Bài tập nhóm môn Tài chính Quốc tế Nhóm 8
LỜI MỞ ĐẦU
Ngay từ khi Việt Nam chưa gia nhập WTO thì thị trường trong nước đã “hội
nhập” trước về cách thức thanh toán. Có lẽ không ở quốc gia nào (trừ nước Mỹ) mà
đồng đô la lại trở nên phổ dụng như nước ta. Việc mua bán, từ thỏi son môi, đến
chiếc xe, thửa đất đều được định giá bằng đồng tiền màu xanh có hình ông
Franklin. Thậm chí, những cụm từ kiểu như “con bạc triệu đô” cũng được đăng tải
trên những tờ báo lớn như thể đồng đô la Mỹ không còn là ngoại tệ. Sự sùng bái
Mỹ kim không chỉ còn đơn thuần bởi đó là một ngoại tệ mạnh. Đây còn là một vấn
đề văn hoá, thể hiện tâm lý bày đàn của dân chúng ngay trong việc dùng tiền.
Theo nguyên tắc quản lý thị trường, tất cả các luồng ngoại tệ khi chuyển vào
một quốc gia đều phải chuyển đổi qua nội tệ. Đó là về mặt pháp lý, mặt khác,
những rủi ro về sự chênh lệch tỷ giá là điều mà các doanh nghiệp cần phải tính
toán, không thể tuỳ tiện coi đồng đô la Mỹ là hình thức thanh toán bắt buộc trong
giao dịch kinh tế tại Việt Nam. Trên thực tế thì Pháp luật Việt Nam cũng đã quy
định rõ chỉ được sử dụng đồng tiền Việt Nam trên lãnh thổ Việt Nam. Việc lưu
hành ngoại tệ phải được Nhà nước quy định đối với một số mặt hàng cụ thể. Tuy
nhiên, quy định pháp luật thì như vậy, còn trên thực tế, những quy định đó đã
không được thực hiện một cách nghiêm túc.
Như vậy có thể thấy tình trạng đô la hóa và sùng bái ngoại tệ tại Việt Nam
đang ở mức hết sức nghiêm trọng. Vậy đâu là nguyên nhân của tình trạng này,
tác động của nó tới nền kinh tế ra sao và giải pháp nào để giải quyết hay hạn
chế vấn đề này một cách hiệu quả?
Tình trạng Đô la hóa và sùng bái ngoại tệ ở Việt Nam 1
Bài tập nhóm môn Tài chính Quốc tế Nhóm 8
PHẦN 1
THỰC TRẠNG ĐÔ LA HÓA VÀ SÙNG BÁI NGOẠI TỆ Ở
VIỆT NAM HIỆN NAY
I. Khái niệm về đô la hoá.
"Đô la hoá" có thể hiểu một cách thông thường là trong một nền kinh tế khi
ngoại tệ được sử dụng một cách rộng rãi thay thế cho đồng nội tệ trong toàn bộ
hoặc một số chức năng tiền tệ, thì nền kinh tế đó bị coi là đô la hoá toàn bộ hoặc
một phần.
Theo tiêu chí của IMF đưa ra, một nền kinh tế được coi là có tình trạng đô la
hoá cao khi tỷ trọng tiền gửi bằng ngoại tệ chiếm từ 30% trở lên trong tổng khối
tiền tệ mở rộng (M2); bao gồm: tiền mặt trong lưu thông, tiền gửi không kỳ hạn,
tiền gửi có kỳ hạn, và tiền gửi ngoại tệ. Theo đánh giá của IMF năm 1998 trường
hợp đô la hoá cao có 19 nước, trường hợp đô la hoá cao vừa phải với tỷ lệ tiền gửi
ngoại tệ/M2 khoảng 16,4% có 35 nước, trong số đó có Việt Nam.
II. Phân loại đô la hoá.
a. Căn cứ vào hình thức : Đô la hóa được thể hiện dưới 3 hình thức sau :
- Đô la hóa thay thế tài sản : thể hiện qua tiền gửi ngoại tệ trên tổng
phương tiện thanh toán (FCM/M2). Theo IMF khi tỷ lệ này trên 30% thì
nền kinh tế đó được cho là có tình trạng đô la hóa cao, tạo ra các lệch lạc
trong điều hành tài chính tiền tệ vĩ mô.
- Đô la hóa phương tiện thanh toán : Là mức độ sử dụng ngoại tệ trong
thanh toán. Các giao dịch thanh toán bất hợp pháp bằng ngoại tệ rất khó
đánh giá nhất là đối với những nền kinh tế tiền mặt như Việt Nam.
- Đô la hóa định giá, niêm yết giá : Là việc niêm yết, quảng cáo, định giá
bằng ngoại tệ.
Tình trạng Đô la hóa và sùng bái ngoại tệ ở Việt Nam 2
Bài tập nhóm môn Tài chính Quốc tế Nhóm 8
b. Căn cứ vào phạm vi : Tùy theo các trạng thái của việc sử dụng ngoại tệ,
người ta chia đô la hóa thành 3 loại :
- Đô la hoá không chính thức: là trường hợp đồng đô la được sử dụng
rộng rãi trong nền kinh tế, mặc dù không được quốc gia đó chính thức
thừa nhận. Đô la hoá không chính thức có thể bao gồm các loại sau:
• Các trái phiếu ngoại tệ và các tài sản phi tiền tệ ở nước ngoài.
• Tiền gửi bằng ngoại tệ ở nước ngoài.
• Tiền gửi ngoại tệ ở các ngân hàng trong nước.
• Trái phiếu hay các giấy tờ có giá bằng ngoại tệ cất trong túi.
- Đô la hoá bán chính thức: Là những nước có hệ thống lưu hành chính
thức hai đồng tiền. Ở những nước này, đồng ngoại tệ là đồng tiền lưu
hành hợp pháp, và thậm chí có thể chiếm ưu thế trong các khoản tiền gửi
ngân hàng, nhưng đóng vai trò thứ cấp trong việc trả lương, thuế và
những chi tiêu hàng ngày. Các nước này vẫn duy trì một ngân hàng trung
ương để thực hiện chính sách tiền tệ của họ.
- Đô la hoá chính thức (hay còn gọi là đô la hoá hoàn toàn): Xảy ra khi
đồng ngoại tệ là đồng tiền hợp pháp duy nhất được lưu hành. Nghĩa là
đồng ngoại tệ không chỉ được sử dụng hợp pháp trong các hợp đồng giữa
các bên tư nhân, mà còn hợp pháp trong các khoản thanh toán của Chính
phủ. Nếu đồng nội tệ còn tồn tại thì nó chỉ có vai trò thứ yếu và thường
chỉ là những đồng tiền xu hay các đồng tiền mệnh giá nhỏ. Thông thường
các nước chỉ áp dụng đô la hoá chính thức sau khi đã thất bại trong việc
thực thi các chương trình ổn định kinh tế. Đô la hoá chính thức không có
nghĩa là chỉ có một hoặc hai đồng ngoại tệ được lưu hành hợp pháp. Tuy
nhiên, các nước đô la hoá chính thức thường chỉ chọn một đồng ngoại tệ
làm đồng tiền hợp pháp. Chính vì vậy, khi một nền kinh tế bị đôla hóa
phản ánh tình trạng bất ổn nền kinh tế vĩ mô của đất nước đó.
Hiện nay, Quỹ tiền tệ thế giới xếp Việt Nam vào nhóm nước ‘đô la hóa’
không chính thức.
