Tải bản đầy đủ (.docx) (49 trang)

Thảo luận thương mại quốc tế Chương 1: KHÁI QUÁT VỀ LUẬT THƯƠNG MẠI QUỐC TẾ

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (287.25 KB, 49 trang )

THẢO LUẬN MÔN THƯƠNG MẠI QUỐC TẾ - CHƯƠNG 1
KHÁI QUÁT VỀ LUẬT THƯƠNG MẠI QUỐC TẾ

I. CÂU HỎI LÝ THUYẾT – THẢO LUẬN:
1. So với các giao dịch trong nước thì các trở ngại mà các thương nhân thường gặp phải
khi tiến hành các giao dịch thương mại xuyên biên giới là gì?
Các trở ngại mà các thương nhân thường gặp phải khi tiến hành các giao dịch thương mại
xuyên biên giới:
- Khởi đầu với nhiều rào cản
Ngoài những khó khăn trong khâu logistics, các vấn đề về ngơn ngữ, khác biệt văn hóa và
khâu thanh tốn quốc tế vẫn còn là rào cản lớn đối với người tiêu dùng và doanh nghiệp Việt khi
tham gia thương mại xuyên biên giới.
Người tiêu dùng trong nước vẫn có thói quen trả tiền mặt khi nhận hàng (COD), nên việc
thanh toán trước 100% cho đối tác chưa hề quen biết, lại là qua internet, khiến khơng ít người e
dè.
Cịn đối với doanh nghiệp khi tham gia bán hàng tại các website quốc tế, rào cản lớn nhất
chính là việc khơng rành về luật pháp nước sở tại, và chưa có chiến lược kinh doanh phù hợp với
xu hướng tiêu dùng ở từng thị trường.
Đồng thời, sự chênh lệch về mức độ đa dạng, chất lượng hàng hóa giữa hàng Việt và hàng
nước ngồi vẫn cịn rất lớn. Chính vì thế, nhiều doanh nghiệp hiện vẫn chưa thật sự mặn nồng với
thương mại xuyên biên giới dù thấy rằng lợi ích của hình thức kinh doanh này là rất lớn.
- Vẫn khó khăn trong việc tiếp cận
Cơ hội mở rộng xuất khẩu hàng hố khơng chỉ cho doanh nghiệp xuất khẩu nói chung mà cho
cả các doanh nghiệp nhỏ, hợp tác xã, các cá nhân có sản phẩm tốt và biết vận dụng thương mại
điện tử.
Tuy nhiên, bên cạnh cơ hội thì có khơng ít thách thức, đó là những khó khăn trong vận
chuyển, bảo quản hàng hóa, khâu thơng quan hàng hóa, hiểu biết về thủ tục xuất nhập khẩu đối
với lĩnh vực thương mại điện tử... Đây chính là những vấn đề mà thương nhân cần phải tìm hiểu,
nắm bắt cụ thể.
Chính vì vậy, việc đưa hàng hóa lên sàn, nhất là các sàn thương mại điện tử quốc tế là vấn đề
khơng hề dễ. Hàng hóa phải chuẩn, đáp ứng tiêu chí của thị trường; phải trải qua quá trình đăng


ký bảo hộ nhãn hiệu. Cụ thể, sản phẩm phải bảo đảm đáp ứng những yêu cầu khắt khe về nguồn
gốc và tiêu chí chất lượng sản phẩm, chứng nhận quốc tế; các quy chuẩn kỹ thuật quốc tế. Lên
được sàn rồi, thương nhân vẫn phải tiếp tục có chiến lược tiếp thị, quảng cáo và quản lý hàng hóa
phù hợp,....
1


Tuy nhiên, phần nhiều vẫn còn ở mức sơ khai, nhiều thương nhân vẫn chưa nhận thức đầy đủ
tầm quan trọng của ứng dụng công nghệ thông tin và chuyển đổi số trong hoạt động xúc tiến
thương mại, chưa đầu tư thích đáng để nâng cao năng lực ứng dụng công nghệ thông tin và
chuyển đổi số. Theo các thương nhân, để dễ dàng hơn khi giới thiệu và giao dịch sản phẩm đến
tay khách hàng quốc tế, thương nhân cần sự hỗ trợ từ phía cơ quan chức năng, trước hết về mặt
thông tin. Thương nhân cũng mong muốn được kết nối, chia sẻ thông tin của cộng đồng người
Việt Nam ở nước ngoài để phát huy lợi thế về am hiểu thị trường sở tại.
- Nhiều thách thức với các thương nhân là hợp tác xã
Xu thế toàn cầu hố, sự phát triển của cơng nghệ thơng tin hiện đại cùng với tình hình kinh tế
- xã hội đã thay đổi hành vi mua sắm của người tiêu dùng từ trực tiếp sang trực tuyến. Điều này
không chỉ buộc các doanh nghiệp mà các hợp tác xã cũng phải thay đổi cách thức bán hàng cho
phù hợp với xu thế của người tiêu dùng. Việc các hợp tác xã đẩy mạnh bán hàng online hay thực
hiện bán hàng thông qua các nền tảng thương mại điện tử đã giúp mở rộng đầu ra cho sản phẩm
của hợp tác xã với các thị trường tiềm năng.
Tuy nhiên, việc bán hàng thành công trên các trang thương mại điện tử quốc tế là điều không
hề dễ đối với các hợp tác xã vì đây là vấn đề liên quan đến xuất nhập khẩu và địi hỏi tính chun
nghiệp cao và kinh phí để duy trì hoạt động trên sàn này khá lớn, trong khi doanh thu của hợp tác
xã chưa nhiều.
Mặt khác, nhân lực cũng là vấn đề khó của hợp tác xã. Hiện tại đội ngũ nhân lực của hợp tác
xã chủ yếu là nông dân nên các vấn đề liên quan đến thương mại điện tử xuyên biên giới đều rất
khó tiếp cận. Trong khi đó, việc thu hút nhân lực có trình độ tham gia vào hợp tác xã cũng khơng
dễ, vì nhiều bạn trẻ có trình độ lại không mặn mà vào hợp tác xã làm vì lương thấp.
- Hàng hố của thương nhân Việt Nam trước thách thức của FTA

Việc tham gia các Hiệp định Thương mại tự do (FTA), nhất là các Hiệp định thế hệ mới như:
EVFTA và CPTPP đã tạo ra cơ hội mua sắm cho người tiêu dùng song đây cũng là thách thức
cho thương nhân sản xuất hàng Việt trong việc cạnh tranh, chiếm lĩnh thị phần. Trong đó, những
bất cập về qui mô lẫn kinh nghiệm trên thương trường là một trong những điểm yếu của nhiều
thương nhân trong nước.
Một số vấn đề có thể thấy ở hàng Việt hiện nay là hàng hóa đa phần cịn sản xuất nhỏ lẻ, quy
mô hạn chế, chất lượng không đồng đều, giá cả có những mặt hàng cịn cao hơn so với các nước.
Bên cạnh đó, nhiều mặt hàng ít được cải tiến cơng nghệ, hình thức, cách thức quảng cáo,... Khâu
trung gian và lưu thơng phân phối cịn chiếm tỷ trọng cao dẫn đến giá thành chưa chiếm lợi thế.
Do quy mơ nhỏ bé nên khả năng tích tụ và tập trung vốn để đầu tư, đổi mới công nghệ, mở
rộng quy mơ sản xuất, nâng cao trình độ quản lý... của thương nhân Việt Nam bị hạn chế.
Chính những tồn tại kể trên đã khiến số lượng các doanh nghiệp 100% vốn trong nước tham
gia vào chuỗi giá trị của các doanh nghiệp đầu chuỗi và doanh nghiệp nước ngồi cịn ít. Bởi vậy,
các chun gia lo lắng, tham gia FTA, thương nhân Việt đứng trước cuộc cạnh tranh khốc liệt với
2


hàng hóa nhập khẩu ồ ạt vào thị trường nội địa nhờ ưu đãi thuế quan ngay tại chính thị trường
Việt Nam.
Không những vậy, báo cáo của Ngân hàng thế giới nêu rõ, mối liên kết giữa các doanh nghiệp
tư nhân trong nước và doanh nghiệp nước ngoài hay giữa các doanh nghiệp nhỏ và các doanh
nghiệp lớn là không đáng kể và cịn hết sức hạn chế.
2. Mục đích chính của tự do hố thương mại là gì?
Tự do hóa thương mại là loại bỏ hoặc giảm bớt các hạn chế hoặc rào cản đối với trao đổi hàng
hóa tự do giữa các quốc gia.
Những rào cản này bao gồm thuế quan, chẳng hạn như thuế và các phụ phí; các khoản khơng
phải thuế quan, chẳng hạn như các qui tắc được cấp phép và hạn ngạch. Các nhà kinh tế thường
xem việc nới lỏng hoặc xóa bỏ những hạn chế này là nỗ lực thúc đẩy thương mại tự do.
Các bên tham gia vào tự do hoá thương mại sẽ ký kết các Hiệp định thương mại tự do (FTA).
Hiệp định thương mại tự do là một hiệp ước thương mại giữa hai hoặc nhiều quốc gia. Theo đó,

