Tải bản đầy đủ (.docx) (9 trang)

Bài Tập Nhóm Môn Tư Pháp Quốc Tế.docx

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (118.15 KB, 9 trang )

Câu 1: Tư pháp quốc tế là gì? Đối tượng điều chỉnh và phương pháp điều
chỉnh của tư pháp quốc tế, nguồn của tư pháp quốc tế.
Bài làm
- Tư pháp quốc tế
Tư pháp quốc tế là bộ môn khoa học pháp lý độc lập và là một ngành luật
độc lập bao gồm các nguyên tắc và quy phạm pháp luật điều chỉnh mối quan hệ
dân sự, kinh tế, thương mại, lao động, quan hệ hơn nhân và gia đình và tố tụng
dân sự có yếu tố nước ngồi.
- Đối tượng điều chỉnh Tư pháp quốc tế
+ Tư pháp quốc tế là một ngành luật điều chỉnh mối quan hệ dân sự, kinh tế,
thương mại, lao động, quan hệ hôn nhân và gia đình, và tố tụng dân sự có yếu tố
nước ngồi. Ví dụ: Cơng dân Việt Nam kết hơn với công dân Lào; Công dân
Việt Nam trong thời gian cư trú tại Trung Quốc gây tại nạn giao thông làm bị
thương công dân Nhật bản thường trú tại Hàn Quốc.
+ Tư pháp quốc tế còn tham gia điều chỉnh một số quan hệ phát sinh trong quá
trình giải quyết các vụ án dân sự có yếu tố nước ngồi như: xác định thẩm
quyền của tòa án quốc gia đối với các vụ việc dân sự có yếu tố nước ngoài; vấn
đề xác định năng lực hành vi tố tụng dân của cá nhân, pháp nhân nước ngoài;
vấn đề ủy thác Tư pháp quốc tế, việc công nhận cho thi hành bản án, quyết định
dân sự của tòa án nước ngồi; việc cơng nhận và cho thi hành các quyết định
của Trọng tài nước ngoài v.v…..
- Phương pháp điều chỉnh Tư pháp quốc tế
Mỗi ngành luật đều có phương pháp điều chỉnh riêng. Tư pháp quốc tế điều
chỉnh các quan hệ xã hội thuộc phạm vi của mình bằng hai phương pháp đặc
trưng:


+ Phương pháp xung đột ( Phương pháp gián tiếp) là phương pháp áp dụng các
quy phạm pháp luật xung đột nhằm điều chỉnh các quan hệ Tư pháp quốc tế.
Các quy phạm pháp luật xung đột thường quy định trong các văn bản quy phạm
pháp luật quốc gia hoặc trong các Điều ước quốc tế. Quy phạm pháp luật xung


đột không trực tiếp quy định quyền và nghĩa vụ của các bên chủ thể tham gia Tư
pháp quốc tế mà chỉ ra hệ thống pháp luạt nước nào được áp dụng để điều chỉnh
quan hệ pháp luật trên.
+ Phương pháp thực chất (Phương pháp trực tiếp): Quy phạm pháp luật thực
chất trực tiếp điều chỉnh và quy định quyền và nghĩa vụ của các bên chủ thể
tham gia quan hệ pháp luật cụ thể. Quy phạm pháp luật thực chất bao gồm:
(1) Quy phạm thực chất thống nhất- được ghi nhận trong các Điều ước quốc
tế
(2) Quy phạm pháp luật thông thường – được ghi nhận trong các văn bản
pháp luật quốc gia
- Nguồn của Tư pháp quốc tế
Cũng giống như các ngành luật khác, Tư pháp quốc tế có nguồn điều chỉnh
riêng biệt phù hợp với đối tượng điều chỉnh của nó. Nguồn của Tư pháp quốc tế
là các yếu tố trong đó chứa đựng cơ sở pháp lý điều chỉnh quan hệ tư pháp quốc
tế. Điều 38 Quy chế Tòa án Quốc tế, các vụ tranh chấp được chuyển đến Tòa
án, sẽ áp dụng:
1. Các điều ước quốc tế, chung hoặc riêng, đã quy định về những nguyên tắc
được các bên đang tranh chấp thừa nhận;
2. Các tập quán quốc tế như những chứng cứ thực tiễn chung, được thừa
nhận như những quy phạm pháp luật;
3. Nguyên tắc chung của của luật được các quốc gia văn minh thừa nhận;