Tình trạng Đô la hóa và sùng bái ngoại tệ ở Việt Nam 3
Bài tập nhóm môn Tài chính Quốc tế Nhóm 8
III. Thực trạng đô la hoá ở nước ta
1. Giai đoạn trước đổi mới (trước 1988).
Việt Nam thực hiện cơ chế quản lý tập trung bao cấp. Nhà nước nắm độc quyền về
ngoại thương, ngoại hối. Quy mô nền kinh tế nhỏ, khả năng cạnh tranh của hàng
hóa, dịch vụ rất thấp, kinh tế đối ngoại kém phát triển, hệ thống ngân hàng còn sơ
khai. Điều lệ quản lý ngoại hối ban hành kèm theo Nghị định số 102/CP ngày
6/7/1963 của Chính phủ nghiêm cấm các tổ chức, cá nhân sở hữu, sử dụng ngoại tệ
trong nước, mọi giao dịch trong nước phải được thực hiện bằng VNĐ. Xuất nhập
khẩu và thanh toán quốc tế đồng tiền sử dụng thường là đồng Rup chuyển nhượng
và đồng Nhân dân tệ mậu dịch. Vì vậy, khả năng chuyển đổi của VNĐ rất hạn chế.
Về cuối giai đoạn xuất hiện dấu hiệu của khủng hoảng kinh tế, Việt Nam suy yếu
mạnh sau thất bại của chính sách giá – lương – tiền, lạm phát lên tới 3 con số và
liên tục có các đợt tăng giá vàng. Trong dân cứ xuất hiện việc mua vàng, ngoại tệ
để tích trữ, đầu cơ giá và sử dụng làm phương tiện thanh toán. Tuy nhiên, mức độ
đô la hóa là không đáng kể do mức độ mở cửa của nền kinh tế còn rất nhỏ.
2. Giai đoạn bắt đầu mở cửa đến trước khủng hoảng tài chính tiền tệ khu
vực (1988 – 1997).
Hiện tượng nền kinh tế Việt Nam sử dụng rộng rãi đồng đô la Mỹ trong giao
dịch buôn bán bắt đầu được chú ý đến từ năm 1988 khi các ngân hàng được phép
nhận tiền gửi bằng đồng đô la. Đến năm 1991, tình trạng đô la hoá đã tăng lên
mạnh với hơn 41% lượng tiền gửi vào các ngân hàng là bằng USD. Trước tình
trạng này, Ngân hàng Nhà nước Việt Nam đã cố gắng đảo ngược quá trình đô la
hoá nền kinh tế và đã khá thành công khi giảm mạnh mức tiền gửi bằng USD vào
các ngân hàng xuống còn 20% vào năm 1996.
Tình trạng Đô la hóa và sùng bái ngoại tệ ở Việt Nam 4
Bài tập nhóm môn Tài chính Quốc tế Nhóm 8
Đồ thị 1: Tỷ lệ tiền gửi bằng USD trên tổng phương tiện thanh toán
giai đoạn 1989 – 1997
Nguồn: IMF - Vietnam Statistical Appendix 2007
Nguyên nhân, do lạm phát phi mã giai đoạn trước 1991 làm cho đồng nội tệ mất
giá nhanh, gây mất lòng tin vào đồng nội tệ của người dân và tạo cho những người giữ
tiền cảm thấy quá rủi ro khi giữ một khối lượng đồng nội tệ lớn. Do đó, người dân
chuyển sang sử dụng ngoại tệ làm phương tiện cất trữ, vận chuyển, thanh toán
Đến giai đoạn 1993 – 1996, Việt Nam từng bước xây dựng nền kinh tế thị
trường, nhà nước dần xóa bỏ chế độ độc quyền ngoại thương, đồng thời ban hành
nhiều chính sách thúc đẩy phát triển kinh tế và mở rộng quan hệ đối ngoại. Kinh tế
tăng trưởng cao và khá ổn định, trung bình gần 8%/năm, lạm phát được kiểm soát ở
mức trên dưới 10%, kinh tế đối ngoại phát triển mạnh. Cùng với thắng lợi trong
kiềm chế lạm phát, sự phát triển của hệ thống ngân hàng hai cấp đã dần khôi phục
vị thế của VNĐ. Trung tâm giao dịch ngoại tệ và thị trường ngoại tệ liên ngân hàng
được hình thành, hệ thống thanh toán bắt đầu phát triển Nhờ đó đồng nội tệ đã
dần lấy lại được lòng tin trong dân chúng, mức độ đô la hóa giảm mạnh và đạt
khoảng 20% năm 1996.
Tình trạng Đô la hóa và sùng bái ngoại tệ ở Việt Nam 5
Bài tập nhóm môn Tài chính Quốc tế Nhóm 8
3. Giai đoạn từ khủng hoảng tài chính tiền tệ đến nay
Đến năm 1996, mức độ đô la hóa của Việt Nam đã giảm còn 20% song lại
xảy ra cuộc khủng hoảng tài chính châu Á khiến cho đồng tiền Việt Nam giảm giá
trị, và Việt Nam lại tiếp tục chịu sức ép của tình trạng đô la hoá. Đến cuối năm
2001, tỷ lệ đồng USD được gửi vào các ngân hàng tăng lên đến 31,7%. Tỷ lệ này
có xu hướng giảm đáng kể trong những năm tiếp theo, dao động từ 21% - 24%, đến
tháng giêng năm 2010 còn khoảng 20%. Mặc dù vậy, rất có thể tỉ lệ tiền gửi ngoại
tệ trên tổng lượng cung tiền ở Việt Nam có thể sẽ tăng trở lại trong năm 2011 do
các ngân hàng thương mại trong nước huy động lãi suất ở mức quá cao (trên 6%/
năm, trong khi tiền USD gửi tại các ngân hàng ở nước ngoài sinh lời thấp hơn
1%/năm) để huy động thêm các khoản tiền gửi USD ngắn hạn nhằm tài trợ cho
hoạt động cho vay bằng USD. Ta có thể xem xét qua biểu đồ dưới đây:
Đồ thị 2: Tỷ lệ tiền gửi ngoại tệ ở Việt Nam trên tổng lượng cung tiền M2
Tuy nhiên số tiền gửi tuyệt đối bằng USD thì không ngừng tăng lên, năm
1995 là 1,5 tỷ USD, năm 2005 đạt 8 tỷ USD, nhất là sau khi chúng ta gia nhập
WTO con số này đã tăng lên nhiều lần. Chỉ tính riêng số Kiều hối hàng năm cũng
đạt trung bình từ 8 – 10 tỷ USD. Đến cuối quý I năm 2011, tổng số tiền gửi bằng
ngoại tệ trong hệ thống ngân hàng Việt Nam đạt gần 20 tỷ đồng. Con số này một
mặt cho thấy tiềm lực nguồn vốn nhàn rỗi trong dân mà hệ thống ngân hàng có thể
Tình trạng Đô la hóa và sùng bái ngoại tệ ở Việt Nam 6
Bài tập nhóm môn Tài chính Quốc tế Nhóm 8
huy động được cho đầu tư phát triển kinh tế, những mặt khác cũng đáng quan tâm ở
góc độ đô la hoá.
Đồ thị 3: Khối lượng tiền gửi bằng đồng USD (FCD)
(Nguồn: IMF - Vietnam Statistical Appendix 2007)
Như vậy, dưới góc độ đô la hóa tiền gửi, mức độ đô la hóa ở Việt Nam có xu
hướng giảm xuống, từ trên 30% vào cuối những năm 90 xuống dưới 20% hiện nay.
