hố. Người kinh doanh khơng có khả năng thích ứng với
những biến động trên thương trường đó, không nắm bắt kịp thời nhu cầu của
thị trường và thị hiếu của khách hàng sẽ dẫn tới thua lỗ.
Sự liều lĩnh, mạo hiểm của người kinh doanh khi chưa cân
nhắc và tính tốn kỹ kế hoạch kinh doanh.
Ngun nhân khách quan có thể là:

11



Những rủi ro từ thiên tai, địch hoạ, chiến tranh và các cuộc
khủng hoảng tài chính.
Những rủi ro xuất phát từ sự thay đổi chính sách pháp luật
của Nhà nước. Đặc biệt là chính sách pháp luật về kinh tế của một quốc gia
quyết định quan trọng đến quá trình kinh doanh. Những chính sách phù hợp
với các quy luật của nền kinh tế thị trường sẽ tạo điều kiện thuận lợi cho việc
kinh doanh phát triển và ngược lại nó sẽ là những rào cản cho các nhà kinh
doanh.
Phá sản gian trá là sự phá sản do con nợ sắp đặt trước bằng những thủ
đoạn gian dối nhằm chiếm đoạt tài sản của các chủ nợ. Ví dụ như để chiếm
đoạt tài sản, con nợ đã gian lận trong khi ký hợp đồng, tẩu tán tài sản, cố tình
lạm dụng vốn, cố tình báo cáo sai tình hình tài chính của doanh nghiệp, qua
đó tạo ra lý do phá sản không đúng sự thật.
Luật vỡ nợ của Liên bang Nga (Điều 10) còn đưa ra khái niệm phá sản
giả tạo và phá sản cố ý. Phá sản giả tạo theo luật vỡ nợ (phá sản) được hiểu là:
việc đệ trình đơn về phá sản của con nợ lên tồ án trọng tài trong trường hợp
không thoả mãn các điều kiện để xác định con nợ khơng có khả năng thanh
toán. Trong trường hợp này khi xem xét tài sản của con nợ thì vẫn cịn để thoả
mãn đầy đủ đòi hỏi của các chủ nợ. Còn phá sản cố ý trong trường hợp con nợ
bị phá sản do lỗi của những người sáng lập (thành viên) hay của những người
quản lý, những người có quyền và trách nhiệm quyết định đối với hoạt động
của pháp nhân thông qua hành vi cố ý của những người này dẫn đến việc phá
sản của pháp nhân.4
Việc phân loại này có ý nghĩa khi xác định thái độ đối xử của pháp luật
đối với con nợ, bảo vệ tốt hơn quyền và lợi ích hợp pháp của chủ nợ. Đối với
phá sản trung thực, pháp luật chỉ tập trung giải quyết liên quan đến xử lý tài
sản. Còn đối với phá sản gian trá, để bảo vệ quyền lợi của chủ nợ pháp luật
không chỉ giải quyết liên quan đến xử lý tài sản mà cịn có thể giải quyết các
vấn đề liên quan đến nhân thân của chủ DN và có các hình thức xử lý thích
đáng, kể cả truy cứu trách nhiệm hình sự.

4

Nguyễn Thành Đức (2004), Luật vợ nợ Liên bang Nga, kỷ yếu đề tài NCKH cấp Bộ: Một số định hướng
hoàn thiện pháp luật phá sản DN, Đại học Luật Tp.Hồ Chí Minh, (II), tr.139.