4. Các án lệ và các học thuyết của các chun gia có chun mơn cao nhất
về luật quốc tế của các quốc gia khác nhau được coi là phương tiện để
xác định các quy phạm pháp luật.
Ngoài 4 nguồn trên Tư pháp quốc tế còn bao gồm pháp luật của các quốc gia
có liên quan và các Nghị quyết của các tổ chức quốc tế.
Một là, luật pháp của mỗi quốc gia: Mỗi nước có điều kiện riêng về
chính trị, kinh tế, xã hội… do vậy để chủ động trong việc điều chỉnh các quan

hệ TPQT mỗi quốc gia đã tự ban hành trong hệ thống pháp luật của nước mình
các quy phạm xung đột trong nước. Ở Việt Nam, Hiến pháp năm 2013 là
nguồn quan trọng nhất của TPQT, ngồi ra cịn trong bộ luật khác như Bộ luật
hình sự năm 2015; Bộ luật dân sự năm 2015; Luật Hơn nhân và gia đình năm
2014; Luật Đầu tư 2020…
Hai là, điều ước quốc tế: Với tư cách là nguồn của TPQT, điều ước
quốc tế ngày càng đóng vai trò quan trọng và mang ý nghĩa thiết thực, các điều
ước quốc tế về thương mại, hàng hải quốc tế, các hiệp định tương trợ tư pháp về
dân sự, gia đình và hình sự... Ở Việt Nam, trước tiên phải kể đến các hiệp định
tương trợ và hợp tác tư pháp mà cho tới nay nước ta đã ký với hàng loạt các
nước như Liên bang Nga vào năm 1998; Séc và Slovakia năm 1982; Cu ba năm
1984; Hungari năm 1985... Ngồi ra nước ta cịn ký rất nhiều các điều ước quốc
tế song phương cũng như đa phương như Công ước Pari về bảo hộ quyền sở
hữu công nghiệp; Gia nhập Công ước New York năm 1958 về công nhận và thi
hành các quyết định của trọng tài thương mại…
Ba là, tập quán quốc tế là những quy tắc xử sự được hình thành trong
một thời gian dài, được áp dụng khá liên tục và một các có hệ thống, đồng thời
được sự thừa nhận đông đảo của các quốc gia. Ví dụ: Tập hợp các tập quán
thương mại quốc tế khác nhau trong đó quy định các điều kiện mua bán, bảo
hiểm, cước vận tải, trách nhiệm giữa các bên tham gia hợp đồng: INCOTERMS
2000


Bốn là, án lệ: Các bản án hoặc quyết định của tịa án mà trong đó thể
hiện các quan điểm của thẩm phán đối với các vấn đề pháp lý có tính chất quyết
định trong việc giải quyết các các vụ việc nhất định và mang ý nghĩa giải quyết
đối với các quan hệ tương ứng trong tương lai. Ở Anh – Mỹ thì thực tiễn tịa án
là nguồn của cơ bản của pháp luật. Ở Việt Nam thì án lệ khơng được nhìn nhận
với tư cách là nguồn của pháp luật nói chung và là nguồn của TPQT nói riêng.
Câu 2: Xung đột pháp luật là gì? Phương thức giải quyết xung đột pháp