Tuy nhiên, phân tích theo các giai đoạn, mức độ đô la hóa biến động: Giảm mạnh
trong giai đoạn 1991-1993 là do lợi tức của VNĐ cao hơn nhiều so với lợi tức của
USD, nhu cầu ngoại tệ cho các giao dịch kinh tế đối ngoại chưa cao khi mở cửa nền
kinh tế, lượng ngoại tệ của dân cư gửi tại ngân hàng không đáng kể; trong giai đoạn
1994 - 1996 khá ổn định; từ khi xảy ra cuộc khủng hoảng tài chính tiền tệ châu Á,
lợi tức của VNĐ thấp hơn so với lợi tức của USD, khu vực dân cư và các doanh
nghiệp có xu hướng chuyển sang nắm giữ bằng USD, do đó, tỷ lệ tiền gửi ngoại tệ
trên tổng phương tiện thanh toán tăng lên và ở mức khoảng 30% trong giai đoạn
2000 - 2001; từ năm 2002 đến 2007, đô la hóa có xu hướng giảm trở lại nhờ lợi tức
của VNĐ hấp dẫn hơn ngoại tệ, mức biến động của tỷ giá không lớn (tỷ giá chỉ
tăng khoảng trên 6% trong vòng 5 năm từ 2002 - 2007 nhờ cung ngoại tệ dồi dào,
nhất là cung ngoại tệ từ việc thu hút vốn nước ngoài); từ năm 2008 đến nay, mức
độ đô la hóa khá ổn định (khoảng 20%). Đánh giá nguyên nhân tại sao mức độ đô
Tình trạng Đô la hóa và sùng bái ngoại tệ ở Việt Nam 7
Bài tập nhóm môn Tài chính Quốc tế Nhóm 8
la hóa không tiếp tục giảm như giai đoạn trước là do thời kỳ này lạm phát đã tăng
cao trở lại, tỷ giá có sức ép tăng, lãi suất ngoại tệ tăng cao.
Đồ thị 4: Diễn biến đô la hóa ở Việt Nam
Dưới góc độ đô la hóa tiền vay (tín dụng ngoại tệ/M2), mức độ đô la hóa có
sự biến động khá mạnh, giảm mạnh từ mức 31% trong năm 1995 xuống 13 - 16%
trong giai đoạn 2000 - 2005, tăng lên khoảng 20% trong mấy năm trở lại đây. Tín
dụng ngoại tệ có mối liên hệ chặt chẽ với tiền gửi ngoại tệ, nó phụ thuộc vào quyết
định đầu tư của doanh nghiệp, cá nhân và của chính quyết định huy động vốn và
đầu tư của ngân hàng thương mại (NHTM). Đối với các doanh nghiệp, việc lựa
chọn cách thức mua hay vay ngoại tệ phụ thuộc vào so sánh lãi suất phải trả khi đi
vay bằng VNĐ và ngoại tệ. Còn đối với các ngân hàng, nguồn vốn ngoại tệ huy
động được dùng để cấp tín dụng ngoại tệ, gửi tại các ngân hàng nước ngoài hoặc
bán lấy VNĐ cũng phụ thuộc vào mức độ rủi ro ngoại hối, lợi ích giữa cho vay
bằng VNĐ hay ngoại tệ có lợi ích hơn, chênh lệch lãi suất trong nước và quốc tế,
vấn đề thanh khoản, cân đối vốn ngoại tệ Thực tiễn cho thấy, trong giai đoạn
1995 - 1996, lãi suất vay ngoại tệ trong nước cao hơn lãi suất trung bình trên thế
giới và khu vực đã tạo động lực lớn thúc đẩy các doanh nghiệp trong nước nhập
khẩu hàng trả chậm. Bởi vậy, mặc dù nhu cầu ngoại tệ cho nhập khẩu lớn nhưng
Tình trạng Đô la hóa và sùng bái ngoại tệ ở Việt Nam 8
Bài tập nhóm môn Tài chính Quốc tế Nhóm 8
nhu cầu vay vốn ngoại tệ từ các NHTM trong nước không tăng mạnh. Còn đối với
các NHTM, chúng ta không quên vào thời kỳ 1999 - 2000, lãi suất quốc tế tăng cao
hơn lãi suất trong nước. Chịu ảnh hưởng của xu hướng này, các NHTM Việt Nam
cũng từng bước nâng lãi suất huy động ngoại tệ. Tuy nhiên, khó có thể nâng lên
tương đương vì đụng phải trần lãi suất do Ngân hàng Nhà nước (NHNN) quy định.
Chênh lệch giữa lãi suất quốc tế và lãi suất trong nước (vào khoảng 1,4 - 1,8% vào
thời điểm đầu năm 2000) đã khiến việc huy động ngoại tệ trong nước, chuyển ra
nước ngoài trở thành một hoạt động sinh lời hấp dẫn đối với các NHTM, đặc biệt,
khi vào thời điểm đó thị trường tín dụng trong nước đang ở trạng thái đông cứng vì
sức hấp thụ vốn đầu tư của nền kinh tế kém. Hay trong năm 2009, khi Chính phủ
thực hiện hỗ trợ lãi suất VNĐ, nhiều doanh nghiệp đã vay VNĐ để mua ngoại tệ
cho nhu cầu nhập khẩu, gây áp lực đối với nhu cầu mua ngoại tệ trên thị trường
ngoại hối. Sang năm 2010, khi chấm dứt hỗ trợ lãi suất, nhu cầu tín dụng ngoại tệ
lại tăng mạnh.
Trái lại, tỷ trọng dư nợ cho vay bằng đô la Mỹ so với tổng dư nợ và đầu tư
của hệ thống ngân hàng thương mại lại có xu hướng tăng lên, cao hơn cả tiền gửi
đô la. Đặc biệt là tại Thành phố Hồ Chí Minh, dư nợ cho vay bằng đô la Mỹ cuối
tháng 9 năm 2004 đã tăng gấp 2 lần số dư cuối năm 2002.
Đồ thị 5: Tỷ lệ dư nợ cho vay bằng ngoại tệ trên tổng dư nợ cho vay
Tình trạng Đô la hóa và sùng bái ngoại tệ ở Việt Nam 9
Bài tập nhóm môn Tài chính Quốc tế Nhóm 8
(Nguồn : IMF - Vietnam Statistical Appendix 2007)
Thông qua việc quan sát niêm yết giá và bán hàng hoá, dịch vụ thu ngoại tệ
hiện nay, quan sát giao dịch mua bán ngoại tệ của dân cư tại nhiều cửa hàng vàng
bạc quy mô lớn ở Hà Nội, thông tin ghi nhận được từ các giao dịch kinh tế ngầm
có thể thấy mức độ sử dụng đô la Mỹ trong xã hội nước ta rất đáng quan tâm. Có
thể nói Việt Nam là một nền kinh tế bị đô la hoá một phần. Tuy vậy, mức độ chính
xác của đô la hoá là số liệu rất khó xác định. Trong một số năm khi lãi suất tiền gửi
đồng đô la ở các ngân hàng nước ngoài ở mức cao, để sử dụng những đồng tiền đô
la mà người dân đã gửi vào ngân hàng, các ngân hàng trong nước đã đem phần lớn
nguồn đô la gửi ra các ngân hàng nước ngoài, chủ yếu là ở Singapore và Hồng
Kông, để kiếm lãi suất cao. Điều này có tác động xấu bởi vì những đồng đô la đó
đã không được sử dụng để đầu tư trong nước.
