Tải bản đầy đủ (.doc) (20 trang)

lễ hội mừng lúa mới của đồng bào dân tộc cơtu, huyện đông giang, tỉnh quảng nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (146.45 KB, 20 trang )

MỤC LỤC
A. PHẦN MỞ ĐẦU:
I LÍ DO CHỌN ĐỀ TÀI:
II, MỤCTIÊU CỦA ĐỀ TÀI:
III. ĐỐI TƯỢNG NGHIÊN CỨU:
IV. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU:
V. KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU:
B. PHẦN NỘI DUNG
Chương 1:GÍỚI THIỆU CHUNG VỀ VÙNG ĐẤT ĐÔNG GIANG
I. Đông giang – Vùng đất và con người:
1 Lịch sử vùng đất
2 Đặc điểm vùng đất
II. Đồng bào cơ tu tại huyện đông giang
Chương 2: LỄ HỘI MỪNG LÚA MỚI TẠI ĐÔNG GIANG
I. Khái niệm lễ hội:
II. Lễ hội mừng lúa mới:
1. thời gian diễn ra lễ hội:
2. Đối tượng được suy tôn trong lễ hội:
3. Những điều kiện chuẩn bị trước lẽ hội:
4 Những nghi lễ tiến hành trong lễ hội
4.1. khấn vái giàng và đấng siêu nhiên
4.2. hát lí
4.3. phần hội cồng chiêng
4.4 nghi lễ đâm trâu
Chương 3:những phương hướng và giải pháp cho lễ hội ở
Đông Giang
I. những kết quả đạt được và những mặt tồn tại
1 kết quả đạt được
2 những mặt tồn tại
II. Phương hướng và giải pháp:
1. Nhũng phương hướng:


2. Những giải pháp:
C. PHẦN KẾT LUẬN
D. PHẦN PHỤ LUC
2. Nhũng hình ảnh trong lễ hội mừng lúa mới
3.Ttruyện cổ tích của đồng bào Cơtu
1
A. PHẦN MỞ ĐẦU
I.LÍ DO CHỌN ĐỀ TÀI:
Đông Giang là một huyện miề núi của tỉnh qủang Nam. Nơi đây đồng b
ào Cơtu chiếm 73,3%. Nền văn hoá của người Cơtu được hình thành và
gắn ó với núi rừng Tường sơn hùng vĩ.
Dân tộc Cơtu là một dân tộc có truyền thống văn hoá lâu đời, đó là sự
phản ánh ở bề sâu tâm hồn của người Cơtu, ở họ có sự ràng buộc máu
thịt lòng tự hào ngưỡng mộ cội nguồn thiêng liêng của chính mảnh đất
họ sinh ra, nơi “chôn nhau cắt rốn”. Qua một điệu múa tung tung ,dá

Từ xưa đến nay cuộc sống của đồng bào dân tộc nơi đây luôn gắn bó
với núi rừng , do điều kiện canh tác khó khăn nên họ luôn mong ước về
sự no đủ đó là lí do ra đ ời lễ hội mừng lúa mới, một mặt đáp ứng những
nhu cầu tâm linh ũng như những nhu cầu về vật chất của đồng bào
Cơtu, mong ước về một vụ mùa bội thu, một năm mới đầy hứa hẹn thể
hiện tín ngưỡng tâm linh làm tiền đề cho cho cuộc sống ấm no, hạnh
phúc của cộng đồng nơi đây.
Nghi quyết trung ương 5 kho á VIII đã một lần nũa khẳng định và hoàn
thành việc thực hiện chiến lược :”xây dựng và phát triển nền văn hoá
việt nam đậm đà bản sắc văn hoá dân tộc” một mặt đáp ứng những đòi
hỏi cấp bách của cuộc sống hiện nay ,một mặt bảo tồn những giá trị
truyền thống, những định hưống cơ bản cho sự nghiệp xây dựng củng cố
và không ngừng tăng cường phát triển xã hội.
II.M ỤC TI ÊU C ỦA Đ Ề T ÀI