luật.
- Xung đột pháp luật
Các quan hệ dân sự theo nghĩa rộng có yếu tố nước ngoài thuộc đối tượng
điều chỉnh của Tư pháp quốc tế là một trong những loại quan hệ có yếu tố
nước ngoaig phức tạp. Chính yếu tố nước ngồi đã làm cho các quan hệ này
liên quan tới ít nhất là hai quốc gia, hai hệ thống pháp luật, mà các quốc gia
dù lớn hoặc nhỏ đều độc lập và bình đẳng với nhau theo các nguyên tắc cơ
bản mà Luật quốc tế đã xác định. Điều đó cũng có nghĩa là các hệ thống
pháp luật tương ứng của các quốc gia cũng bình đẳng với nhau. Nên khi các
quan hệ tư pháp quốc tế nảy sinh cũng đồng nghĩa với việc phát sinh hiện
tường cả hai hay nhiều hệ thống pháp luật đó cùng có thể được áp dụng để
điều chỉnh quan hệ tương ứng và hầu hết các quốc gia đều chấp nhận việc có
thể áp dụng pháp luật nước ngoài để điều chỉnh lĩnh vực này. Quyết định sử
dụng hệ thống pháp luật nào chính là vấn đề cần giải quyết. Khoa học gọi đó
là hiện tượng “xung đột pháp luật”.
Ví dụ: về vấn đề bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng, khi doanh nghiệp
nước A bán hàng hoá cho doanh nghiệp nước B và hàng hoá đang được vận
chuyển qua nước c thì xảy ra rủi ro. vấn đề bồi thường thiệt hại được đặt ra,
nhưng để điều chỉnh quan hệ này hệ thống pháp luật của ba nước A, B, c
cùng có khả năng được áp dụng. Song, pháp luật các nước có liên quan lại có


những quy định khác nhau, theo pháp luật nước A thì vấn đề này sẽ được
giải quyết theo luật của nước nơi xảy ra hành vi gây thiệt hại nhưng nước B
lại quy định áp dụng luật của nước nơi xảy ra hậu quả thực tế, hoặc thậm chí
nước c lại có sự lựa chọn khác là luật của nước có tồ án đang xét xử vụ án.
Vậy, pháp luật nước nào sẽ được áp dụng điều chỉnh?
Trong tình huống nêu trên xảy ra một vấn đề là khi có hai hoặc nhiều hệ
thống pháp luật cùng liên quan đến một quan hệ tư pháp quốc tế thì các hệ
thống pháp luật này đều có khả năng được áp dụng để điều chỉnh quan hệ đó.

Trong khi đó cũng phải thừa nhận một thực tế khác là khó có thể cùng một
lúc áp dụng cả hai hay nhiều hệ thống pháp luật. Từ đó có thể hiểu: Xung đột
pháp luật là hiện tượng hai hay nhiều hệ thống pháp luật của các nước khác
nhau cùng có thể được áp dụng để điều chỉnh một quan hệ dân sự theo
nghĩa rộng có yếu tố nước ngồi (quan hệ tư pháp quốc tế). Xung đột pháp
luật chỉ xác định khả năng có thể được áp dụng để điều chỉnh quan hệ của
hai hay nhiều hệ thống pháp luật liên quan chứ không phải là việc tất cả các
hệ thống đó đều được áp dụng để điều chỉnh quan hệ. Lý do là bởi các hệ
thống pháp luật khác nhau (hệ thống chứ không phải quy phạm luật) không
thể cùng một lúc điều chỉnh một quan hệ cụ thể được.
- Phương thức giải quyết xung đột pháp luật
Phương pháp là cách thức tiến hành để có hiệu quả cao. Phương pháp giải
quyết xung đột pháp luật là cách thức giải quyết vấn đề khi có tình huống hai
hay nhiều hệ thống pháp luật của các nước khác có sự liên quan đến hai hay
nhiều hệ thống pháp luật khác nhau cùng có thể được áp dụng để điều chỉnh một
quan hệ tư pháp quốc tế.
Căn cứ vào các quy định của pháp luật cũng như thực tiễn thì xung đột pháp
luật sẽ được giải quyết bằng các phương pháp sau:
- Phương pháp thực chất: Là phương pháp dùng quy phạm thực chất, trực
tiếp điều chỉnh quan hệ mà không cần qua bất kỳ một khâu trung gian


nào. Đây là phương pháp đơn giản nhất, nhanh chóng nhất trong việc giải
quyết xung đột.
Các quy phạm thực chất này thể hiện dưới hai hình thức:
+ Trong các điều ước quốc tế (quy phạm thực chất thống nhất): Đây là
trường hợp mà quy phạm thực chất đã được nhất thể hóa trong các điều ước
quốc tế. Trong q trình hợp tác quốc tế về mọi mặt: kinh tế, thương mại, kỹ
thuật, văn hóa, giao thơng vận tải… Hay có thể nói rằng đây là q trình quốc tế
hóa đời kinh tế- xã hội giữa các nước.