12


Căn cứ vào đối tượng đệ đơn yêu cầu tuyên bố phá sản, phá sản có thể
chia ra: phá sản tự nguyện và phá sản bắt buộc.
Phá sản tự nguyện là phá sản do chính con nợ yêu cầu khi thấy mình
lâm vào tình trạng phá sản. Tuy nhiên khơng phải bất kỳ con nợ nào nộp đơn
xin phá sản thì đương nhiên phá sản mà phụ thuộc vào sự xem xét của cơ
quan Nhà nước có thẩm quyền. Quy định như vậy nhằm tránh việc con nợ lợi
dụng thủ tục phá sản để chiếm đoạt tài sản của chủ nợ.
Phá sản bắt buộc là phá sản được thực hiện theo yêu cầu của chủ nợ
hoặc của đại diện chủ sở hữu một số loại hình doanh nghiệp.
Việc phân loại này có ý nghĩa rất quan trọng khi xây dựng hồ sơ và
việc lựa chọn thủ tục phá sản của thẩm phán trong quá trình giải quyết phá
sản. Khi con nợ tự nguyện nộp đơn yêu cầu giải quyết phá sản vào thời điểm
chưa quá muộn sẽ là một khởi đầu thuận lợi để việc áp dụng thủ tục phục hồi
có kết quả. Do đó, pháp luật của các nước đều dành cho con nợ quyền nộp
đơn yêu cầu tuyên bố phá sản. Bởi hơn ai hết, con nợ là người biết rất rõ về
tình trạng tài chính và tình hình SXKD của mình. Nhưng trên thực tế khơng
phải con nợ nào cũng dễ dàng ý thức được việc làm này mà thường tìm cách
“né tránh” việc yêu cầu giải quyết phá sản. Bởi họ có một tâm lý chung cho
rằng DNcủa mình bị phá sản là nỗi ơ nhục lớn, ảnh hưởng đến uy tín thanh
danh của họ. Do đó, họ thường hy vọng với quan niệm cịn nước cịn tát và
một ngày nào đó sẽ khơi phục lại được doanh nghiệp. Đặc biệt ở Việt Nam số
lượng đơn tự nguyện yêu cầu giải quyết phá sản rất ít, khơng phản ánh đúng

tình trạng tài chính của các doanh nghiệp. Nhất là đối với những DNnhà nước
làm ăn thua lỗ nhưng những nhà quản lý điều hành DNvẫn tìm mọi cách duy
trì sự tồn tại của DN do lo sợ bị mất đi chức danh, vị trí lãnh đạo của mình.
Hiện nay, xu hướng chung của pháp luật phá sản thế giới là tạo điều kiện để
khuyến khích DN nộp đơn phá sản nên tự nguyện đang dần trở nên phổ biến.
Ví như ở Singapore: năm 1999 có 24 vụ phá sản tự nguyện, trong 8 tháng đầu
năm 2003 có 3.505 người xin tự nguyện phá sản trong đó có 500 trường hợp
được chính thức chấp nhận, nghĩa là tăng 20 lần so với năm 1999. Ở Hồng

13


Kơng năm 1997 có 33 vụ phá sản tự nguyện, năm 2002 tăng lên tới 23.655
vụ.5
Căn cứ vào đối tượng và phạm vi điều chỉnh của LPS, phá sản được
chia thành: phá sản doanh nghiệp, HTXvà phá sản cá nhân.
Cách phân chia này phụ thuộc vào điều kiện kinh tế xã hội của mỗi
quốc gia. Ở nhiều nước trên thế giới khơng có sự phân chia này mà bất kể DN
hay cá nhân khi lâm vào tình trạng phá sản đều bị xử lý theo LPS. Một số
nước chỉ coi doanh nghiệp, HTXlà đối tượng điều chỉnh của LPS, còn phá sản
cá nhân lại là đối tượng điều chỉnh của Luật Dân sự. Ơ Trung Quốc, LPS chỉ
áp dụng đối với DN nhà nước. Nước ta, LPS được áp dụng đối với các DN
thuộc mọi thành phần kinh tế và hợp tác xã, còn đối với các cá nhân nếu lâm
vào tình trạng phá sản thì được xử lý theo thủ tục tố tụng dân sự.
Việc phân biệt này rất cần thiết đối với việc xác định giới hạn trách
nhiệm thanh toán nợ của con nợ bị phá sản:
Đối với con nợ là DN khơng có tư cách pháp nhân thì chủ
DN tư nhân, thành viên hợp danh trong cơng ty hợp danh phải chịu trách
nhiệm vơ hạn. Cịn DN là pháp nhân thì chủ DN chịu TNHH trong phần vốn
góp của mình.