- Khảo sát những hoạt động diễn ra trong lễ hội mừng lúa mới tại
huyện đông giang cua đồng bào dân tộc cơtu
-Nghiên cứu những giá trị đặc trưng về văn hoá của đồng bào Cơtu taị
Đông Giang
- Những giải pháp nhằm bảo tồn và phat huy giá trị văn hóa truyền
thống cua người cơtu.
- Những kiến nghị nhằm phát triển lễ hội cũng như đưa những giá trị
văn hoá của người cơtu thành sản phẩm du lịch độc đáo thu hut du
khách đến với đông giang.
IIIhững vị bô lão và già làng ở làng bhơhoồng ở Sông Kôn huyện Đông
Giang
- Những thủ tục và những nghi lễ trong lễ hội mừng lúa mới của người
Cơtu tại Đông Giang.
-cuộc sống thường ngày của người cơtu
4 PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU :
- Phương pháp điền dã:hỏi những già làng và những bậc tiền bối, trong
các làng Bhơhoông xã Sông Kôn, và tại thôn Tống Cói tại xã BA
2
- phương pháp khảo sát: trên ơ sở những phong tục tập quán lối sống
hằng ngày của đồng bào Cotu tioến hành khảo sát và viết đề tài.
- Nghiên cứu tài liệu: thiông qua những tài liệu tại phòng VHTT huyện
Đông Giang, những tài liệu trên mang internet, những tài liệu trong sách
báo…
- Quan sát phân tích tổng hợp: những tài liệu sẵn tổng hợp phân tích.
5 KẾT QUẢ ĐẠT ĐƯỢC:
- Đi sâu nghiên cứu những tập tục trong lễ hội mừmg lúa mới ở Đông
Giang.
Hiểuđược những phong tục tập quán của đồng bào Cơtu tại huyện Đông
Giang
- Đưa ra những giaiphápvà phhương hướng nhằm bảo tồn ,phat huy

những giá trị truyền thống cua người cơtu.
- bức tranh sinh hoạt hằng ngày của đồng bào hiện lên rõ nét, chúng ta
hiểu được họ nhiêu hơn thông qua lễ hội.
Hình ảnh con người Đông Giang hiện lên rõ nét thông qua bài viết này
và thấy những giá trị dặc trưng trong lễ hội mừng lúa mới ở Đông
Giang.
B PHẦN NỘI DUNG
CHƯƠNG 1: GIƠI THIỆU CHUNG VỀ VÙNG ĐẤT
ĐÔNG GIANG
I. Đông Giang vùng đất và con người:
1. lịch sử vùng đất:
Đông giang là một huyện miên núi của tỉnh quang nam. Huyên mới
được tái lâp gần đây qua nhiêu tên gọi lịch sử khác nhau.
Dưới chế độ thuộc địa nửa phong kiến, Đông Giang và tây giang
bây giờ thuộc đại phận huyện Đại Lộc (quảng nam) và huyên hoà vang
(thành phố đà nẵng)
Từ tháng 10 năm 1950 đến tháng 1 năm 1960 thuộc huyện Hiên,
huyện độc lập của tỉnh Quảng Nam
từ thang 6 năm 1960 đến tháng 3 năm 1963 thuộc huyện Thống Nhất
với huyện Nam Giang và huyện Tây Giang bây giờ.
từ tháng 3 năm 1963 đến năm 1974 là huyện Đông Gianbao gồm cả
Tây Giang bây giờ.
Từ tháng 11 năm 1974 đến tháng 6 năm 2003 thuộc huyện hiên
cungf với Tây Giang bây giờ
Năm 1997, sự kiện tỉnh Quang Nam – Đà Nẵng tach ra thành thành
phố Đà Nẵng và tỉnh Quảng Nam thì Đông Giang thuộc huyện Hiên cuả
tỉnh Quang Nam.
3
từ thang 7 năm 2003 được sự đồng ý của chính phủ, huyện Hiên
được tách thành 2 huyện Đông Giang và Tây Giang theo nghị định số