Ví dụ: Các quy định trong Công ước Paris 1883 về bảo hộ quyền sở hữu
cơng nghiệp (Điều 4: Tác giả sáng chế có quyền được nêu tên với danh nghĩa là
tác giả sáng chế trong patent)', Công ước Beme 1886 về bảo hộ quyền tác giả
(khoản 1 Điều 7: Thời hạn bảo hộ theo Công ước này sẽ là suốt cuộc đời của
tác giả và năm mươi năm sau khi tác giả chết)', Công ước Vienna 1980 của
Liên hợp quốc về mua bán hàng hố quốc tế (Điều 11: Hợp đồng mua bán
khơng cần phải được ký kết hoặc xác nhận bằng văn bản hay phải tuân thủ một
yêu cầu nào khác về hình thức của hợp đồng. Hợp đồng cỏ thể được chứng
minh bằng mọi cách, kể cả những lời khai của nhân chứng)...
Khi có các quy phạm thực chất thống nhất thi các cơ quan giải quyết cũng
như các bên tham gia quan hệ có thể căn cứ vào đó để giải quyết vấn đề một
cách trực tiếp, mà không cần phải xem xét đến các phương pháp giải quyết
khác. Vì vậy, quy phạm thực chất thống nhất được coi là sự lựa chọn đầu tiên
cho việc giải quyết các quan hệ tư pháp quốc tế, chỉ khi khơng có loại quy phạm
này thì các quy phạm khác của tư pháp quốc tế mới được xem xét đến
+ Trong các văn bản pháp luật của một quốc gia (quy phạm thực chất
thơng thường). Ở Việt Nam có thể tìm thấy các quy phạm này ở trong Luật đầu
tư 2014, Luật về chuyển giao công nghệ, Luật nhà ở 2014 …


Quy phạm này có đặc điểm giống với quy phạm thực chất thống quốc tế
trực tiếp điều chỉnh quan hệ dân sự theo nghĩa rộng có yếu tố nước ngồi trong
khi đó các quy phạm của ngành luật trong nước (như các ngành luật dân sự, lao
động, thương mại...) không bao giờ trực tiếp điều chỉnh các quan hệ tư pháp
quốc tế được, chúng chỉ điều chỉnh các quan hệ quốc nội. Trong trường hợp các
quy phạm này được sử dụng để điều chỉnh quan hệ tư pháp quốc tế thì sự điều
chỉnh chỉ có thể là gián tiếp mà không phải là điều chỉnh trực tiếp như quy
phạm của tư pháp quốc tế, bởi chúng được áp dụng theo sự dẫn chiếu của quy
phạm xung đột.
Phương pháp thực chất được đánh giá là phương pháp hiệu quả nhất để

giải quyết xung đột pháp luật, nhưng nó khơng phải là phương pháp duy nhất.
Do phương pháp này sử dụng các quy phạm thực chất mà phần lớn là các quy
phạm thực chất thống nhất, như đã trình bày ở trên đó là các quy phạm tồn tại
trong các điều ước quốc tế, mà khơng phải lĩnh vực nào cũng có điều ước quốc
tế, và đơi khi trong q trình đàm phán, thương lượng để xây dựng điều ước
quốc tế thì để thống nhất được các quy phạm thực chất cũng rất khó khăn, có
nhiều trường họp đã khơng thực hiện được. Vì vậy, bên cạnh phương pháp thực
chất, để giải quyết xung đột pháp luật, tư pháp quốc tế còn sử dụng một phương
pháp nữa đó là phương pháp xung đột.
- Phương pháp xung đột - xây dựng và áp dụng các quy phạm xung đột:
Phương pháp xung đột là phương pháp sử dụng các quy phạm xung đột
để giải quyết xung đột pháp luật.
Khi khơng có quy phạm thực chất thống nhất, để điều chỉnh quan hệ, các
cơ quan có thẩm quyền phải tìm đến hệ thống các quy phạm khác - các quy
phạm xung đột. Đây là các quy phạm pháp luật đặc biệt, nó khơng quy định
quyền và nghĩa vụ của các bên tham gia quan hệ, khơng quy định các hình thức
và biện pháp chế tài có thể được áp dụng đối với bên vi phạm. Nhiệm vụ của
quy phạm xung đột chỉ là xác định hệ thống pháp luật của quốc giá nào sẽ được


