Tải bản đầy đủ (.pdf) (81 trang)

Quyền của người khuyết tật những khía cạnh pháp lý và thực tiễn

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.26 MB, 81 trang )

TRƢỜNG ĐẠI HỌC LUẬT TP. HỒ CHÍ MINH
KHOA LUẬT HÀNH CHÍNH


NGUYỄN THỊ THU THẢO
MSSV: 3150148

QUYỀN CỦA NGƢỜI KHUYẾT TẬT
NHỮNG KHÍA CẠNH PHÁP LÝ VÀ THỰC TIỄN

KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP CỬ NHÂN LUẬT
NIÊN KHÓA: 2006 - 2010

Người Hướng Dẫn: LƢU ĐỨC QUANG
Giảng Viên Khoa Luật Hành Chính

TP. Hồ Chí Minh – Năm 2010


M ỤC L ỤC
-------------Trang
Danh mục các từ viết tắt ........................................................................................ 3
Phần mở đầu ........................................................................................................... 4
Chƣơng I: Cơ sở lý luận – pháp lý về quyền của ngƣời khuyết tật ................... 7
1.1. Cơ sở lý luận về quyền của người khuyết tật ............................................... 7
1.1.1. Các khái niệm .......................................................................................... 8
1.1.2. Các mô hình khuyết tật ............................................................................ 14
1.2. Cơ sở pháp lý về quyền của người khuyết tật .............................................. 16
1.2.1. Quyền của người khuyết tật theo pháp luật Quốc tế ............................... 16
1.2.2. Quyền của người khuyết tật theo pháp luật Việt Nam ............................ 18
+ Nhóm quyền được chăm sóc sức khỏe ..................................................... 26


+ Nhóm quyền được bảo vệ ........................................................................ 32
+ Nhóm quyền được phát triển .................................................................... 34
Chƣơng II: Thực tiễn thực hiện quyền của ngƣời khuyết tật ở nƣớc ta
và một số kiến nghị .................................................................................................. 46
2.1. Thực tiễn thực hiện quyền của người khuyết tật .......................................... 46
2.1.1. Góc độ nhận thức..................................................................................... 46
2.1.2. Góc độ pháp lý......................................................................................... 48
+ Nhóm quyền được chăm sóc sức khỏe ..................................................... 48
+ Nhóm quyền được bảo vệ ........................................................................ 52
+ Nhóm quyền được phát triển .................................................................... 54
2.2. Một số kiến nghị về việc thực hiện quyền của người khuyết tật ................. 66
2.2.1. Những biện pháp xã hội .......................................................................... 67
2.2.2. Những biện pháp pháp lý ........................................................................ 69
Phần kết luận ........................................................................................................... 74
Danh mục tài liệu tham khảo ................................................................................. 76

2


DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT
Bộ luật Hình sự năm 1999

BLHS

Bộ luật Tố tụng Hình sự năm 2003

BLTTHS

Bộ luật Dân sự năm 2005


BLDS

Bộ luật Lao động năm 1994 (sửa đổi, bổ sung năm 2002)

BLLĐ

Luật Phổ cập giáo dục tiểu học năm 1991

Luật PCGDTH

Luật Bảo vệ sức khỏe nhân dân năm 1989

Luật BVSKND

Luật Bầu cử đại biểu Quốc hội năm 1997

Luật BCĐBQH

Luật Bầu cử đại biểu HĐND năm 2003

Luật BCĐBHĐND

Luật Chăm sóc giáo dục và bảo vệ trẻ em năm 2004

Luật CSGDBVTE

Luật Bình đẳng giới năm 2006

Luật BĐG


Luật Trợ giúp pháp lý năm 2006

Luật TGPL

Luật Phịng chống bạo lực gia đình năm 2007

Luật PCBLGĐ

Luật Thể dục thể thao năm 2007

Luật TDTT

Luật Giao thông đường bộ năm 2009

Luật GTĐB

Luật Người khuyết tật năm 2010

Luật

Pháp lệnh Người tàn tật năm 1998

Pháp lệnh

Pháp lệnh Ưu đãi người có cơng với cách mạng năm 2005

Pháp lệnh
UĐNCCVCM

Bảo hiểm y tế


BHYT

Bộ Giáo dục và Đào tạo

Bộ GD&ĐT

Bộ Giao thông Vận tải

Bộ GTVT

Bộ Lao động Thương binh Xã hội

Bộ LĐTB&XH

Công ước quốc tế

CƯQT

Hội đồng nhân dân

HĐND

Quỹ việc làm cho người tàn tật

QVLCNTT

Ủy ban các vấn đề xã hội

UBCVĐXH


Ủy ban nhân dân

UBND

Ủy ban nhân quyền

UBNQ

3


PHẦN MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Bảo vệ, chăm sóc, tạo điều kiện cho người khuyết tật hồ nhập cộng đồng là những
hoạt động có ý nghĩa kinh tế, chính trị, xã hội và nhân văn sâu sắc, không chỉ là vấn đề
cấp bách đặt ra cho mỗi quốc gia, mỗi cá nhân mà là vấn đề chung của tồn nhân loại.
Cơng ước quốc tế về quyền của người khuyết tật được ký kết tại trụ sở chính của Liên hợp
quốc tại New York ngày 30/03/2007 đã khẳng định những nỗ lực của cộng đồng quốc tế
trong việc vận động thúc đẩy các quyền của người khuyết tật, đánh dấu bước ngoặc trong
cuộc đấu tranh vì quyền của người khuyết tật trên toàn thế giới khi bước vào thế kỷ XXI.
Tại Việt Nam, Hiến Pháp năm 1992 khẳng định “Ở nước Cộng hoà xã hội chủ
nghĩa Việt Nam, các quyền con người về chính trị, dân sự, kinh tế, văn hố và xã hội được
tơn trọng, thể hiện ở các quyền công dân và được quy định trong Hiến pháp và pháp luật”
(Điều 50). Đối với “người già, người tàn tật, trẻ mồ côi không nơi nương tựa được Nhà
nước và xã hội giúp đỡ” (Điều 67). Pháp lệnh người tàn tật năm 1998 ra đời đã cụ thể hóa
quy định của Hiến pháp về quyền của người khuyết tật. Pháp lệnh đã khẳng định: “bảo vệ,
chăm sóc và tạo điều kiện cho người tàn tật hòa nhập cộng đồng là những hoạt động
khơng chỉ có ý nghĩa kinh tế, chính trị, xã hội và nhân văn sâu sắc mà còn là truyền thống
tốt đẹp của dân tộc ta”. Việc tham gia ký kết Công ước quốc tế về quyền của người

khuyết tật đã đánh dấu nhận thức của Việt Nam trong vấn đề nhân quyền của người
khuyết tật. Đặc biệt, Luật Người khuyết tật được Quốc hội thông qua ngày 17/06/2010 đã
tạo những cơ chế pháp lý rõ ràng và hoàn thiện hơn về quyền của người khuyết tật trong
tình hình mới.
Người khuyết tật trong một thời kỳ dài bị coi là đối tượng của lòng thương hại, việc
bảo vệ, hỗ trợ, giúp đỡ họ chủ yếu dựa trên cách tiếp cận của tình thương và lịng nhân
đạo, chứ không bắt nguồn từ nhận thức rằng họ cũng là những chủ thể của quyền. Nhà
nước, xã hội và cá nhân khác là những chủ thể có nghĩa vụ tôn trọng và đảm bảo thực hiện
các quyền của người khuyết tật, sự kỳ thị phân biệt đối với người khuyết tật vẫn còn phổ