72/ 2003cp vào ngày 20/ 06/ 2003 của chính phủ và tồn tại đến ngày nay
2. Đặc điểm vùng đất:
Đông giang là một trong 9 huyện miền núi tại tỉnh quảng nam. Tuy mơi
thành lập không lâu nhưng kinh tế xã hội của vùng có những bước phát
triển đáng kể.
vị trí địa lí của vùng theo toạ độ 15 50 đến 16 10 VB và từ 107 35 đến
107 56 KĐ, nằm ở phía tây bắc tỉnh quảng nam, cách tỉnh lị quang nam
145 Khương Mỹ.
diện tích tự nhiên :81.129 km
dân số :32.175 người (2005)
trong đó người cơtu chiếm 72%., còn 28% là người kinhvà một số
dân tộc khác.
Phía đông giap huỵện hoà vang (thành phố Đà Nẵng)
Phía tây giáp huyện tây giang (quang nam)
Phía nam giáp huyện nam giang và huyện đại lộc (quảng nam)
Phía bắc giáp hai huyện nam đông và a lưới (thừa thiên huế)
huyện gôm có 10 xã và một thi trấn, một làng thanh niên lập nghiệp
tại xã macooih, có tuyến đường hồ chí minh đi qua xã zahung,
macooil, và thị trấn prao với chiều dài hơn 40 km.
Đông Giang năm trên dãy trường sơn đại ngàn, địa hình Đông Giang
khá phức tạp và nhiều hiểm trở, nhiều đồi núi cao, độ dốc lớn nhiều sôn
suối, sông suối ngăn cách bởi những thung lũng vừa hẹp vừa sâu, có
nhiều vùng núi cao trên 100m. Địa hình chia thành 3 vùng khác nhau:
- vùng đông gồm: Xã Ba, xã Tư, và CàDăng
- vùng trung gồm: xã Ating, xã Sông Kôn, xã Jơ ngây
- vùng tây gồm : xã Tà LU, xã Rrôi, xã Macooil, và thị trấn Prao.
Vùng có địa hình rừng núi đi qua khá hiểm trở và phức tạp, hệ thống
đường Hồ Chí Minh đi ngang qua trước đây cũng như bây giờ là một
đại bàn chiến lược quan trọng trong sự phát triển kinh tế, trong giao
thông, trong quýôc phòng và xây dựng căn cứ địa cách mạng.

Đất đai chủ yếu là đất đỏ hình thành chủ yếu trên đá biến chất và đất
sét, còn đất đỏ vàng thì hình thành trên đá mắcma acid.
Vùng nằm trong vành đai khí hậu nhiệt đới ẩm gió mùa thuộc khu
vực ĐônởnTường Sơn, mùa lạnh thường kéo dài làm ảnh hưởng đến sự
phát triển của cây trồng và sinh vật.
Rừng chủi yếu là rừng già, rừng phòng hộ, rừng đầu nguồn, có rất
nhiều loài sinh vật quý như:gỗ kiền kiền, lim, dỗi,….nhiều cây dsược
liệu như: quế, sa nhân, thiên niên kiện,… và nhiêu loại vật quý như:hổ,
gấu hươu, nai…., rừng tre nứa bạt ngàn là nguồn nguyê liệu phong phú
để làm các mặt hàng thủ công phục vụ nhu cầu sinh hoạt hằng ngày của
nhân dân.
4
Đông Giang có nguồn khoáng sản phong phúlà nguồn nguyênliệu
cho xây dựng và nơi đây có nhiều cảnh đẹp phục vụ cho nhu ccầu du
lịch sinh thái của du khách thích du lịch mạo hiểm và du lịch về nguồn,
nơi đây có trữ lượng vàng rất lớn tại xã Ba và xã Tư.
Do địa hình phức tạp, đường sông không thuận lợi nên giao thông
đường bộ trở nên vô cùng quan trọng, tuyến đường quan trongj là tuyến
đường ĐT 604nối liền từ Tuý Loan lên thị trấn Prao và tuyến đường Hồ
Chí Minh đi qua với chiều dài 78km, có ý nghĩa quan trọng trong mạch
giao thông bắc nam qua miền núi, và hầu như tất cả những các trung
tâm của huyện xã đều nằm trên tuyến đường này.
Tuy nhiên về mùa mưa tuyến đường thường xuyên xảy ra xạc lở gây
khó khăn cho việc đi lại, các tuyến đường vào tận các làng xã thì mùa
mưa lâỳ lội rất khó đi lại. Việc khai thấc klhoáng sản nhỏ lẻ gây khó
khăn cho việc kiểm soát nạn chặt phá rừng tràn lan, huyện là đieemr
nóng về tình trạng chặt phá rừng hiện nay, gây ảnh hưởng nặng nề đến
môi trường sinh tháivà phá huỷ cảnh quan thien nhiên, là vấn đề đang
được báo động hiện nay.
Dân cư chủ yếu là dân tộc Cotu chiếm 73,3% còn lại là dân tộc kinh