các nước sẽ tiến hành theo lộ trình việc cắt giảm và xóa bỏ hàng rào thuế quan cũng như phi thuế
quan nhằm tiến tới việc thành lập một khu vực mậu dịch tự do. Theo thống kê của Tổ chức
Thương mại Thế giới có hơn 200 hiệp định thương mại tự do có hiệu lực. Các Hiệp định thương
mại tự do có thể được thực hiện giữa hai nước riêng lẻ hoặc có thể đạt được giữa một khối thương
mại và một quốc gia.
Các biện pháp để mở rộng tự do hóa thương mại quốc tế bao gồm việc ký kết các hiệp định
song phương và đa phương về thương mại và kinh tế; tham gia vào khu vực mậu dịch tự do và tổ
chức thương mại quốc tế; chủ động xây dựng lộ trình cắt giảm thuế quan và phi thuế quan theo
các cam kết; điều chỉnh chính sách hỗ trợ xuất nhập khẩu như chính sách về đầu tư, tỷ giá hối
đối, tín dụng theo chiều hướng nới lỏng sự can thiệp của nhà nước; hình thành các thể chế
thương mại phù hợp với chuẩn mực và thơng lệ quốc tế. Q trình này gắn liền với các biện pháp
có đi có lại trong khn khổ pháp lý giữa các quốc gia.
Mục đích lớn nhất của tự do hóa thương mại là thúc đẩy trao đổi, bn bán, phát huy lợi thế
so sánh của các nước, từ đó thúc đẩy tăng trưởng kinh tế và nâng cao hiệu quả sử dụng các nguồn
lực. Đối với người tiêu dùng (bao gồm cả những nhà nhập khẩu nguyên vật liệu để sản xuất ra
hàng hóa), tự do hóa thương mại sẽ tạo cho họ cơ hội lựa chọn hàng hóa tốt hơn với giá hợp lý
hơn.
Các Hiệp định Thương mại tự do (FTA) ra đời như sự thoả thuận của các bên để thực hiện
mục đích trên, thúc đẩy tự do thương mại cả về mặt lượng và chất, thể hiện trên một số khía cạnh
sau:
Một là, các FTA đang là giải pháp có tính khả thi để thúc đẩy tiến trình tự do hóa thương mại
và đầu tư, cạnh tranh, nâng cao tiêu chuẩn bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ, mơi trường và tiêu chuẩn
lao động, vốn chưa được quy định trong các hiệp định hiện tại của Tổ chức Thương mại thế giới.
Khi một FTA được ký kết, sẽ có những tác động đến lợi ích các quốc gia, làm thay đổi chính sách
3


của các quốc gia là thành viên cũng như những quốc gia khơng là thành viên của một FTA nào
đó.
Hai là, bên cạnh vai trò thúc đẩy mạnh mẽ hội nhập và liên kết kinh tế, các FTA thế hệ mới có

vai trị quan trọng trong việc nâng cao chuẩn mực tự do hóa thương mại. Vai trị chung của các
FTA là thúc đẩy thương mại, trong bối cảnh tự do hóa thương mại tồn cầu qua kênh đa phương
đang gặp khó khăn.
Ngày nay, vấn đề bảo đảm quyền lợi của người lao động ngày càng được coi trọng trên cơ sở
coi người lao động là người trực tiếp làm ra các sản phẩm trong thương mại quốc tế, nên trước
hết họ phải được bảo đảm các quyền, lợi ích và các điều kiện lao động cơ bản. Đây là cách tiếp
cận của các FTA thế hệ mới và đang trở thành xu thế trong những năm gần đây trên thế giới. Việc
đưa nội dung về lao động vào các FTA cịn nhằm bảo đảm mơi trường cạnh tranh cơng bằng giữa
các quan hệ thương mại.
Ba là, tham gia các FTA thế hệ mới mở ra không gian phát triển mới với các quốc gia thành
viên. Với các FTA thế hệ mới, không gian phát triển của các quốc gia có sự thay đổi về chất, các
cơ hội phát triển được mở ra cả về chiều rộng và chiều sâu. Do vậy, các quốc gia thành viên có
nhiều lựa chọn trong khơng gian phát triển mới. Đây chính là cơ hội cho khởi nghiệp, cho phát
triển sáng tạo ở các lĩnh vực, ngành, nghề kinh doanh mới. Điều này đặc biệt có ý nghĩa với các
thành viên đi sau trong tiến trình phát triển kinh tế - xã hội.
Tầm nhìn và không gian sản xuất của các doanh nghiệp, cũng như chiến lược phát triển của
các quốc gia trong điều kiện thực thi các FTA, nhất là FTA thế hệ mới khơng chỉ bó hẹp trong
phạm vi từng quốc gia. Chính khơng gian phát triển mới cũng đặt ra u cầu mới trong tư duy,
định hình chiến lược phát triển quốc gia mới phù hợp, hiệu quả trong bối cảnh thực thi các FTA
thế hệ mới.
3. Nếu tự do hoá thương mại thực sự thúc đẩy hoạt động xuất nhập khẩu và có lợi cho
người tiêu dùng thì nên chăng việc tự do hoá này nên được tiến hành triệt để?
Tự do hố thương mại là mục đích các thành viên WTO đều nhắm tới khi xây dựng điều luật
của tổ chức. Để đạt được mục đích này, phương pháp tối ưu là xoá bỏ rào cản thương mại, cụ thể
là rào cản thuế quan và phi thuế quan. Tuy nhiên, hiện nay, các thành viên vẫn chưa thật sẵn sàng,
việc áp dụng các phương pháp tối ưu còn chưa phù hợp với tình hình thực tế của mỗi thành viên.
Do đó, mặc dù việc tự do hố thương mại đem lại nhiều lợi ích nhất định nhưng thách thức của
nó đối với nền kinh tế thành viên cũng khơng hề nhỏ, cụ thể:
- Thách thức cho các ngành công nghiệp
Với việc tham gia tự do hoá thương mại, các quốc gia thành viên phải cùng ký kết các Hiệp

định thương mại tự do (FTA) với nhiều nước khác, và phải nhanh chóng hạ thấp thuế nhập khẩu
đối với các nền kinh tế đã cam kết. Do đó, các thành viên là các quốc gia cạnh tranh với nhau thì
sẽ gây bất lợi hơn cho các thành viên có nền kinh tế yếu hơn. Kết quả là toàn bộ nền kinh tế đã
4


được chuẩn bị không đầy đủ trước những đối thủ cạnh tranh trong điều kiện các hàng rào bảo hộ
đã sớm bị tháo bỏ.
Ví dụ đối với Việt Nam, với việc tham gia Khu vực thương mại tự do ASEAN (AFTA:
ASEAN Free Trade Area), Việt Nam đã buộc phải cùng ký kết các Hiệp Định Thương Mại Tự
Do ASEAN với nhiều nước khác, và phải nhanh chóng hạ thấp thuế nhập khẩu đối với các nền
kinh tế đã cam kết, trong đó có Trung Quốc là nước có nền kinh tế chủ yếu cạnh tranh với nước ta
chứ ít bổ sung cho ta. Đặc biệt nguy hiểm là tiến trình cắt giảm thuế với Trung Quốc, phần lớn
hàng hóa Trung Quốc vào Việt Nam sẽ chỉ còn thuế từ 0-5% vào năm 2015, tạo điều kiện cho các
sản phẩm của Trung Quốc tràn ngập thị trường Việt Nam, dẫn đến thâm hụt thương mại và gây
sức ép quá lớn đối với nền công nghiệp non trẻ của Việt Nam.
- Thách thức đối với các thành viên là các nước nhỏ (nước đang phát triển)
Khác với các tiêu chuẩn trong nước, những yêu cầu của các FTA này có yêu cầu cao hơn hẳn
về nhiều mặt. Các tiêu chuẩn kỹ thuật, chất lượng, quảng bá, tiếp thị,... đối với hàng hoá quốc gia
khi xuất khẩu ra các nước khác phải đáp ứng các điều kiện khắt khe. Điều này yêu cầu các doanh
nghiệp trong nước phải đầu tư vốn cho hoạt động kinh doanh, phát triển các công nghệ kỹ thuật
để tối ưu, hiện đại hoá cho phù hợp, đáp ứng được với các tiêu chí nêu trên. Do đó, đây cũng là
một thách thức không nhỏ đối với các quốc gia đang phát triển, chưa kể đến là các doanh nghiệp
vừa và nhỏ trong quốc gia đó.
Chẳng hạn, những yêu cầu của các Hiệp định Thương Mại Tự Do kỳ này có yêu cầu cao hơn
hẳn về nhiều mặt. Đơn cử, quy tắc xuất xứ đòi hỏi phải chứng minh nguồn gốc hàng hóa là từ
Việt Nam (phải có hàm lượng từ 50% từ vải trở đi đối với hàng dệt-may vào EU) hay từ sợi trở đi
phải có hàm lượng từ 70% trở lên đối với TPP. Trong khi đó, theo Hiệp hội dệt may (Vitas), chỉ
khoảng 50% doanh nghiệp dệt may có khả năng đáp ứng yêu cầu của EU và 30% doanh nghiệp
có thể đáp ứng yêu cầu của TPP.

- Thách thức về sức cạnh tranh của hàng hoá
Khi tự do hoá thương mại, quốc gia cũng cần chủ động ứng phó với nhiều thách thức khơng
nhỏ, đó là tăng cường sức cạnh tranh của các sản phẩm xuất khẩu của quốc gia. Các hàng rào kỹ
thuật và quy chuẩn khắt khe có thể là những rào cản khiến hàng hóa quốc gia khó vào thị trường
các nước đối tác FTA. Ngồi ra, từ góc độ mở cửa thị trường cho hàng hóa, dịch vụ đến từ các
nước đối tác FTA, do đó, sẽ khơng cịn khái niệm “sân nhà” nữa. Điều này cũng đồng nghĩa là
thách thức đối với doanh nghiệp quốc gia chính là áp lực cạnh tranh với hàng hóa giá rẻ, dịch vụ
chất lượng tốt từ các nước đối tác trên chính thị trường nội địa.
Có thể nói, hội nhập kinh tế quốc tế đã và đang đem lại nhiều cơ hội cho các doanh nghiệp và
nền kinh tế của Việt Nam. Tuy nhiên, với 96% tổng số doanh nghiệp đang hoạt động là doanh
nghiệp nhỏ và siêu nhỏ, áp lực cạnh tranh đối với nền kinh tế Việt Nam là rất lớn. Việc tự do hóa
thuế nhập khẩu sẽ dẫn đến sự gia tăng nhanh chóng nguồn hàng nhập khẩu từ các nước, đặc biệt
là từ các nước TPP, EU vào Việt Nam do giá thành rẻ hơn, chất lượng và mẫu mã đa dạng, phong
5


phú hơn sẽ tác động đến lĩnh vực sản xuất trong nước. Ngoài ra, khi hàng rào thuế quan được gỡ
bỏ nhưng các hàng rào kỹ thuật không hiệu quả, Việt Nam sẽ trở thành thị trường tiêu thụ các sản
phẩm chất lượng kém, ảnh hưởng tới sức khỏe người tiêu dùng trong khi lại không bảo vệ được
sản xuất trong nước. Do đó, để tối ưu hóa những tác động tích cực và giảm thiểu tác động tiêu
cực của hội nhập kinh tế đến nền kinh tế, trong thời gian tới cần thực hiện đồng bộ các giải pháp.
- Thách thức về cải cách các chính sách, thể chế của quốc gia
Có nhiều yếu tố tác động đến quá trình tự do hố thương mại, trong đó quan trọng nhất là các
chính sách, thể chế trong nội bộ quốc gia. Cụ thể là sự chậm trễ trong chuyển đổi mơ hình tăng
trưởng sẽ ảnh hưởng tiêu cực đến tự do hố thương mại. Vì vậy, tăng trưởng của quốc gia vẫn
phải dựa quá nhiều vào vốn, nhà nước đầu tư kém hiệu quả vào doanh nghiệp nhà nước, đầu tư
cơng lãng phí và thất thốt lớn, vốn đầu tư bị hút vào các lĩnh vực chủ yếu để kiếm lợi nhuận (đất,
khai mỏ,...) mà chậm nâng cao trình độ khoa học-cơng nghệ và năng lực cạnh tranh.
Trong khi đó, Nhà nước chậm cải cách thể chế, năng lực của bộ máy nhà nước chậm được
nâng cao, các rào cản kỹ thuật trong thương mại chậm được áp dụng để tự bảo vệ.