Đối với phá sản cá nhân thì con nợ phải chịu trách nhiệm
vô hạn về các khoản nợ.
Căn cứ vào hình thức biểu hiện, phá sản có thể phân biệt thành phá sản
thực tế và phá sản tuyệt đối.
Phá sản thực tế là trường hợp con nợ không thể thanh toán được nợ đến
hạn khi chủ nợ yêu cầu nhưng cân đối giữa tổng tài sản và tổng nợ thì số tài
sản lớn hơn số nợ.
Đối với một số nước áp dụng định lượng về tài sản như Nga, các nước
thuộc SNG thì trường hợp này chưa được xem là phá sản. Tuy nhiên đối với
một số nước, ngay cả đối với Việt Nam thì trường hợp phá sản này cũng có
thể xảy ra.

5

Nguyễn Trường Nhật Phượng (2004), “Chế độ pháp lý về phá sản - thực tiễn thi hành và hướng hoàn
thiện”, Luận văn Thạc sỹ Luật học, Đại học Luật Tp.Hồ Chí Minh, tr.21

14


Phá sản tuyệt đối là tình trạng con nợ thực sự mất khả năng thanh toán
nợ đến hạn một cách tuyệt đối khi cân đối giữa tài sản của con nợ tổng số nợ
thì tổng số nợ lớn hơn tổng tài sản của con nợ trong thời điểm khơng thanh
tốn được nợ đến hạn.
Việc phân biệt này có vai trị rất quan trọng đối với Tồ án trong q
trình giải quyết phá sản. Đối với phá sản thực tế, Toà án có thể áp dụng thủ
tục phục hồi giúp con nợ có khả năng phục hồi hoạt động SXKD . Mặt khác,
phá sản thực tế sẽ giúp con nợ an tâm để áp dụng các biện pháp tài chính cần
thiết khắc phục tình trạng khó khăn tạm thời này, tránh được sự "quấy rầy"
của các chủ nợ. Đồng thời nó cịn có ý nghĩa khuyến khích con nợ tự nguyện

nộp đơn yêu cầu tuyên bố phá sản. Còn đối với phá sản tuyệt đối, Tồ án có
căn cứ lựa chọn thủ tục áp dụng cho phù hợp. Nếu xét thấy con nợ khơng cịn
khả năng phục hồi Tồ án có thể tuyên bố phá sản ngay. Áp dụng thủ tục này
sẽ đỡ tốn kém về thời gian, công sức, tiền bạc cho chủ nợ, Tồ án và các chủ
thể có liên quan.
1.1.3 Vai trò của pháp luật phá sản trong nền kinh tế thị trường
Phá sản là sản phẩm tất yếu của nền kinh tế thị trường. Do vậy, pháp
luật về phá sản có vai trị rất quan trọng trong nền kinh tế thị trường. Có
người đã ví pháp luật phá sản là một trong bốn hòn đá tảng của Luật Kinh tế
trong nền kinh tế thị trường. Nó là một trong những yếu tố đảm bảo cho nền
kinh tế vận hành một cách trơi chảy. Vai trị đó được thể hiện ở những nội
dung cơ bản sau đây:
Pháp luật phá sản là công cụ tốt nhất bảo vệ quyền và lợi ích
hợp pháp của các chủ nợ.
Ngay từ khi ra đời, nhiệm vụ đầu tiên và quan trọng nhất của LPS là
bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của các chủ nợ. Ngày nay, trong Pháp luật
phá sản hiện đại nhiệm vụ này vẫn được duy trì và tiếp nối. Khi con nợ lâm
vào tình trạng khó khăn về tài chính thì các chủ nợ là người sẽ bị thiệt hại
trước tiên. Con nợ thường tìm cách để cứu vãn DN bằng những biện pháp
kinh doanh mạo hiểm. Càng mạo hiểm thì rủi ro càng cao và rủi ro trước hết
đối với lợi ích của các chủ nợ. Nếu không phát hiện kịp thời và không kiểm