Đến năm 1992, lãi suất đồng đô la giảm mạnh, các ngân hàng Việt Nam
không còn thu lời được từ các tài khoản ở nước ngoài nên đành rút một lượng lớn
tiền về, con số đó khoảng từ 3 đến 4 tỷ USD. Lượng tiền gửi ở nước ngoài giảm đi
chỉ còn một nửa tính đến thời điểm cuối năm 2003.
Tình trạng Đô la hóa và sùng bái ngoại tệ ở Việt Nam 10
Bài tập nhóm môn Tài chính Quốc tế Nhóm 8
Sau khi rút tiền đô la từ ngân hàng nước ngoài về, các ngân hàng Việt Nam
bắt đầu cho các doanh nghiệp trong nước vay bằng đồng đô la để sinh lợi. Nếu nhìn
về hình thức bên ngoài thì điều này có vẻ yên ổn đối với các ngân hàng, bởi vì họ
nhận tiền gửi và cho vay đều bằng ngoại tệ nên có ít rủi ro. Nhưng nếu xem xét kỹ,
chúng ta nhận thấy các doanh nghiệp đi vay sẽ gặp khó khăn khi đồng tiền Việt
Nam bị giảm giá. Các doanh nghiệp này chủ yếu có doanh thu bằng đồng Việt
Nam, nhưng họ phải trả nợ bằng đồng USD. Họ phải đứng trước các rủi ro về thay
đổi tỷ giá giữa đồng USD và đồng tiền Việt Nam mà không có những công cụ để
phòng tránh rủi ro. Nếu đồng đô la tăng giá, nhiều doanh nghiệp Việt Nam sợ mất
khả năng thanh toán nợ. Khi đó các ngân hàng chắc chắn sẽ bị ảnh hưởng và từ đó
dẫn đến khủng hoảng kinh tế.
Một lĩnh vực đô la hóa tương đối mạnh đó là bán hàng qua mạng, kinh doanh
các sản phẩm nhập khẩu, nhất là đồ điện tử. Ta có thể thấy bằng trực giác việc niêm
yết giá bằng cả VNĐ lẫn USD ở hầu như 100% các trang web bán đồ điện tử như:
máy vi tính, các thiết bị gia dụng nhập ngoại v.v Mặc dù hai loại giá được đặt
song song nhưng việc thanh toán thực tế thì luôn được thực hiện bằng USD, nếu
khách hàng thanh toán bằng VNĐ thì giá của hàng hóa sẽ dựa trên tỷ giá hối đoái
giữa VNĐ và USD ngày hôm thực hiện giao dịch. Những hàng hóa này thường là
những hàng hóa mà doanh nghiệp Việt Nam phải nhập khẩu toàn bộ hoặc nhập
khẩu từng linh kiện, nên giá của chúng phụ thuộc hoàn toàn vào USD, do vậy, các
doanh nghiệp, để tránh rủi ro tỷ giá cho mình, buộc phải niêm yết giá bằng USD.
Ngoài ra, doanh nghiệp niêm yết giá bằng USD còn để tăng tính "hiện đại",
"thương mại điện tử". Điều này rất đáng lo ngại vì kinh doanh qua mạng sẽ trở
thành loại hình kinh doanh chủ yếu trong tương lai.
Trong thời điểm hiện tại, trên toàn thế giới đang diễn ra tình trạng giảm giá
của đồng đô la Mỹ. Nguyên nhân là do chính sách thả nổi đồng đô của chính phủ
Mỹ, cộng với một số yếu tố: nước Mỹ đang bị thâm hụt ngân sách nặng nề (trên
400 tỷ USD); tổng số nợ của Chính phủ Mỹ đến 7/2008 là 9.000 tỷ USD (khoảng
Tình trạng Đô la hóa và sùng bái ngoại tệ ở Việt Nam 11
Bài tập nhóm môn Tài chính Quốc tế Nhóm 8
31.700USD trên đầu người) vượt quá mức báo động quốc tế; thâm hụt cán cân
thanh toán vãng lai năm 2007 tăng vọt lên đến 738,64 tỷ USD; lượng đầu tư nước
ngoài vào Mỹ giảm. Đồng thời mối quan hệ giữa Hoa Kỳ với thế giới Ả rập xấu đi,
làm cho một loạt nước xuất khẩu dầu mỏ Trung Cận Đông đã giảm bớt cất giữ và
sử dụng đô la, mà chuyển qua sử dụng đồng Euro nhiều hơn trong thanh toán quốc
tế và dự trữ ngoại tệ. Hơn nữa Liên bang Nga và một số nước khác cũng đã và đang
có hành động tương tự. Tất cả những điều này gây thêm sức ép đối với đồng đô la
Mỹ, làm tăng khả năng sụt giá của đồng đô la.
Vấn đề đặt ra là nếu đồng đô la Mỹ tiếp tục sụt giá mạnh thì những thiệt hại
gì sẽ xảy ra, giả sử mức sụt giá là 20%, hệ quả tất yếu là thu ngoại tệ về xuất khẩu
hàng hoá và dịch vụ tính bằng đô la của tất cả các nước trên thế giới đều bị thiệt hại
theo tỷ lệ tương ứng. Ngoài ra, kim ngạch dự trữ ngoại tệ và lượng vốn FDI của tất
cả các nước tính bằng đô la cũng sẽ tự nhiên hao hụt tương ứng. Vốn liếng kinh
doanh, tiền tiết kiệm, tiền lương, quỹ hưu trí, bảo hiểm, phúc lợi xã hội tính bằng
đô la của tất cả mọi người có liên quan đều phải chịu thiệt hại. Ngược lại, các
khoản phải trả về nhập khẩu hàng hoá, dịch vụ chưa thanh toán, các khoản nợ vay
nước ngoài bao gồm tiền gốc và lãi chưa trả tính bằng đô la đều mặc nhiên được
giảm bớt tương ứng với tỷ lệ sụt giá của đồng đô la.
Như vậy, việc sử dụng đồng đô la như thế nào cho có hiệu quả là một vấn đề
vô cùng phức tạp. Mặc dù những cách ngân hàng đã sử dụng đồng đô la cũng có
một mặt tích cực nào đấy, nhưng cần phải có cách lựa chọn đúng đắn hơn là thực
hiện những giải pháp kiềm chế và đẩy lùi tình trạng đô la hoá, tiến tới thực hiện
trong nước chỉ có một đồng tiền duy nhất được lưu hành là đồng tiền Việt Nam.
Trong thực tế, chúng ta thấy rõ một số nền kinh tế thành công không bị đô la
hoá, như tại Trung Quốc (tỉ lệ FCD/M2 là 9%), các ngân hàng không được phép
quyết định lãi suất tiền gửi bằng đô la.
Tình trạng Đô la hóa và sùng bái ngoại tệ ở Việt Nam 12
Bài tập nhóm môn Tài chính Quốc tế Nhóm 8
Thông thường đô la hoá diễn ra khi đồng tiền của một nước bị đánh giá là
yếu kém, và đồng đô la được coi là phương tiện dự trữ có giá trị. Tuy nhiên, không
phải bất cứ quốc gia nào có đồng tiền yếu đều bị đô la hoá trực tiếp. Nhiều nước
trên thế giới có nền kinh tế tương tự Việt Nam như Trung Quốc, Thái Lan,
Braxin không cho phép thanh toán các loại hàng hoá dễ dàng bằng đồng đô la.