4


biến. Do vậy, người khuyết tật vẫn phải đối mặt với nguy cơ bị vi phạm nghiêm trọng các
quyền và nhân phẩm, đặc biệt đối với phụ nữ và trẻ em bị khuyết tật.
Từ thực trạng trên cần nhìn nhận tình trạng khuyết tật như là một vấn đề về quyền
con người, vấn đề xã hội chứ không đơn giản là vấn đề y tế và xác lập sự dịch chuyển từ
phương thức tiếp cận theo hướng nhân đạo sang nhân quyền [71]. Đó cũng chính là lí do
tơi chọn đề tài: “Quyền của người khuyết tật - Những khía cạnh pháp lý và thực tiễn”
để thực hiện khoá luận tốt nghiệp cử nhân luật của mình.
2. Mục đích nghiên cứu
Việc nghiên cứu nhằm khái quát về việc xác lập, bảo vệ và thực thi quyền của người
khuyết tật ở nước ta hiện nay dựa vào các quy định của pháp luật, đồng thời nêu lên thực
trạng thực hiện quyền của người khuyết tật ở khía cạnh pháp lý lẫn khía cạnh xã hội khác.
Từ đó, đề xuất một số kiến nghị trong vấn đề đảm bảo quyền của người khuyết tật ở nước
ta hiện nay.
3. Phạm vi nghiên cứu
Nhằm đạt được mục đích đề ra khố luận đi sâu vào nghiên cứu những quy định của
Pháp lệnh người tàn tật năm 1998 và pháp luật có liên quan đến quyền của người khuyết
tật trong đó có Luật người khuyết tật được Quốc hội thông qua ngày 17/06/2010 để làm rõ

quan điểm, đường lối, chính sách của Việt Nam trong vấn đề bảo vệ quyền của người
khuyết tật qua từng thời kỳ, các cơ chế đảm bảo thực hiện quyền của người khuyết tật và
thực trạng thực hiện quyền của người khuyết tật dựa trên các quy định của pháp luật.
Đồng thời, tìm hiểu những quy định của pháp luật quốc tế có liên quan về quyền của
người khuyết tật và đưa ra một số kiến nghị về thực hiện quyền của người khuyết tật trong
thời gian tới.
4. Phƣơng pháp nghiên cứu
Trong quá trình nghiên cứu tác giả sử dụng các phương pháp nghiên cứu duy vật
biện chứng, phương pháp duy vật lịch sử của triết học Mác-Lênin, phương pháp so sánh
giữa những quy định của pháp luật quốc tế và pháp luật Việt Nam trong việc bảo vệ quyền
của người khuyết tật, phương pháp phân tích tổng hợp, đánh giá một số quy định của pháp
luật hiện hành trong vấn đề bảo vệ quyền của người khuyết tật trên các lĩnh vực, phương

5


pháp phân tích đánh giá thực trạng thực hiện quyền của người khuyết tật, phương pháp
thống kê khi đưa ra các số liệu liên quan, phương pháp phỏng vấn…
5. Ý nghĩa nghiên cứu
Việc nghiên cứu đề tài có các ý nghĩa sau:
+ Đánh giá những quy định của pháp luật hiện hành cũng như thực tiễn trong việc
thực hiện quyền của người khuyết tật từ đó làm rõ những thiếu sót, hạn chế trong quy định
của pháp luật đồng thời, có những giải pháp pháp lý bảo vệ kịp thời và tốt nhất quyền của
người khuyết tật.
+ Cung cấp cho người đọc bức tranh toàn cảnh về số lượng và chất lượng cuộc sống
người khuyết tật hiện nay, nâng cao nhận thức và hành động của xã hội đối với người
khuyết tật để giúp họ hoà nhập tốt hơn vào cộng đồng.
+ Giúp người khuyết tật nhận thức được đầy đủ các quyền cũng như vai trị của
mình trong xã hội.
6. Kết cấu của luận văn

Nội dung khố luận trình bày trong hai chương:
+ Chương I: Cơ sở lý luận - pháp lý về quyền của người khuyết tật.
+ Chương II: Thực tiễn thực hiện quyền của người khuyết tật ở nước ta và một số
kiến nghị.
Ngồi ra, khố luận cịn có danh mục các từ viết tắt, phần mở đầu, phần kết luận và
danh mục tài liệu tham khảo.

6


CHƢƠNG I
CƠ SỞ LÝ LUẬN - PHÁP LÝ
VỀ QUYỀN CỦA NGƢỜI KHUYẾT TẬT
1.1. Cơ sở lý luận về quyền của ngƣời khuyết tật
Từ thời Hy lạp, La Mã cổ đại cho đến ngày nay, mặc dù có rất nhiều quan niệm
khác nhau nhưng có một giá trị bất biến khơng bao giờ thay đổi đó là quyền con người là
những giá trị tự nhiên, vốn có và khơng thể tách rời của mỗi con người không phân biệt họ
là ai, sinh ra ở đâu, không phân biệt thành phần, tôn giáo, giới tính hay địa vị xã hội. Điều
6 Tuyên ngơn nhân quyền chỉ rõ: “Ai cũng có quyền được công nhận là con người trước
pháp luật tại bất cứ nơi đâu”. Do vậy, quyền con người của người khuyết tật cũng đương
nhiên được pháp luật công nhận và bảo vệ trên tồn thế giới. Tun ngơn nhân quyền
khẳng định: “tất cả mọi người sinh ra đều bình đẳng về nhân phẩm và quyền. Mọi con
người đều được tạo hoá ban cho lý trí và lương tâm và cần phải đối xử với nhau trong
tình bằng hữu” (Điều 1). Sự bình đẳng thể hiện: “Mọi người đều được hưởng tất cả các
quyền và tự do nêu trong bản tuyên ngôn này, khơng phân biệt về chủng tộc, màu da, giới
tính, ngơn ngữ, tơn giáo, chính kiến hay các quan điểm khác, nguồn gốc dân tộc hay xã
hội, tài sản, nòi giống hay các tình trạng khác” (Điều 2). Hai điều này của Tuyên ngôn đã
được Hội nghị thế giới Vienra về quyền con người năm 1993 cụ thể thành khẩu hiệu: “tất
cả các quyền con người là quyền vốn có dành cho tất cả mọi người”, không phải là đặc
quyền của riêng ai, khơng phải là quyền có thể ban tặng hay từ chối.

Nhà nước Việt Nam luôn xác định con người là “vốn quý nhất, chăm lo cho hạnh
phúc con người là mục tiêu phấn đấu của chế độ ta” [47], con người vừa là động lực vừa
là trung tâm trong các chính sách kinh tế - xã hội, thúc đẩy và bảo vệ con quyền con người
là nhân tố quan trọng cho sự phát triển bền vững, đảm bảo thắng lợi sự nghiệp cơng
nghiệp hố, hiện đại hố đất nước. Chủ trương “dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng,
dân chủ, văn minh” [50- tr. 53] là mục tiêu của Đảng và Nhà nước ta nhằm “chăm lo cho
con người, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của con người” và cam kết “tôn trọng và

7


thực hiện các điều ước quốc tế về quyền con người mà Việt Nam đã ký kết hoặc gia nhập”
[49- tr. 134]. Chủ trương trên đã đánh dấu bước phát triển mới trong tư duy lý luận về
quyền con người, khẳng định quan điểm của Đảng ta trong quá trình phát triển, mở rộng
quyền con người. Với phương châm: “Nhà nước Việt Nam thừa nhận các giá trị cao quý
của các quyền và tự do cơ bản của con người” [68- tr. 7], Hiến Pháp năm 1992 đã khẳng
định: “Ở nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam, các quyền con người về chính trị,
dân sự, kinh tế, văn hố và xã hội được tơn trọng, thể hiện ở các quyền công dân và được
quy định trong Hiến pháp và pháp luật” (Điều 50).
Như vậy, quyền con người là thành quả phát triển lâu dài của lịch sử xã hội loài
người, là một trong những giá trị tinh thần quý báu nhất, cao đẹp nhất của nền văn minh
nhân loại. Bảo vệ và phát huy tối đa các quyền con người nói chung và quyền của người
khuyết tật nói riêng đang trở thành trọng tâm trong chính sách phát triển vì con người của
cộng đồng nhân loại và mỗi quốc gia. Vấn đề đặt ra là phải nhận thức một cách sâu sắc,
toàn diện giá trị quyền con người và phát huy có hiệu quả cho sự phát triển con người nói
chung và người khuyết tật nói riêng. Do đó, khi nghiên cứu, chúng tơi tiếp cận quyền của
người khuyết tật dưới những khía cạnh pháp lý và khía cạnh xã hội để làm rõ giá trị quyền
của người khuyết tật hiện nay.
1.1.1. Các khái niệm
Để làm rõ khái niệm về quyền của người khuyết tật, chúng tôi tập trung phân tích

một số khái niệm sau:
Thứ nhất: Khái niệm khuyết tật
Có rất nhiều định nghĩa khác nhau về khuyết tật. Theo Từ điển Tiếng Việt khuyết tật:
là những tật bẩm sinh, dị tật [75- tr. 517], là những tật hồn tồn có thể phục hồi và người
khuyết tật vẫn có thể tham gia vào cuộc sống xã hội.
Dựa trên định nghĩa trên, khuyết tật được hiểu theo nhiều góc độ khác nhau:
- Góc độ y học:
+ Tổ chức Y tế Thế giới khái niệm khuyết tật gắn liền với ba yếu tố sau:
 Những thiếu hụt về cấu trúc cơ thể và suy giảm các chức năng.
 Những hạn chế trong hoạt động cá thể.