Với lộ trình tự do hóa thương mại còn tiếp tục được đẩy mạnh trong thời gian tới, quốc gia
cần nghiêm chỉnh rút ra bài học kinh nghiệm, tái cấu trúc nền kinh tế và đẩy mạnh cải cách, trong
đó quan trọng nhất là cải cách chính sách, thể chế để đáp ứng được yêu cầu của quá trình hội
nhập quốc tế ngày càng sâu rộng hơn.
Từ các phân tích trên có thể thấy được tự do hố thương mại đem lại nhiều lợi ích về thuế
quan và phi thuế quan cho các quốc gia. Tuy nhiên, việc thích nghi với nó lại phụ thuộc vào tình
hình kinh tế - xã hội thực tế của từng quốc gia khác nhau, có quốc gia sẽ kịp thích nghi nhưng
cũng có các quốc gia chưa kịp thích nghi ngay mà cần một lộ trình để đáp ứng được nó. Bên cạnh
đó, tự do hố thương mại cũng gây ra một số khó khăn cho các doanh nghiệp và hàng hố của
quốc gia. Do đó, việc tự do hố này nên được tiến hành một cách cẩn trọng và thích nghi phù hợp
với mỗi gia chứ không ồ ạt, triệt để.
4. Phân tích vai trị và ảnh hưởng của q trình tồn cầu hố trong sự phát triển kinh
tế và thương mại quốc tế hiện đại? Nêu những lợi ích và khó khăn mà quốc gia phải đối mặt
khi tham gia vào q trình này?
a. Vai trị và ảnh hưởng của q trình tồn cầu hố trong sự phát triển kinh tế và thương mại
quốc tế hiện đại:
* Ảnh hưởng tích cực:
- Phát huy tối đa thế mạnh của các quốc gia khi liên kết với với những quốc gia khác trên thế
giới. Từ đó tìm ra điểm chung để phát triển kinh tế và thương mại quốc tế.
Tồn cầu hố có thể diễn ra trên từng lĩnh vực của đời sống xã hội (chính trị, kinh tế, văn hóa,
giáo dục, an ninh - quốc phòng...) hoặc diễn ra trên cùng nhiều lĩnh vực với tính chất, phạm vi,
hình thức khác nhau. Chủ thể chính của hội nhập quốc tế là các quốc gia có đủ năng lực và thẩm
6


quyền đàm phán, ký kết và thực hiện các cam kết quốc tế khi đã ký tham gia. Hội nhập quốc tế
đem tới cho các quốc gia không chỉ những lợi ích về mọi mặt, mà cịn đặt các quốc gia trước
những thách thức, bất lợi.
Trong q trình tồn cầu hoá, các quốc gia mở rộng thị trường cho nhau, vì vậy khi quốc gia
gia nhập các tổ chức quốc tế sẽ mở rộng quan hệ bạn hàng. Cùng với việc được hưởng nhiều ưu

đãi về thuế qua, xóa bỏ hàng rào phi thuế quan và các chế độ đãi ngộ khác đã tạo điều kiện cho
hàng hóa quốc gia thâm nhập thị trường thế giới. Do đó, kim ngạch xuất khẩu của quốc gia sang
các nước khác tăng đáng kể. Bên cạnh đó, quốc gia sẽ tìm ra và phát huy được thế mạnh của quốc
gia để tập trung phát triển.
- Q trình tồn cầu hố cũng góp phần tăng thu hút đầu tư nước ngoài, viện trợ phát triển
chính thức và giải quyết vấn đề nợ quốc tế.
Thu hút vốn đầu tư nước ngoài (FDI): Tham gia hội nhập kinh tế quốc tế là cơ hội để thị
trường nước ta mở rộng điều này sẽ hấp dẫn các nhà đầu tư. Họ sẽ mang vốn và công nghệ vào
quốc gia sử dụng lao động và tài nguyên sẵn có của quốc gia ra làm sản phẩm tiêu thụ trên thị
trường khu vực và thế giới với các ưu đãi mà nước ta có cơ hội mở rộng thị trường, kéo theo cơ
hội thu hút vốn đầu tư nước ngoài. Đây cũng là cơ hội để các doanh nghiệp trong nước huy động
và sử dụng vốn có hiệu quả.
Viện trợ phát triển (ODA): Tiến hành bình thường hóa các quan hệ tài chính của quốc gia, các
nước tài trợ và các chủ thể tài chính tiền tệ được tháo gỡ đem lại những kết quả đáng kể góp phần
quan trọng trong việc nâng cấp và phát triển hệ thống cơ sở hạ tầng.
Tồn cầu hố cũng góp phần giải quyết tốt vấn đề nợ của quốc gia: nhờ phát triển mối quan hệ
đối ngoại song phương và đa phương các khoản nợ nước ngồi của quốc gia có thể được giải
quyết thơng qua đàm phám. Điều đó góp phần ổn định cán cân thu chi ngân sách tập trung nguồn
lực cho các chương trình phát triển kinh tế xã hội trong nước.
- Nâng cao trình độ kỹ thuật - cơng nghệ
Trước xu thế tồn cầu hố, các quốc gia tuỳ theo vị thế, điều kiện lịch sử cụ thể và trình độ
phát triển của mình đều có cách thức riêng phát triển theo con đường rút ngắn. Hai trong số nhiều
con đường phát triển là:
Thứ nhất, du nhập kỹ thuật - công nghệ trung gian từ các nước phát triển để xây dựng những
ngành công nghiệp của quốc gia như là một bộ phận hợp thành trong tầng công nghiệp hiện đại.
Tuỳ thuộc vào khả năng vốn, trí tuệ... mà các quốc gia lựa chọn một hoặc cùng lúc cả hai con
đường phát triển nói trên. Tồn cầu hố cho phép các quốc gia có điều kiện tiếp nhận các dịng kỹ
thuật - cơng nghệ tiên tiến, hiện đại từ các nước phát triển để nâng cao trình độ kỹ thuật - cơng
nghệ của mình. Nhưng điều đó cịn phụ thuộc vào khả năng của từng nước biết tìm ra chiến lược
cơng nghiệp hố rút ngắn thích hợp.

Trong q trình tồn cầu hố các quốc gia có điều kiện tiếp cận và thu hút những kỹ thuật,
công nghệ tiên tiến, hiện đại của thế giới, qua đó mà nâng dần trình độ cơng nghệ sản xuất của
7


các quốc gia. Do vậy, mà ngày càng nâng cao được trình độ quản lý và khả năng cạnh tranh của
nền kinh tế các quốc gia. Tồn cầu hố được đánh giá như một công cụ đặc hiệu để nâng cao
trình độ kỹ thuật - cơng nghệ ở các quốc gia. Bởi lẽ, trong quá trình tham gia vào liên doanh, liên
kết sản xuất quốc tế, hợp đồng hợp tác kinh doanh, các dự án FDI... các quốc gia có điều kiện tiếp
cận những công nghệ, kiến thức và kỹ năng hết sức phong phú, đa dang của các quốc gia.
- Thay đổi được cơ cấu kinh tế theo hướng tích cực
Tồn cầu hố địi hỏi nền kinh tế của các quốc gia, trong đó có các quốc gia phải tổ chức lại
với cơ cấu hợp lý. Kinh tế thế giới đang chuyển mạnh từ nền kinh tế công nghiệp sang nền kinh tế
tri thức. Nhưng ở các nước phát triển những ngành có hàm lượng chất xám, hàm lượng công nghệ
cao, hàm lượng vốn lớn... đang chiếm ưu thế, cịn ở những quốc gia đang phát triển chỉ có thể
đảm nhận những ngành có hàm lượng cao về lao động, nguyên liệu và hàm lượng thấp về công
nghệ, vốn. Tuy nhiên, nếu quốc gia nào chủ động, biết tranh thủ cơ hội, tìm ra được con đường
phát triển rút ngắn thích hợp, thì có thể vẫn sớm có được nền kinh tế tri thức. Điều đó địi hỏi một
sự nỗ lực rất lớn.
Q trình tồn cầu hố sẽ dẫn đến tốc độ biến đổi cao và nhanh chóng của nền kinh tế tồn
cầu, điều đó buộc nền kinh tế mỗi nước, muốn phát triển, khơng cịn con đường nào khác là phải
hoà nhập vào quỹ đạo vận động chung của nền kinh tế thế giới. Mỗi quốc gia cần phải tìm cho
mình một phương thức để chuyển dịch cơ cấu kinh tế thích hợp để có thể phát triển rút ngắn.
Nhưng nền kinh tế thị trường mở, hội nhập quốc tế địi hỏi chính phủ các nước phải có quan niệm
đúng và xử lý khéo quan hệ giữa tự do hoá và bảo hộ ở mức cần thiết; đồng thời phải nắm bắt
được các thông lệ và thể chế kinh tế bên trong, giải quyết đúng đắn việc kết hợp các nguồn lực
bên ngoài thành nội lực bên trong để phát triển. Nền kinh tế thị trường mở, hội nhập quốc tế
muốn phát triển ổn định, đòi hỏi cơ cấu kinh tế bên trong phải đủ mạnh, cơ cấu xuất khẩu đa
dạng, thể chế kinh tế linh hoạt và có năng lực thích ứng để đương đầu với những thay đổi của các
điều kiện phát triển toàn cầu.