và các dân tộc khác.
2. Đồng bào Cơtu tại Đông Giang :
Dân tôc cơtu chiếm 72% dân số của huyện, có vai trò quan trọng
trong sự phátm triển kinh tế -xã hội của vùng. Mang những giá trị dặc
trưng của vùng từ những phong tục tập quán đến nếp sống của họ.
Tên gọi: Cơtu, katu, … ,tên gọi tuỳ thuộc vào vùng sinh sống như:
Ở vùng núi cao có tên gọi là :cơtu Riu, ở vùng lưng chừng núi là : Cơtu
Chalay, hoặc cơtuphương, còn ở vùng thấp là :Cơtu hạ hoặc CơtuNa,
Tiếng nói thuộc ngôn ngữ Môn –Khơ me (ngữ hệ Nam Á) đây là một
dân tộc có sự tương đối thống nhất về văn hoá .tuy nhiên ,cơtu ở vùng
núi cao có sự thay đổi văn hoá theo theo dân tộc thuộc vùng ALưới,
Nam Đông (Huế), riêng cơtu vùng thấp thì chịu ảnh hưởng dân tộc kinh
nên chỉ có cơtu ở vùng thấp mơi bảo tồn những văn hoá cơtu tương đối
nguyên vẹn.
Vị trí lập làng của đồng bào thường ở vùng sườn đồi, một bên dựa
vào núi, một bên dựa vào khe suối. Nói đến đồng bào Cơtu là nói đến
mái Gươl “mái nhà chung” của làng là nơi sinh hoạt cộng đồng, nơi tổ
chức các hoạt động lễ hội.
Trước cách mạng thang 8đồng bào Cơtu còn đang ở trình độ manh
nha giai cấp, có nhiều tàn dư của xã hội nguyên thuỷ.Tổ chức xã hội
đơn giản nhất là làng.Làng trước kia là một dơn vị cư trú của đồng bào,
vừa là đơn vị hành chínhmang tính chất tự quản. Làng được xây dựng ở
nơiCao ráo thoáng mát, gần nguồn nước, và bố trí bằng hình tròn hoặc
hình bầu dục, xung quanh là nhà dân và ở giữa là nhà làng(Gươl).
5
Mỗi làng xác định ranh giới là những con sông con suối, ngọn núi
tảng đá,.Tất cả những con sông con suối đều thuộc quyền sở hữu của cả
làng.Mỗi làng đều có các công trình cộng cộng như nghĩa trang, nguồn
nước, ……Quan hệ trong làng được xử bằng luật tục với vai trò quan
trọng của già làng(taco vêêl) là người có nhiều kinh nghiệm và uy tín