8


 Mơi trường sống: những khó khăn, trở ngại do môi trường sống mang lại nên
họ không thể tham gia đầy đủ và có hiệu quả vào cộng đồng .
Theo đó, Tổ chức Y tế thế giới phân tình trạng khuyết tật thành các cấp độ sau:
 Khiếm khuyết (ở góc độ bộ phận cơ thể): bị mất hoặc tình trạng bất bình
thường một hay các bộ phận cơ thể hoặc chức năng tâm sinh lý. Khiếm khuyết có thể là
hậu quả của bệnh tật, tai nạn, các nhân tố môi trường hoặc bẩm sinh.
 Giảm khả năng (ở cấp độ cá nhân): giảm hoặc mất khả năng hoạt động do
khiếm khuyết gây ra, hạn chế hoặc mất chức năng (vận động, nghe, nói hoặc giao tiếp).
 Tàn tật (ở cấp độ xã hội): những thiệt thòi mà một người phải chịu do bị
khuyết tật. Hậu quả của sự tương tác giữa một cá nhân bị khiếm khuyết hoặc làm giảm
khả năng với những rào cản trong môi trường xã hội, văn hoá hoặc vật chất, làm cho cá
nhân này khơng thể tham gia một cách bình đẳng vào cuộc sống cộng đồng chung hoặc
hồn thành một vai trị bình thường.
Như vậy, theo Tổ chức Y tế Thế giới, người khuyết tật trở thành tàn tật là do thiếu
cơ hội để tham gia các hoạt động xã hội và có một cuộc sống như mọi thành viên khác
[88].

+ Theo Liên hợp quốc: khuyết tật bao gồm nhiều dạng hạn chế khác nhau về chức
năng xuất hiện ở bất kỳ nhóm dân cư nào. Con người có thể bị mất khả năng về thể chất,
trí tuệ, giác quan, tư duy, về tình trạng y học, bệnh tâm thần. Những khiếm khuyết hay
bệnh tật này có thể mang tính vĩnh viễn hoặc tạm thời [9].
- Góc độ xã hội: Coi khuyết tật là hậu quả của những việc xấu hoặc những tội lỗi
mà thế hệ trước của người khuyết tật gây ra, xuất phát từ quan niệm luân hồi, quan niệm
này cho rằng cuộc đời không phải là một thể liên tục theo chiều luyến tính từ sinh đến tử
mà là một vịng tuần hồn. Chỉ có thể xác con người là chết cịn linh hồn thì khơng bao
giờ chết mà nó được đầu thai vào một thực thể khác. Do đó, những người phạm phải
những việc xấu sẽ không chỉ bị trừng phạt là bị đầu thai vào một mức thấp hơn trong vịng
đời mà con cháu của họ có thể phải chịu khuyết tật như một hậu quả phổ biến nhất (“Ác
giả, ác báo”; “Gieo nhân nào gặt quả đấy”). Vì vậy, xã hội mặc dù vẫn thương cảm người

9


khuyết tật nhưng họ cũng chính là mục tiêu của sự chế giễu và xa lánh của xã hội. Thằng
mù, thằng què, đồ dở hơi… là những cách gọi miệt thị phổ biến.
- Góc độ tơn giáo: Phật giáo cho rằng khuyết tật là do kết quả của những nghiệp
báo, tức là thiện nghiệp thì được quả thiện mà ác nghiệp thì được quả ác. Phật giáo
ngun thủy khơng cho người khuyết tật quá nặng vào tăng đoàn, lý do khơng phải bởi sự
kỳ thị mà là vì khi đức Phật còn tại thế, nhiều người do khuyết tật nên khả năng tự ni
sống rất khó khăn dẫn đến tâm lý mượn danh Tăng ni để được cúng dường, nhận lương
thực thực phẩm do người khác cung cấp trong khi đó, đi tu mục đích tối thượng là để cầu
giải thoát [63].Tuy nhiên, về khả năng tu chứng để đạt được niết bàn, Phật giáo cho rằng
bất cứ người nào dù nam hay nữ, dù lành lặn hay khuyết tật đều có thể thành cơng vì theo
giáo lý tất cả chúng sinh đều có phật tính [58].
Từ những quan niệm trên cho thấy khuyết tật được tiếp cận ở nhiều góc độ khác
nhau và sẽ thay đổi theo thời gian nhưng về cơ bản có thể định nghĩa khuyết tật như sau:
khuyết tật đƣợc xem là một tình trạng hoặc một chức năng đƣợc đánh giá là đã bị

khiếm khuyết nghiêm trọng so với tình trạng bình thƣờng của đa số dân chúng bao
gồm: khiếm khuyết về mặt thể chất, giác quan, nhận thức, trí tuệ hoặc những vấn đề
tâm lý khác.
Thứ hai: Khái niệm ngƣời khuyết tật
- Theo Điều 1 Công ước quốc tế về quyền của người khuyết tật năm 2007, người
khuyết tật được hiểu là: “những người có khiếm khuyết lâu dài về thể chất, tâm thần, trí
tuệ hoặc giác quan mà khi tương tác với những rào cản khác nhau có thể phương hại đến
sự tham gia hữu hiệu và trọn vẹn của họ vào xã hội trên cơ sở bình đẳng với những người
khác”.
- Theo Luật Hoa Kỳ (Americans winh Disabilities Act of 1990-ADA): người khuyết
tật là người bị khiếm khuyết về thể chất hoặc tinh thần, bị giới hạn đáng kể nhiều hoạt
động sinh hoạt chính, có hồ sơ về khiếm khuyết đó và bị coi là người có khiếm khuyết đó,
người khuyết tật đủ tiêu chuẩn là người bị khuyết tật đáp ứng những yêu cầu cần thiết để
nhận các dịch vụ hoặc tham gia vào những chương trình hành động, một điều kiện cụ thể

10


có phải là khuyết tật theo nghĩa của ADA hay không cần xác định theo từng trường hợp
[6].
- Theo Luật Anh (DDA -Disability Discrimination Act): người khuyết tật là người
có một hoặc nhiều khiếm khuyết về thể chất hoặc tinh thần mà vì thế gây ra suy giảm
đáng kể và lâu dài đến khả năng thực hiện các hoạt động sinh hoạt hàng ngày. Khi xét về
mặt thời gian tác động thì khiếm khuyết kéo dài hoặc sẽ có thể kéo dài mà ít hơn 12 tháng
bình thường khơng được coi là khuyết tật, trừ phi là bị tái đi tái lại, một số người có khiếm
khuyết kéo dài hơn một năm thì vẫn ở trong diện của DDA, cả khi họ sẽ được phục hồi
hoàn toàn [7].
- Theo Luật Cộng hoà Liên bang Đức: người khuyết tật là người có các chức năng
về thể lực, trí lực hoặc tâm lý tiến triển khơng bình thường so với những người có cùng độ
tuổi trong thời gian trên 6 tháng và sự khơng bình thường này là ngun nhân dẫn đến

việc họ bị hạn chế tham gia vào cuộc sống xã hội [10].
- Theo Điều 1 Pháp lệnh người tàn tật của Việt Nam: “người tàn tật không phân biệt
nguồn gốc gây ra tàn tật là những người bị khiếm khuyết một hay nhiều bộ phận cơ thể
hoặc chức năng biểu hiện dưới những dạng tàn tật khác nhau, làm suy giảm khả năng
hoạt động, khiến cho lao động, sinh hoạt, học tập gặp nhiều khó khăn”. Theo đó, nếu một
người bị tàn tật nặng như bệnh tâm thần hoặc mắc các bệnh khác mà không thể nhận thức,
làm chủ được hành vi của mình đã bị Tịa án ra quyết định tuyên bố mất năng lực hành vi
dân sự trên cơ sở kết quả giám định thì theo điều 22 BLDS, người đó bị coi là mất năng
lực hành vi dân sự tức mất khả năng tự mình xác lập, thực hiện các quyền và nghĩa vụ của
mình.
Từ những khái niệm trên cho thấy, có sự khác nhau về tên gọi người khuyết tật của
các quốc gia và của CƯQT so với người tàn tật theo quan điểm của pháp luật nước ta. Rõ
ràng, hai khái niệm này là hoàn toàn khác nhau và sự khác nhau về tên gọi sẽ ảnh hưởng
rất lớn đến việc xác định đối tượng thụ hưởng quyền. Mặt khác, so với các nước Hoa Kỳ,
Anh, Đức thì bên cạnh những khiếm khuyết về mặt cấu trúc cơ thể và sự cản trở sự tham
gia vào đời sống xã hội do các khuyết tật gây ra, người khuyết tật cần có những tiêu
chuẩn, những định lượng cụ thể để xác định tình trạng khuyết tật. Có thể nói, khái niệm