- Mở rộng kinh tế đối ngoại
Tồn cầu hố làm cho q trình quốc tế hố đời sống kinh tế trở thành xu hướng tất yếu và
diễn ra hết sức mạnh mẽ do sự phát triển cao của lực lượng sản xuất dưới tác động của cuộc cách
mạng khoa học - công nghệ. Tồn cầu hố đang diễn ra với tốc độ cao, càng đòi hỏi mạnh mẽ
việc mở rộng quan hệ kinh tế đối ngoại của mỗi nền kinh tế. Và chỉ bằng cách đó mới có thể khai
thác có hiệu quả nguồn lực quốc tế. Đồng thời, tồn cầu hố đời sống kinh tế càng đẩy mạnh thì
càng tạo ra những cơ hội và thách thức mới mà chỉ có sự phối hợp quốc tế, mở rộng kinh tế đối
ngoại thì mới có thể tranh thủ được những cơ hội, vượt qua được những thách thức. Thực tế lịch
sử cũng đã khẳng định rằng: ngày nay không một quốc gia nào có thể phát triển được nếu khơng
thiết lập quan hệ kinh tế với các nước khác, và do vậy không một quốc gia nào lại không thực
hiện việc mở rộng quan hệ kinh tế đối ngoại.

8


Trong hồn cảnh quốc tế hố đời sống kinh tế ngày càng sâu rộng, q trình tồn cầu hố
được thúc đẩy mạnh mẽ, các quan hệ kinh tế đối ngoại trở thành một nhân tố không thể thiếu để
thực hiện tái sản xuất mở rộng ở mỗi nước.
- Cơ sở hạ tầng được tăng cường
Q trình tồn cầu hố đã tạo ra cơ hội để nhiều quốc gia phát triển hệ thống cơ sở hạ tầng về
giao thông vận tải, về bưu chính viễn thơng, về điện, nước... ở các quốc gia, mức thu nhập tính
theo đầu người rất thấp, do đó tích luỹ cũng vơ cùng thấp vì phần lớn thu nhập dùng vào sinh
hoạt. Trong khi đó các quốc gia lại rất cần những lượng vốn lớn để xây dựng kết cấu hạ tầng và
xây dựng những công trình thiết yếu nhằm phát triển kinh tế. Bởi vậy, xuất hiện khoảng cách lớn
giữa nhu cầu đầu tư và tích luỹ vốn. Cho nên các quốc gia muốn tăng cường xây dựng cơ sở hạ
tầng thì phải biết tạo môi trường thuận lợi để thu hút vốn đầu tư nước ngồi. Chỉ có thơng qua các
quan hệ kinh tế đối ngoại mới có thể cải tạo, đổi mới và nâng cao trình độ cơng nghệ của các cơ
sở sản xuất hiện có; cải tiến, hiện đại hố cơng nghệ truyền thống; xây dựng những hướng công
nghệ hiện đại... Nhờ đó mà xây dựng cơ sở vật chất - kỹ thuật, cơ sở hạ tầng cho nền kinh tế.
- Học tập kinh nghiệm quản lý tiên tiến

Các nước có nền kinh tế phát triển thường có phương thức, cách thức quản lý nền kinh tế tiên
tiến với những công cụ quản lý hiện đại. Thông qua các quan hệ hợp tác kinh tế quốc tế các quốc
gia học tập những kinh nghiệm quản lý tiên tiến hiện đại của các nước phát triển. Học tập trực
tiếp qua các dự án đầu tư, qua các Xí nghiệp, Cơng ty liên doanh...., qua việc đàm phán ký kết các
hợp đồng kinh tế.
* Ảnh hưởng tiêu cực:
- Tăng trưởng kinh tế không bền vững do phụ thuộc vào xuất khẩu
Nền kinh tế các quốc gia đang cơ cấu lại theo chiến lược kinh tế thị trường mở, hội nhập quốc
tế. Nhưng trong quá trình đó, tốc độ tăng trưởng kinh tế của nhiều quốc gia phụ thuộc phần lớn
vào xuất khẩu. Mà xuất khẩu lại phụ thuộc vào sự ổn định của thị trường thế giới, vào giá cả quốc
tế, vào lợi ích của các nước nhập khẩu, vào độ mở cửa thị trường của các nước phát triển... do
vậy, mà chứa đựng nhiều yếu tố bất ổn, khó lường trước.
Những thập niên gần dây, ở nhiều nước đang phát triển, tỷ lệ tăng trưởng kinh tế và thu nhập
đầu người bị giảm. Đầu thập kỷ 90 của thế kỷ XX tỷ lệ tăng trưởng kinh tế hàng năm của Châu
Phi là 5%, nhưng hiện nay đã giảm xuống 2,6%. Trong hơn 10 năm qua, thu nhập đầu người của
hơn 100 nước đang phát triển giảm đi, hơn 60 quốc gia bình quân đầu người về tiêu dùng giảm đi
mỗi năm 1%.
- Lợi thế của các nước đang phát triển đang bị yếu dần
Nền kinh tế thế giới đang chuyển mạnh từ nền kinh tế công nghiệp sang nền kinh tế tri thức.
Do vậy mà những yếu tố được coi là lợi thế của các nước đang phát triển như tài nguyên, lực
lượng lao động dồi dào, chi phí lao động thấp... sẽ yếu dần đi, còn ưu thế về kỹ thuật - công nghệ
9


cao, về sản phẩm sở hữu trí tuệ, về vốn lớn... lại đang là ưu thế mạnh của các nước phát triển. Ba
dịng ln chuyển tồn cầu là kỹ thuật - công nghệ, thông tin và vốn đang trở thành động lực thúc
đẩy tồn cầu hố. Trong q trình đó, lợi thế so sánh của các nước cũng biến đổi căn bản: trên
phạm vi toàn cầu lợi thế đang nghiêng về các nước phát triển vì ở đó dang có ưu thế về trí tuệ,
hàm lượng cơng nghệ cao và vốn lớn. Các nước đang phát triển đang bị giảm dần ưu thế do lợi
thế về lao động rẻ, tài nguyên phong phú... đang bị suy yếu. Và các nước càng kém phát triển thì

càng phải chịu nhiều thua thiệt và rủi ro do sự suy giảm về lợi thế so sánh gây ra. Đó là thách
thức cho các nước đi sau.
Tồn cầu hố trong khi làm tăng vai trị của các ngành công nghiệp, dịch vụ, nhất là những
ngành có cơng nghệ cao, lao động kỹ năng... thì sẽ giảm tầm quan trọng của các hàng hoá sơ chế
và lao động không kỹ năng. Cuộc cách mạng công nghệ sinh học, tin học, điện tử... làm giảm tầm
quan trọng của các mặt hàng cơng nghệ thơ. Do đó, các nước đang phát triển, trước đây được coi
là giàu có, được ưu đãi về tài nguyên thiên nhiên, thì ngày nay đang trở thành những nước nghèo.
Sự tiến bộ về khoa học - công nghệ không chỉ làm thay đổi cơ cấu, mà còn làm thay đổi về lợi thế
so sánh giữa các nước phát triển và đang phát triển. Các ngành cơng nghiệp hiện đại sử dụng
ngày càng ít tài nguyên thiên nhiên, do đó, tài nguyên thiên nhiên khơng cịn là lợi thế lớn, khơng
cịn là yếu tố cạnh tranh quan trọng.
Trong nền kinh tế hiện đại, chỉ có cơng nghệ tri thức, kỹ năng tinh xảo được coi là các nguồn
lực có lợi thế so sánh cao. như vậy, các nước đang phát triển, các nhà xuất khẩu hàng hố sơ chế
và lao động khơng kỹ năng ngày càng bị rơi vào tình thế bất lợi. Hơn nữa, tồn cầu hố buộc các
nước đang phát triển hoạt động theo nguyên tắc của thị trường toàn cầu, làm hạn chế tính hiệu
quả của chính sách phát triển quốc gia của họ. Trong nền kinh tế toàn cầu hiện nay, tầm quan
trọng của nguyên liệu thô và lao động kỹ năng thấp đang giảm dần, trong khi lao động kỹ năng và
tri thức ngày càng trở nên quan trọng. Lợi thế đang ngày càng nghiêng dần về phía các nước phát
triển.
- Nợ nần của các quốc gia tăng lên, đặc biệt là các nước đang phát triển
Sau một thời gian tham gia tồn cầu hố nợ nần của nhiều nước đang phát triển ngày càng
thêm chồng chất. Khoản nợ quá lớn là gánh nặng đè lên nền kinh tế của các nước đang phát triển,
nó là lực cản kéo lùi tốc độ tăng trưởng kinh tế của các nước này. Theo báo cáo của WB về tình
hình tài chính toàn cầu năm 1999, tỷ lệ nợ nước ngoài so với GNP của Braxin là 24%, Mêhicô là
38%, Inđônêxia là 65%, Philippin là 51%,… Những khoản nợ quá lớn đang làm cho nền kinh tế
một số nước đang phát triển ngày càng phụ thuộc vào nền kinh tế các nước chủ nợ, mà chủ yếu là
các nước tư bản phát triển. Có những nước khoản vay mới khơng đủ dể trả lời những khoản vay
cũ. Điều đó càng làm cho nền kinh tế một số nước đang phát triển lâm vào bế tắc, khơng có
đường ra, dẫn đến vỡ nợ, phá sản.
- Sức cạnh tranh của nền kinh tế yếu kém