15


sốt được tình hình tài chính của DN thì khả năng thu hồi nợ của chủ nợ càng
thấp.
Mặt khác, khi con nợ khơng trả được nợ thì tâm lý chung của các chủ
nợ đều muốn đòi được nợ nhiều nhất và nhanh chóng nhất. Khi đó,các chủ nợ
sẽ tìm nhiều cách để địi được nợ. Có chủ nợ chủ động u cầu DN mắc nợ

thanh tốn nợ cho mình và thương lượng với DN mắc nợ. Nhưng việc đòi nợ
này đã khơng có hiệu quả khả quan khi DN mắc nợ cố tình chiếm dụng vốn,
"chây ì" khơng chịu trả hoặc hồn tồn khơng có khả năng thanh tốn. Thậm
chí có những chủ nợ sẽ "xiết nợ" theo "luật rừng" để cấn trừ nợ. Hiện tượng
này diễn ra rất phổ biến trên đất nước ta. Các con nợ bị xúc phạm nhưng họ
thường lặng lẽ đau đớn chấp nhận chứ khơng dám lên tiếng tố cáo với chính
quyền về các hành vi của chủ nợ. Họ sợ mọi người biết chuyện vì vỡ nợ, sẽ
hổ thẹn, ảnh hưởng tới uy tín của gia đình. Có những con nợ sợ bị bắt nợ đã
tìm cách bỏ trốn các chủ nợ. Như vậy, những chủ nợ xử sự theo kiểu "xã hội
đen" đó đã "giành giật" hết tài sản cịn lại của con nợ, tao ra sự mất cân bằng
giữa các chủ nợ.
Một cách địi nợ thơng thường đúng với quy định của Pháp luật hiện
hành là các chủ nợ có quyền khởi kiện ra Tồ án để u cầu thanh tốn và đề
nghị Toà án áp dụng các biện pháp khẩn cấp tạm thời bảo tồn giá trị tài sản
đang có của con nợ. Bằng cách khởi kiện này, các chủ nợ "mạnh ai nấy làm"
chủ nợ nào nhanh chân hơn sẽ có nhiều khả năng thu hồi được nợ. Mỗi chủ
nợ sẽ theo một vụ kiện riêng, khơng có mối quan hệ pháp lý với nhau. Toà án
sẽ phải xử lý nhiều vụ việc riêng rẽ gây lãng phí thời gian, công sức, tiền bạc
của các chủ nợ, con nợ và cơ quan tố tụng khác. Mặt khác, việc khởi kiện ra
Toà kinh tế này trên thực tế cũng chỉ đạt hiệu quả khi DN mắc nợ có duy nhất
một chủ nợ. Phần lớn là giá trị tài sản của các doanh ngiệp mắc nợ cịn q ít
ỏi, nhỏ hơn rất nhiều tổng giá trị của các khoản nợ nên việc khởi kiện của chủ
nợ khó có hy vọng được thanh toán. Quyền ưu tiên thanh toán của những chủ
nợ có yêu cầu trước làm cho các bản án được tun sau này khơng có khả
năng thi hành. Ví dụ như trường hợp của Công ty TNHH Đức Thắng, việc thi
hành bản án kinh tế trước khi có đơn yêu cầu tuyên bố phá sản DN đã gần hết
tài sản của cơng ty. Việc địi nợ bằng con đường này đã không giải quyết