11


người tàn tật theo Pháp lệnh của nước ta chứa đựng rất nhiều thiếu sót và khơng bao hàm
được nhiều đối tượng. Do vậy, Luật đã tiến hành thay đổi về mặt tên gọi từ người tàn tật
sang người khuyết tật. Trong luận văn của mình, tác giả sử dụng khái niệm người khuyết
tật vì những lí do sau:
+ Việt Nam là quốc gia thứ 118 tham gia ký CƯQT về quyền của người khuyết tật
do đó, để phù hợp với cộng đồng quốc tế trong quá trình bảo vệ quyền của người khuyết
tật cần có sự thay đổi về mặt ngôn ngữ thể hiện.
+ Sử dụng khái niệm người khuyết tật mang tính nhân văn hơn so với người tàn tật.
Như đã nói khuyết tật là những khiếm khuyết về mặt thể chất, tâm thần, trí tuệ hoặc giác

quan. Từ khuyết mang nghĩa suy giảm chức năng nhưng vẫn có khả năng phục hồi cịn tàn
tật có nghĩa là có một cơ quan quan trọng nào đó bị tật nặng, mất khả năng lao động, hoạt
động bình thường, khơng có khả năng phục hồi [75- tr. 888]. Như vậy, người khuyết tật
hồn tồn có thể tham gia vào đời sống xã hội chứ không phải là những người vô dụng, bỏ
đi, đứng ngồi lề dịng chảy của xã hội. [69- tr. 377], họ tàn nhưng không phế. Khái niệm
này cịn thể hiện sự tơn trọng và động viên người khuyết tật phấn đấu vươn lên trong cuộc
sống.
+ Khái niệm người tàn tật có hàm ý miệt thị và hạ thấp và cịn có ý nghĩa phân biệt
vì từ tàn gợi đến hình ảnh tiêu cực, tạo cảm giác khơng cịn khả năng gì, tàn có nghĩa là
hết. Như vậy, khái niệm này khơng chính xác cả về nội dung lẫn hình thức vì trên thực tế
những người bị tật vẫn có thể phát triển tài năng và trí tuệ một cách bình thường thậm chí
có những người đạt được những thành tích vượt trội hơn so với người bình thường.
+ Một số quan niệm cho rằng dùng từ khuyết tật là trái với quy định của Hiến pháp
vì tại điều 67 Hiến pháp năm 1992 sử dụng từ người tàn tật chứ không phải người khuyết
tật. Tuy nhiên, theo quan điểm cá nhân tác giả cho rằng việc sử dụng từ người khuyết tật
thay cho người tàn tật là khơng có sự vi phạm Hiến pháp bởi như chúng ta đã biết, quyền
con người mang tính lịch sử, là một trong những hiện tượng xã hội gắn liền với q trình
phát triển của xã hội lồi người. Vì vậy, với tư cách là một trong những chủ thể của quyền
con người thì quyền của người khuyết tật nói riêng cũng mang tính lịch sử. Do đó, trong
mỗi giai đoạn lịch sử khác nhau, trong những điều kiện kinh tế xã hội khác nhau thì sự

12


nhận thức về quyền con người nói chung và quyền của người khuyết tật cũng có sự khác
nhau do các điều kiện kinh tế, chính trị, văn hố, truyền thống… quy định. C.Mác đã từng
chỉ ra rằng: “Quyền không thể cao hơn trình độ phát triển kinh tế”. Cho nên, việc sử dụng
từ người khuyết tật thay cho người tàn tật thể hiện thành tựu về kinh tế, sự phát triển của
nhận thức, là kết quả của sự phát triển xã hội và sự quan tâm chia sẽ mà Nhà nước và xã
hội dành cho người khuyết tật.

+ Bên cạnh đó, việc đảm bảo, thúc đẩy, thực hiện và bảo vệ quyền con người nói
chung, quyền của người khuyết tật nói riêng xét ở một phương diện nhất định là mục tiêu
hướng tới xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa - nơi Nhà nước đảm bảo sự
tối cao của pháp luật và đồng thời pháp luật ở đây là pháp luật cho con người, vì con
người và mang tính nhân đạo, nhân văn sâu sắc. Vì vậy, việc sử dụng khái niệm người
khuyết tật bao trùm nhiều đối tượng cần được bảo vệ hơn, phù hợp với CƯQT cũng như
thể hiện giá trị nhân đạo, sự công nhận về mặt pháp lý về khả năng của người khuyết tật,
không coi họ chỉ là đối tượng bảo trợ của xã hội mà nhìn nhận họ là những người có tiềm
năng. Điều này sẽ dẫn đến sự thay đổi trong công tác về người khuyết tật, vấn đề bảo vệ
quyền con người trong “Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của dân, do dân, vì dân”
tại điều 2 của Hiến pháp 1992 sẽ được đảm bảo.
Trên tinh thần đó, khoản 1 điều 2 Luật Người khuyết tật định nghĩa:“ Người khuyết
tật là người bị khiếm khuyết một hoặc nhiều bộ phận cơ thể hoặc suy giảm chức năng
được biểu hiện dưới dạng tật khiến cho lao động, sinh hoạt, học tập gặp khó khăn”. Như
vậy, định nghĩa người khuyết tật của Luật phù hợp hơn với tinh thần của CƯQT về quyền
của người khuyết tật mà Việt Nam đã ký kết, đồng thời khắc phục được những hạn chế
của Pháp lệnh bằng cách phân định khuyết tật thành các dạng tật và mức độ khuyết tật cụ
thể tại điều 3 của Luật. Việc phân thành các dạng tật và mức độ khuyết tật sẽ tạo thuận lợi
cho công tác tổng hợp, thống kê số liệu người khuyết tật, là cơ sở để hoạch định các chính
sách, các chế độ trợ giúp kịp thời phù hợp với từng đối tượng khuyết tật. Luật đã dành
Chương II quy định cụ thể về các vấn đề sau:
+ Phương pháp và trách nhiệm xác định mức độ khuyết tật theo đó, trách nhiệm xác
định mức độ khuyết tật sẽ giao cho Hội đồng xác định mức độ khuyết tật thành lập ở cấp

13


xã đồng thời xác định rõ trách nhiệm, cơ cấu tổ chức và hoạt động cho cơ quan này (Điều
16).
+ Để đảm bảo tính chính xác trong việc xác định mức độ khuyết tật và giải quyết

khiếu nại của người khuyết tật, Luật cũng đã giao nhiệm vụ xác định cho Hội đồng giám
định y khoa cấp tỉnh trong các trường hợp đặc biệt (Điều 15).
+ Luật cũng xác định rõ hai phương pháp xác định mức độ khuyết tật là phương
pháp quan sát trực tiếp đối với những khuyết tật đơn giản và phương pháp y khoa đối với
những trường hợp đặc biệt (Điều 17).
+ Để đảm bảo tính thống nhất trong việc xác định mức độ khuyết tật tại các địa
phương khác nhau, hạn chế những quyết định thiếu khách quan và tăng cường giám sát
của nhân dân, Luật quy định việc niêm yết và thông báo công khai kết quả xác định tại địa
phương (Điều 18). Việc xác định và cấp giấy xác nhận cho người khuyết tật là cơ sở để
người khuyết tật được bảo vệ và ưu tiên trong việc thụ hưởng các quyền mà pháp luật ghi
nhận, tạo cơ hội cho người khuyết tật hịa nhập tùy theo khả năng và tình hình sức khỏe
của mình. Đây thực sự là sự tiến bộ rất lớn của Nhà nước trong vấn đề nhìn nhận tình
trạng khuyết tật như một phần trong tổng thể các chính sách của quốc gia, thể hiện q
trình nội lực hóa CƯQT về quyền của người khuyết tật mà Việt Nam đã ký kết.
Xét về mọi phương diện, người khuyết tật là những người phải gánh chịu những
thiệt thịi và khó khăn trong việc thụ hưởng các quyền do các khiếm khuyết về mặt thể
chất gây ra. Vì vậy, bảo vệ quyền của người khuyết tật không phải là vấn đề mang tính cá
nhân, riêng rẽ của gia đình người khuyết tật mà là vấn đề của nhân loại, của quốc gia, của
xã hội và ở cả chính bản thân người khuyết tật. Nó đặt ra địi hỏi từ phía Nhà nước, xã hội
phải có những nhìn nhận tiến bộ, bình đẳng và tôn trọng người khuyết tật, bản thân người
khuyết tật cũng là đối tượng cần phải hiểu rõ các quyền mà pháp luật ghi nhận cho mình
để khơng ngừng phấn đấu trở thành người có ích cho xã hội.
1.1.2. Các mơ hình khuyết tật
Mơ hình khuyết tật là những định nghĩa, những cách giải thích khác nhau về khuyết
tật dưới những góc độ cụ thể. Tìm hiểu mơ hình khuyết tật sẽ giúp người đọc hiểu rõ bản
chất, thái độ trong mỗi mơ hình về khuyết tật, thấy rõ vai trị của tồn xã hội đối với người