Tồn cầu hố đã làm cho vấn đề cạnh tranh toàn cầu trở nên ngày càng quyết liệt. Xuất phát
điểm và sức mạnh của mỗi quốc gia khác nhau, nên cơ hội và rủi ro của các nước là không ngang
10


nhau. Nền kinh tế của các quốc gia dễ bị thua thiệt nhiều hơn trong cuộc cạnh tranh không ngang
sức này. Càng phải phá bỏ hàng rào bảo hộ thì thách thức đối với các quốc gia càng lớn. Chính sự
yếu kém về kỹ thuật, công nghệ, vốn, kỹ năng tổ chức nền kinh tế của các quốc gia sẽ làm cho
chênh lệch về trình độ phát triển giữa các quốc gia với các nước phát triển sẽ ngày càng cách xa
hơn.
Từ đó cho thấy rằng, việc áp dụng nguyên tắc cạnh tranh bình đẳng cho các nước có trình độ
kinh tế khác xa nhau thực chất là một sự bất bình đẳng. Trên một sân chơi ngang bằng, cạnh tranh
‘’bình đẳng’’ những nền kinh tế lớn mạnh, những cơng ty có sức mạnh nhất định sẽ chiến thắng
những nền kinh tế cịn kém phát triển, những cơng ty cịn nhỏ yếu. Tính chất bất bình đẳng trong
cạnh tranh quốc tế hiện nay đang đem lại những thua thiệt cho các quốc gia yếu thế hơn.
- Phân hoá giàu nghèo giữa hai nhóm nước: phát triển và đang phát triển tăng lên
Q trình tồn cầu hố là q trình làm tăng thêm sự phân hố giàu nghèo giữa hai nhóm
nước: phát triển và đang phát triển. Hiện nay các nước phát triển đang nắm giữ 3/4 sức sản xuất
của toàn thế giới, 3/4 phân ngạch mậu dịch quốc tế, là nơi đầu tư và thu hút chủ yếu các luồng
vốn FDI (năm 1999 trong 827 tỷ USD tổng vốn FDI của thế giới, các nước phát triển chiếm 609
tỷ USD, riêng EU gần 300 tỷ USD, Mỹ gần 200 tỷ USD).
Các Công ty xuyên quốc gia lớn nhất thế giới cũng chủ yếu nằm ở các nước phát triển. Các
nước này cũng nắm giữ hầu hết các công nghệ hiện đại nhất, các phát minh, sáng chế, bí quyết và
các sản phẩm chất xám khác. Đây cũng là nơi liên tục thu hút được “chất xám” của toàn thế giới.
Ngoài ra các thiết chế kinh tế, tài chính, tiền tệ, thương mại quốc tế như WTO. IMF, WB... đều
nằm dưới sự chi phối của các nước phát triển, đứng đầu là Mỹ. Với những sức mạnh kinh tế to
lớn như vậy, các nước phát triển đang chi phối nền kinh tế tồn cầu. Cịn các nước có nền kinh tế
kém phát triển hơn thì nền kinh tế chưa đủ sức để chống đỡ được vịng xốy của cạnh tranh trong
nền kinh tế thế giới. Do vậy mà các quốc gia đó ngày càng bị nghèo đi so với tốc độ giàu nhanh
của các nước phát triển.

- Môi trường sinh thái ngày càng xấu đi
Việc chuyển dịch những ngành đòi hỏi nhiều hàm lượng lao động, tài nguyên... nhiều những
ngành công nghiệp gây ô nhiễm môi trường sang các quốc gia; việc các nhà tư bản nước ngoài
đầu tư vào các nước quốc gia ngày càng trở nên xấu đi nhanh chóng. Hơn nữa, trong q trình
tồn cầu hố sự phát triển của các nước phát triển không chỉ dựa vào tài nguyên giá rẻ, sức lao
động rẻ, thị trường giá rẻ, hàng hố và dịch vụ rẻ; mà cịn dựa vào đầu độc môi trường sinh thái ở
các quốc gia. 2/3 rừng của thế giới đang bị phá huỷ và đang mất đi với tốc độ mỗi năm 16 triệu
ha. Lượng gỗ dùng cho sản xuất giấy (gần như toàn bộ lấy từ các nước đang phát triển) thập kỷ
90 gấp đôi thập kỷ 50, mà tiêu dùng chế phẩm giấy của Mỹ, Nhật Bản, Châu Âu chiếm 2/3 thế
giới. Tồn thế giới mỗi năm có 2,7 triệu người chết vì khơng khí bị ơ nhiễm, thì 90% số người đó
là ở các nước đang phát triển. Ngồi ra, mỗi năm cịn có khoảng 25 triệu người bị trúng độc vì
thuốc trừ sâu, 5 triệu người bị chết vì nhiễm bệnh do nước bị nhiễm bẩn.
11


b. Nêu những lợi ích và khó khăn mà quốc gia phải đối mặt khi tham gia vào quá trình tồn
cầu hố:
* Lợi ích:
- Tự do hóa thương mại mở rộng, hàng rào thuế quan giữa các nước bị bãi bỏ hoặc giảm
xuống, hàng hóa có điều kiện lưu thơng rộng rãi.
- Đón đầu được cơng nghiệp hiện đại, áp dụng ngay vào quá trình phát triển kinh tế – xã hội.
- Chuyển giao những thành tựu mới về khoa học – công nghệ,…
- Các nước thực hiện chủ trương đa phương hóa quan hệ quốc tế, chủ động khai thác các
thành tựu khoa học – công nghệ tiên tiến của nước khác.
- Tạo điều kiện cho sự hợp tác, tham gia các liên minh kinh tế, chiếm lĩnh thị trường, tiếp thu
thành tựu khoa học, công nghệ tiên tiến.
- Tận dụng nguồn vốn, học tập kinh nghiệm quản lý.
* Khó khăn:
- Bị áp lực lớn trong cạnh tranh về giá cả và chất lượng hàng hóa.
- Cần có vốn, có nguồn nhân lực kỹ thuật cao làm chủ các ngành kinh tế mũi nhọn.

- Tồn cầu hóa gây áp lực nặng nề đối với tự nhiên, làm cho môi trường suy thối trên phạm
vi rộng tồn cầu và trên mỗi quốc gia.
- Phải cố gắng rất lớn trong cạnh tranh về kinh tế.
- Bỏ lỡ sẽ là thời cơ tụt hậu rất xa.
- Phải giữ gìn bản sắc văn hóa dân tộc và các nước độc lập quốc gia.
5. Tại sao trong khi hầu hết các nhà kinh tế học đều coi tự do hoá thương mại sẽ đem lại
những lợi ích cho các quốc gia (kể cả các quốc gia nghèo và kém phát triển), thì chính phủ
của nhiều quốc gia vẫn có xu hướng áp đặt các biện pháp hạn chế thương mại?
Trong nhiều thập kỷ qua, thương mại toàn cầu dựa trên lý thuyết về lợi thế so sánh, cho thấy,
các quốc gia thường chỉ làm ra những mặt hàng mà mình có lợi thế so sánh cao nhất nhằm đáp
ứng nhu cầu trong nước và xuất khẩu. Lợi thế so sánh của mỗi nền kinh tế dựa vào các yếu tố như
khoa học và công nghệ, khả năng sáng tạo, nhân công rẻ, nguyên liệu dồi dào, thậm chí cả các
yếu tố mang tính can thiệp của chính quyền như chính sách bảo hộ, hàng rào thuế quan... Về bản
chất, đó là sự phân cơng lao động trong dây chuyền sản xuất tồn cầu.
Có thể thấy rằng, tồn cầu hóa, tự do hóa thương mại tuy là động lực thúc đẩy tăng trưởng
kinh tế thế giới nhưng do sự bất bình đẳng về lợi ích kinh tế giữa các quốc gia; giữa các khu vực,
tầng lớp, thành phần xã hội trong mỗi quốc gia đã dẫn đến xu hướng chống tồn cầu hóa và tự do
hóa thương mại. Với sự phát triển của khoa học và công nghệ, thương mại thế giới đã xuất hiện
thêm các hình thức thương mại hàng hóa, dịch vụ xun biên giới, “xóa nhịa biên giới quốc gia”,
12


làm giảm vai trò của các lợi thế so sánh trước đây. Vì vậy, một số quốc gia thúc đẩy các doanh
nghiệp dịch chuyển trở về nước mình nhằm gia tăng lợi ích của quốc gia mình. Nhiều chính phủ
tun bố ủng hộ tự do hóa thương mại, tơn trọng các nguyên tắc thị trường, phê phán chủ nghĩa
bảo hộ nhưng trên thực tế lại hành động ngược lại, kể cả áp dụng biện pháp can thiệp hành chính.
Tự do hóa thương mại có thể gây ảnh hưởng tiêu cực đến một số doanh nghiệp trong một
quốc gia vì các sản phẩm nhập khẩu làm tăng sự cạnh tranh từ các nhà sản xuất nước ngồi, và có
thể dẫn đến việc các ngành cơng nghiệp đó nhận được ít hỗ trợ của địa phương hơn. Mặt khác,
hàng hoá của các doanh nghiệp trong nước có sức cạnh tranh giảm mạnh, gây sức ép cạnh tranh,