được nhân dân kính nể, suy tôn.Giúp việc cho già làng có hội đồng già
làng gồm những người cao tuổi đại diện cho các tộc họ trong làng.Sự
phân hóa giai cấp chưa diễn ra rõ rệt, sự phân hoá trong xã hội chỉ xuất
hiện ở những thành phần dư ăn đủ mặc trong làng. Việc hội họp , bàn
bạc công việc chung, hay nghi lễ tín ngưỡng đều được tổ chức tại nhà
làng(Gươl).
Gươl thường được dựng ở trung tâm của làng , có vị trí đẹp bao quát,
quy tụ các ngôi nhà trong làng.Người Cơtu chia thành 2 loại nhà Gươl:
Gươl có cột to, vách gỗ độc mộc, trang trí đầy đủ và cầu kì, còn laịo là
Gươl nhỏ trang trí giản đơn. Gươl là công trình được làm bằng sữ\cs lực
đóng góp của cả làng.Kiến trúc đặc sắc nhất thể hiện trên những vật
trang trí chạm khắc bằng gỗ trên nhà Gươl và trên những nhà mồ.
Gươl co kiến trúc đặt biệt,là ngôi nhà sàn lớn và đẹp nhất trong làng,
được làm bằng tre nứa, mây khai thác trong rừng.Ngôi nhà được tạo
dựng theo kĩ thuật kiến trúc truyền thống chung của người xứ thượng
nhưng lại có một điều khác biệt là mái uốn khum tròn ở hai đầu hồi giốn
mai rùa, đó là nét văn hoá lâu đời của đồng Cơtu tạo nên nét dặc trưng
cho cư dân nơi đây.
Trong hôn nhân, gia đình dòng họ của người Cơtu thể hiện yếu tố phụ
quyền , phụ hệ. Người con gái được ấn định bằng một giá trị của cải vật
chất giá trị nào đó, họ trở tthành món hàng để trao đổi khi lấy chồng,
người con trai khi phải trả cho nhà gái những thứ như:trâu, trống chiêng,
ché cổ, vải thổ cẩm có hạt cườm… , do hai bên thống nhất nên nạn tảo
hôn vẫn thường xuyên xảy ra.
Phương thức kiếm sống, chủ yếu là làm nương rẫy theo lối canh tác xen
canh và đa canh, và lối luân canh chuyển từ đám rẫy này sang đám rẫy
khác, cây trồng chủ yếu là : sắn , bắp, dưa, bầu, lúa, ……Còn phương
thức làm lúa nước thì sau này mới làm, hiện nay đang ngày càng mở
rộng, ngoài ra còn có nghề chăn nuôi, săn bắn, đánh cá, hái lượm, trao
đổi hàng hoá với bên ngoài.

Nghề thủ công truyền thống là nghề đan lát, nghề dệt thổ cẩm, dựa vào
nguồn nguyên liệu chủ yếu của tự nhiên, đây là những mậthngf tinh xão
có giá trị văn hoá cao phục vụ cho nhu cầu du lịch cũng như trao đổi
mua bán lẫn nhau.
Trang phục truyền thống của người Cơtuthì đàn ông thường đóng khố,
cởi trần, còn phụ nữ thì mặc váy có thể ngắn hoặc dài,ngực đeo yếm,
lưng trần, trang phục lúc đi rẫy khác với lúc lễ hội, trang phục người
6
cchồng cũng khác với ngưòi chưa chồngvà họ cũng rất thích những vật
trang sức như cườm, hoăch những vòng đồng, mã não, vòng bạc……

7
Chương II: LỄ HỘI MỪNG LÚA MỚI CỦA ĐỒNG BÀO DÂN TỘC
CƠTU TẠI HUYỆN ĐÔNG GIANG
I. Khái niệm lễ hội:
Cho đến nay có nhiều cách gọi và sự giải thích khác nhau về thuật ngữ
lễ hội. Có người gọi lễ hội là “hội lễ”, có người gọi là “hội hè” hay “hội
hè đình đám” và có người gọi là lễ, tết, hội… Tuy tên gọi và cách diễn
đạt khác nhau nhưng các ý kiến đo không có gì mâu thuẫn mà thống
nhất với nhau trong một nội dung: “Lễ hội là sinh hoạt văn hoá, tôn
giáo, nghệ thuật truyền thống của cộng đồng”. Như vậy trong khái niệm
lễ hội bao gồm hai yếu tố “lễ” và “hội”.
“Lễ là các hoạt động đạt đến trình độ lễ nghi và hội là các hoạt động
văn hoá truyền thống” (Bùi Thuyết- Từ điển lễ hội Việt Nam).
“Hội là tập hợp đông người trong một sinh hoạt cộng đồng, lễ là các tín
ngưỡng, các nghi thức đặc thù gắn liền với tín ngưỡng ấy trong sinh
hoạt văn hoá cộng đồng” (Đinh Gia Khánh- Lễ hội văn hopá dân gian
và sự phân những truyền thống dân tộc).
II. Lễ hội mừng lúa mới của đồng bào dân tộc Cơtu ở Đông Giang:
1.Thời gian diễn ra lễ hội: vào tang 7 tháng 8 âm lịch hằng năm , lúc

