Tải bản đầy đủ (.pdf) (75 trang)

Bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của vợ chồng trong bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (617.57 KB, 75 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

BỘ TƯ PHÁP

TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT HÀ NỘI

PHẠM THANH HẰNG

BẢO VỆ QUYỀN VÀ LỢI ÍCH HỢP PHÁP CỦA VỢ CHỒNG
TRONG BỒI THƯỜNG THIỆT HẠI NGOÀI HỢP ĐỒNG

Chuyên ngành : Luật Dân sự
Mã số : 60380103

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC

Người hướng dẫn khoa học: TS. NGUYỄN THỊ LAN

HÀ NỘI – 2013


LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên
cứu của riêng tôi. Các số liệu trong luận văn
này là trung thực. Các kết luận khoa học
trong luận văn chưa từng được ai công bố
trong các công trình khác.

Tác giả luận văn



MỤC LỤC
LỜI MỞ ĐẦU

2

CHƯƠNG 1: KHÁI QUÁT CHUNG VỀ BỒI THƯỜNG THIỆT
HẠI NGOÀI HỢP ĐỒNG LIÊN QUAN ĐẾN VỢ CHỒNG

8

1.1. Khái quát về bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng liên quan đến vợ

8

chồ g
1.1.1. Khái niệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng
1.1.2. Đặc điểm của bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng

8
18

1.2. Căn cứ xác định tài sản chung, tài sản riêng của vợ chồng nhằm
đảm bảo quyền và lợi ích hợp pháp của vợ chồng trong bồi thường thiệt
hại ngoài hợp đồng

22

1.2.1. Căn cứ xác định tài sản chung, tài sản riêng của vợ chồng

22


1.2.2. Quyền và nghĩa vụ của vợ chồng đối với tài sản

28

CHƯƠNG 2: PHÁP LUẬT VỀ BẢO VỆ QUYỀN VÀ LỢI ÍCH
HỢP PHÁP CỦA VỢ CHỒNG TRONG BỒI THƯỜNG THIỆT
HẠI NGOÀI HỢP ĐỒNG VÀ THỰC TIỄN ÁP DỤNG
2.1.

33

Bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của vợ chồng trong BTTH

ngoài hợp đồng khi vợ chồng là người bị thiệt hại

33

2.1.1. Bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của vợ chồng trong quan hệ bồi
thường thiệt hại ngoài hợp đồng khi vợ chồng bị thiệt h i về tài sản

33

2.1.2. Bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của vợ chồng trong quan hệ bồi
thường thiệt hại ngoài hợp đồng khi vợ chồng là người bị thiệt hại về
sức khỏe

36

2.1.3. Bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của vợ chồng trong quan hệ bồi

thường t iệt hại ngoài hợp đồng khi vợ chồng là người bị thiệt hại về
tính mạng
2.1.4. Bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của vợ chồng trong quan hệ bồi
thường thiệt hại ngoài hợp đồng khi vợ chồng là người bị thiệt hại về

40


danh dự, nhân phẩm, uy tín

43

2.2. Bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của vợ chồng trong quan hệ bồi
thường thiệt hại ngoài hợp đồng khi vợ chồng là người gây thiệt hại

44

2.2.1. Bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của vợ chồng trong quan hệ
bồ

thường thiệt hại ngoài hợp đồng khi vợ chồn

cùng là người gây

thiệt hại

44

2.2.2. Bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của vợ chồng trong quan hệ bồi
thường thiệt hại ngoài hợp đồng khi một bên vợ hoặc chồng là người

gây thiệt hại

46

2.3. Bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp c a vợ chồng trong quan hệ bồi
thường thiệt hại ngoài hợp đồng khi con chung là người gây thiệt hại; là
người bị thiệt hại

52

2.3.1. Bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của vợ chồng trong quan hệ bồi
thường thiệt hại ngoài hợp đồng khi con chung là người gây thiệt hại

52

2.3.2. Bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của vợ chồng trong quan hệ bồi
thường thiệt hại ngoài hợp đồng khi con chung là người bị thiệt hại

55

CHƯƠNG 3: MỘT SỐ KIẾN NGHỊ HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT
ĐỂ BẢO VỆ QUYỀN VÀ LỢI ÍCH HỢP PHÁP CỦA VỢ CHỒNG
TRONG BỒI THƯỜNG THIỆT HẠI NGOÀI HỢP ĐỒNG

57

3.1. Sự cần thiết phải hoàn thiện pháp luật để bảo vệ quyền và lợi ích
hợp pháp của vợ chồng trong bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng

57


3.2. Một số kiến nghị hoàn thiện pháp luật để bảo vệ quyền và lợi ích
hợp pháp của vợ chồng trong bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng

59

3.2.1. Pháp luật hôn nhân và gia đình cần hoàn thiện hơn một số quy
định có liên quan

59

3.2.2. Pháp luật dân sự cần hoàn thiện những quy định cụ thể các trường
hợp về BTTH ngoài hợp đồng

62

KẾT LUẬN

66


BẢNG TỪ VIẾT TẮT

STT

Nội dung

Chữ viết tắt

1


Bộ luật dân sự năm 2005

BLDS 2005

2

Luật hôn nhân và gia đình năm 2000

Luật HN&GĐ 2000

3

Bồi thường thiệt hại

BTTH

4

Trách nhiệm dân sự

TNDS

5

Bộ luật dân sự

BLDS

6


Luật hôn nhân và gia đình

Luật HN&GĐ

7

Bộ luật tố tụng dân sự

BLTTDS


2

LỜI MỞ ĐẦU

1. Tính cấp thiết của đề tài
Bồi thường thiệt hại (BTTH) trong đó có BTTH ngoài hợp đồng liên quan
đến vợ chồng là một chế định hết sức quan trọng và được áp dụng rất sớm trong
pháp luật dân sự của các nước trên thế giới nói chung cũng như ở Việt Nam nói
riêng. BTTH ngoài hợp đồng được đặt ra nhằm điều chỉnh các quan hệ xã hội trong
những trường hợp có thiệt hại về tài sản, sức khỏe, tính mạng, danh dự, nhân phẩm
và uy tín của người khác, mà giữa người gây thiệt hại và người bị thiệt hại không có
việc giao kết hợp đồng hoặc có việc giao kết hợp đồng nhưng hành vi gây thiệt hại
không thuộc hành vi thực hiện hợp đồng. BTTH mang đến sự công bằng trong xã
hội thông qua việc bắt buộc những người có hành vi gây thiệt hại phải bù đắp một
khoản vật chất cho người bị thiệt hại tương ứng với thiệt hại mà họ đã gây ra. Chế
định pháp luật này không những có ý nghĩa về mặt lý luận, mà còn mang giá trị
thực tiễn rất lớn trong việc khắc phục hành vi trái pháp luật, đảm bảo công bằng, xử
phạt răn đe người có hành vi gây thiệt hại, và giáo dục ý thức pháp luật trong cộng

đồng, ổn định nền pháp chế xã hội chủ nghĩa.
BTTH ngoài hợp đồng liên quan đến vợ chồng là một vấn đề có ý nghĩa lớn
đối với xã hội. Bởi BTTH ngoài hợp đồng mà vợ chồng là chủ thể không những ảnh
hưởng đến quyền, nghĩa vụ của vợ, chồng mà còn ảnh hưởng đến quyền và lợi ích
hợp pháp của người thứ ba trong quan hệ BTTH. Quyền và lợi ích của riêng vợ,
chồng là quyền lợi cá nhân nhưng nó ảnh hưởng đến đời sống chung của vợ chồng,
ảnh hưởng đến chất lượng cuộc sống của con cái. Quan hệ hôn nhân là quan hệ đặc
biệt của xã hội. Quan hệ này được hình thành, củng cố và duy trì bằng niềm tin, tình
yêu thương, chức phận của vợ chồng đối với nhau và đối với con cái. Do vậy, các
quan hệ mà vợ chồng tham gia trong đó có quan hệ BTTH ngoài hợp đồng cũng có
những nét đặc trưng riêng mang tính nhân văn sâu sắc. Mối quan hệ mật thiết giữa
vợ chồng, sự gánh vác trách nhiệm cùng nhau một cách tự nguyện trong quan hệ
hôn nhân kéo theo sự thống nhất, tự nguyện giữa vợ chồng trong việc chịu trách
nhiệm với người thứ ba. Điều này, trong quan hệ BTTH ngoài hợp đồng liên quan