14



khuyết tật để có những biện pháp, những hành động cụ thể giúp người khuyết tật tham gia
hòa nhập và đóng góp cho xã hội, góp phần bảo đảm quyền của người khuyết tật trong
thực tế. Có nhiều mơ hình về khuyết tật nhưng quan trọng và phổ biến nhất là hai mơ hình
sau:
+ Mơ hình y học của khuyết tật: Theo đó, khuyết tật là tình trạng suy giảm thể chất,
tinh thần của một cá nhân ảnh hưởng xấu đến chất lượng cuộc sống và gây ra những thiệt
thòi cho cá nhân đó. Như vậy, việc chữa trị hoặc kiểm sốt khuyết tật đồng nghĩa với việc
xác định, tìm hiểu cũng như tác động lên khuyết tật. Do đó nếu chính phủ, khu vực tư
nhân và tồn xã hội đầu tư cho việc chăm sóc sức khoẻ và các dịch vụ có liên quan để
chữa trị các khuyết tật về mặt y học sẽ giúp người khuyết tật có một cuộc sống bình
thường. Mơ hình này nhấn mạnh đến bản chất của chính khuyết tật.
+ Mơ hình xã hội của khuyết tật: Theo đó, những rào cản và định kiến của xã hội
dù là có chủ ý hay vơ ý là những nguyên nhân chính xác định ai là người khuyết tật và ai
không là người khuyết tật. Mô hình này cho rằng một số người có những khác biệt về mặt
tâm lý, trí tuệ hoặc thể chất (những khác biệt mà đơi khi có thể coi là những khiếm
khuyết) so với chuẩn mực chung, nhưng những khác biệt này sẽ khơng dẫn đến các khó
khăn nghiêm trọng trong cuộc sống nếu xã hội có thể giúp đỡ và có suy nghĩ, ứng xử tích
cực. Mơ hình xã hội nhấn mạnh tới sự bình đẳng và chú trọng đến những thay đổi cần
thiết của xã hội nhất là những thay đổi về thái độ đối với người khuyết tật, tăng cường trợ
giúp xã hội, cung cấp thêm thông tin cho người khuyết tật, trong thiết kế xây dựng hạ tầng
cần chú trọng nâng cao khả năng tiếp cận của người khuyết tật, mơ hình xã hội nhấn mạnh
mối quan hệ qua lại giữa cá nhân và môi trường xã hội. Mơ hình này cịn cho rằng hệ
thống giá trị chủ quan đã làm suy giảm sự tôn trọng và sự chấp nhận của xã hội đối với
người khuyết tật.
Ngoài hai mơ hình khuyết tật nêu trên cịn có một số mơ hình ít phổ biến hơn như:
mơ hình đạo đức - người khuyết tật phải chịu trách nhiệm về đạo đức đối với khuyết của
chính họ (chẳng hạn như bị khuyết tật bẩm sinh là do những hành động xấu của cha mẹ
hay ơng bà mang lại); mơ hình chuyên nghiệp - xử lý truyền thống đối với khuyết tật theo
đó nhà cung cấp dịch vụ tự quyết định cần phải làm gì để điều trị khuyết tật, cịn người


15


khuyết tật giữ vai trò là bệnh nhân thụ động; mơ hình từ thiện - mơ tả người khuyết tật là
nạn nhân của hồn cảnh và vì vậy đáng được thông cảm.
1.2. Cơ sở pháp lý về quyền của Ngƣời khuyết tật
1.2.1. Quyền của ngƣời khuyết tật theo pháp luật quốc tế
Theo thống kê của Tổ chức Y tế Thế giới (WHO), tổng số người khuyết tật trên thế
giới hiện nay vào khoảng 650 triệu, chiếm 10% dân số của nhân loại [88]. Người khuyết
tật được coi là nhóm thiểu số lớn nhất thế giới cùng với phụ nữ, trẻ em, người cao tuổi.
Người khuyết tật cũng là một trong các nhóm người dễ bị tổn thương nhất, chính vì tình
trạng khuyết tật đã khiến cho họ đã và đang phải gánh chịu những thiệt thòi về mọi mặt
trong đời sống xã hội. Khơng những vậy, khuyết tật cịn là nguyên nhân khiến nhiều ngưởi
phải đối mặt với nguy cơ bị vi phạm nghiêm trọng các quyền và nhân phẩm. Sự ra đời của
Liên hợp quốc trong những năm đầu thế kỷ XX là dấu ấn quan trọng trong công cuộc bảo
vệ và phát huy quyền con người. Theo đó, hàng trăm các văn kiện quốc tế quan trọng về
quyền con người lần lượt soạn thảo và thông qua, trong đó quan trọng nhất là Tun ngơn
thế giới về quyền con người (1948) đã nêu những nguyên tắc pháp lý chung trong vấn đề
bảo vệ quyền con người, theo đó sự ra đời của hai bản công ước: Công ước về các quyền
dân sự và chính trị 1966, Cơng ước quốc tế về các quyền kinh tế, xã hội và văn hoá đã tạo
thành “Bộ luật quốc tế về quyền con người và là Hiến chương của cộng đồng quốc tế
trong lĩnh vực nhân quyền” [57- tr. 31]. Tuy về mặt pháp lý, các điều ước quốc tế trên
khơng có một điều khoản riêng nào về quyền của người khuyết tật, trong thế kỷ này cũng
khơng có một điều ước nào quy định riêng về quyền của người khuyết tật mà duy nhất chỉ
có Cơng ước về quyền trẻ em (1989) trong đó có đề cập việc bảo vệ quyền của trẻ em
khuyết tật (Điều 23) là có giá trị ràng buộc với các bên có liên quan. Tuy nhiên, cũng cần
hiểu rằng Tuyên ngôn thế giới về quyền con người và các điều ước quốc tế có liên quan đã
khẳng định nguyên tắc tất cả mọi người đều có quyền hưởng các quyền con người một
cách bình đẳng mà khơng có bất kỳ sự kỳ thị nào nên người khuyết tật rõ ràng cũng là chủ
thể của các quyền con người, quyền của người khuyết tật cũng cấu thành một bộ phận

quan trọng của luật quốc tế về quyền con người. Việc khơng có một điều ước riêng hay
những điều khoản cụ thể liên quan đến quyền của người khuyết tật trong hai CƯQT cơ

16


bản về quyền con người năm 1966 theo Uỷ ban các quyền về kinh tế, xã hội, văn hoá chỉ
là “do nhận thức không đầy đủ về tầm quan trọng của vấn đề này chứ không phải là sự
lãng quên các quyền con người của người khuyết tật” [8]. Thực tế đã chứng minh nhận
định trên bằng sự ra đời của khá nhiều văn kiện không ràng buộc nhằm thúc đẩy quyền
của nhóm người này như: Tuyên bố về quyền của những người tàn tật và tâm thần (1969),
Tuyên bố về quyền của những người tàn tật (1971), Chương trình hành động thế giới về
quyền của người tàn tật (1982), Các quy tắc tiêu chuẩn về bình đẳng hố cơ hội cho người
khuyết tật (1993)… Ngoài ra, Liên hợp quốc đã lấy năm 1981 là năm quốc tế về người
khuyết tật và thơng qua Chương trình hành động thế giới về người khuyết tật vào năm
1982. Đặc biệt, trong tuyên bố Viên và chương trình hành động (đoạn 13) năm 1993, Hội
nghị thế giới về quyền con người lần thứ II đã nêu rõ: “Tất cả các quyền con người và tự
do cơ bản là mang tính phổ biến bởi vậy, tất cả mọi người, kể cả người khuyết tật, đều là
chủ thể bình đẳng của những quyền này”.
Những nỗ lực của cộng đồng quốc tế trong việc bảo vệ quyền của người khuyết tật
càng trở nên kiên quyết và mạnh mẽ hơn khi CƯQT về quyền của người khuyết tật được
Liên hợp quốc thông qua. Theo ông Don Mackay, Chủ tịch Ủy ban lâm thời soạn thảo
cơng ước thì “đây là điều ước quốc tế đầu tiên về quyền con người trong thế kỷ XXI và
cũng là điều ước quốc tế đầu tiên xác lập một cách chi tiết các quyền của người khuyết tật
và những quy tắc cho việc thực hiện các quyền này” [86].
Tinh thần của Công ước quy định những vấn đề sau:
+ Nêu ra những định nghĩa quan trọng làm cơ sở cho việc thống nhất nhận thức về
người khuyết tật như: định nghĩa người khuyết tật, sự phân biệt đối xử trên cơ sở khuyết
tật, sự điều chỉnh hợp lý, thiết kế phổ dụng… đã có ý nghĩa lớn trong việc xác lập cơ sở để
thúc đẩy và bảo vệ các quyền của người khuyết tật.