16



được một cách thoả đáng quyền và lợi ích hợp pháp của các chủ nợ, tạo nên
sự bất bình đẳng giữa các chủ nợ.
Do đó, bên cạnh thủ tục địi nợ thông thường, nhà nước đã bảo vệ
quyền và lợi ích hợp pháp của chủ nợ bằng cách "thiết kế" thêm một thủ tục
đòi nợ đặc biệt - thủ tục phá sản. Với thủ tục này, LPS cho phép chủ nợ khi
phát hiện con nợ có dấu hiệu khơng có khả năng thanh tốn có quyền u cầu
Tồ án phá sản với con nợ để thu hồi nợ. Quyền này đã giúp cho các chủ nợ
gây áp lực đối với con nợ buộc con nợ trả nợ đúng thời hạn. Với thủ tục phá
sản đã chấm dứt được tình trạng đòi nợ riêng rẽ của các chủ nợ. Đây là
phương pháp địi nợ tập thể, tn theo một trình tự thống nhất do luật định.
Các chủ nợ không phụ thuộc vào số nợ, tính chất nợ đều được đối xử bình
đẳng như nhau tham gia trong thủ tục phá sản. Đòi nợ bằng thủ tục đặc biệt
này còn loại trừ được các trường hợp thoả thuận ngầm nhằm thu hồi nợ riêng
rẽ của một số chủ nợ "xấu" gây thiệt hại cho các chủ nợ "tốt". Mặc dù, xu
hướng trên thế giới ngày nay tố tụng phá sản còn phải thực hiện thêm một
nhiệm vụ cao cả là giúp con nợ phục hồi DN thốt khỏi tình trạng khó khăn
về tài chính nhưng nhiệm vụ cơ bản của tố tụng phá sản vẫn là loại tố tụng tư
pháp được đặt ra nhằm trước hết bảo vệ lợi ích của các chủ nợ. PGS,TS
Dương Đăng Huệ đã khẳng định rằng: "Việc ưu tiên bảo vệ quyền và lợi ích
của các chủ nợ đã làm cho thủ tục phá sản trở thành một cơng cụ pháp lý có
vai trị rất lớn trong việc thúc đẩy hoạt động đầu tư của các nhà kinh doanh".
Như vậy, chỉ có những quy định của LPS mới bảo vệ tốt nhất quyền và lợi ích
hợp pháp của các chủ nợ.
Pháp luật phá sản bảo vệ quyền, lợi ích của con nợ
Khi mới ra đời, pháp luật phá sản chưa nhìn nhận đúng về phá sản và
khơng đặt ra vấn đề bảo vệ con nợ mà chỉ chú ý tới quyền lợi của chủ nợ. Con
nợ bị coi là tội phạm và thường bị trừng trị rất nghiêm khắc.
Ngày nay, với sự phát triển của kinh tế thị trường nhận thức của con
người về phá sản ngày càng đúng đắn. Phá sản được nhìn nhận là một rủi ro

trong kinh doanh, là hiện tượng tất yếu khách quan của kinh tế thị trường. Mặt
khác, phá sản có thể gây ra rất nhiều thiệt hại cho người lao động, các chủ nợ
và xã hội. Do đó, việc giúp đỡ các con nợ là trách nhiệm chung của xã hội.

17


Cứu con nợ cũng là việc khắc phục được những hậu quả xấu của phá sản gây
ra cho xã hội. Chính vì vậy mà LPS các nước đều quan tâm tới việc phục hồi
hoạt động sản xuất, kinh doanh của DN phá sản với nhiều hình thức phục hồi
khác nhau. LPS đã quy định cho con nợ rất nhiều quyền như quyền nộp đơn
xin phá sản; quyền khiếu nại danh sách chủ nợ; quyền tham gia HNCN…..
Quyền nộp đơn xin phá sản với chính mình là một cơ hội tốt cho con nợ có
thể nhận được sự can thiệp của Tồ án và sự hỗ trợ từ phía các chủ nợ sớm
hơn để cịn có cơ hội phục hồi hoạt động sản xuất, kinh doanh. Thủ tục phá
sản với một trình tự thống nhất, chặt chẽ theo quy định của pháp luật cũng
giúp con nợ tránh được các hành vi bạo lực, trái pháp luật, lợi dụng tình thế
tài chính khó khăn của con nợ để trục lợi từ phía một số chủ nợ nào đó.
Pháp luật phá sản góp phần vào việc bảo vệ lợi ích của người lao
động
Khi DN lâm vào tình trạng khó khăn về tài chính thì thơng thường tự
động thu hẹp quy mơ sản xuất - kinh doanh, làm giảm sút thu nhập và việc
làm của người lao động. Trường hợp DN bị tuyên bố phá sản, người lao động
sẽ khơng có việc làm, thu nhập lâm vào tình trạng thất nghiệp. Như vậy,
quyền lợi của người lao động sẽ bị thiệt hại ngay từ khi DN lâm vào tình trạng
phá sản. Để bảo vệ người lao động, trước hết phải cứu DN ra khỏi tình trạng
phá sản. Pháp luật phá sản đã quy định cho người lao động các quyền như
quyền được nộp đơn yêu cầu mở thủ tục phá sản, quyền được tham gia quá
trình giải quyết vụ việc phá sản, quyền được ưu tiên thanh toán nợ
lương….Vấn đề tiền lương đối với người lao động là rất cần thiết. Nhưng