3

đến vợ chồng đảm bảo rằng thiệt hại sẽ được bồi thường một cách nhanh chóng,
kịp thời và đầy đủ hơn so với những trường hợp BTTH khác. Nhưng điều đó không
có nghĩa là quan hệ hôn nhân sẽ làm loại trừ tính độc lập của vợ, chồng trong việc
tự mình tham gia các quan hệ xã hội khác cũng như tự mình chịu trách nhiệm trong
việc BTTH do chính mình gây ra. Các quy định pháp luật dân sự, luật hôn nhân và
gia đình hiện tại chưa có các quy định riêng áp dụng cho trường hợp BTTH ngoài
hợp đồng liên quan đến vợ chồng . BTTH ngoài hợp đồng liên quan đến vợ chồng
được áp dụng thông qua các quy định về BTTH ngoài hợp đồng nói chung. Vấn đề
này liên quan đến các ngành luật khác nhau như: Luật dân sự, Luật hôn nhân và gia
đình…Việc áp dụng pháp luật trong vấn đề này vì thế nhiều khi gặp những khó
khăn và trở ngại lớn, bởi quan hệ hôn nhân không giống những quan hệ xã hội bình
thường khác. Để thấy rõ hơn sự khác biệt, tầm quan trọng của BTTH ngoài hợp

đồng để khắc phục những vướng mắc trong quy định của pháp luật và giải quyết,
hạn chế những khó khăn trong áp dụng pháp luật về vấn đề này cần thiết phải có sự
nghiên cứu, rà soát, đánh giá pháp luật về BTTH ngoài hợp đồng liên quan đến vợ
chồng . Trên cơ sở đó, đề xuất một số định hướng và giải pháp góp phần hoàn thiện
lĩnh vực pháp luật về vấn đề này. Vì vậy, tôi chọn đề tài “Bảo vệ quyền và lợi ích
hợp pháp của vợ chồng trong BTTH ngoài hợp đồng” làm Luận văn thạc sĩ luật
học.
2. Mục đích nghiên cứu
Tìm hiểu về vấn đề này, đề tài xác định những mục đích nghiên cứu cơ bản
sau đây:
- Tập hợp, hệ thống hóa và bổ sung, phát triển hệ thống cơ sở lý luận và thực
tiễn xây dựng chế định BTTH ngoài hợp đồng nói chung và các quy định về BTTH
ngoài hợp đồng liên quan đến vợ chồng nói riêng.
- Đánh giá các quy định và thực trạng áp dụng các quy định pháp luật về
BTTH ngoài hợp đồng liên quan đến vợ chồng nhằm nhận diện những thành tựu,
kết quả và chỉ ra các khiếm khuyết, hạn chế cũng như nguyên nhân của chúng. Trên
cơ sở đó, Luận văn đưa ra một số kiến nghị góp phần hoàn thiện các quy định của


4

pháp luật về việc bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của vợ chồng trong BTTH ngoài
hợp đồng .
3. Tình hình nghiên cứu
Pháp luật BTTH ngoài hợp đồng trong đó có BTTH ngoài hợp đồng liên
quan đến vợ chồng là lĩnh vực pháp luật liên quan trực tiếp đến lợi ích của các chủ
thể khác nhau, bao gồm: Vợ, chồng, và người thứ ba khác. Việc giải quyết hài hòa
lợi ích của các chủ thể thu hút sự quan tâm tìm hiểu của giới luật học nước ta. Thời
gian qua đã có không ít các công trình nghiên cứu về lĩnh vực này. Tuy nhiên, các
công trình nghiên cứu không phải lúc nào và ở bất kỳ đâu cũng mang lại hiệu quả

như mong muốn. Các công trình đã được công bố mà tiêu biểu phải kể đến những
ấn phẩm chủ yếu sau đây:
1. TS. Phùng Trung Tập, BTTH ngoài hợp đồng về tài sản, sức khỏe, và tính
mạng - Sách chuyên khảo, Nhà xuất bản Hà Nội năm 2009.
2. TS. Phùng Trung Tập, Lỗi và trách nhiệm BTTH ngoài hợp đồng, Tạp chí
Luật học số 10/2004.
3. Trách nhiệm dân sự do tài sản gây thiệt hại - Vấn đề lý luận và thực tiễn,
Đề tài nghiên cứu khoa học cấp trường, Trường Đại học Luật Hà Nội, Mã số: LH08-05/ĐHL, Hà Nội năm 2009.
4. TS. Nguyễn Thị Lan, Quyền và nghĩa vụ tài sản của vợ chồng trong quan
hệ BTTH ngoài hợp đồng, Đề tài nghiên cứu khoa học cấp trường Trường Đại học
Luật Hà Nội, Tài sản vợ chồng trong hoạt động sản xuất kinh doanh, Hà Nội năm
2008...
Liên quan đến vấn đề BTTH ngoài hợp đồng liên quan đến vợ chồng , các
công trình nghiên cứu trong lĩnh vực BTTH ngoài hợp đồng này từ trước đến nay
chủ yếu hoặc tập trung tìm hiểu chế định BTTH ngoài hợp đồng dưới khía cạnh lý
luận và thực tiễn, hoặc đi sâu nghiên cứu một số nội dung của chế định này như
khái niệm và phân loại BTTH, yếu tố lỗi trong BTTH, quan hệ tài sản vợ chồng
trong những trường hợp nhất định.... Có thể nói, dưới nhiều góc nhìn khác nhau,
BTTH ngoài hợp đồng trong đó có BTTH ngoài hợp đồng liên quan đến vợ chồng
đã được tìm hiểu sâu sắc hơn, qua đó đưa ra một số gợi mở cho quá trình hoàn thiện


5

lĩnh vực pháp luật này ở nước ta. Tuy nhiên, dường như vẫn còn thiếu một công
trình khoa học nghiên cứu chuyên sâu, đầy đủ và toàn diện dưới góc độ lý luận và
thực tiễn của pháp luật về BTTH liên quan đến vợ chồng . Bởi các công trình khoa
học nêu trên chủ yếu tìm hiểu về BTTH ngoài hợp đồng liên quan đến vợ chồng là
một phần khi nghiên cứu về chế định BTTH và chủ yếu được đề cập một cách đơn
thuần theo quy định của pháp luật dân sự mà chưa đặt trọng tâm nghiên cứu là quan

hệ BTTH ngoài hợp đồng mà chủ thể là vợ chồng. Vì thế, việc xác định nghĩa vụ và
lợi ích mà vợ chồng phải thực hiện cũng như được thụ hưởng trong quan hệ BTTH
ngoài hợp còn khá nhiều bất cập. Trên cơ sở kế thừa những thành tựu nghiên cứu
pháp luật về BTTH ngoài hợp đồng liên quan đến vợ chồng của các công trình
khoa học đã được công bố, Luận văn đi sâu tìm hiểu việc bảo vệ quyền, lợi ích của
vợ chồng trong BTTH ngoài hợp đồng liên quan đến vợ chồng thông qua việc
nghiên cứu về mặt lý luận chuyên sâu từng khía cạnh, thực tiễn cũng như đặt vấn đề
này trong mối quan hệ suốt chiều dài lịch sử pháp luật của nước ta và một số nước
trên thế giới để từ đó gợi mở cái nhìn hệ thống hơn về vấn đề BTTH ngoài hợp
đồng đặc biệt này.
4. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu
a. Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu, tìm hiểu của đề tài bao gồm:
- Các quy định pháp luật về BTTH ngoài hợp đồng liên quan đến vợ chồng
qua các thời kỳ lịch sử.
- Các quy định pháp luật về BTTH ngoài hợp đồng liên quan đến vợ chồng
ở một số nước trên thế giới.
- Các quy định hiện hành của pháp luật nước ta về BTTH ngoài hợp đồng nói
chung và BTTH ngoài hợp đồng liên quan đến vợ chồng nói riêng.
- Các báo cáo tổng kết thi hành pháp luật về BTTH ngoài hợp đồng trong đó
có BTTH ngoài hợp đồng liên quan đến vợ chồng .
- Các vụ việc cụ thể về BTTH ngoài hợp đồng liên quan đến vợ chồng .
b. Phạm vi nghiên cứu