+ Đề cập đến những nguyên tắc chỉ đạo như: tôn trọng nhân phẩm, quyền tự chủ và
sự độc lập các nhân, tôn trọng sự khác biệt và chấp nhận người khuyết tật như là một bộ
phận của nhân loại có tính đa dạng, dễ tiếp cận, tơn trọng khả năng phát triển của trẻ em
khuyết tật… quan trọng nhất là ngun tắc bình đẳng khơng phân biệt đối xử và các biện
pháp để thúc đẩy sự bình đẳng. Những nguyên tắc kể trên được xây dựng trên cơ sở tính

17


đến các nhu cầu đặc thù của người khuyết tật và đều nhằm bù đắp cho những hạn chế,
thiệt thòi của người khuyết tật.
+ Đề cập đến nghĩa vụ của các quốc gia thành viên trong việc hiện thực hóa các
quyền của người khuyết tật, yêu cầu các quốc gia thành viên phải có các biện pháp tức thì
và hiệu quả trong việc nâng cao nhận thức của xã hội về quyền, năng lực và sự đóng góp
của người khuyết tật cũng như đấu tranh xóa bỏ những định kiến và tập tục có hại đối với
người khuyết tật.
+ Cơng ước đã liệt kê những quyền con người có ý nghĩa quan trọng đối với người
khuyết tật như: quyền được sống, quyền được tôn trọng cuộc sống riêng tư, quyền tự do
biểu đạt, quyền được kết hôn và lập gia đình, quyền tự do và an tồn cá nhân… Kèm theo
những điểm nhấn và sự mở rộng nhằm đảm bảo chúng áp dụng một cách phù hợp với đặc
trưng dễ bị tổn thương của người khuyết tật, Công ước cũng quy định những quyền có
tính chất đặc thù, áp dụng riêng cho người khuyết tật như: được hỗ trợ phục hồi chức
năng, quyền được hòa nhập và hỗ trợ để hòa nhập, quyền hỗ trợ trong việc đi lại… Đặc
biệt, Cơng ước cịn dành hai điều riêng (Điều 6 và Điều 7) cho hai đối tượng dễ bị phân
biệt đối xử hơn những người khuyết tật khác là phụ nữ khuyết tật và trẻ em khuyết tật, yêu
cầu các quốc gia thành viên quan tâm đến tính chất tổn thương kép của phụ nữ và trẻ em
khuyết tật để có những biện pháp thích hợp bảo đảm cho họ được hưởng trọn vẹn và bình
đẳng các quyền và tự do cơ bản của con người.
1.2.2. Quyền của ngƣời khuyết tật theo pháp luật Việt Nam
Theo báo cáo của Bộ LĐTB&XH, hiện nay cả nước có khoảng 5,3 triệu người

khuyết tật chiếm khoảng 6,34% dân số (trong đó có 1,1 triệu người khuyết tật nặng chiếm
21,5% tổng số người khuyết tật). Nguyên nhân gây nên là 35,8% do bẩm sinh, 32,34% do
bệnh tật, 25,56% do tai nạn chiến tranh, 3,49% vì tai nạn lao động và 2,81% do những
nguyên nhân khác [65]. Dự báo trong những năm tới số lượng người khuyết tật sẽ cịn tiếp
tục tăng vì một khi những nguyên nhân gây nên khuyết tật chẳng hạn như bệnh tật, tai
nạn, chiến tranh, ơ nhiễm mơi trường… vẫn cịn thì mọi người vẫn có thể tiềm ẩn những
nguy cơ trở thành người khuyết tật. Thực tế cho thấy, “mỗi khi một số nguy cơ được hoá

18


giải thì lại có những ngun nhân khác nẩy sinh do đó, sự tồn tại của khuyết tật là một
thực tế khách quan nằm ngoài mong muốn của con người” [59- tr. 26].
Nhận thức được vấn đề trên, trong tiến trình phát triển kinh tế - xã hội, Đảng và
Nhà nước ta ln quan tâm và coi trọng các chính sách dành cho người khuyết tật. Ngay
từ khi ra đời, Chính phủ Việt Nam dân chủ cộng hồ đã khẳng định “Những người công
dân già cả hoặc tàn tật không được làm việc thì được giúp đỡ” (Điều 14 Hiến pháp năm
1946). Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (6/1991)
đã chỉ rõ: “không ngừng nâng cao đời sống vật chất cho mọi thành viên trong xã hội.
Chăm lo đời sống những người già cả, neo đơn, người tàn tật mất sức lao động và trẻ mồ
côi”. Hiến pháp năm 1992 cũng tiếp tục ghi nhận: “Người già, người tàn tật, trẻ mồ côi
không nơi nương tựa được Nhà nước và xã hội giúp đỡ” (Điều 67) và “Nhà nước và xã
hội tạo điều kiện cho trẻ em khuyết tật được học văn hóa và học nghề phù hợp” (Điều 59).
Đồng thời khẳng định mọi thành viên, bao gồm cả người khuyết tật đều được Nhà nước
bảo đảm quyền công dân như nhau và đều được hưởng thành quả của sự phát triển xã hội.
Nghị quyết đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VIII tiếp tục nhấn mạnh việc “thực hiện các
chính sách bảo trợ trẻ em mồ côi, lang thang cơ nhỡ, người già neo đơn, nạn nhân chiến
tranh, người tàn tật” và “tiến tới xây dựng luật về bảo trợ người tàn tật”. Bên cạnh những
chủ trương và chính sách pháp luật trong nước, Việt Nam cũng đã tham gia ký kết hàng
loạt các CƯQT về quyền con người trong đó có Bộ luật quốc tế về quyền con người. Cụ

thể, nước ta đã gia nhập Công ước về các quyền dân sự, chính trị và Cơng ước về các
quyền kinh tế, xã hội và văn hóa năm 1966 vào ngày 24/09/1982. Năm 1982 để hưởng
ứng năm quốc tế người khuyết tật do Liên hiệp quốc phát động, Chính phủ đã thành lập
Ủy ban Nhà nước về Thập kỷ quốc tế về người khuyết tật. Năm 1993 Việt Nam cam kết
thực hiện 7 lĩnh vực ưu tiên trong khuôn khổ hành động thiên niên kỷ Bikawo- hướng tới
một xã hội hịa nhập, khơng vật cản vì quyền của người khuyết tật khu vực Châu Á - Thái
Bình Dương thập kỷ thứ II (2001-2012). Đặc biệt, việc tham gia ký kết CƯQT về quyền
của người khuyết tật của nước ta vào ngày 22/10/2007 đã đánh dấu bước ngoặc trong nhận
thức về người khuyết tật đồng thời, xác lập cơ chế pháp lý trong việc bảo vệ các quyền
cho người khuyết tật. Nhận thức rằng, tình trạng khuyết tật khơng tự nó gây khó khăn cho