Chính việc cho phép sử dụng gần như hợp pháp hoá đồng USD tại Việt Nam để
mua các loại hàng hoá như bất động sản, mặt hàng điện tử, xe cộ, phí khách sạn
đã làm tăng quá trình đô la hoá. Như trên đã phân tích, nếu tình hình không sớm
được kiềm chế và đẩy lùi, có khả năng sẽ dẫn đến tình trạng khủng hoảng tài chính
vào một thời điểm nào đấy.
Trong thời gian vừa qua, có thể thấy rõ tác động tiêu cực của tình trạng đô la
hoá lên nền kinh tế Việt Nam. Hiện tượng đô la hoá trên thị trường tài chính đã tạo
môi trường cho các hoạt động đầu cơ mỗi khi có biến động về ngoại tệ. Điều này
đã thể hiện rõ qua việc trong nửa đầu năm 2008 giá một USD trên thị trường tự do
xuống tới 15.400 VNĐ và vài tháng sau vọt lên 19.500 VNĐ và "con ngựa bất
kham" này chỉ chịu đứng yên khi Ngân hàng Nhà nước tung nhiều tỷ USD dự trữ
ngoại hối để bình ổn. Có thể thấy cung cầu ngoại tệ đã bị bóp méo nghiêm trọng.
Bên cạnh đó, hiện tượng đô la hoá đã khiến việc kiểm soát cung tiền của Ngân
hàng Nhà nước trở nên khó khăn, làm giảm hiệu quả của các chính sách kiềm chế
lạm phát.
Bên cạnh thị trường trường ngoại hối chính thức, thị trường ngoại hối không
chính thức ở nước ta cũng đang diễn ra rất sôi động và gắn kết chặt chẽ với nhau.
Theo kết quả điều tra của Ngân hàng Nhà nước phối hợp với Cơ quan Hợp tác quốc
tế Nhật Bản (JICA) thực hiện năm 2001, ước tính: “'Với 200 doanh nghiệp được
cấp phép kinh doanh vàng bạc ở Hà Nội, tổng doanh số bán USD trong ngày có thể
đạt trung bình 10 triệu USD, tức là chiếm từ 1/3 đến một nửa doanh số giao dịch
trên thị trường chính thức”. Sự phát triển của thị trường ngoại hối không chính thức
Tình trạng Đô la hóa và sùng bái ngoại tệ ở Việt Nam 13
Bài tập nhóm môn Tài chính Quốc tế Nhóm 8
là hệ quả của các quy định hiện hành công nhận quyền cất giữ (không gửi vào ngân
hàng), quyền cho, tặng ngoại tệ và quy định cho phép rút kiều hối bằng ngoại tệ.
Những biểu hiện đô la hóa dễ thấy khác là trong các hoạt động mua nhà, đầu
cơ bất động sản, mua bán hàng hóa giá trị cao, người ta đều sử dụng USD. Hầu hết
các gia đình công chức có thu nhập trung bình hoặc có điều kiện làm kinh tế đều dự
trữ USD. Tại các siêu thị, dịch vụ bưu điện, hàng không đều thu ngoại tệ dễ dàng
dù pháp luật cấm; việc buôn bán tiểu ngạch, buôn lậu qua biên giới phổ biến bằng
USD
Vậy mức độ đô la hóa ở Việt Nam có sự biến động qua các giai đoạn, phụ
thuộc vào tính chất ổn định của nền kinh tế. Nền kinh tế càng bất ổn định thì mức
độ đô la hóa càng cao và ngược lại. Theo tiêu chuẩn đánh giá của IMF thì hiện nay
mức độ đô la hóa ở Việt Nam đang ở mức trung bình (khoảng 20%). Song đây là tỷ
lệ không tính đến số lượng ngoại tệ được sử dụng trên thị trường không chính thức.
Vì vậy, thực tế tình trạng đô la hóa ở nước ta là rất nghiêm trọng.
Tình trạng Đô la hóa và sùng bái ngoại tệ ở Việt Nam 14
Bài tập nhóm môn Tài chính Quốc tế Nhóm 8
PHẦN II
NGUYÊN NHÂN VÀ TÁC ĐỘNG CỦA ĐÔ LA HÓA
TỚI NỀN KINH TẾ VIỆT NAM
I. Nguyên nhân của đô la hoá
Đã có nhiều phân tích, đánh giá nguyên nhân của hiện tượng đô la hóa, có
thể tổng kết, đánh giá qua những nguyên nhân sau:
Thứ nhất, nguyên nhân chủ yếu nhất là do lo ngại về tình hình bất ổn định của
nền kinh tế vĩ mô, quản lý của Chính phủ, rồi quyền với bất động sản, hệ thống pháp
lý người dân đã đổ xô đi mua các loại hình dự trữ, tích lũy khác. Để giữ giá trị tài
sản, người dân thường quy đổi bằng vàng hoặc đô la vì cơ bản đồng 2 loại hình tiền
tệ này có tính ổn định cao. Thêm vào đó việc tiền đồng mất giá đã làm tăng lạm
phát; giá cả của tất cả các mặt hàng tăng cao làm khuyếch đại tác hại của việc đôla
hóa: CPI liên tục tăng (năm 2004 là 7,71%, năm 2005 là 8,29%, năm 2006 là 7,48%,
năm 2007 là 8,30%, năm 2008 là 22,97% và năm 2009 là 6,88%) khiến mọi người
thêm ngần ngại hơn trong việc chuyển từ ngoại tệ sang VNĐ. Tỷ lệ lạm phát vẫn duy
trì ở mức độ cao trong các năm qua:
Đồ thị 6: Tỷ lệ lạm phát ở Việt Nam qua các năm
Tình trạng Đô la hóa và sùng bái ngoại tệ ở Việt Nam 15
Bài tập nhóm môn Tài chính Quốc tế Nhóm 8
Thứ hai, do tâm lý sùng bái ngoại tệ ở Việt Nam. Đối với hầu hết các nước
trên thế giới, đồng tiền là sự thể hiện chủ quyền, xác lập sự độc lập về tài chính,
kinh tế của mỗi quốc gia. Phương thức thanh toán bằng tiền mặt duy nhất trên toàn
lãnh thổ, chính là đồng tiền của quốc gia đó. Tại Việt Nam thì không như vậy Rất
nhiều đồng tiền đã xâm thực vào Việt Nam, bởi chúng được chấp nhận thanh toán
một cách dễ dàng, đặc biệt là đối với đồng Đôla Mỹ (USD).