6

BTTH ngoài hợp đồng trong đó có BTTH ngoài hợp đồng liên quan đến vợ
chồng là một chế định quan trọng trong Bộ luật Dân sự. BTTH ngoài hợp đồng là
một trong những vấn đề pháp lý lớn và phức tạp. Bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp

của vợ chồng trong BTTH ngoài hợp đồng là đề tài có phạm vi nghiên cứu rộng liên
quan đến nội dung của nhiều lĩnh vực pháp luật. Tuy nhiên, trong khuôn khổ của
một bản Luận văn thạc sĩ luật học, đề tài giới hạn phạm vi nghiên cứu ở những nội
dung cơ bản sau đây:
- Luận văn không đi sâu nghiên cứu lịch sử pháp luật về BTTH ngoài hợp
đồng mà giới hạn ở việc tập trung tìm hiểu sơ lược lịch sử các quy định về BTTH
ngoài hợp đồng trong đó có BTTH ngoài hợp đồng liên quan đến vợ chồng ở nước
ta và một số nước trên thế giới.
- Nghiên cứu, đánh giá nội dung những quy định pháp luật hiện hành về
BTTH ngoài hợp đồng liên quan đến vợ chồng .
- Tìm hiểu, đánh giá thực trạng áp dụng pháp luật và đề xuất một số kiến
nghị nhằm hoàn thiện pháp luật về BTTH ngoài hợp đồng trong đó có BTTH ngoài
hợp đồng liên quan đến vợ chồng , thông qua một số việc nghiên cứu một số vụ
việc cụ thể.
- Loại trừ việc xem xét quan hệ BTTH ngoài hợp đồng liên quan đến vợ
chồng có yếu tố nước ngoài.
5. Phương pháp nghiên cứu
Để đạt được các mục tiêu nghiên cứu mà đề tài đặt ra, trong quá trình nghiên
cứu Luận văn đã sử dụng những phương pháp nghiên cứu cơ bản đây:
- Phương pháp luận nghiên cứu khoa học duy vật biện chứng và duy vật lịch
sử của Chủ nghĩa Mác - Lê nin.
- Bên cạnh đó, Luận văn còn sử dụng các phương pháp nghiên cứu cụ thể sau
đây:
+ Phương pháp phân tích, phương pháp diễn giải, phương pháp lịch sử được
sử dụng khi nghiên cứu những vấn đề lý luận về chế định BTTH ngoài hợp đồng
nói chung và thực trạng các quy định pháp luật về BTTH ngoài hợp đồng liên quan
đến vợ chồng .


7


+ Phương pháp đánh giá, phương pháp so sánh luật học được sử dụng trong
nghiên cứu, đánh giá thực trạng áp dụng pháp luật về BTTH ngoài hợp đồng liên
quan đến vợ chồng .
+ Phương pháp tổng hợp được sử dụng khi nghiên cứu định hướng và giải
pháp hoàn thiện pháp luật về BTTH ngoài hợp đồng liên quan đến vợ chồng .
6. Những đóng góp của Luận văn
Luận văn có một số đóng góp cho khoa học pháp lý ở nước ta, biểu hiện ở
những nội dung cơ bản sau đây:
- Hệ thống hóa, kế thừa và phát triển các luận cứ khoa học về cơ sở lý luận
của chế định BTTH ngoài hợp đồng thông qua việc nghiên cứu, đánh giá thực trạng
pháp luật về BTTH ngoài hợp đồng liên quan đến vợ chồng .
- Thông qua việc nghiên cứu lý luận và thực trạng áp dụng của các quy định
về BTTH ngoài hợp đồng liên quan đến vợ chồng , Luận văn không chỉ đánh giá
những kết quả và những hạn chế mà còn chỉ ra một số nguyên nhân của bất cập, hạn
chế trong các quy định hiện hành về BTTH ngoài hợp đồng.
- Đề xuất định hướng và giải pháp góp phần hoàn thiện pháp luật về BTTH
ngoài hợp đồng nói chung và các quy định về BTTH ngoài hợp đồng liên quan đến
vợ chồng nói riêng.
7. Kết cấu của Luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, mục lục, danh mục các chữ viết tắt, danh mục
tài liệu tham khảo, Luận văn được kết cấu theo những nội dung sau:
- Chương 1. Khái quát chung về bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng liên
quan đến vợ chồng
- Chương 2. Thực trạng pháp luật về bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của
vợ chồng trong BTTH ngoài hợp đồng
- Chương 3. Một số kiến nghị hoàn thiện pháp luật để bảo vệ quyền và lợi
ích hợp pháp của vợ chồng trong bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng



8

CHƯƠNG 1
KHÁI QUÁT CHUNG VỀ BỒI THƯỜNG THIỆT HẠI NGOÀI HỢP ĐỒNG
LIÊN QUAN ĐẾN VỢ CHỒNG
1.1.

Khái quát về bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng liên quan đến vợ

chồng
1.1.1. Khái niệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng
Trong một xã hội, với bất kỳ một mối quan hệ nào thì quyền và trách nhiệm
luôn gắn liền với các bên chủ thể tham gia quan hệ đó. Mỗi người đều phải tôn
trọng các quy tắc chung của xã hội, không thể vì lợi ích của cá nhân mà xâm hại
đến quyền và lợi ích của người khác. Người có hành vi gây thiệt hại cho chủ thể
khác thì phải bị xử lý nhằm ngăn ngừa và hạn chế vi phạm pháp luật. Vì vậy, mỗi
người đều phải gánh chịu hậu quả bất lợi do hành vi vi phạm nghĩa vụ của mình gây
ra bằng việc bù đắp tổn thất cho người khác. Trách nhiệm gánh chịu những bất lợi
về tài sản hoặc nhân thân nói trên được hiểu là BTTH. Tùy vào đối tượng điều
chỉnh của mỗi ngành luật mà trách nhiệm pháp lý được quy định trong một phạm vi
và có những đặc điểm khác nhau: trách nhiệm hình sự, trách nhiệm dân sự, trách
nhiệm hành chính. Như vậy, BTTH là sự gánh chịu một hậu quả bất lợi bằng việc
bù đắp tổn thất cho người khác.
Pháp luật Việt Nam hiện hành không nêu rõ khái niệm BTTH mà chỉ đề cập
đến căn cứ phát sinh trách nhiệm, nguyên tắc bồi thường, năng lực chịu trách
nhiệm, thời hạn bồi thường… Trách nhiệm BTTH là một loại trách nhiệm pháp lý
nên nó mang những đặc điểm chung của trách nhiệm pháp lý như: được áp dụng đối
với người có hành vi vi phạm pháp luật, mang đến hậu quả bất lợi cho người bị áp
dụng, do cơ quan nhà nước có thẩm quyền áp dụng và được đảm bảo thực hiện bằng
cưỡng chế nhà nước…

Ngoài ra, trách nhiệm BTTH còn mang các đặc điểm riêng của nó để giúp
phân biệt với trách nhiệm dân sự khác.
Trách nhiệm BTTH chỉ đặt ra khi có đủ các điều kiện do pháp luật quy định:
có hành vi vi phạm, có thiệt hại xảy ra, có mối quan hệ nhân quả giữa hành vi gây
thiệt hại với hậu quả xảy ra, có lỗi của người gây thiệt hại (không bắt buộc trong