19


người khuyết tật mà chính những điều kiện và rào cản xã hội họ phải đối mặt đã gây ra
điều đó: hành động sĩ nhục của cộng đồng, sự phụ thuộc về tài chính, sức khỏe, giới tính
hay sự phụ thuộc vào người khác bởi sự nghèo túng… Chúng ta đã xây dựng hệ thống các
văn bản pháp luật về người khuyết tật tương đối đầy đủ, bao gồm hai nghị quyết và 20 luật
quy định về các vấn đề có liên quan đến người khuyết tật. Chính phủ, các bộ, ngành có
liên quan và các địa phương khắp nơi trên cả nước đã ban hành hơn 200 văn bản để triển
khai thực hiện trong đó, đáng chú ý nhất là Pháp lệnh người tàn tật năm 1998. Pháp lệnh
đã quy định vai trò, trách nhiệm của các cơ quan Nhà nước, gia đình và xã hội đối với
người khuyết tật và khẳng định quyền của người khuyết tật trong những lĩnh vực quan
trọng của cuộc sống như giáo dục, y tế, việc làm, tham gia hoạt động xã hội... Pháp lệnh ra
đời đã đem đến những thay đổi tích cực, cải thiện một phần đời sống của người khuyết tật.
Tuy nhiên, cùng với sự phát triển của kinh tế - xã hội, vấn đề nhìn nhận quyền của người
khuyết tật cũng có nhiều thay đổi đáng kể nên Pháp lệnh đã bắt đầu bộc lộ những hạn chế.
Do đó, Luật ra đời trên cơ sở kế thừa những thành tựu của Pháp lệnh đồng thời có những
bổ sung phù hợp với tình hình phát triển kinh tế - xã hội cũng như phù hợp với tinh thần
của CƯQT về quyền của người khuyết tật mà Việt Nam đã ký kết nhằm xây dựng và hồn

thiện các chính sách pháp luật dành cho nhóm đối tượng dễ bị tổn thương này. Những quy
định trên cho thấy về cơ bản, các văn bản pháp luật về quyền của người khuyết tật đã cụ
thể hóa quy định của Hiến pháp năm 1992: “Ở nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam,
các quyền con người về chính trị, dân sự, kinh tế, văn hố và xã hội được tơn trọng, thể
hiện ở các quyền công dân và được quy định trong Hiến pháp và pháp luật” (Điều 50).
Dựa trên những quy định của Pháp lệnh và Luật, chúng ta có thể tìm hiểu quyền của
người khuyết tật theo các nhóm quyền. Việc phân chia các nhóm quyền xuất phát từ các
cơ sở sau:
Thứ nhất: Quyền bình đẳng – nguyên tắc của việc ghi nhận và thực thi quyền của
người khuyết tật
Lịch sử loài người đã trải qua các cuộc đấu tranh lâu dài, bền bỉ vì quyền con người
nhưng xét đến cùng, nguyên nhân trước tiên của các cuộc đấu tranh là từ sự bất bình đẳng
trong xã hội và mục đích quan trọng nhất là dành quyền bình đẳng. Điều này đã được chủ

20


nghĩa Mác. Lênin chứng minh qua quá trình vận động và phát triển của xã hội lồi người.
Quyền bình đẳng đã được ghi nhận là quyền cơ bản đầu tiên là cơ sở, nguyên tắc cho việc
ghi nhận và bảo vệ các quyền còn lại của con người như trong Tuyên ngôn độc lập của
nước Mỹ hay Tuyên ngôn Nhân quyền và dân quyền của nước Pháp…. Vì “sự bất bình
đẳng trong xã hội là nguyên nhân của sự bất bình đẳng pháp lý cịn sự bất bình đẳng
pháp lý dẫn đến hạn chế các quyền tự do của con người” [64- tr. 8] cịn “sự bất bình đẳng
về xã hội và văn hóa ảnh hưởng tới khả năng tiếp cận đời sống cơng cộng và cơng lý”
[72] do đó, quyền bình đẳng sẽ tạo cơ sở pháp lý, nền tảng cho việc xác lập và đảm bảo
thực hiện quyền con người trên tất cả các lĩnh vực. Đối với người khuyết tật, trong quan
niệm xã hội họ luôn là đối tượng khơng bình thường so với những người khác về thể chất,
tinh thần và trí tuệ, đó là sự bất bình đẳng mà tạo hóa đã dành cho họ, là số phận của họ.
Những quan điểm, những định kiến đó rõ ràng đã tạo ra rào cản rất lớn để người khuyết
tật có thể tham gia bình đẳng vào các quan hệ xã hội khác. Tuyên ngôn thế giới về quyền

con người khẳng định: “Mọi người đều bình đẳng trước pháp luật và được pháp luật bảo
vệ không kỳ thị” (Điều 5) vì vậy, “từ cái thuộc tính chung là con người, từ sự bình đẳng
của mọi người với tư cách là con người, rút ra cái quyền có một giá trị ngang nhau về
chính trị và xã hội cho tất cả mọi người.” [61- tr. 12] nên người khuyết tật cũng đương
nhiên là đối tượng thụ hưởng quyền con người một cách bình đẳng. CƯQT về quyền của
người khuyết tật đã ghi nhận quyền bình đẳng của người khuyết tật gồm: “bình đẳng về cơ
hội và bình đẳng giữa nam và nữ” (Điều 3 Công ước) là những nguyên tắc đặc trưng làm
nền tảng cho việc xác lập và bảo đảm thực hiện các quyền của người khuyết tật. Từ những
phân tích trên cho thấy, quyền bình đẳng vừa là nguyên tắc chung, vừa là mục đích quan
trọng cho việc xác lập và thực thi quyền của người khuyết tật. Dựa trên quyền bình đẳng,
chúng ta sẽ thấy được vai trị, vị trí của nó trong mỗi nhóm quyền đặc thù của người
khuyết tật từ đó có những chính sách thực sự phù hợp với từng nhóm quyền nhằm đảm
bảo cơ hội hòa nhập cho người khuyết tật trên tất cả các lĩnh vực của xã hội.
Thứ hai: Đặc thù về quyền của người khuyết tật
Vì quyền con người có phạm vi và nội dung rất rộng nên chúng thường được chia ra
theo các nhóm, các loại theo những tiêu chí khác nhau. Việc phân loại cho phép nhìn nhận

21


rõ hơn đặc điểm, tính chất và những yêu cầu đặc thù trong việc đảm bảo mỗi loại quyền
của con người. Đối với người khuyết tật, xuất phát từ đặc thù do tình trạng khuyết tật
mang lại nên việc phân loại nhằm làm rõ hơn những quyền thuộc về đặc trưng và cần thiết
nhất đối với người khuyết tật, giúp người đọc thấy rõ ý nghĩa của mỗi nhóm quyền đối với
cuộc sống của người khuyết tật, đồng thời định hướng cho việc xây dựng và hồn thiện
các chính sách pháp luật liên quan đến các nhóm quyền quan trọng này của người khuyết
tật. Theo đó, quyền của người khuyết tật được phân thành các nhóm như sau:
+ Nhóm quyền được chăm sóc sức khỏe
Sức khỏe là vốn quý nhất của mọi người nhưng đối với người khuyết tật, sức khỏe
khơng những vơ cùng q giá mà cịn là nhu cầu và niềm mong ước. Xuất phát từ tình

trạng khiếm khuyết về mặt cấu trúc cơ thể, người khuyết tật phải vượt qua nhiền đau đớn
về mặt thể chất, tinh thần, họ thường xuyên phải đối đầu với những vấn đề khó khăn về y
tế như: tỉ lệ tử vong cao, sức khỏe yếu, dễ mắc bệnh hiểm nghèo, bệnh thường tái đi tái lại
nhiều lần… Những khiếm khuyết đó đã làm cho người khuyết tật khó khăn trong sinh
hoạt hằng ngày như: đi lại, học tập, lao động… Đối với người bị khuyết tật về tâm lý hoặc
bị thiểu năng về trí tuệ thường bị xa lánh, bỏ rơi. Chăm sóc sức khỏe cho người khuyết tật
khơng chỉ là việc khám, chữa bệnh thơng thường mà cịn bao gồm cả vấn đề cung cấp các
dịch vụ y tế để giảm thiểu và phịng ngừa tình trạng bệnh nặng hơn như: phẫu thuật chỉnh
hình, phục hồi chức năng để giúp người khuyết tật trở nên tự lập và có thể hịa nhập xã
hội.
Xuất phát từ đặc thù trên có thể thấy, nhóm quyền được chăm sóc sức khỏe là hết
sức quan trọng đối với người khuyết tật, họ cần được Nhà nước và xã hội quan tâm một
cách đặc biệt hơn để có thể khắc phục và ngăn ngừa những tổn thương mà họ phải gánh
chịu, giúp họ có cuộc sống khỏe mạnh. Đây là nhóm quyền vừa mang tính chất cơ sở, tiền
đề cho nhóm quyền được phát triển bởi khi có sức khỏe, có thiết bị hỗ trợ phù hợp người
khuyết tật mới có thể tham gia vào các hoạt động còn lại của đời sống xã hội, đồng thời
cũng là mục đích của nhóm quyền bảo vệ.