tiêu thụ cho các doanh nghiệp trong nước. Việc hàng hố trong nước có sức cạnh tranh thấp hơn
so với hàng hố nhập khẩu thì dẫn đến tình trạng thị trường trong nước sẽ tồn là hàng nhập khẩu
và sinh ra tâm lý “sính ngoại”. Từ việc hàng hoá của các doanh nghiệp trong nước được ít hỗ trợ
hơn và sức tiêu thụ kém hơn sẽ dẫn đến lợi nhuận của các doanh nghiệp trong nước giảm mạnh
và khó có thể tồn tại trong chính thị trường của quốc gia mình. Việc lợi nhuận giảm của doanh
nghiệp trong nước giảm cũng gây ảnh hưởng đến việc làm của những người lao động đó hoặc
những người lao động trong nước sẽ làm việc trong các doanh nghiệp có sản phẩm nhập khẩu
ngày càng tăng, việc xuất khẩu lao động có thể tăng theo và có thể gây ra hiện tượng “chảy máu
chất xám”.
Việc tự do hoá thương mại cũng có thể có rủi ro tài chính và rủi ro xã hội lớn hơn nếu các mặt
hàng hoặc nguyên liệu đến từ các quốc gia trong cùng khối với nhau. Bởi lẽ, đối với những quốc
gia trong khối sẽ được hưởng một mức ưu đãi như nhau và nếu việc nhập khẩu hàng hố có tiêu
chuẩn thấp hơn nhưng lại được hưởng một mức ưu đãi như những quốc gia có hàng hố đạt tiêu
chuẩn. Do đó, để bảo vệ thị thường trong nước tránh khỏi những rủi ro thiệt hại từ việc nhập khẩu
hàng hoá, quốc gia sẽ áp dụng các biện pháp kiểm soát hợp lý.
Tự do hố thương mại có thể làm xuất hiện hiệu ứng chệch hướng thương mại. Khi một nhóm
nước hình thành khu vực thương mại tự do thì một vấn đề phát sinh là nhập khẩu từ các nước
ngồi khối có thể xâm nhập vào nước có thuế quan cao thơng qua các nước có thuế quan thấp
trong khu vực. Thơng thường, khi một quốc gia áp dụng cùng một mức thuế đối với tất cả các
quốc gia khác, liền có xu hướng nhập khẩu hàng hóa từ nơi có giá rẻ nhất, mang lại hiệu quả cao
nhất. Tuy nhiên, một khi các hiệp định thương mại song phương hay khu vực trong các trong các
khu vực thương mại tự do được kí kết, tạo nên sự khác biệt về mức thuế, hàng hóa của các quốc
gia tham hiệp định sẽ trở nên rẻ hơn so với hàng hóa của các quốc gia bên ngồi. Chính điều này
gây ra hiện tượng chệch hướng thương mại, các quốc gia có xu hướng chuyển việc nhập khẩu
hàng hóa từ các nước bạn hàng quen thuộc sang các nước nằm trong hiệp định. Hiện tượng này sẽ
gây ra thiệt hai cho những nước không phải là thành viên của hiệp định hay khu vực thương mại
tự do nào đó. Chệch hướng thương mại hướng các quốc gia lựa chọn các sản phẩm từ các nước
trong hiệp định hoặc khu vực thương mại tự do bởi lợi thế giá rẻ chứ khơng hồn tồn do có sức
cạnh tranh hơn các sản phẩm tương tự từ các nước bên ngồi khu vực, khơng phải thành viên.
Những nước này mặc dù sản xuất hiệu quả hơn nhưng vẫn bị mất thị trường vì chênh lệch thuế.

13


Tự do hóa thương mại có thể là mối đe dọa đối với các quốc gia hoặc nền kinh tế đang phát
triển vì họ buộc phải cạnh tranh trong cùng thị trường với các nền kinh tế hoặc quốc gia đã phát
triển. Thách thức này có thể kìm hãm sự đa dạng của ngành công nghiệp địa phương hoặc dẫn
đến sự thất bại của các ngành công nghiệp mới phát triển.
Từ những lý do việc tự do hoá thương mại có thể gây ảnh hưởng đến thị trường trong nước
nên các quốc gia mặt dù thực hiện tự do hoá thương mại nhưng vẫn có xu hướng áp đặt các biện
pháp hạn chế thương mại để bảo vệ nền kinh tế của quốc gia mình.
6. Tại sao lại có quan điểm ủng hộ và phản đối tự do hoá thương mại?
Tự do hóa thương mại là loại bỏ hoặc giảm bớt các hạn chế hoặc rào cản đối với trao đổi hàng
hóa tự do giữa các quốc gia. Từ thực tiễn cho thấy, tự do hoá thương mại đem lại nhiều lợi ích
cho nền kinh tế nhưng mặt khác cũng có thể gây ra những hạn chế và những rủi ro cho nền kinh
tế quốc gia.
- Ưu điểm của tự do hố thương mại:
Tự do hóa thương mại thúc đẩy thương mại tự do. Thương mại tự do cho phép các quốc gia
giao dịch hàng hóa mà khơng có rào cản pháp lí hoặc chi phí liên quan. Quy định giảm thiểu này
làm giảm chi phí khi các quốc gia giao dịch với các quốc gia khác và cuối cùng, có thể dẫn đến
chi phí tiêu dùng thấp hơn vì hàng nhập khẩu chịu phí thấp hơn và tăng cạnh tranh.
Sự gia tăng cạnh tranh từ nước ngoài bởi tự do hóa thương mại đã tạo động lực cho các doanh
nghiệp trong nước đạt hiệu quả cao hơn và sản xuất với chi phí rẻ hơn. Sự cạnh tranh này cũng có
thể thúc đẩy một quốc gia chuyển các nguồn lực sang các ngành mà họ có thể có lợi thế cạnh
tranh.
Nhờ vào việc cam kết dỡ bỏ các rào cản thương mại, doanh nghiệp các nước thành viên được
phép tự do trao đổi bn bán hàng hóa, khơng bị đánh thuế, không bị áp hạn ngạch và một số thủ
tục phức tạp khác mà các doanh nghiệp ở các quốc gia khác nhau có thể tự do trao đổi bn bán
hợp tác. Kim ngạch xuất khẩu từ đó cũng tăng lên kéo theo sự thu nhập và phát triển GDP của
các nước này, thúc đẩy nền kinh tế phát triển. Ngồi ra, việc xóa bỏ các hàng rào này cũng tạo ra
sự cạnh tranh gay gắt giữa các doanh nghiệp trong một thị trường rộng lớn hơn. Để cạnh tranh

các doanh nghiệp sẽ thúc đẩy mở rộng quy mô, cắt giảm chi phí, tăng doanh số, đa dạng hóa sản
phẩm, cắt bỏ những hoạt động kém hiệu quả, xây dựng một hệ thống nhân công làm việc nghiêm
túc, hiệu quả. Từ đó, khơng những làm cho doanh nghiệp phát triển mà còn mang lại cho chúng ta
một thị trường tấp nập, sự lựa chọn đa dạng và tốt nhất cho người tiêu dùng. Một FTA khi hình
thành có thể thúc đẩy các dòng đầu tư nội địa và cả nước ngồi, dịng đầu tư giữa các thành viên
FTA cũng như bên ngồi FTA đó. Ngồi ra FTA cịn tạo ra cơ hội cho các nước thành viên chia
sẻ và chuyển giao công nghệ cho nhau thuận lợi hơn. Cũng thông qua việc trở thành đối tác của
nhau sẽ tạo cơ hội cho các quốc gia học hỏi, rút ra kinh nghiệm, phát triển hiệu quả, nâng cao
năng suất và lợi nhuận.

14


Tự do hố thương mại cịn tạo ra các tác động tích cực về mặt phi kinh tế. Đó là hiệu ứng về
hịa bình và chính trị an ninh. Khi hai quốc gia có mối quan hệ hợp tác kinh tế, thương mại gần
gũi hơn có thể làm gia tăng lịng tin giữa các bên từ đó tăng cường quan hệ đối ngoại, duy trì hịa
bình và an ninh chính trị. Ngoài ra các quốc gia cùng hợp tác, phát triển cũng có thể nâng cao vị
thế vai trị và tầm ảnh hưởng của mình trên trường quốc tế.
- Nhược điểm của tồn cầu hố:
Tự do hóa thương mại có thể gây ảnh hưởng tiêu cực đến một số doanh nghiệp trong một
quốc gia vì các sản phẩm nhập khẩu làm tăng sự cạnh tranh từ các nhà sản xuất nước ngồi, và có
thể dẫn đến việc các ngành cơng nghiệp đó nhận được ít hỗ trợ của địa phương hơn. Mặt khác,
hàng hoá của các doanh nghiệp trong nước có sức cạnh tranh giảm mạnh, gây sức ép cạnh tranh,
tiêu thụ cho các doanh nghiệp trong nước. Việc hàng hố trong nước có sức cạnh tranh thấp hơn
so với hàng hố nhập khẩu thì dẫn đến tình trạng thị trường trong nước sẽ toàn là hàng nhập khẩu
và sinh ra tâm lý “sính ngoại”. Từ việc hàng hố của các doanh nghiệp trong nước được ít hỗ trợ
hơn và sức tiêu thụ kém hơn sẽ dẫn đến lợi nhuận của các doanh nghiệp trong nước giảm mạnh
và khó có thể tồn tại trong chính thị trường của quốc gia mình. Việc lợi nhuận giảm của doanh
nghiệp trong nước giảm cũng gây ảnh hưởng đến việc làm của những người lao động đó hoặc
những người lao động trong nước sẽ làm việc trong các doanh nghiệp có sản phẩm nhập khẩu

ngày càng tăng, việc xuất khẩu lao động có thể tăng theo và có thể gây ra hiện tượng “chảy máu
chất xám”.
Việc tự do hố thương mại cũng có thể có rủi ro tài chính và rủi ro xã hội lớn hơn nếu các mặt
hàng hoặc nguyên liệu đến từ các quốc gia trong cùng khối với nhau. Bởi lẽ, đối với những quốc
gia trong khối sẽ được hưởng một mức ưu đãi như nhau và nếu việc nhập khẩu hàng hố có tiêu
chuẩn thấp hơn nhưng lại được hưởng một mức ưu đãi như những quốc gia có hàng hố đạt tiêu
chuẩn. Do đó, để bảo vệ thị thường trong nước tránh khỏi những rủi ro thiệt hại từ việc nhập khẩu
hàng hoá, quốc gia sẽ áp dụng các biện pháp kiểm soát hợp lý.
Tự do hoá thương mại có thể làm xuất hiện hiệu ứng chệch hướng thương mại. Khi một nhóm
nước hình thành khu vực thương mại tự do thì một vấn đề phát sinh là nhập khẩu từ các nước
ngồi khối có thể xâm nhập vào nước có thuế quan cao thơng qua các nước có thuế quan thấp
trong khu vực. Thông thường, khi một quốc gia áp dụng cùng một mức thuế đối với tất cả các
quốc gia khác, liền có xu hướng nhập khẩu hàng hóa từ nơi có giá rẻ nhất, mang lại hiệu quả cao
nhất. Tuy nhiên, một khi các hiệp định thương mại song phương hay khu vực trong các trong các
khu vực thương mại tự do được kí kết, tạo nên sự khác biệt về mức thuế, hàng hóa của các quốc
gia tham hiệp định sẽ trở nên rẻ hơn so với hàng hóa của các quốc gia bên ngồi. Chính điều này
gây ra hiện tượng chệch hướng thương mại, các quốc gia có xu hướng chuyển việc nhập khẩu
hàng hóa từ các nước bạn hàng quen thuộc sang các nước nằm trong hiệp định. Hiện tượng này sẽ
gây ra thiệt hai cho những nước không phải là thành viên của hiệp định hay khu vực thương mại
tự do nào đó. Chệch hướng thương mại hướng các quốc gia lựa chọn các sản phẩm từ các nước
trong hiệp định hoặc khu vực thương mại tự do bởi lợi thế giá rẻ chứ khơng hồn tồn do có sức
15


cạnh tranh hơn các sản phẩm tương tự từ các nước bên ngồi khu vực, khơng phải thành viên.
Những nước này mặc dù sản xuất hiệu quả hơn nhưng vẫn bị mất thị trường vì chênh lệch thuế.
Tự do hóa thương mại có thể là mối đe dọa đối với các quốc gia hoặc nền kinh tế đang phát
triển vì họ buộc phải cạnh tranh trong cùng thị trường với các nền kinh tế hoặc quốc gia đã phát
triển. Thách thức này có thể kìm hãm sự đa dạng của ngành công nghiệp địa phương hoặc dẫn
đến sự thất bại của các ngành công nghiệp mới phát triển.