9

mọi trường hợp). Vấn đề đặt ra là lỗi của người gây thiệt hại trong trách nhiệm
BTTH được pháp luật quy định hay còn do suy đoán vì chỉ khi làm rõ về vấn đề lỗi
của người gây thiệt hại mới có sự thống nhất trong nhận thức pháp luật để từ đó áp
dụng chuẩn xác các quy định về trách nhiệm BTTH. Điều 308 BLDS quy định về
lỗi trong trách nhiệm dân sự nói chung trong đó có trách nhiệm BTTH. Theo đó, lỗi
và hình thức lỗi được xác định rõ như sau: “Người không thực hiện hoặc thực hiện
không đúng nghĩa vụ dân sự, thì phải chịu trách nhiệm dân sự khi có lỗi cố ý hoặc
lỗi vô ý, trừ trường hợp có thỏa thuận khác hoặc pháp luật có quy định khác”.
Khoản 2 của Điều 308 BLDS 2005 cụ thể hóa lỗi, hình thức lỗi, cơ sở xác định lỗi.
Cụ thể, lỗi “cố ý gây thiệt hại là trường hợp một người nhận thức rõ hành vi của
mình sẽ gây thiệt hại cho người khác mà vẫn thực hiện và mong muốn hoặc không
mong muốn nhưng để mặc cho thiệt hại xảy ra”, và lỗi “vô ý gây thiệt hại là trường
hợp một người không thấy trước hành vi của mình có khả năng gây thiệt hại, mặc
dù phải biết hoặc có thể thấy trước hành vi của mình có khả năng gây thiệt hại,
nhưng cho rằng thiệt hại sẽ không xảy ra hoặc có thể ngăn chặn được”. Như vậy có
thể nhận thấy, pháp luật đã quy định khá rõ về lỗi, hình thức của lỗi, căn cứ để xác
định lỗi. Do đó, những quan điểm cho rằng, lỗi trong hành vi của người gây thiệt
hại còn do suy đoán là không chính xác về mặt lý luận và hoàn toàn không cần
thiết. Để quy trách nhiệm BTTH cho người gây thiệt hại cần phải xác định chính
xác yếu tố lỗi. Ngoài ra cần phải phân biệt trách nhiệm dân sự của người trực tiếp
có hành vi có lỗi gây thiệt hại với trách nhiệm dân sự liên quan đến quan hệ dân sự

và chủ thể đó.
Trách nhiệm BTTH mang đến hậu quả bất lợi về tài sản cho người gây ra
thiệt hại. Người bị thiệt hại phải chứng minh có thiệt hại xảy ra và mức bồi thường
sẽ bằng mức thiệt hại, nhưng nguyên tắc này chỉ áp dụng được khi trách nhiệm
BTTH là vật chất. Đối với những tổn thất về tinh thần thì dù không thể nhìn, không
thể tính toán và cũng rất khó để chứng minh, nhưng trong nhiều trường hợp lại gây
ra những tổn thất ảnh hưởng nghiêm trọng đến cuộc sống, chất lượng sống của
người bị thiệt hại. Vì thế, mặc dù thiệt hại mà hành vi vi phạm gây ra có thể tính


10

toán được hoặc không nhưng đều được pháp luật quy định thành một đại lượng vật
chất nhất định để bù đắp cho người bị thiệt hại.
Về nguyên tắc, chủ thể chịu trách nhiệm BTTH là người trực tiếp gây ra thiệt
hại. Tuy nhiên, trong một vài trường hợp trách nhiệm BTTH có thể áp dụng đối với
người trực tiếp gây ra thiệt hại hoặc người không trực tiếp gây ra thiệt hại như: cha,
mẹ người gây thiệt hại, người giám hộ của người được giám hộ, pháp nhân đối với
người của pháp nhân gây thiệt hại… Điều này đảm bảo rằng tất cả các thiệt hại đều
phải được bù đắp tổn thất, nhằm khôi phục tình trạng của người bị thiệt hại, bảo
đảm tính khả thi của quy phạm pháp luật.
Trách nhiệm BTTH là một trong những chế định được áp dụng sớm nhất của
luật dân sự. Ngay từ thời La Mã (thế kỷ thứ VIII TCN đến thế kỷ thứ VII SCN), đã
có quy định “chế độ phục cừu” mang nguyên tắc trả thù ngang bằng máu trả máu,
mắt trả mắt, răng trả răng, mạng trả mạng… Những quy định của pháp luật về
BTTH ngoài hợp đồng xuất hiện cùng thời kỳ với chế độ tư hữu và nhà nước. Do
vậy, ở mỗi giai đoạn khác nhau, chế định BTTH trong đó có BTTH ngoài hợp đồng
liên quan đến vợ chồng có bản chất và những biểu hiện hoàn toàn khác nhau. Vào
thời của nhà nước La Mã cổ đại, theo Luật XII bảng thì biện pháp áp dụng khi có
hành vi vi phạm tư pháp (delicta và mức bồi thường có thể thỏa thuận được. Theo

đó người có hành vi vi phạm tư pháp phải bồi thường những thiệt hại do mình gây
ra khi người bị thiệt hại có yêu cầu bồi thường) là biện pháp trừng trị vô cùng hà
khắc (ví dụ: bị giết tại nơi gây thiệt hại) và mang tính chất báo thù (talio). Về sau,
các hình thức trừng phạt về thể xác được thay thế bằng biện pháp phạt tiền.
Sử gia Ngô Sĩ Liên viết: “Trước kia, việc kiện tụng trong nước phiền nhiễu,
quan lại giữ luật pháp câu nệ luật văn, cốt làm cho khắc nghiệt, thậm chí nhiều
người bị oan uổng quá đáng. Vua lấy làm thương xót, sai trung thư san định luật
lệnh, châm chước cho thích dụng với thời thế, chia ra làm môn loại, biên thành điều
khoản, làm thành sách Hình thư của một triều đại để cho người xem dễ hiểu. Sách
làm xong xuống chiều ban hành, dân lấy làm tiện. Đến đây, phép xử án được bằng
thằng rõ ràng cho nên mới đổi niên hiệu là Minh đạo và đúc tiền Minh Đạo” (Đại
việt Sử Ký Toàn Thư - Nhà xuất bản khoa học xã hội, Hà Nội , 1993, tập 1, trang


11

271 -272). Qua sử sách, bộ Hình Thư nói trên được coi là bộ luật thành văn đầu tiên
của lịch sử nước ta, được ban hành vào tháng 10 năm Nhâm Ngọ, đời Lý Thái
Tông, niên hiệu Cần Phù Hữ Đạo năm thứ tư (1402). Đến thời nhà Trần, nhà nước
hết sức chú trọng đến pháp luật. Vua Trần Thái Tông sau khi lên ngôi đã ban hành
bộ luật mới. Theo sử sách ghi chép lại thì mùa Xuân, tháng 3 năm Canh Dần, niên
hiệu Kiến Trung thứ 5 (1230) “Khảo xét các luật lệ của triều trước, soạn thành
Quốc Triều Thông Chế và sửa đổi hình luật lễ nghi gồm 20 quyền…”. Đến năm
1244, vua Trần Thái Tông lại ban lệnh “định các cách thức về luật hình”. Tháng 8
năm Tân Tỵ niên hiệu Thiệu Phong thứ nhất (1341) Trần Dụ Tông sai người biên
soạn bộ Hoàng Triều Đại Điển và khảo soạn bộ Hình Thư để ban hành. Đáng tiếc,
cũng như bộ Hình Thư thời nhà Lý, các bộ luật thời Trần đến nay đều bị thất truyền
và chỉ còn được nhắc trong sử sách mà thôi.
Dưới thời Lê, pháp luật rất được chú trọng phát triển. Trong sách Lịch Triều
Hiến Chương Loại Chí, sử gia Phan Huy Chú có nhận định: “Hình của nhà Lý thì

lỗi ở khoan rộng, hình của nhà Trần thì lỗi ở nghiêm khắc” còn luật pháp thời Lê:
“Thật là cái mẫu mực để trị nước, cái khuôn phép để buộc dân”. Dưới thời Lê có thể
kể đến các sách: Quốc Triều Hình Luật (còn gọi là Lê Triều Hình Luật) gồm 6
quyển; Luật Thư gồm 6 quyển do Nguyễn Trãi soạn (1440 - 1442); Quốc Triều Luật
Lệ gồm 6 quyển do Phan Phu Tiên soạn (1440 – 1442); Quốc Triều Thư Khế Thể
Thức (1468 - 1471); Sĩ Hoạn Châm Quy (1470 - 1497); Quốc Triều Chiếu Lệnh
Thiện Chínnhh (1619 - 1705); Quốc Triều Điều Luật; Cảnh Hưng Điều Luật (1740
- 1786)… Trong các bộ sách nói trên Quốc Triều Hình Luật được coi là bộ luật
quan trọng nhất và chính thống nhất của triều Lê, và là bộ luật xưa nhất còn được
lưu giữ đầy đủ đến nay. Kế thừa và phát huy tư tưởng pháp luật của các thời đại
trước, triều đại phong kiến nhà Nguyễn đã xây dựng Hoàng Việt Luật Lê (tức Bộ
Luật Gia Long) do Gia Long biên soạn vào năm 1812.
Trong Quốc Triều Hình Luật và Hoàng Việt Luật Lệ thì chế định trách
nhiệm dân sự ngoài hợp đồng còn sơ sài nhưng có những điểm tương đối rõ ràng.
Tuy trách nhiệm hình sự và trách nhiệm dân sự chưa được phân biệt rõ ràng nhưng
cả hai bộ luật này đều đã quy định rõ hai vấn đề cơ bản của trách nhiệm dân sự là