thực tế, tâm lý của những người lao động họ không muốn DN mình đã gắn bó
lâu nay bị tun bố phá sản, khơng muốn phải đi tìm một nơi làm việc mới.
Do đó, họ muốn cứu vãn DN hơn là yêu cầu Toà án tuyên bố phá sản doanh
nghiệp. Cơ chế phục hồi DN của pháp luật phá sản đã cứu DN cũng là cứu
người lao động ra khỏi tình trạng thất nghiệp. Đây mới là vai trò quan trọng
của pháp luật phá sản trong việc bảo vệ quyền lợi của người lao động.
Pháp luật phá sản góp phần bảo đảm trật tự, an toàn xã hội.
Khi DN mắc nợ lâm vào tình trạng phá sản thì chắc chắn tài sản cịn lại
khơng được bao nhiêu. Từ đó rất dễ nảy sinh sự xung đột giữa các chủ nợ.

18


Pháp luật phá sản đã ngăn chặn hiện tượng "xiết nợ" vô tổ chức của một số
chủ nợ. LPS quy định thủ tục phân chia các khoản nợ rất chặt chẽ theo trình
tự do luật định đảm bảo sự cơng bằng giữa các chủ nợ, duy trì trật tự xã hội và
điều chỉnh hài hồ lợi ích giữa các bên liên quan trong hiện tượng phá sản.
Mặt khác, về mặt vĩ mô nếu xảy ra hiện tượng phá sản đồng loạt sẽ đẩy một
bộ phận người lao động ra khỏi guồng máy kinh tế, tình trạng thất nghiệp gia
tăng và nảy sinh các vấn đề tiêu cực xã hội. Thủ tục phá sản tạo điều kiện để
phục hồi con nợ sẽ tạo công ăn việc làm cho người lao động làm giảm bớt
những tác động tiêu cực này.
Pháp luật phá sản góp phần thúc đẩy nền kinh tế phát triển.
Hoạt động thương trường là hoạt động đầy mạo hiểm và rủi ro. Nó địi
hỏi những người tham gia phải có ý chí nghị lực và tài năng kinh doanh.
Những quy định của pháp luật về phá sản là công cụ răn đe cần thiết đối với
các chủ thể kinh doanh khi họ bước chân vào con đường này. Từ đó, buộc họ
phải năng động, sáng tạo, tính tốn trong hoạt động kinh doanh, tôn trọng các
quy luật kinh tế khách quan. Các DN làm ăn có hiệu quả sẽ là động lực để
thúc đẩy nền kinh tế phát triển.