Vấn đề này trước tiên xuất phát từ phía nhà nước. Pháp lệnh Ngoại hối hiện
hành quy định trên lãnh thổ Việt Nam, mọi giao dịch, thanh toán, niêm yết, quảng
cáo không được thực hiện bằng ngoại hối trừ một số trường hợp, nhưng trên thực
tế, việc thực thi và xử lý các quy định pháp lý này chưa nghiêm, chưa có sự phối
hợp chặt chẽ giữa các cơ quan quản lý nhà nước, lực lượng quản lý thị trường nên
giao dịch thanh toán bằng ngoại tệ tiền mặt vẫn tồn tại và hoạt động rất sôi động,
nhộn nhịp trên thị trường tự do. Với sự tồn tại của thị trường này, mỗi khi kinh tế
có rủi ro bất ổn, thị trường ngoại hối sẽ bị xáo trộn, tồn tại hai tỷ giá chênh lệch
nhau giữa tỷ giá chính thức và tỷ giá thị trường chợ đen, xuất hiện tâm lý đầu cơ
ngoại tệ Trên thị trường chính thức, Nhà nước vẫn cho các ngân hàng thương mại
thực hiện các nghiệp vụ nhận tiền gửi và cho vay bằng ngoại tệ. Trên các hợp đồng
thương mại quốc tế đều có một thỏa thuận chung là đồng tiền của các nhà xuất
khẩu Việt Nam là ngoại tệ
Trong cuộc sống hàng ngày của người dân Việt Nam, đồng đô la Mỹ không
những được chấp nhận mà nó còn được nhiều người bán hàng chỉ định làm phương
tiện thanh toán, và đôi khi, thanh toán bằng Đôla Mỹ còn nhanh, gọn hơn cả dùng
tiền Việt Nam. Bất Động Sản, Ôtô, thời trang hàng hiệu… cho đến những đồ uống.
Thậm chí sử dụng dịch vụ chăm sóc sắc đẹp, người ta cũng có thể thanh toán bằng
Đôla Mỹ. Việc dùng đồng Đôla Mỹ để thanh toán diễn ra công khai, giữa ban ngày
tại trung tâm thủ đô Hà Nội. Không ít trường học cũng niêm yết học phí bằng bằng
USD. Đồng Đôla Mỹ gần như là phương tiện thanh toán thứ 2 tại Việt Nam khi
Tình trạng Đô la hóa và sùng bái ngoại tệ ở Việt Nam 16
Bài tập nhóm môn Tài chính Quốc tế Nhóm 8
người ta có thể dễ dàng mua bán mọi thứ, mọi lúc mọi nơi… từ khách sạn 5 sao
cho đến hoa quả ở chợ.
Trên những con phố “Tây balô”, việc mua bán bằng Đôla Mỹ không có gì là
lạ đối với người Việt Nam nhưng lại thật lạ đối với những người du lịch nước ngoài.
Anh David, một người Mỹ cho biết: “Tôi đã đi nhiều nước ở châu Á như Nhật Bản,
Hàn Quốc và gần đây là Thái Lan, rất khó khi cầm USD, tôi thường phải đổi ở ngân
hàng hoặc đổi ngay khi xuống sân bay, nhưng ở VN thì mọi thứ rất dễ…”.
Có không ít những quy định xung quanh việc cấm niêm yết và thanh toán
bằng USD. Nhưng cấm mà không nghiêm. Hành vi tiêu tiền đô được dung túng
trong một thời gian dài đến mức trở thành thói quen và lẽ thường trong suy nghĩ
của một bộ phận không nhỏ cư dân thành thị. Cuộc xâm thực của đồng Đôla Mỹ
không chịu dừng lại trong lĩnh vực thanh toán. Nó đã xuất hiện trong cả những hoạt
động văn hóa mang đậm nét truyền thống của người Việt.
Giá mỗi tờ 2 USD trước Tết Nguyên đán đắt hơn 30% so với bình thường
và luôn trong tình trạng khan hiếm. Tết Tân Mão vừa qua mừng tuổi bằng tờ 2
Đôla Mỹ dường như trở thành một cái mốt. Ngoài những quan niệm về sự “may
mắn” do tờ 2 USD mang lại…. mừng tuổi bằng một một tờ Đôla Mỹ thì cả người
mừng tuổi, lẫn người được mừng tuổi, đều cảm thấy thích. Vì người lớn thì thấy
sang và …thời thượng.
Thứ ba, do đặc điểm của nền kinh tế Việt Nam là nền kinh tế tiền mặt. Do
đó đô la vào Việt Nam, được tiêu dùng cũng là đô la mặt. Trong khi đó, nguồn
cung ngoại tệ trên thị trường là rất lớn và không ngừng tăng lên qua các năm, với
nhiều hình thức khác nhau như: vốn đầu tư nước ngoài, vay nợ của Chính phủ, kiều
hối, hoạt động xuất khẩu, tham nhũng, buôn lậu, du lịch … Trong khi chính quyền
các cấp lại quản lý lỏng lẻo đã tạo điều kiện thuận lợi cho việc sử dụng ngoại tệ
ngày càng phổ biến. Bên cạnh đó, hoạt động xuất – nhập khẩu; dịch vụ khám chữa
bệnh, du học, du lịch… ở nước ngoài ngày càng phát triển và trở nên phổ biến, đã
Tình trạng Đô la hóa và sùng bái ngoại tệ ở Việt Nam 17
Bài tập nhóm môn Tài chính Quốc tế Nhóm 8
làm tăng cầu về ngoại tệ trong các doanh nghiệp và dân chúng, dẫn đến nguồn cung
ngoại tệ được củng cố vững chắc. Nếu cung tiền USD trong nước quá lớn hoặc tăng
trưởng quá nhanh cũng có thể tác động thêm vào tỷ lệ lạm phát của nền kinh tế. Bởi
vì USD và tiền Đồng thường có thể hoán đổi sử dụng trong nền kinh tế hiện nay,
cung tiền thực sẽ là tổng của tất cả USD và tiền Đồng trong lưu thông. Có nhiều
tiền trong tay người tiêu dùng sẽ dẫn đến lạm phát, do nguồn tiền nhiều nhưng hàng
hóa lại ít, dẫn đến tình trạng bong bóng tài sản…
Dưới đây là số liệu cụ thể của một vài nguồn cung ngoại tệ:
Con số dư nợ tăng trong mấy năm gần đây “nhảy nhót” không theo tốc độ
tịnh tiến đều (năm 2007 tăng thêm khoảng 3,6 tỷ USD; 2008 khoảng 2,6 tỷ USD;
2009 trên 6,1 tỷ USD). Có điểm trùng hợp là ở những giai đoạn thị trường ngoại
hối xuất hiện căng thẳng, hiệp định vay vốn nước ngoài thường được thông qua.
Năm 2010, dự trữ ngoại hối cũng ghi nhận sự sụt giảm lớn, theo một số ước tính có
thể lên đến 4 tỷ USD, còn năm 2009 trước đó thì ghi nhận mức thâm hụt tới 8,8 tỷ
USD.
Tình trạng Đô la hóa và sùng bái ngoại tệ ở Việt Nam 18
Bài tập nhóm môn Tài chính Quốc tế Nhóm 8
Đồ thị 7: Nợ nước ngoài của Chính phủ và được Chính phủ bảo lãnh
Giai đoạn 2006 - 2010
(Nguồn: Bộ tài chính)
Lượng kiều hối gia tăng cùng với các quy định cho phép các cá nhân nắm
giữ ngoại tệ dưới hình thức tiết kiệm và tài khoản ngoại tệ tại hệ thống ngân hàng,
cất giữ dưới dạng ngoại tệ tiền mặt. Dưới đây là bảng thống kê lượng kiều hối
chuyển về Việt Nam qua các năm gần đây :
Bảng 1: Lượng kiều hối chuyển về Việt Nam
Năm 2001 2002 2003 2004 2005 2006 2007 2008 2009 2010
Lượng
kiều hối
(triệu USD)
1820 2150 2580 3100 4290 4700 5500 7200 6283 8000
(Nguồn: Ngân hàng Nhà nước Việt Nam)
Tình trạng Đô la hóa và sùng bái ngoại tệ ở Việt Nam 19
Bài tập nhóm môn Tài chính Quốc tế Nhóm 8
Hơn nữa, lượng khách quốc tế đến Việt Nam cũng tăng nhanh, năm 1996
mới là 1,607 triệu lượt người; năm 1997 là 1,715 triệu; ; năm 2002 là 2,628
triệu; ; năm 2004 đạt hơn 2,9 triệu lượt người. Số lượng khách đó mang theo một
số lượng lớn ngoại tệ, và chi tiêu bằng ngoại tệ tiền mặt tại các cơ sở tư nhân.