12

yếu tố làm phát sinh trách nhiệm dân sự và BTTH. Điều 466 Quốc Triều Hình Luật
quy định: “Sưng, phù thì phải đền thương tích 3 tiền; chảy máu thì 1 quan; gãy một
ngón tay, một răng thì đến 10 quan; đâm chém bị thương thì 15 quan; dọa thai
chưa hình thành thì 30 quan, đã hình thành thì 50 quan; đứt lưỡi và hỏng âm,
dương vật thì đến 100 quan; đối với người quyền quý thì xử khác”. Như vậy, mức
BTTH được pháp luật ấn định trước trong các trường hợp cụ thể đã dự liệu mà
không phụ thuộc vào mức độ thiệt hại trên thực tế đã xảy ra.
Quốc Triều Hình Luật và Hoàng Việt Luật Lệ đều ghi nhận thiệt hại bao
gồm thiệt hại về vật chất và thiệt hại về tinh thần. Thiệt hại vật chất là những tổn
thất vật chất thực tế, xác định được bằng một khoản tiền cụ thể đã được quy định

trong hầu hết các điều luật liên quan đến BTTH do có hành vi xâm phạm đến sức
khỏe, tính mạng, tài sản của người khác. Điều 29 Quốc Triều Hình Luật quy định :
“Tiền đền mạng - nhất phẩm, tòng nhất phẩm được đền 15.000 quan; nhị phẩm,
tòng nhị phẩm 9.000 quan; tam phẩm, tòng tam phẩm 2.000 quan; lục phẩm, tòng
lục phẩm 1.000 quan; thất phẩm, tòng thất phẩm 500 quan; bát phẩm đến cửu
phẩm 300 quan; thứ nhân trở xuống 150 quan”. Điều 391 Hoàng Việt Luật Lệ quy
định: “Các tài sản ở kinh thành hay tỉnh, các nơi cổng sảnh, thương khố, phòng xá
hư hại, cần sửa chữa thì các quan cai quản phải xin sửa sang. Nếu không sửa sang
làm hư hại đến tài sản đó thì bị phạt và phải bồi thường những vật bị hư hại”. Thiệt
hại về tinh thần không được quy định một cách cụ thể, nhưng nội dung của quy định
có thể được hiểu rằng thiệt hại về tinh thần của người bị thiệt hại được bồi thường
theo quy định ở một số điều luật. Điều 31, quyển 3, chương Hộ hôn của Quốc Triều
Hình Luật quy định: “Người kết hôn mà không đủ sính lễ đền nhà cha mẹ (người
con gái) nếu thấy cha mẹ chết cả, thì đem đến nhà người trưởng họ, hay nhà người
trưởng làng để xin, mà thành hôn với nhau một cách cẩu thả thì phải biếm một tư
và theo lệ sang hèn, bắt phải nộp tiền tạ cho cha mẹ (nếu cha mẹ đã chết cả thì nộp
phạt cho trưởng họ hay người trưởng lang, người con gái phải phạt 50 roi)”. Điều
472 Quốc Triều Hình Luật quy định, trong trường hợp người nào đánh các quan
chức bị thương, thì ngoài tiền bồi thường thương tích, người gây thiệt hại cũng phải
đền một khoản tiền gọi là tiền tạ. Điều 473 Quốc Triều Hình Luật nêu rõ về trường


13

hợp một người lăng mạ quan chức thì ngoài khoản tiền bồi thường, người có hành
vi lăng mạ đó còn phải chịu thêm một khoản tiền phạt… Trong quan hệ hôn nhân,
Quốc Triều Hình Luật và Hoàng Việt Luật Lệ cũng có những quy định về BTTH
vật chất, tinh thần. Theo đó, nếu cha mẹ cô gái đã nhận sính lễ trong việc gả con
gái, sau đó lại từ chối gả con thì phải BTTH về danh dự cho gia đình người con trai
đã có sính lễ đó (Điều 315 Quốc Triều Hình Luật và Điều 94 Hoàng Việt Luật Lệ).

Một điều đáng nói là trong Quốc Triều Hình Luật và Hoàng Việt Luật Lệ,
các quy định về BTTH mang tính giai cấp sâu sắc. Điều này xuất phát từ bản chất
nhà nước phong kiến đầy sự bất công giữa các tầng lớp trong xã hội. Quyền lợi của
giai cấp thống trị (điển hình là vua, quan) được bảo vệ tuyệt đối còn quyền lợi của
người dân thường thì không được chú trọng. Điều 466 của Quốc Triều Hình Luật
quy định về BTTH trong đó nêu rõ: “Đối với người quyền quý thì lại xử khác”.
Điều 472 và Điều 473 Quốc Triều Hình Luật chỉ quy định về việc bồi thường một
khoản tiền tạ cho quan chức bị lăng mạ, nhưng lại không hề đề cập đến việc áp
dụng khoản tiền này đối với người bị lăng mạ là thường dân.
Như vậy, pháp luật dưới thời phong kiến Việt Nam, trải qua các triều đại nhà
nước dù không được chi tiết nhưng BTTH đã được ghi nhận trong các bộ luật. Đáng
lưu ý là việc xác định thiệt hại bao gồm cả việc xác định thiệt hại vật chất và xác
định thiệt hại tinh thần. Tuy nhiên, do hạn chế về bản chất giai cấp nên các quy định
về BTTH cũng chịu những ảnh hưởng nghiêm trọng của tính giai cấp, thể hiện rõ
nét sự bất công của xã hội phong kiến.
Năm 1884, thực dân Pháp chính thức hoàn tất xâm chiếm nước ta. Trong thời
thực dân Pháp đô hộ, dưới sự ảnh hưởng của Bộ luật Dân sự Napoleon 1804, một số
Bộ luật Dân sự Việt Nam đã được ban hành:
- Bộ luật Dân sự giản yếu của Nam Kỳ được ban hành năm 1884 (Precis de
legislation civile). Bộ luật này gồm có 11 thiên quy định về các vấn đề nhân thân,
hộ tịch, giá thú, ly hôn, phụ hệ, con nuôi, giám hộ.
- Bộ luật Dân sự Bắc Kỳ được ban hành năm 1931. Bộ luật này còn được gọi
là Bộ luật Morché (Thống sứ Bắc Kỳ). Bộ luật này được chuẩn bị khá công phu, tuy
nhiên hoàn toàn theo tinh thần của người Pháp.