áp dụng điều chỉnh, còn bản thân quan hệ lại chưa đươc giải quyết, muốn giải
quyết vấn đề thì cơ quan có thẩm quyền cần căn cứ vào quy phạm xung đột, áp
dụng hệ thống pháp luật mà quy phạm xung đột dẫn chiếu tới. Hơn nữa, sự tồn
tại của quy phạm xung đột không phải là minh chứng cho việc có xung đột pháp
luật, đấy là cơng cụ của một trong hai phương pháp điều chỉnh các quan hệ tư
pháp quốc tế, bao gồm cả các quan hệ có lẫn các quan hệ khơng có xung đột
pháp luật.
Phương pháp xung đột là phương pháp phổ biến và đặc thù của tư pháp
quốc tế được hầu hết các quốc gia áp dụng. So với phương pháp thực chất thì
phương pháp xung đột phức tạp hơn nhiều. Để hiểu rõ và vận dụng đúng

phương pháp xung đột nhất thiết phải nắm được các vấn đề cơ bản liên quan
đến quy phạm xung đột - quy phạm đặc thù của tư pháp quốc tế.
- Áp dụng tập quán quốc tế hoặc pháp luật điều chỉnh các quan hệ xã hội
tương tự
Hai phương pháp thực chất và xung đột nêu trên là hai phương pháp điều
chỉnh cơ bản của tư pháp quốc tế. Tuy nhiên thực tiễn vô cùng phong phú và đa
dạng, nên cũng có trường hợp khơng có cả quy phạm thực chất lẫn quy phạm
xung đột để điều chỉnh quan hệ. Trường hợp này, để bảo vệ quyền, lợi ích chính
đáng của các đương sự, củng cố và thúc đẩy giao lưu giữa các nước thì cơ quan
có thẩm quyền của quốc gia cần tìm một giải pháp khác để giải quyết vấn đề.
Cách thức thường được áp dụng là sử dụng tập quán quốc tế hoặc “pháp luật
điều chỉnh các quan hệ xã hội tương tự” trên cơ sở phù hợp với nguyên tắc cơ
bản của pháp luật quốc gia mình cũng như đường lối, chính sách đối ngoại của
nhà nước.
Tại Việt Nam, việc áp dụng tập quán được quy định trong Bộ luật dân sự
2015. Cụ thể, tại khoản 2 Điều 5 Bộ luật quy định: “Trường hợp các bên khơng
có thoả thuận và pháp luật khơng quy định thì có thể áp dụng tập quản...”; và


tại Điều 666 Bộ luật quy định áp dụng tập quán quốc tế như sau: “Các bên
được lựa chọn tập quán quốc tế trong trường hợp quy định tại khoản 2 Điều
664 của Bộ luật này...”. Tuy nhiên trong trường hợp khơng có các quy định của
pháp luật cũng như khơng có tập qn thì việc áp dụng tương tự pháp luật là cần
thiết. Bộ luật Dân sự 2015 quy định tại Điều 6 như sau:
“1. Trường hợp phát sinh quan hệ thuộc phạm vi điều chỉnh của pháp
luật dân sự mà các bên khơng có thỏa thuận, pháp luật khơng có quy định và
khơng có tập qn được áp dụng thì áp dụng quy định của pháp luật điều chỉnh
quan hệ dân sự tương tự.
2. Trường hợp không thể áp dụng tương tự pháp luật theo quy định tại
khoản 1 Điều này thì áp dụng các nguyên tắc cơ bản của pháp luật dân sự quy

định tại Điều 3 của Bộ luật này, án lệ, lẽ công bằng.”
Cả ba phương pháp giải quyết xung đột nêu trên đều được vận dụng vào
trong thực tế phù hợp với các hoàn cảnh cụ thể. Trong các phương pháp trên,
phương pháp hiệu quả nhất và dễ áp dụng nhất là phương pháp thực chất, còn
phương pháp phổ biến nhất, bao quát nhất là phương pháp xung đột. Phương
pháp thứ 3 tuy không phải là phương pháp điều chỉnh thường xuyên nhưng
trong trường hợp nhất địn khi 2 phương pháp trên không thực hiện được thì
phương pháp thứ 3 này sẽ là phương pháp lựa chọn tối ưu nhất.



×