đất trời đang vào giao hoà đẹp nhất.
2. Địa điểm diễn ra lễ hôi: tại thôn BhơHôông xã Sông Kôn huyện
Đông Giang.
3. Đối tượng được suy tôn trong lễ hôi:Giàng và đấng siêu nhiên, cấc
vị thần linh đất trời’
4. Những điều kiện chuẩn bị trước lễ hội:
Trước kia người dân trồng lúa trên những vùng đồi núi cao, quanh năm
vất vả với cái ăn, cái mặc, cuộc sống của họ hoàn toàn dựa vào tự nhiên
nên họ rất tin vào thần linh, đất trời. Người mà họ tôn kính nhất là
Giàng. Họ rất sợ khi mắc tội với Giàng và nếu mắc tội sẽ bị Giàng phạt
rất nặng.
Xuất phát từ tín ngưỡng đó họ đã hình thành nên những lễ hội phong
phú mang đậm tính nhân văn sâu sắc, được truyền từ đời này sang đời
khác. Trong số những lễ hội đó thì lễ hội mừng lúa mới được xem là lễ
hội quan trọng nhất trong năm của người Cơtu. Lễ hội này thường được
tổ chức vào thường niên tháng 7, tháng 8 (Âm lịch) hàng năm.
Đối với người Cơtu một mùa rẫy bội thu, một mùa thu hoạch lúa đầy
kho trong, kho ngoài thì không gì bằng. Đây là lúc dân làng tạ ơn Giàng
và mong ước một mùa mới no đủ, cũng là lúc dân làng được vui chơi
sau một năm làm việc vất vả.
Trong nông lịch người Cơtu có một mùa gieo trồng thường với ba loại
lúa sau:
- Lúa ba trăng (Xot aví chơroo): chọc tỉa tháng 2 (Âm lịch), thu hoạch
tháng 6 (Âm lịch).
- Lúa Nhe: chọc tỉa tháng 3 (Âm lịch), thu hoạch tháng 8 (Âm lịch).
8
- Lúa mùa (Xót aví Bhlông): chọc tỉa tháng 4 (Âm lịch), thu hoạch tháng
9 (Âm lịch).
Mỗi năm người Cơtu làm một mùa với ba loại lúa gối vụ, thu hoạch từ
tháng 6 (Âm lịch) đến cuối tháng 11 (Âm lịch). Hằng năm, từ tháng 12

đến tháng 5 năm sau ăn lúa cũ để ở trong kho, còn lại để phục vụ cuộc
sống hàng ngày của gia đình làm giống lúa mùa sau đi khách giúp đỡ
bạn bè.
Qui trình sản xuất ở vụ mùa người Cơtu thực hiện từ chọn rẫy để phát,
hạ chói, đốt, dọn, tỉa, làm cỏ, một cách rất tỉ mỉ từ lúc tỉa cho đến lúc
thu hoạch.
Đến thời gian thu hoạch, Già làng sẽ triệu triệu tập dân lảng và tất cả
những người già trong làng cử đi họp hội đồng tại nhà Gươl. Già làng sẽ
cử một vài người đi kiểm tra nương rẫy xem lúa đã chín vàng chưa để
quyết định thời gian thu hoạch và xem xét thử năm đó dân làng làm có
được mùa không để tiến hành làm lễ tạ ơn Giàng cho phù hợp.
Việc tổ chức ăn cơm mới tuỳ theo khả năng của từng làng, từng gia
đình. Nếu như năm nào vụ mùa đạt sản lượng cao thì làng tổ chức giết
trâu, mỗi gia đình một con heo nhỏ, có một đến 2 con gà, có cá ống, cá
khô, các loại thịt rừng, rau rừng đem đến. Nếu vụ mùa ít được thì nhà
nào có gì thì đem đến, không bắt buộc, nhưng không được quá sơ sài, sẽ
mắc tội với Giàng và dân làng sẽ bị phạt, năm sau vụ mùa sẽ thất bát.
Dân làng tiến hành làm mới hoặc tu sửa cối chày, nhà giã gạo… cho
đàng hoàng, qui định ngày tập trung để giã gạovới số lượng theo phân
công của làng và gia đình. Giã gạo xong dân làng tiến hành nấu cơm,
mỗi gia đình cúgn tại nhà và cầu cho thần linh mang đến mưa thuận, gió
hoà, mùa sau tăng hơn mùa trước, gia đình được ấm no, hạnh phúc.
Việc cúng cơm mới tại nhà khách mời là do chủ nhà quyết định.
Hội đồng già làng sẽ là người kiểm tra việc cúng tại gia đình xong, chủ
nhà lên Gươl thổi cơm và mang đến các loại thức ăn đã được bố trí sẵn
tại gia đình như đầu heo, cá, thịt…
Với mong muốn một mùa màng bội thu, mưa thuận, gió hoà, cây lúa,
cây bắp đầy trên nương, trên rẫy như người Cơtu thường nói: “Mình
mong cho trên nương, trên rẫy cây lúa nhiều như lá rừng là mình thấy
no con mắt, sướng cái bụng lắm rồi”.