14

- Bộ luật Dân sự Trung Kỳ được ban hành năm 1936 (còn gọi là Hoàng Việt
Trung Kỳ hộ luật 1936). Bộ luật này gồm 5 Quyển, 1709 Điều (nhiều hơn Bộ luật

Dân sự Bắc Kỳ 254 Điều). Các quy định về hợp đồng được xây dựng giống với luật
La Mã và được quy định khá chi tiết. Đó là các nguyên tắc cơ bản về hợp đồng bảo
lãnh, hợp đồng thuê nhân công, hợp đồng công nghệ, hợp đồng vận tải. Ngoài một
số quy định mang tính đặc thù như phần khế ước được quy định chi tiết và chặt chẽ
hơn các Bộ luật Dân sự Nam Kỳ và Bắc Kỳ, về cơ bản, Bộ luật này giống Bộ luật
Dân sự Bắc Kỳ 1931.
Giáo sư Vũ Văn Mẫu đã nhận xét rằng, các bộ luật này thiên về tính cách cá
nhân, trong khi truyền thống của người Việt trọng về gia đình. Bộ luật này chỉ chú
trọng các vấn đề cá nhân, kết hôn, ly hôn…, trong khi đó các vấn đề quan trọng như
hợp đồng, chế độ tài sản của vợ chồng, thừa kế lại không được quy định. Vì các bộ
luật này có nhiều thiếu sót, nên khi cần thiết thường phải áp dụng các quy định của
Bộ luật Gia Long và Hồng Đức. Trách nhiệm dân sự đã được Bộ Dân Luật Bắc Kỳ
và Hoàng Việt Trung Kỳ Hộ Luật quy định, đã tách bạch khỏi trách nhiệm hình sự,
nhưng trách nhiệm dân sự vẫn chỉ được tiếp nhận một cách chung, khái quát, chưa
được phân định thành trách nhiệm dân sự do vi phạm nghĩa vụ trong hay ngoài khế
ước, hợp đồng. Điều 712 Bộ Dân Luật Bắc Kỳ và Điều 761 Hoàng Việt Trung Kỳ
Hộ Luật quy định: Người nào làm bất cứ việc gì gây thiệt hại cho người khác do lỗi
của mình đều phải BTTH. BTTH trong đó có BTTH ngoài hợp đồng do vợ chồng
gây ra không được quy định thành chế định pháp luật riêng mà áp dụng các quy
định về BTTH của Bộ Luật Gia Long và Bộ Luật Hồng Đức. Do vậy, ở giai đọan
này, pháp luật không có điểm mới đáng kể nào trong các quy định về BTTH.
Phải đến khi thông tư 173 - Ủy ban Thẩm phán của Tòa án nhân dân tối cao
ngày 23/03/1972 hướng dẫn xét xử về BTTH ngoài hợp đồng ra đời thì mới đánh
dấu một bước phát triển trong lập pháp về BTTH. Chế định BTTH được giải thích
một cách cụ thể và rõ ràng. Bước phát triển rõ ràng nhất của thông tư 173 là việc
ghi nhận trách nhiệm liên đới BTTH. Theo đó, những người cùng chung gây thiệt
hại thì phải liên đới chịu trách nhiệm BTTH khi giữa họ có sự thống nhất ý chí.
Việc thống nhất ý chí được hiểu là thống nhất với nhau về hành vi lẫn hậu quả, hoặc



15

cùng nhau gây thiệt hại mà chỉ thống nhất ý chí về hành vi hoặc chỉ thống nhất về
hậu quả. Báo cáo tổng kết hội nghị toàn ngành tòa án năm 1967 nêu rõ: đối với
trách nhiệm liên đới BTTH trong các vụ săn bắn vô ý làm chết hoặc bị thương
người khác, có thể thấy không thể dựa vào tập tục lợi cùng hưởng của các phường
săn bắn để bắt chịu trách nhiệm liên đới được. Như vậy, theo giải thích của báo cáo
này thì việc xác định trách nhiệm liên đới BTTH trong trường hợp chỉ có sự thống
nhất ý chí về hậu quả cần phải xét đến phong tục tập quán nơi hành vi thiệt hại xảy
ra cũng như những người có liên quan. Toà án khi xác định trách nhiệm liên đới
BTTH căn cứ vào thiệt hại xảy ra và mức độ lỗi của mỗi người để ấn định mức bồi
thường và phần bồi thường. Đến đây, vấn đề BTTH nói chung trong đó có BTTH
ngoài hợp đồng đã được nhìn nhận một cách biện chứng và thực tiễn hơn cả về mặt
lý luận cũng như cách thức áp dụng khi xem xét mức độ lỗi, mức độ bồi thường căn
cứ vào thiệt hại thực tế chứ không phải do pháp luật ấn định, phần bồi thường của
mỗi người có trách nhiệm liên đới BTTH…
Ngày 05/04/1983, Tòa án nhân dân tối cao (TANDTC) ban hành thông tư số
03 - TATC hướng dẫn giải quyết một số vấn đề về BTTH trong tai nạn ô tô. Sỡ dĩ
có thông tư 03 này bởi trong thông tư 173 không thừa nhận việc áp dụng trách
nhiệm liên đới BTTH trong trường hợp nếu nhiều người cùng gây thiệt hại nhưng
không có sự thống nhất ý chí. Trong khi đó, xã hội phát triển, phát sinh các quan hệ
xã hội cần điều chỉnh trong đó có tai nạn ô tô như: hai người lái ô tô cùng phòng
nhanh, cùng có lỗi nên va chạm với nhau gây thiệt hại cho người thứ ba đi đường.
Thông tư 03 hướng dẫn: nếu lỗi của người thứ ba và lỗi của phía ô tô đều là nguyên
nhân gây tai nạn, thì người thứ ba và phía ô tô phải liên đới bồi thường. Như vậy,
thông tư 03 đã khắc phục thiếu sót của thông tư 173 ở chỗ quy định trong trường
hợp nhiều người gây thiệt hại nhưng giữa họ không có sự thống nhất ý chí về hành
vi cũng như hậu quả thì họ phải liên đới bồi thường cho người bị thiệt hại.
Ngày 28/10/1995 Bộ luật Dân sự của nhà nước thống nhất được ban hành và
có hiệu lực từ ngày1/7/1996. Trách nhiệm BTTH ngoài hợp đồng được chương V

phần thứ ba tại Điều 609 của Bộ luật quy định: “Người nào do lỗi cố ý hoặc lỗi vô ý
xâm phạm đến tính mạng, sức khỏe, danh dự, nhân phẩm, uy tín, tài sản và các


16

quyền, lợi ích hợp pháp khác của cá nhân, xâm phạm danh dự, uy tín, tài sản của
pháp nhân hoặc các chủ thể khác mà gây thiệt hại thì phải bồi thường”. Theo quy
định này, người có hành vi trái pháp luật dù cố ý hay vô ý gây thiệt hại về tài sản,
tính mạng, sức khỏe, nhân phẩm, danh dự, uy tín của ngời khác thì phải bồi thường
theo các nguyên tắc được quy định tại Điều 605 của Bộ luật này như sau:
“1. Thiệt hại phải được bồi thường toàn bộ và kịp thời. Các bên có thể thỏa thuận
về mức bồi thường, hình thức bồi thường bằng tiền hoặc bằng hiện vật hoặc thực
hiện một công việc, về phương thức bồi thường, trừ trường hợp pháp luật có quy
định khác
2. Người gây thiệt hại có thể được giảm mức bồi thường néu do lỗi vô ý mà gây
thiệt hại quá lớn so với khả năng kinh tế trước mắt và lâu dài của mình
3. Khi mức bồi thường không còn phù hợp với thực tế thì người bị thiệt hại hoặc
người gây thiệt hại có quyền yêu cầu tòa án hoặc cơ quan nhà nước có thẩm quyền
khác thay đổi mức bồi thường.”
Sau 10 năm có hiệu lực, nhiều quy định của Bộ luật này cần được bổ sung và
sửa đổi. Vì vậy Quốc hội khoá XI, tại Kỳ họp thứ VII, ngày 14/6/2005 đã thông qua
Bộ luật Dân sự mới. Bộ luật Dân sự 2005 cũng có kết cấu gồm 7 phần như Bộ luật
Dân sự 1995, tuy nhiên số lượng các điều được giảm bớt cho gọn nhẹ hơn, chỉ còn
777 Điều (Bộ luật Dân sự 1995 có 838 Điều). Bộ luật Dân sự 2005 được xây dựng
trên tinh thần hội nhập quốc tế, tiếp thu nhiều tư tưởng pháp luật lục địa châu Âu
(Pháp, Đức) nhưng vẫn giữ được bản sắc văn hoá truyền thống của đời sống dân sự
Việt Nam. BLDS 2005 quy định căn cứ phát sinh trách nhiệm BTTH tại Điều 604
và quy định nguyên tắc BTTH tại Điều 605. Hai quy định này tương tự như những
quy định của BLDS 1995. Theo đó, căn cứ phát sinh trách nhiệm BTTH khi một

người có lỗi dù vô ý hay cố ý xâm phạm tính mạng, sức khỏe, danh dự, nhân phẩm,
uy tín, tài sản của pháp nhân hoặc chủ thể khác mà gây thiệt hại thì phải bồi thường.
BLDS 2005 còn dành riêng một chương để quy định về các trường hợp cụ thể về
BTTH ngoài hợp đồng. Điều đáng nói là trách nhiệm BTTH ngoài hợp đồng trong
BLDS 2005 được áp dụng ngay cả trong trường hợp người gây thiệt hại không có
lỗi. Đây là điểm mới so với BLDS 1995, vì BLDS 1995 không có điều luật nào quy