22


+ Nhóm quyền được bảo vệ
Tất cả mọi người đều cần được bảo vệ nhưng với người khuyết tật do tình trạng
khuyết tật mà họ dễ bị xâm hại về thể chất, bị ngược đãi, lạm dụng, xem thường, phân biệt
đối xử hơn so với những người khác, họ rất khó thậm chí là khơng có khả năng tự vệ trước
hành vi xâm hại, khuyết tật còn là nguyên nhân làm cho người khuyết tật bị thiếu tôn
trọng và bị xúc phạm về nhân phẩm, làm cản trở cơ hội hịa nhập của người khuyết tật vào
cộng đồng. Do đó, nhóm quyền được bảo vệ đã đặt ra những cơ chế nhằm bảo vệ giá trị
bản thân cho người khuyết tật, ngăn chặn các hành vi xâm hại đến họ và nâng cao nhận
thức của xã hội đối với người khuyết tật, là cơ sở cho việc thực hiện các nhóm quyền khác

đồng thời bảo đảm thực hiện nguyên tắc bình đẳng cho người khuyết tật.
+ Nhóm quyền được phát triển
Sở dĩ gọi là nhóm quyền được phát triển vì đây là nhóm quyền thể hiện mức độ hiện
thực hóa chính sách hịa nhập người khuyết tật vào cộng đồng thông qua tăng cường cơ
hội và năng lực, tăng cường tiêu chuẩn sống cho người khuyết tật, cải thiện các thiết chế
xã hội theo hướng bình đẳng và tơn trọng người khuyết tật. Nhóm quyền này bao gồm
những quyền cần thiết nhất để tạo cơ hội cho người khuyết tật học tập, làm việc, tham gia
các hoạt động xã hội, giải trí… nhằm phát huy năng lực và khẳng định giá trị bản thân. Vì
khơng thể phát triển bình thường như người khác về mặt thể chất, trí tuệ nên cơ hội tham
gia học tập, làm việc và các hoạt động giải trí khác với người khuyết tật là một khó khăn
rất lớn, họ phải nỗ lực và phấn đấu khơng ngừng mới có thể thực hiện các quyền của mình
như người bình thường khác. Những quyền trong nhóm quyền này còn giúp xã hội thay
đổi thái độ đối xử với người khuyết tật thông qua những công việc họ đã làm, những cống
hiến của họ cho xã hội từ đó, giúp người khuyết tật hịa nhập tốt hơn để có thể phát triển
hơn nữa mọi tiềm năng của mình. Nếu như hai nhóm quyền trên trách nhiệm quan trọng
trong việc đảm bảo thực hiện các quyền cho người khuyết tật thuộc về Nhà nước thì đây
lại là nhóm quyền mà trách nhiệm quan trọng thuộc về chính nghị lực phấn đấu của người
khuyết tật.
Tuy nhiên, cần lưu ý rằng việc phân loại các nhóm quyền chỉ mang tính chất tương
đối, nhằm mục đích nghiên cứu và thực thi chứ không nhằm xếp loại theo thứ tự ưu tiên

23


hay tầm quan trọng của các quyền con người. Bởi việc đảm bảo các quyền bất kể thuộc
nhóm nào cũng đều nằm trong mối quan hệ mật thiết và tác động qua lại lẫn nhau, không
thể tách rời và đều có tầm quan trọng như nhau. “Do tất cả các quyền con người đều là
cần thiết và cốt yếu nên không được coi quyền nào quan trọng hơn quyền nào” [76- tr.
807].
Thứ ba: Phạm vi nghiên cứu, mục đích nghiên cứu của đề tài

Như đã trình bày ở mục 1.1, khi nghiên cứu quyền của người khuyết tật, chúng tôi
không chỉ dựa trên những khía cạnh pháp lý mà cịn tìm hiểu ở những khía cạnh xã hội
nhất định bởi nhận thức và thái độ của xã hội là vật cản lớn nhất trong việc hòa nhập cộng
đồng của người khuyết tật hiện nay. Do đó, việc phân thành các nhóm quyền như trên vừa
làm rõ các quy định của pháp luật về các quyền đặc trưng và yêu cầu trong việc đảm bảo
các nhóm quyền này cho người khuyết tật, vừa góp phần tìm hiểu rõ đời sống của người
khuyết tật thơng qua những khía cạnh xã hội khác nhằm làm rõ vai trò của xã hội trong
việc giúp người khuyết tật hịa nhập cộng đồng. Vì vậy, việc phân nhóm như trên sẽ tạo
thuận lợi cho viêc nghiên cứu của đề tài.
Với những cơ sở trên, quyền của người khuyết tật sẽ được tìm hiểu thơng qua các
nhóm quyền. Tuy nhiên, vì quyền bình đẳng được xem là nguyên tắc, là nền tảng cho việc
xác lập và thực thi các quyền khác của người khuyết tật. Do đó, quyền bình đẳng sẽ được
xem xét ở góc độ khái qt riêng, khơng nằm trong nhóm quyền nào nhằm làm rõ quan
niệm của pháp luật nước ta về quyền bình đẳng cho người khuyết tật. Theo đó, ngun
tắc: “Mọi cơng dân đều bình đẳng trước pháp luật” ghi nhận tại điều 52 Hiến pháp 1992
đã tạo nên một nguyên tắc nền tảng cho hoạt động của tất cả các cơ quan, tổ chức và cơng
dân. Cụ thể hóa ngun tắc Hiến định trên, BLDS, BLHS, BLTTHS… cũng đều lần lượt
ghi nhận quyền bình đẳng của cơng dân mọi lĩnh vực của xã hội. Đối với người khuyết tật,
quyền bình đẳng được Pháp lệnh quy định thơng qua việc: “khuyến khích, tạo điều kiện
thuận lợi cho người tàn tật thực hiện bình đẳng các quyền về chính trị, kinh tế, văn hóa và
xã hội” (Điều 3), đồng thời “nghiêm cấm các hành vi phân biệt đối xử đối với người tàn
tật” (Điều 9). Cần nói thêm rằng, những chính sách dành riêng cho người khuyết tật
khơng có nghĩa là tạo ra sự bất bình đẳng đối với chủ thể khác, bản chất của bình đẳng

24


“khơng có nghĩa là cào bằng mức độ hưởng thụ các quyền mà là bình đẳng về tư cách chủ
thể của quyền con người” [69- tr.47]. Tuy nhiên, các quy định của Pháp lệnh về quyền
bình đẳng vẫn chưa đầy đủ và chi tiết trên tất cả các lĩnh vực mà chỉ là những quy định

gián tiếp, chung chung, chưa có những giải pháp tích cực để bảo vệ quyền bình đẳng cho
người khuyết tật.
Hồn thiện những hạn chế, thiếu sót của Pháp lệnh, điều 4 Luật ghi nhận quyền bình
đẳng của người khuyết tật thành một điều khoản riêng và cụ thể hơn như là một nguyên
tắc cơ bản để xác định quyền của người khuyết tật trên tất cả các lĩnh vực: chăm sóc sức
khỏe, học nghề, có việc làm, tiếp cận cơng trình cơng cộng… Ngồi việc hưởng quyền
cơng dân bình đẳng như các cá nhân khác, người khuyết tật còn được hưởng các quyền
khác phù hợp với mình, trong đó quan trọng nhất là quyền tham gia bình đẳng vào các
hoạt động xã hội. Thực hiện quyền bình đẳng với người khuyết tật Luật cũng thừa nhận
khuyết tật là một khái niệm mới, các chính sách dành cho người khuyết tật cũng là “một
phần không thể tách rời trong chiến lược phát triển kinh tế - xã hội” (khoản 4 Điều 5).
Điểm mới tiến bộ của Luật so với Pháp lệnh là việc đồng thời ghi nhận quyền và
nghĩa vụ cho người khuyết tật, điều mà trước đó Pháp lệnh khơng quy định. Việc thừa
nhận quyền bên cạnh nghĩa vụ đã thể hiện nguyên tắc “quyền không tách rời nghĩa vụ của
công dân” tại điều 51 Hiến pháp 1992, người khuyết tật cũng bình đẳng như những công
dân khác trong việc thụ hưởng quyền và gánh vác nghĩa với Nhà nước. Tuy nhiên, việc
thực hiện nghĩa vụ của người khuyết tật với Nhà nước được xem xét có tính đến đặc trưng
của người khuyết tật.
Bên cạnh những quy định tiến bộ trên, Luật cũng đã thực hiện được vấn đề lồng
ghép giới mà quan trọng nhất là việc quy định các chính sách ưu tiên cho phụ nữ và trẻ em
khuyết tật (khoản 3 Điều 5), trong đó có các quy định phù hợp với tinh thần Luật BĐG
như: chính sách chăm sóc sức khỏe cho phụ nữ khuyết tật khi mang thai, công nhận và
bảo vệ quyền kết hôn, sinh con của phụ nữ khuyết tật, các chính sách bảo trợ xã hội cho
phụ nữ khuyết tật mang thai, nuôi con dưới 36 tháng tuổi… Các quy định này cho thấy nỗ
lực của Đảng và Nhà nước ta trong việc góp phần làm thay đổi nhận thức và hành động
của xã hội đối với người khuyết tật, bảo vệ một cách bình đẳng quyền của những nhóm

25



×