Sự răn đe của pháp luật phá sản cịn góp phần nâng cao đạo đức kinh
doanh, tránh trường hợp cố tình gây thiệt hại cho những người kinh doanh
làm ăn chân chính.
Pháp luật phá sản góp phần làm lành mạnh hố các quan hệ tài chính
giữa các chủ thể hoạt động kinh doanh, phát huy những yếu tố tích cực và
hạn chế thấp nhất những tác động tiêu cực của hiện tượng phá sản đối với lợi
ích xã hội. Thơng qua thủ tục phá sản, những DN thua lỗ triền miên, nợ nần
chồng chất khơng cịn khả năng phục hồi sẽ bị "xố sổ". DN nào ăn có hiệu
quả sẽ đứng vững trên thương trường. Phá sản - thành lập là những quy luật
bất diệt trong thương trường và Pháp luật phá sản chính là cơ sở pháp lý để
thực hiện sự sàng lọc, đào thải tự nhiên này. Đó cũng là sự phủ định cần thiết
để nền kinh tế có bước phát triển cao hơn.
1.2 Khái quát về quyền và lợi ích hợp pháp của các chủ nợ
1.2.1 Khái niệm và phân loại chủ nợ.
Khái niệm chủ nợ

19


Theo từ điển tiếng Việt thì chủ nợ được hiểu là người cho vay nợ trong
quan hệ với người vay nợ. Đây là khái niệm chủ nợ được hiểu theo nghĩa
chung. Trong quan hệ vay nợ này thì chủ nợ là bất kỳ tổ chức, cá nhân nào mà
có tài sản cho tổ chức, cá nhân khác vay đều được gọi là chủ nợ. Các khoản
nợ ở đây có thể là nợ tiêu dùng, nợ kinh doanh…
Nhưng trong quan hệ phá sản thì chủ nợ lại được hiểu theo nghĩa riêng
và ở phạm vi hẹp hơn. LPS nước ta chỉ áp dụng đối với các cơ sở sản xuất,
kinh doanh nào mà được pháp luật gọi là doanh nghiệp. Khác với một số nước
như Úc, Mỹ, Thái Lan, Singapore LPS được áp dụng cho tất cả các con nợ
không phân biệt họ là ai (là cá nhân hay pháp nhân, là thương nhân hay khơng
phải thương nhân) và tính chất của nợ không trả được là nợ thương mại hay

nợ dân sự. Trong LPS của nhiều nước, chủ nợ được hiểu là các đối tượng
(pháp nhân hay thể nhân) có các khoản nợ không được đảm bảo trả đúng
hạn, kể cả chủ nợ có bảo đảm, nhưng chỉ đối với phần nợ vượt quá giá trị vật
bảo đảm đang nằm trong tay mình (tay chủ nợ). Cịn con nợ trong LPS nước
ta chỉ có thể là các doanh nghiệp, HTX và đương nhiên khoản nợ ở đây chỉ là
nợ kinh doanh. Do đó, chủ nợ trong thủ tục phá sản nước ta có thể được hiểu
là những cá nhân, tổ chức mà các doanh nghiệp, HTX có nghĩa vụ trả tiền.
Theo cách hiểu này thì chủ nợ ở đây, ngồi những chủ nợ trong quan hệ
thương mại cịn có các chủ nợ đặc biệt khác như người lao động mà DN nợ
lương, Nhà nước mà DN nợ thuế.
Phân loại chủ nợ.
Các chủ nợ đều bình đẳng khi tham gia quan hệ phá sản. Tuy nhiên,
mỗi loại chủ nợ có những quyền và nghĩa vụ khác nhau. Do vậy, việc phân
loại chủ nợ có vai trị rất quan trọng trong thủ tục giải quyết phá sản. Nếu
phân loại khơng chính xác sẽ ảnh hưởng rất lớn đến quyền lợi các của chủ nợ,
làm mất đi tính cơng bằng của luật pháp.
Ví như Luật vỡ nợ (phá sản) Liên bang Nga thì tất cả các chủ nợ chỉ có
"chủ nợ lựa chọn" mới có quyền u cầu Tồ án trọng tài cơng nhận con nợ bị
phá sản. "Chủ nợ lựa chọn" bao gồm là thể nhân (cá nhân) hay pháp nhân,
Liên bang Nga và các chủ thể là các cơ quan nhà nước khác. Đối với chủ nợ
là các cơ quan nhà nước thì được thực hiện theo cơ chế đại diện uỷ quyền đệ

20


×