17

định về mức độ lỗi mà chỉ quy định tại Điều 309 về hai hình thức lỗi cố ý và lỗi vô
ý. Đó là trách nhiệm trong trường hợp do nguồn nguy hiểm cao độ gây ra, trách
nhiệm của chủ sở hữu súc vật phải BTTH do tài sản của mình gây ra, trách nhiệm
bồi thường của người gây ô nhiễm môi trường mà không có lỗi…
Như vậy, BLDS 2005 đã khắc phục những nhược điểm của BLDS 1995 về
BTTH ngoài hợp đồng. Tuy nhiên, pháp luật hiện hành vẫn chưa đưa ra khái niệm
cụ thể về BTTH ngoài hợp đồng mà chỉ xem xét nó dưới dạng một phần của BTTH
nói chung. Mặc dù vậy, BLDS 2005 lại dành toàn bộ chương XXI để quy định về
BTTH ngoài hợp đồng. Như vậy, trong quy định của Bộ luật đã có sự phân biệt rõ
ràng giữa trách nhiệm dân sự (TNDS) do vi phạm hợp đồng và TNDS ngoài hợp
đồng. Việc phân biệt này căn cứ vào nguồn gốc phát sinh của trách nhiệm BTTH.
Trách nhiệm BTTH trong hợp đồng là loại trách nhiệm dân sự mà theo đó
người có hành vi vi phạm nghĩa vụ theo hợp đồng gây ra thiệt hại cho người khác
thì phải chịu trách nhiệm bồi thường những tổn thất do hành vi vi phạm của mình
gây ra. Trách nhiệm BTTH trong hợp đồng là trách nhiệm phát sinh khi có hành vi
vi phạm nghĩa vụ hợp đồng (thực hiện không đúng hoặc không thực hiện nghĩa vụ
hợp đồng). Cơ sở để phát sinh trách nhiệm BTTH trong hợp đồng là hợp đồng có
trước giữa các bên chủ thể (người gây thiệt hại và người người được hưởng bồi
thường). Hợp đồng có giữa các bên chủ thể nêu trên phải đảm bảo về mặt thời gian
là được xác lập trước khi có thiệt hại xảy ra. Không có hợp đồng giao kết trước giữa

các bên thì không có trách nhiệm BTTH trong hợp đồng. Trên thực tế trong nhiều
trường hợp, giữa các bên chủ thể dù có giao kết hợp đồng trước khi có thiệt hại xảy
ra nhưng trách nhiệm bồi thường cũng không phải là trách nhiệm BTTH trong hợp
đồng. Trường hợp giữa các bên có ký kết hợp đồng trước khi thiệt hại xảy ra nhưng
hợp đồng lại bị vô hiệu, bị hủy bỏ thì hợp đồng đã ký giữa các bên coi như chưa
được xác lập. Do vậy, những thiệt hại (nếu có) phát sinh trong những trường hợp
này là thiệt hại ngoài hợp đồng và người có hành vi vi phạm không chịu trách
nhiệm BTTH trong hợp đồng. Khoản 1 Điều 604 BLDS 2005 quy định: “Người
nào do lỗi cố ý hoặc vô ý xâm phạm tính mạng, sức khỏe, danh dự, nhân phẩm, uy
tín, tài sản, quyền, lợi ích hợp pháp khác của cá nhân, xâm phạm danh dự, uy tín,


18

tài sản của pháp nhân hoặc chủ thể khác mà gây thiệt hại thì phải bồi thường”.
Trách nhiệm BTTH ngoài hợp đồng là trách nhiệm của người có hành vi trái pháp
luật gây thiệt hại cho người khác về tài sản, sức khỏe, tính mạng, các quyền nhân
thân mà trước đó giữa người gây thiệt hại và người bị thiệt hại không có giao kết
hợp đồng hoặc giữa họ tồn tại quan hệ hợp đồng nhưng hành vi gây thiệt hại không
phải là hành vi vi phạm nghĩa vụ hợp đồng. Theo đó, cơ sở phát sinh trách nhiệm
BTTH ngoài hợp đồng do pháp luật quy định, không phải là thỏa thuận giữa các bên
trong hợp đồng. Khác với trách nhiệm BTTH trong hợp đồng chỉ áp dụng đối với
các bên chủ thể trong quan hệ hợp đồng, trách nhiệm BTTH ngoài hợp đồng không
những áp dụng đối với người có hành vi trái pháp luật mà còn áp dụng với người
khác như: người giám hộ của người được giám hộ, pháp nhân của người làm việc
cho pháp nhân… Trách nhiệm BTTH trong hợp đồng được xây dựng nên bởi các
quy phạm điểu chỉnh chế định hợp đồng. Trách nhiệm BTTH trong hợp đồng chỉ
tồn tại trong quan hệ hợp đồng, và phát sinh khi có hành vi vi phạm nghĩa vụ hợp
đồng gây ra thiệt hại, còn trách nhiệm BTTH ngoài hợp đồng là loại trách nhiệm
dân sự khi có hành vi vi phạm pháp luật dân sự gây thiệt hại cho người khác, và

hành vi vi phạm không phải là hành vi vi phạm hợp đồng có thể có giữa người gây
thiệt hại và người bị thiệt hại.
Như vậy, BTTH ngoài hợp đồng là một loại trách nhiệm dân sự mà theo đó
người có hành vi vi phạm pháp luật ngoài hợp đồng xâm phạm đến tính mạng, sức
khỏe, danh dự nhân phẩm, uy tín… của người khác thì phải BTTH do hành vi của
mình gây ra.
1.1.2. Đặc điểm của bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng
BTTH ngoài hợp đồng là một dạng trách nhiệm pháp lý, nên BTTH ngoài
hợp đồng do cơ quan nhà nước có thẩm quyền áp dụng, áp dụng đối với người có
hành vi vi phạm pháp luật, luôn mang đến hậu quả bất lợi cho người bị áp dụng,
được đảm bảo thực hiện bằng cưỡng chế nhà nước…
BTTH ngoài hợp đồng là một dạng của BTTH nên nó mang đầy đủ các đặc
điểm của trách nhiệm BTTH nói chung. Cụ thể như sau:


19

-

Cơ sở pháp lý: BTTH ngoài hợp đồng là một loại trách nhiệm dân sự, chịu

sự điều chỉnh của pháp luật Dân Sự. Các quy định tại BLDS 2005 và các văn bản
hướng dẫn thi hành BLDS 2005 được áp dụng để giải quyết các vấn đề liên quan
đến BTTH ngoài hợp đồng.
-

Điều kiện phát sinh: BTTH ngoài hợp đồng cũng chỉ được đặt ra khi đảm

bảo đầy đủ các điều kiện phát sinh trách nhiệm BTTH nói chung bao gồm:
+ Có thiệt hại xảy ra: Đây là tiền đề cơ bản nhất để xác định trách nhiệm