Thứ tư, đô la hóa do chưa cân bằng lợi ích nắm giữ giữa đồng VNĐ và
USD, chủ yếu do biến động về tỷ giá, lãi suất thực tế và kỳ vọng, nhất là khi đồng
Việt Nam chưa phải là đồng tiền chuyển đổi, lạm phát của Việt Nam tương đối cao
so với các nước trên thế giới và khu vực.
II. Những tác động của đô la hoá
1. Những tác động tích cực:
• Tạo một cái van giảm áp lực đối với nền kinh tế trong những thời kỳ lạm
phát cao, bị mất cân đối và các điều kiện kinh tế vĩ mô không ổn định. Việc sử
dụng ngoại tệ mạnh thay cho sử dụng đồng nội tệ sẽ làm giảm áp lực phát hành
tiền, giảm chi phí lưu thông tiền tệ, giảm chi phí in ấn, quản lý, tạo tâm lý ổn định
cho người dân.
Ở các nước đô la hoá chính thức, bằng việc sử dụng đồng ngoại tệ, họ sẽ duy
trì được tỷ lệ lạm phát gần với mức lạm phát thấp làm tăng sự an toàn đối với tài
sản tư nhân, khuyến khích tiết kiệm và cho vay dài hạn. Hơn nữa, ở những nước
này ngân hàng trung ương sẽ không còn khả năng phát hành nhiều tiền và gây ra
lạm phát, đồng thời ngân sách nhà nước sẽ không thể trông chờ vào nguồn phát
hành này để trang trải thâm hụt ngân sách, kỷ luật về tiền tệ và ngân sách được thắt
chặt. Do vậy, các chương trình ngân sách sẽ mang tính tích cực hơn.
• Hạ thấp chi phí giao dịch. Ở những nước đô la hoá chính thức, các chi phí
như chênh lệch giữa tỷ giá mua và bán khi chuyển từ đồng tiền này sang đồng tiền
khác được xoá bỏ. Các chi phí dự phòng cho rủi ro tỷ giá cũng không cần thiết, các
ngân hàng có thể hạ thấp lượng dự trữ, vì thế giảm được chi phí kinh doanh.
Tình trạng Đô la hóa và sùng bái ngoại tệ ở Việt Nam 20
Bài tập nhóm môn Tài chính Quốc tế Nhóm 8
• Tăng cường khả năng cho vay của ngân hàng và khả năng hội nhập quốc tế.
Với một lượng lớn ngoại tệ thu được từ tiền gửi tại ngân hàng, các ngân hàng sẽ có
điều kiện cho vay nền kinh tế bằng ngoại tệ, qua đó hạn chế việc phải vay nợ nước
ngoài, và tăng cường khả năng kiểm soát của ngân hàng trung ương đối với luồng
ngoại tệ. Đồng thời, các ngân hàng sẽ có điều kiện mở rộng các hoạt động đối
ngoại, thúc đẩy quá trình hội nhập của thị trường trong nước với thị trường quốc tế.
2. Những tác động tiêu cực:
Giảm hiệu quả chính sách quản lý kinh tế vĩ mô như chính sách tài khóa,
chính sách tiền tệ. Tình hình lạm phát ra tăng cộng hưởng với tình trạng đôla hoá
khiến cho quá trình khôi phục nền kinh tế trở lên khó khăn hơn. Vai trò của ngân
hàng nhà nước Việt Nam trong việc kìm chế lạm phát cũng theo đó mà giảm sút.
Bởi vì ngân hàng Trung ương chỉ tác động lên đồng nội tệ mà không thể tác động
lên các đồng ngoại tệ khác. Chính vì vậy sẽ diễn ra tình trạng khó kìm chế lạm
phát, khó thực hiện mực tiêu ổn định tỷ giá và thực hiện các chính sách về tỷ giá.
Để đảm bảo được mục tiêu ổn định tỷ giá trong điều kiện mức độ đô la hóa cao và
biến động, yêu cầu Chính phủ phải có Quỹ dự trữ ngoại hối lớn và đủ mạnh. Việc
duy trì Quỹ dự trữ này sẽ làm cho nền kinh tế mất một khoản chi phí lớn trong việc
duy trì và sử dụng ngoại tệ.
Hơn nữa, tình trạng đô la hoá sẽ khiến cho nền kinh tế của chúng ta bị mất
tính độc lập. Kinh tế sẽ phụ thuộc nhiều vào kinh tế thế giới đặc biệt là nước Mỹ.
Nếu kinh tế thế giới hoặc kinh tế Mỹ bất ổn thì nền kinh tế nước ta cùng các nước
bị đôla hoá sẽ chịu ảnh hưởng nặng nề hơn những nước khác. Hay nói cách khác là
nền kinh tế sẽ bị phụ thuộc nặng nề vào kinh tế Mỹ.
Dự đoán nhu cầu phương tiện thanh toán gặp khó khăn. Tình trạng đôla hoá
dẫn đến nhu cầu nội tệ không ổn định khiến cho ngân hàng trung ương không phán
đoán được chính xác lượng tiền đồng cần phải cung. Bất kì tình trạng thiếu hay
thừa đồng nội tệ đều sẽ ảnh hưởng không nhỏ đến toàn bộ nền kinh tế. Đặc biệt khi
Tình trạng Đô la hóa và sùng bái ngoại tệ ở Việt Nam 21
Bài tập nhóm môn Tài chính Quốc tế Nhóm 8
một nền kinh tế bị đôla hoá toàn phần thì các chức năng của các ngân hàng trung
ương sẽ không còn.
Làm mất lòng tin vào đồng nội tệ của người dân. Đồng tiền có bản chất là tín
tệ. Khi đã mất lòng tin vào đồng tiền, người dân sẽ thoát ly khỏi đồng tiền. Và vì
vậy, đồng tiền sẽ tiếp tục mất giá, nền kinh tế tiếp tục mất ổn định. Sự mất ổn định
của đồng tiền sẽ dẫn đến hệ thống tài chính gặp khó khăn, dễ dẫn đến nguy cơ bị
khủng hoảng.
Tình trạng Đô la hóa và sùng bái ngoại tệ ở Việt Nam 22
Bài tập nhóm môn Tài chính Quốc tế Nhóm 8
PHẦN III
MỘT SỐ GIẢI PHÁP KIỀM CHẾ VÀ ĐẨY LÙI TÌNH TRẠNG ĐÔ LA
HÓA VÀ SÙNG BÁI NGOẠI TỆ Ở VIỆT NAM
Thực hiện Nghị quyết 11 của Chính phủ ban hành trong lĩnh vực tiền tệ, đã
đến lúc cả các cơ quan quản lý Nhà nước, doanh nghiệp và người dân cùng chung
tay, hợp sức để tìm ra giải pháp kiềm chế và đẩy lùi tình trạng “đôla hóa” một cách
hiệu quả nhất.