Một mùa bội thu ,lúa về đầy kho trong kho ngoài và đầy kho của mỗi
gia đình và trong thôn không ai chết dữ, chết xấu thì già làng mới tiến
hành tập hợp tất cả đàn ông trong thôn lại để bàn chuyện ăn mừng lúa
mới, để cám ơn trời đất, thần linh, đặc biệt là thần lúa đã phù hộ cho
một mùa “lúa đầy bồ đầy kho” và cầu mong một mùa mới bội thu.
Lễ hội diễn ra lúc đất trời đang vào mùa hè, qua đi những tháng giá rét,
nắng nóng và những cơn mưa giông của mùa hè làm cho cây cối tốt
tươi, đây là lúc thích hợp để khai hội lúa mới. Tù bao đời nay, người
Cơtu cứ “đến hẹn lại lên”, cứ tháng 7, 8 Âm lịch là lễ hội được tiến
9
hành. Già làng là người mang trọng trách rất lớn cho việc khai hội. Tù
lúc cử người đi xem xét lúa đã thu hoạch được chia đến lúc tiến hành lễ
như thế nào cho phù hợp để không bị Giàng trách phạt.
Già làng sẽ cho mời những người trong làng, những vị trưởng gia đình
đến Gươl để bàn việc chuẩn bị cho lễ hội, đồng thời phân công công
việc cho mọi người trong làng.
Những người con trai thì vào rừng săn nai, săn thú. Những người con
gái thì xuống suối bắt ốc, bắt cá. Những đứa tre thong làng cũng hăng
say với công việc của mình: dọn cây, quét dọn đường và sân thôn cho
sạc sẽ. Mỗi người một việc, mọi người đều hăng say trong việc chuẩn bị
lễ hội.
Những người già và thanh niên khéo tay thì được già làng chỉ định lên
rừng hạ cây để làm Xơnur. Xơnur là một cây nêu cao bằng gỗ Kron
(gạo), chặt từ rừng về được các nghệ nhân đục đẽo theo mô típ truyền
thống nhuẽng hình ảnh về cuộc sống hàng ngày, thể hiện những khát
vọng, ước mơ của đồng bào. Khi làm xong cột được dựng lên giữa sân,
trước mặt chính của Gươl. Hai bên cột là hai cây tre phướn (rơđoog, với
nhiều dải tua đan kết tạo nên một hình thức trang trí phụ, tạo cho Xơnur
mang kiểu dáng riêng của người Cơtu không, không giống với bất cứ
dân tộc nào trên đất nước này.