- Khi các quốc gia tiến hành tự do hóa thương mại, cần phải xét về những yếu tố chung, có thể
tóm tắt như sau:
+ Giảm những hạn chế về hạn ngạch

Việc giảm hạn ngạch là một trong những nội dung quan trọng của cải cách thương mại theo
hướng tự do hóa. Thay chế độ cấp hạn ngạch bằng chế độ thuế là việc làm phổ biến của các nước
tiến hành cải cách theo hướng tự do hóa thương mại. Tuy nhiên trong một số trường hợp, chế độ
hạn ngạch có ý nghĩa là biện pháp phân bổ nguồn dự trữ ngoại tệ khan hiếm. Với các nhu cầu
quan trọng (cả ở chiều xuất khẩu lẫn ở chiều nhập khẩu), nhà nước có thể khống chế việc cân đối
cung - cầu, nhất là đối với những nước quan hệ cung - cầu còn căng thẳng. Xu hướng chung là
giảm mạnh, chỉ giữ một số lượng khống chế bằng hạn ngạch tối thiểu, hoặc xóa hạn ngạch hồn
tồn.
+ Tiến đến một tỷ giá hối đối thực tế
Sự thay đổi giá cả tương ứng với sự thay đổi giá đồng bản tệ sẽ thúc đẩy việc sản xuất và kinh
doanh hàng xuất khẩu phát triển. Giai đoạn tiếp theo là cố gắng ổn định tỷ giá hối đoái thực tế,
tránh sự lên - xuống đột biến của nó. Ngồi những biện pháp nghiệp vụ kỹ thuật của ngân hàng,
cịn phải thực hiện đồng bộ các chính sách tài chính và các biện pháp chống lạm phát hữu hiệu.
+ Các chính sách kinh tế vĩ mơ đúng đắn
Thứ nhất, thực hiện chiến lược mở cửa và hội nhập, hợp tác và phối hợp chính sách quốc tế.
Xác định mở cửa kinh tế là động lực quan trọng để đẩy mạnh xuất khẩu trong bối cảnh tồn cầu
hóa. Tự do hóa thương mại và đầu tư đóng vai trị quan trọng trong các chương trình cải cách, là
một trong những cách thức, công cụ và biện pháp chủ yếu để phát triển, mở rộng thị trường xuất,
nhập khẩu hàng hóa của quốc gia.
Thứ hai, nỗ lực gia tăng việc thực hiện cải cách thể chế ngoại thương. Thứ ba, áp dụng nhiều
cơng cụ, biện pháp khuyến khích, hỗ trợ xuất khẩu, như miễn, giảm thuế xuất khẩu, hoàn thuế giá
trị gia tăng hàng xuất khẩu, miễn thuế đầu vào nhập khẩu cho chế biến xuất khẩu, tài trợ và xúc
tiến xuất khẩu. Tuy nhiên, khơng nên khuyến khích xuất khẩu bằng mọi giá mà cần chú trọng xây
dựng và thực thi các biện pháp, chính sách hạn chế, cấm xuất khẩu phù hợp với cam kết quốc tế
để thực hiện các mục tiêu phát triển bền vững về xã hội và mơi trường.
+ Xây dựng lộ trình cải cách hợp lý

16


Những chương trình cải cách thường thất bại nếu bắt tay ngay vào xử lý việc tự do hóa thị
trường vốn, trước khi tiến hành tự do hóa thương mại. Vì vậy, chú trọng xây dựng năng lực thể
chế và chuyên môn song song với việc đào tạo cán bộ có trình độ về kinh tế thị trường, pháp luật
kinh doanh quốc tế,... với cải cách thủ tục hành chính, đặc biệt là việc xử lý mối quan hệ giữa nhà
nước và thị trường là những tiền đề quan trọng; chấn chỉnh và sửa đổi các định chế tài chính của
nhà nước, cơ chế điều hành, quản lý các ngân hàng thương mại cũng như xử lý mối quan hệ giữa
ngân hàng và doanh nghiệp; thúc đẩy quốc tế hóa các doanh nghiệp trong nước, khuyến khích các
doanh nghiệp đầu tư ra nước ngoài, thâm nhập sâu rộng vào thị trường thế giới và triển khai một
chiến lược phát triển thị trường xuất khẩu toàn diện, hiệu quả, lâu dài trên quy mơ tồn cầu; tăng
cường năng lực xây dựng và thực thi các biện pháp kỹ thuật đối với thương mại (TBT), các biện
pháp vệ sinh và kiểm dịch động, thực vật (SPS),... để bảo hộ sản xuất và bảo vệ thị trường trong
nước; đàm phán, yêu cầu mở rộng hơn các điều kiện tiếp cận thị trường và kết hợp xuất, nhập
khẩu với các đối tác thương mại chủ yếu nhằm cân bằng cán cân thương mại; phân tích, đánh giá
sâu sắc tác động của các hiệp định thương mại tự do (FTA) đối với phát triển kinh tế, thương mại
của quốc gia trước khi quyết định có nên tham gia FTA hay không.
Từ những ưu điểm và nhược điểm cũng như những yếu tố mà các quốc gia cần phải đối mặt
và cân nhắc dẫn đến việc tồn tại những quan điểm khác nhau về tự do hố thương mại, có quan
điểm ủng hộ tự do hố thương mại vì những ưu điểm của nó, cũng có quan điểm phản đối vì cịn
cần cân nhắc về nhược điểm của tự do hoá thương mại và các yếu tố cần thiết khác.
7. Vì sao nói thuế quan tỷ lệ thuận với mức độ bảo hộ hàng hoá trong nước và tỷ lệ
nghịch với mức độ mở cửa thị trường cho hàng hố nước ngồi?
Thuế quan là thuế do hải quan của một nước thu đối với hàng hóa xuất khẩu hoặc nhập khẩu
khi vận chuyển qua cửa khẩu của nước đó. Đối tượng chịu thuế quan là các tổ chức, cá nhân có
hành vi xuất khẩu, nhập khẩu hàng hóa thuộc diện chịu thuế theo quy định của pháp luật quốc gia
nhập khẩu.
Thuế quan là biện pháp của phòng vệ thương mại. Việc áp dụng thuế quan để tạm thời hạn
chế nhập khẩu đối với một hoặc một số hàng hoá khi việc nhập khẩu chúng tăng nhanh gây ra

hoặc đe doạ gây ra thiệt hại nghiêm trọng cho ngành sản xuất trong nước.
Việc áp dụng thuế quan chỉ được áp dụng khi đã tiến hành điều tra và chứng minh được sự tồn
tại đồng thời các điều kiện sau:
- Hàng hoá liên quan được nhập khẩu tăng đột biến về số lượng.
- Ngành sản xuất sản phẩm tương tự hoặc cạnh tranh trực tiếp với hàng hoá đó bị thiệt hại
hoặc đe doạ thiệt hại nghiêm trọng.
- Có mối quan hệ nhân quả giữa hiện tượng nhập khẩu tăng đột biến và thiệt hại hoặc đe doạ
thiệt hại gây ra nói trên.
* Thuế quan tỷ lệ thuận với mức độ bảo hộ hàng hoá trong nước:
17


Lý do của việc áp dụng thuế quan là trong hoàn cảnh buộc phải mở cửa thị trường và tự do
hoá thương mại theo các cam kết WTO, áp dụng thuế quan là một “khố an tồn” mà hầu hết các
nước nhập khẩu là thành viên WTO đều mong muốn thực hiện khi thấy cần thiết. Với chiếc khoá
này, nước nhập khẩu có thể ngăn chặn tạm thời luồng nhập khẩu hàng hoá để giúp ngành sản xuất
nội địa của mình tránh những đổ vỡ trong một số trường hợp khó khăn.
Thuế quan trước hết là nhằm điều tiết hoạt động xuất khẩu và nhập khẩu. Lượng hàng hóa
xuất khẩu và nhập khẩu phụ thuộc vào sự tiêu thụ hàng hóa, yếu tố này lại phụ thuộc vào giá cả.
Giá cả lên xuống làm giảm hoặc tăng sức cạnh tranh của hàng hóa. Một bộ phận quan trọng tác
động đến sự lên xuống của giá cả hàng hóa ngoại thương đó là thuế quan. Thuế quan đánh thấp
hay đánh cao ảnh hưởng đến sức cạnh tranh của hàng hóa, do đó thơng qua mức thuế quan đánh
vào hàng hóa xuất nhập khẩu người ta gián tiếp điều tiết hoạt động xuất nhập khẩu hàng hóa.
Do đó, thuế quan có tác dụng bảo hộ thị trường nội địa vì đánh thuế cao vào những hàng hóa
nhập khẩu, giúp các nhà sản xuất trong nước bằng giá rẻ có thể cạnh tranh với hàng hóa nhập
khẩu. Đặc biệt thuế quan giúp các xí nghiệp sản xuất non trẻ ở trong nước có thời gian để phát
triển và sinh lời nhằm có thể cạnh tranh với hàng nhập khẩu trong tương lai. Vì những xí nghiệp
non trẻ thường phải chi phí ban đầu cao, chưa có thị trường rộng lớn nên những xí nghiệp này có
thể bị bóp chết trong trường hợp thương mại tự do khi bị hàng nhập khẩu cạnh tranh. Từ đó có
thể thấy, nếu quốc gia áp dụng mức thuế quan càng cao thì mức độ bảo hộ hàng hố trong nước