Việc xoá bỏ đô la hoá không thể xử lý theo quan điểm xoá bỏ sạch trơn, phủ
định tất cả. Trong giai đoạn hiện nay cần cố gắng khai thác mặt lợi, thu hút vốn đô
la trong dân vào hệ thống ngân hàng, đầu tư cho các dự án phát triển kinh tế - xã
hội. Thị trường ngoại tệ và hoạt động kinh doanh tiền tệ ở nước ta đang hội nhập
với thị trường tiền tệ quốc tế. Nói kiềm chế, đẩy lùi và hạn chế các mặt tiêu cực, có
nghĩa là chúng ta chấp nhận sự tồn tại của đô la hoá ở những mặt tích cực khách
quan. Điều quan trọng nhất là Nhà nước phải giữ vai trò chủ động để điều chỉnh
hiện tượng đô la hoá; nhất quyết phải có các giải pháp hành chính - kinh tế - giáo
dục đồng bộ để triệt tiêu các mặt tiêu cực của đô la hoá. Chúng ta không thể sử
dụng lại các biện pháp hành chính đã từng áp dụng lại các biện pháp hành chính đã
từng áp dụng trong những thời gian trước đây như là: tăng tỷ lệ kết hối lên 100%,
không cho nhận kiều hối bằng ngoại tệ, không nhận tiền gửi ngoại tệ hoặc hạ thấp
lãi suất tiền gửi ngoại tệ, chỉ cho phép doanh nghiệp được mở tài khoản ngoại tệ tại
một ngân hàng Những biện pháp hành chính này qua thực tiễn thực hiện đã
chứng tỏ là chúng gây khó khăn cho các doanh nghiệp, không khuyến khích nguồn
kiều hối chuyển về nước, và không phù hợp với xu hướng hội nhập với khu vực và
thế giới. Do đó, để giữ được những mặt tích cực và hạn chế những mặt tiêu cực của
đô la hoá, có thể thực hiện một số giải pháp sau đây:
1. Chống tham nhũng và quản lý có hiệu quả kênh dẫn ngoại tệ vào trong nước:
Tình trạng Đô la hóa và sùng bái ngoại tệ ở Việt Nam 23
Bài tập nhóm môn Tài chính Quốc tế Nhóm 8
Xét cho cùng thì nguồn ngoại tệ chảy vào nước nước ta phần lớn là nguồn vốn
nước ngoài cho vay vì vậy xảy ra hiện tượng đô la hóa trong nước chính là do tệ nạn
tham nhũng. Như vậy, chống đô là hóa có thể nói là chống tham nhũng.
Biện pháp chống tham nhũng thì năm nào Đảng và Nhà nước cũng đề cập tới
nhưng hiệu quả thì chưa thực sự rõ nét. Trong nhiều giải pháp chống tham nhũng đưa
ra, quan trọng nhất là giải pháp về người đứng đầu. Vì người đứng đầu là người có
trọng trách. Trước hết là họ nêu gương chống tham nhũng và bản thân họ không tham
nhũng và chịu trách nhiệm về hành vi tham nhũng nếu có ở cơ quan mình. Lý thuyết
thì như thế nhưng trong thực tế chống tham nhũng là khó vì dường như chống tham
nhũng là chống xuống chứ ít khi thấy chống ngang và càng không thấy chống lên.
Việc quản lý chặt chẽ các kênh dẫn ngoại tệ vào trong nước cũng là một cách
để phòng và chống tham nhũng có hiệu quả.
Đối với nguồn vốn FDI: Tiếp tục thu hút nguồn vốn đầu tư trực tiếp nước
ngoài đi đôi với việc xây dựng môi trường kinh doanh có khả năng hấp thụ được số
vốn ngoại tệ thu hút được. Xây dựng cơ chế quản lý ngoại hối linh hoạt, vừa thu hút
vừa kiểm soát chặt chẽ lượng ngoại hối vào trong nước, tránh tình trạng rửa tiền.
Đối với nguồn viện trợ phát triển chính thức ODA: Cần quản lý chặt chẽ quá
trình giải ngân nhằm tăng hiệu quả sử dụng, tránh tình trạng tham nhũng của một
số cá nhân.
Đối với kiều hối: Cần khuyến khích nhân dân bán ngoại tệ cho ngân hàng,
cung cấp đồng bộ các dịch vụ chuyển kiều hối sang VNĐ, đồng thời phải kiểm soát
chặt chẽ để hạn chế luồng ngoại tệ chảy vào nước bất hợp pháp, không thông qua
hệ thống ngân hàng, không chịu sự quản lý của Nhà nước như kiều hối chui, ngoại
tệ từ hoạt động kinh tế bất hợp pháp (buôn lậu, tham nhũng,…).
2. Phát triển sản xuất trong nước, đặc biệt là các ngành mũi nhọn.
Tình trạng Đô la hóa và sùng bái ngoại tệ ở Việt Nam 24
Bài tập nhóm môn Tài chính Quốc tế Nhóm 8
Để giảm bớt tình trạng đô la hóa, Nhà nước nên có biện pháp để giảm nhập
siêu, cải thiện cán cân thanh toán. Mà muốn giảm nhập siêu thì yếu tố phát triển sản
xuất trong nước là hết sức quan trọng. Các doanh nghiệp lớn thuộc các ngành hàng
chủ lực phát huy vai trò của mình trong việc giữ các cân đối lớn, khai thác tối đa
năng lực sản xuất cung ứng hàng hoá theo nhu cầu thị trường, tiến tới thay thế hàng
nhập khẩu.
Về mặt trung, dài hạn, Việt Nam cần cấu trúc lại nền kinh tế theo mô hình
phát triển chiều sâu, nâng cao chất lượng tăng trưởng, nâng cao hiệu quả sử dụng
vốn đầu tư, hướng tới một mô hình phát triển kinh tế phù hợp với thực tiễn và hoàn
cảnh mới để có thể phát huy tối đa năng lực cạnh tranh của quốc gia, từ đó sẽ khiến
cho đồng Việt Nam trở nên “có giá” hơn đối với dân chúng.
3. Quản lý tốt dự trữ ngoại hối quốc gia.
Tăng quy mô gắn liền với quản lý tốt dự trữ ngoại hối quốc gia bằng việc đa
dạng hóa cơ cấu dự trữ. Thay cho việc chỉ gắn với đồng đô la Mỹ như trước đây, tỷ
giá ngang giá nên gắn với một “rổ” tiền tệ (bao gồm một số ngoại tệ mạnh như
USD, EURO, JPY và một só đồng tiền của các nước trong khu vực như Trung
Quốc, Hàn Quốc), các đồng tiền này tham gia vào “rổ” tiền tệ theo tỷ trọng quan hệ
thương mại và đầu tư với Việt Nam. Việc xác định tỷ giá trên nhằm giảm bớt sự lệ
thuộc của đồng Việt Nam vào đô la Mỹ và phản ánh xác thực hơn quan hệ cung cầu
trên thị trường trên cơ sở có tính đến xu hướng biến động các đồng tiền của các
nước bạn hàng lớn.
Bên cạnh đó, Nhà nước cũng nên lựa chọn các đồng tiền mạnh mà Việt Nam
sử dụng nhiều trong thanh toán quốc tế làm dự trữ ngoại hối để giảm bớt sự phụ
thuộc vào đồng đô la Mỹ.
4. Củng cố lòng tin của dân chúng vào VNĐ.
Tình trạng Đô la hóa và sùng bái ngoại tệ ở Việt Nam 25