BTTH vì mục đích của BTTH là khôi phục tình trạng của người bị thiệt hại, nếu
không có thiệt hại xảy ra thì không cần thiết đặt ra vấn đề BTTH. Thiệt hại theo quy
định tại Điều 604 BLDS bao gồm: thiệt hại về tài sản (biểu hiện cụ thể là mất, giảm
sút tài sản, những chi phí để ngăn chặn, hạn chế, sửa chữa thay thế, những lợi ích
gắn liền với việc sử dụng, khai thác công dụng của tài sản); thiệt hại về tính mạng,
sức khỏe (bao gồm: chi phí cứu chữa, bồi dưỡng, chăm sóc, phục hồi chức năng bị
mất, thu nhập thực tế bị mất, bị giảm sút do thiệt hại về tính mạng, sức khỏe); thiệt
hại do danh dự, nhân phẩm, uy tín bị xâm hại (bao gồm chi phí hợp lý để ngăn
chặn, khắc phục thiệt hại, thu nhập thực tế bị mất, bị giảm sút do danh dự, nhân
phẩm, uy tín bị xâm hại); và tổn thất tinh thần (bao gồm nhiều vấn đề không thể
định lượng như: đau thương, mất mất, mồ côi, góa bụa, sự mặc cảm…). Thiệt hại có
thể nhìn thấy được, tính toán được hoặc không nhìn thấy, không định lượng được
nhưng đều được quy định thành một đại lượng vật chất nhất định để bồi thường.
+ Có hành vi gây thiệt hại: Hành vi này là hành vi trái pháp luật, được biểu
hiện dưới dạng hành động hoặc không hành động. Thông thường hành vi gây thiệt
hại là hành vi được thể hiện dưới dạng hành động (chủ thể đã thực hiện hành vi mà
đáng ra không được thực hiện hành vi đó).
+ Có lỗi của người gây ra thiệt hại: Lỗi là thái độ tâm lý của người có hành
vi gây ra thiệt hại, được thể hiện dưới dạng cố ý hoặc vô ý. Điều 604 BLDS khẳng
định trách nhiệm BTTH được đặt ra ngay cả trong trường hợp không có lỗi. Lỗi
trong trách nhiệm BTTH là lỗi được pháp luật quy định chứ không phải do suy
đoán. Trường hợp người không có năng lực hành vi, bị mất năng lực hành vi, không
thể nhận thức và làm chủ được hành vi của mình thì không phải chịu trách nhiệm


20

BTTH đối với thiệt hại đã gây ra. Trong trường hợp này, cha, mẹ, người giám hộ,
bệnh viện… phải chịu trách nhiệm bồi thường là do có lỗi trong quản lý, chăm sóc,
giáo dục người gây thiệt hại chứ không phải được suy đoán là có lỗi đối với hành vi

gây thiệt hại.
+ Có mối liên hệ nhân quả giữa hành vi trái pháp luật và thiệt hại xảy ra:
Theo đó, thiệt hại xảy ra là kết quả của hành vi trái pháp luật. Nói cách khác, hành
vi trái pháp luật là nguyên nhân dẫn đến có thiệt hại xảy ra. Việc xác định mối quan
hệ nhân quả nhiều khi rất khó khăn. Khi xem xét mối liên hệ nhân quả giữa hành vi
trái pháp luật và thiệt hại xảy ra cần xác định được về mặt thời gian đảm bảo hành
vi trái pháp luật phải xảy ra trước khi có thiệt hại.
-

Về hậu quả: BTTH luôn mang đến hậu quả bất lợi về tài sản cho người bị áp

dụng.
-

Chủ thể áp dụng: BTTH không chỉ áp dụng đối với người trực tiếp có hành

vi gây thiệt hại mà còn áp dụng với: cha, mẹ của người chưa thành niên, pháp nhân
đối với người của pháp nhân, người giám hộ của người được giám hộ…
BTTH ngoài hợp đồng mà vợ chồng là chủ thể hiện nay cũng được xem xét
dưới một dạng của BTTH ngoài hợp đồng. Tuy nhiên, quan hệ hôn nhân và gia đình
mà đặc biệt là quan hệ vợ chồng là một loại quan hệ xã hội đặc biệt nên khi xem xét
BTTH ngoài hợp đồng trong trường hợp này vì thế cần phải lưu ý một số vấn đề sau
đây: (Nghị quyết số 03/2006/HĐTP - TANDTC ngày 08/07/2006 hướng dẫn áp
dụng một số quy định của BLDS về BTTH):
+ Cần phải xác định trách nhiệm BTTH phát sinh là trách nhiệm BTTH trong
hợp đồng hay ngoài hợp đồng. Để xác định vấn đề này cần căn cứ vào nguồn gốc
phát sinh của trách nhiệm BTTH là có hay không quan hệ hợp đồng mà vợ chồng là
một bên chủ thể tham gia vì BTTH ngoài hợp đồng chỉ đặt ra khi hành vi gây thiệt
hại phát sinh ngoài hợp đồng. Tuy nhiên, cần lưu ý trách nhiệm BTTH phát sinh
trong trường hợp hợp đồng vô hiệu, bị huỷ bỏ, bị chấm dứt đề nghị giao kết hoặc

trong trường hợp hành vi gây thiệt hại không phát sinh từ nghĩa vụ hợp đồng thì vẫn
được coi là trách nhiệm BTTH ngoài hợp đồng.


21

+ Cần phải xác định tài sản của vợ chồng trong quan hệ BTTH ngoài hợp
đồng (tài sản bị thiệt hại hoặc tài sản gây thiệt hại) là tài sản chung hay tài sản riêng
của vợ chồng. Điều này hết sức quan trọng vì nó giúp xác định ai là người có trách
nhiệm BTTH khi vợ chồng có tài sản gây thiệt hại (một bên vợ, một bên chồng hoặc
cả hai vợ chồng); xác định tài sản được BTTH sẽ thuộc quyền sở hữu của ai khi vợ
chồng là người có tài sản bị thiệt hại do hành vi vi phạm pháp luật của người khác
(tài sản riêng của vợ, tài sản riêng của chồng hoặc tài sản chung của vợ chồng).
Điều 163 BDS quy định, tài sản bao gồm: vật, tiền, giấy tờ có giá và các quyền tài
sản. Vì thế, tài sản của vợ chồng cũng bao gồm: vật, tiền, giấy tờ có giá và các
quyền tài sản. Theo quy định của Luật hôn nhân và gia đình năm 2000 (HN&GĐ
2000), tài sản của vợ chồng bao gồm tài sản chung và tài sản riêng, được xác định
căn cứ vào nguồn gốc hình thành tài sản và dấu hiệu pháp lý của thời kỳ hôn nhân.
Theo đó, tài sản chung vợ chồng là tài sản chung hợp nhất bao gồm tài sản do vợ,
chồng tạo ra, thu nhập do lao động, hoạt động sản xuất kinh doanh và những thu
nhập hợp pháp khác của vợ chồng trong thời kỳ hôn nhân; tài sản mà vợ chồng
được thừa kế chung, hoặc được tặng cho chung và những tài sản khác mà vợ chồng
thỏa thuận là tài sản chung chứ không nhất thiết phải do hai vợ chồng cùng tạo ra
(Điều 27 Luật HN&GĐ 2000). Tài sản riêng của vợ, chồng là “tài sản mà mỗi bên
có từ trước khi kết hôn; tài sản được thừa kế riêng, được tặng cho riêng trong thời
kỳ hôn nhân; tài sản được chia riêng cho vợ, chồng theo quy định tại khoản 1 Điều
29 và Điều 30 của luật này; đồ dùng, tư trang cá nhân…” (Điều 32 Luật HN&GĐ
2000). Như vậy, việc xác định tài sản là tài sản riêng hay tài sản chung của vợ
chồng có ý nghĩa quan trọng trong việc xác định quyền và nghĩa vụ của vợ, chồng
cũng như bảo vệ quyền lợi của người bị thiệt hại (trong trường hợp vợ chồng là

người gây thiệt hại).
+ Cần xác định tài sản gây thiệt hại (trong trường hợp vợ chồng là người gây
thiệt hại) là tài sản nào. Việc làm này hết sức quan trọng bởi BLDS 2005 đã quy
định các trường hợp BTTH ngoài hợp đồng cụ thể tại Chương XXI của bộ luật này
như: BTTH do nguồn nguy hiểm cao độ gây ra, BTTH do súc vật gây ra, BTTH do
nhà cửa, công trình xây dựng khác gây ra; BTTH do cây cối gây ra….


×