sẽ càng cao. Vì vậy, thuế quan tỷ lệ thuận với mức độ bảo hộ hàng hoá trong nước.
* Thuế quan tỷ lệ nghịch với mức độ mở cửa thị trường cho hàng hố nước ngồi:
Thuế quan là biện pháp tự vệ trong thương mại quốc tế được sử dụng để “đối phó” với hành vi
thương mại hồn tồn bình thường (khơng có hành vi vi phạm pháp luật hay cạnh tranh khơng
lành mạnh) nên về hình thức, các biện pháp tự vệ được coi là đi ngược lại chính sách tự do hố
thương mại của WTO. Bởi lẽ, tiền đề của việc mở cửa thị trường cho hàng hoá là cắt giảm hàng
rào thuế quan và phi thuế quan để mở rộng quyền tiếp cận thị trường trong nước của hàng hố
nước ngồi.
Do đó, biện pháp tự vệ khơng phải là cơng cụ “miễn phí”. Biện pháp tự vệ được thừa nhận
trong thương mại quốc tế nhưng lại đi ngược lại mục tiêu “tự do hoá thương mại”, biện pháp tự
vệ là một công cụ phải trả tiền. Điều đó có nghĩa là các nước được phép áp dụng nó bảo vệ ngành
sản xuất trong nước của mình nhưng phải “trả giá” cho những thiệt hại gây ra cho các nhà sản
xuất nước ngồi như một hình thức cân bằng cam kết thương mại với nước khác trong trường hợp
kết quả điều tra kết luận việc nước nhập khẩu áp dụng biện pháp tự vệ là quá mức cần thiết và
khơng có cơ sở. Cụ thể, nước áp dụng biện pháp tự vệ phải bồi thường thương mại cho các nước
có hàng hố bị áp dụng biện pháp tự vệ theo các điều kiện nhất định. Nếu nước này không tuân
thủ, WTO cho phép các nước liên quan được áp dụng biện pháp trả đũa.
Từ đó có thể thấy, nếu quốc gia áp dụng mức thuế càng cao thì hàng hố nước ngồi sẽ khó
khăn hơn trong việc nhập khẩu vào thị trường của quốc gia. Vì vậy, thuế quan tỷ lệ nghịch với
mức độ mở cửa thị trường cho hàng hố nước ngồi.
18


8. Liệt kê và phân tích một số biện pháp phi thuế quan phổ biến trong hoạt động
thương mại quốc tế.
Những biện pháp phi thuế quan trực tiếp là những hạn chế của hải quan đối với số lượng và
chủng loại hàng hoá nhập khẩu, cụ thể là giấy phép nhập khẩu, hạn ngạch thuế quan, hạn ngạch
nhập khẩu và hạn ngạch xuất khẩu tự nguyện… Tức là những biện pháp hạn chế số lượng.
Hiệp định chung về thuế quan và thương mại (GATT) quy định rằng, việc bảo hộ công nghiệp
trong nước phải phải thông qua biện pháp thu thuế nhập khẩu chứ không phải bằng cách hạn chế

số lượng và các biện pháp phi thuế quan khác. Hạn chế số lượng là việc các nước xuất nhập khẩu
thực hiện hạn chế bằng cách quy định một số lượng nhất định đối với hàng hoá xuất nhập khẩu.
Một số biện pháp phi thuế quan phổ biến trong hoạt động thương mại quốc tế:
* Cấm nhập khẩu (Prohibitions):
Cấm nhập khẩu là biện pháp bảo hộ cao nhất, gây ra hạn chế lớn nhất đối với thương mại
quốc tế. Trong thương mại quốc tế có nhiều trường hợp cấm nhập khẩu như: cấm hoàn toàn, cấm
theo mùa, cấm tạm thời, cấm vận, cấm sản phẩm nhạy cảm, tạm dừng cấp phép nhập khẩu….
WTO yêu cầu không được phép áp dụng, nếu khơng có lý do chính đáng. Tuy nhiên, các thành
viên có thể thi hành các biện pháp cấm xuất khẩu, nhập khẩu trong một số trường hợp ngoại lệ
sau:
- Cần thiết để đảm bảo an ninh quốc gia, phục vụ lợi ích cơng cộng (Điều XXI, Hiệp định
GATT 1994).
Ví dụ:
+ Việt Nam cấm nhập khẩu vũ khí, đạn dược nhằm mục đích bảo vệ an ninh quốc gia, cấm
nhập khẩu hóa chất độc, phế liệu, phế thải nhằm mục đích bảo vệ sức khỏe con người, bảo vệ môi
trường. Những biện pháp hạn chế số lượng nhập khẩu như vậy được coi là ngoại lệ phù hợp với
quy định của WTO.
+ Trước đây Việt Nam cấm nhập khẩu thuốc lá điếu và xì gà với lý do hạn chế hút thuốc lá
nhằm bảo vệ sức khỏe con người trong khi vẫn cho phép sản xuất thuốc lá trong nước, do đó các
thành viên WTO cho rằng quy định cấm nhập khẩu thuốc lá này là nhằm mục đích bảo hộ ngành
sản xuất thuốc lá trong nước và không được coi là ngoại lệ. Vì vậy, để gia nhập WTO, Việt Nam
đã phải cam kết bãi bỏ quy định này.
- Cần thiết để: Bảo vệ đạo đức xã hội; bảo vệ con người, động vật và thực vật; bảo vệ các tài
nguyên thiên nhiên khan hiếm (Điều XX của Hiệp định chung về Thuế quan và Thương mại 1994
(GATT 1994) quy định các thành viên WTO có thể được phép áp dụng các biện pháp không mâu
thuẫn với những quy định trong các Hiệp định của WTO, nếu việc áp dụng các biện pháp này “là
cần thiết để bảo vệ sức khoẻ, cuộc sống của con người, động thực vật” (Điểm b, Mục XX) hoặc
“có liên quan tới việc bảo tồn các tài nguyên thiên nhiên có thể bị cạn kiệt” (Điểm g, Mục XX)
bảo vệ các tài sản quốc gia về nghệ thuật, lịch sử hay khảo cổ, với điều kiện là các biện pháp này
19



cần phải thực hiện kèm theo việc hạn chế sản xuất hay tiêu dùng nội địa liên quan tới chúng; và
liên quan tới nhập khẩu hay xuất khẩu vàng và bạc (Điều XX, Hiệp định GATT 1994).
- Được áp dụng một cách tạm thời để ngăn cản hay giảm bớt sự khan hiếm lương thực, thực
phẩm hay các sản phẩm thiết yếu khác; Cần thiết để áp dụng các tiêu chuẩn hay quy định để phân
loại, xếp hạng hay tiếp thị các sản phẩm trong thương mại quốc tế (Điều XI, Hiệp định GATT
1994).
* Hạn ngạch nhập khẩu (quotas):
Hạn ngạch nhập khẩu là những giới hạn do chính phủ đặt ra đối với số lượng của một hàng
hóa nhất định có thể được nhập khẩu vào một quốc gia. Nói chung, những hạn ngạch như vậy
được đưa ra để bảo vệ các ngành công nghiệp trong nước và các nhà sản xuất dễ bị tổn thương.
Hạn ngạch ngăn cản thị trường nội địa của một quốc gia tràn ngập hàng hóa nước ngồi, thường
rẻ hơn do chi phí sản xuất ở nước ngoài thấp hơn.
Hạn ngạch sẽ làm giảm nhập khẩu, và giúp các nhà cung cấp trong nước. Tuy nhiên, chúng sẽ
dẫn đến việc người tiêu dùng phải trả giá cao hơn, giảm phúc lợi kinh tế và có thể dẫn đến việc
trả đũa các nước khác áp thuế lên hàng xuất khẩu của chúng ta.
Hạn ngạch sẽ dẫn đến doanh thu thấp hơn cho các công ty nước ngồi, nhưng nó có thể đẩy
giá lên và làm cho việc bán hàng có lợi hơn.
Các chính phủ có trách nhiệm đưa ra hạn ngạch để bảo vệ lợi ích trong nước. Theo quy luật
cung và cầu, việc áp đặt hạn ngạch hạn chế nguồn cung của một số hàng hóa cụ thể sẽ khiến giá
của chúng tăng lên. Hạn ngạch làm tăng giá hàng hóa, làm giảm khả năng cạnh tranh về chi phí
của nhà cung cấp nước ngồi. Chính phủ của các quốc gia khác nhau kiểm tra thường xuyên số
lượng hàng hóa được nhập khẩu. Khi tuân theo quy luật cung cầu, giá vốn hàng hóa có nguồn
cung hạn chế sẽ có giá tăng vọt. Do đó việc áp đặt hạn ngạch sẽ làm tăng giá hàng hóa và điều
này làm giảm khả năng cạnh tranh từ thị trường nước ngoài. Mặc dù về mặt tiêu cực, việc áp đặt
hạn ngạch đối với hàng nhập khẩu hạn chế sự thay thế của các lựa chọn có sẵn cho người tiêu
dùng, dẫn đến việc họ phải trả giá cao hơn cho một số hàng hóa nhất định.
Có 02 loại hạn ngạch phổ biến:
- Hạn ngạch tuyệt đối: là giới hạn về số lượng hàng hóa cụ thể mà một quốc gia có thể nhập

khẩu trong một khoảng thời gian cụ thể. Khơng thể nhập khẩu thêm hàng hóa nào vào nước này
sau khi đã hoàn thành hạn ngạch. Hạn ngạch tuyệt đối được đặt ra trên phạm vi quốc tế mà hàng
hóa có thể được nhập khẩu từ bất kỳ quốc gia nào cho đến khi đạt được mục tiêu. Hạn ngạch
tuyệt đối cũng được thiết lập có chọn lọc cho các quốc gia nhất định.
- Hạn ngạch thuế quan: Là một hệ thống hạn ngạch hai cấp kết hợp các tính năng của cả thuế
quan và hạn ngạch theo hệ thống này hạn ngạch ban đầu của một sản phẩm được phép nhập khẩu
với tỷ lệ thấp hơn. Khi vượt qua hạn ngạch, hàng hóa có thể được nhập khẩu tiếp tục nhưng với
mức thuế suất cao hơn.
20



×