Dựng Xơnur xong, già làng sẽ cử một vài thanh niên vào rừng bắt trâu
dẫn về để buộc vào Xơnur bởi một sợi dây mây đan bền và rất chắc.
Con trâu là của cải chung của cả làng.
Tại Gươl, dân làng được họp lại để già làng cử người có uy tín trong
làng đi mời khách các làng bên đến tham dự lễ hội. Chiêng trống trong
làng được các nghệ nhân lớn tuổi đánh thử để nghe đúng âm, đúng điệu
chưa để điều chỉnh lại cho đúng. Tiếng chiêng, tiếng trống theo đúng âm
điệu của người Cơtu để khi cầu khẩn với thần linh sẽ không bị trách
phạt. Người múa điệu tung tung dá dá cũgn phải đúng nhịp điệu trong
lúc diễn ra lễ hội.
Trong lễ hội không thể thiếu được những ché rượu, Trong đó có các loại
rượu: rượu cần nếp, rượu cần sắn, rượu mía, rượu poh, rượu tađing,
rượu tàvạt. Đặc biệt loại ruợu tàvạt được xem là đặc sản của vùng được
làm từ buồng trái của cây tàvạt.
Những món ăn truyền thống của đồng bào Cơtu: cơm lam, thịt rừng,
gạo nếp gói bánh bằng lá đót Atơơng, nếp hông trong ống tre, lá dong
(Xơrlung) hoặc nấu xôi trong nồi hông, đặc biệt là loại bánh cuốt (còn
gội là bánh sừng trâu) giống như bánh ú, bánh rò của người Kinh là
ngâm nếp rồi gói bánh nhưng ở bánh cuốt gói xong phải bỏ vào nước
ngâm trong nửa ngày rồi mới đem nấu lên, bánh được giữ trong vài
ngày, đến ngày thứ ba thì bánh có thể bị khô cứng, muốn ăn phải đem
nướng trên bếp than thì bánh sẽ mềm dẻo hơn và thơm ngon hơn với vị
10
đặc trưng của lá đót do bánh được gói bằng lá đót, ngoài ra còn có các
loại rau rừng, các loại thịt thú rừng…
Các loại chiêng trống : gồm có trống lớn (ca thu), chiêng có núm
(goòng), chiêng lớn (ching), chiêng nhỏ(pơnooh), thanh la (pơnooh
trơvê) , trống dài hai cái (chơgor)
Phụ nữ trong làng thì tờ mờ sáng gọi nhau í ới lên rẫy suốt lúa đã chín,
trong nhà có cối chày giã gạo, các loại dụng cụ như: Đhađiêng, Avơl,

zang, Ưđool, tọ, piêr, ……
Đàn ông trong thôn làm thịt con heo, con gà, hông cá ống, nướng cá gói
bằng lá … , vào buổi tối dân làng kiểm tra lại toàn bộ công việc chuẩn
bị, chia công việc với nhauvà làm việc tận khuya, tất cả không quên
xem lại trang phục, trang sức cho ngày hôm sau.
Những người già trong làng thì ngồi với nhau uống rượu tại Gươl để
bàn bạc và trao đổi với nhau về những công việc cho ngày hôm sau như
việc đón khách của các làng bên đến dự lễ, hay việc chuẩn bị nghi lễ
như thế nào để không chuyện gì sơ xuất xảy ra cho ngày hôm sau.
Sáng hôm sau, Già làng cùng những người già trong làng sẽn kiểưm tra
lại toàn công việc cho chu tất.Tại mỗi gia đình tiến hành thủ tục cúng
cho hoàn tất thì họ ãe tiến hành trang trí lại Gươl cho hoàn chỉnh.
Những mâm cúng trên Gươl, và những đồ dùng trng trí là do dân làng
mang đến như những tấm tút lớn hay những tấm dồ … , sử dụng lúc
đón khách.
Trên mâm cúng tại Gươl gồm những lễ vật sau:
- Một con heo
- Một con gà đuộc giết làm lễ cúng.
- Một tô xôi lớn, cơm tẻ mucvs lên thau lớn, vài chén cốm
- Rượu cần nếp , rượu cần sắn hai ché để tại Guơl
- Bánh Cuốt, cơm lam, cơm ống,.
- Các loại thịt cá
Sau đó già làng và những người già tiến hành tham gia cúng tại Gươl.
5. Những nghi lễ tiến hành trong lễ hội:
Người bưng nước đến, người mang rượu đến, người bưng đầu heo và
những tô xôi được ấn thật chặt, tròn mang đến lều dựng tạm bằng tranh tre
ngay cạnh Gươl để ở đó.
Mười hai thiếu nữ thanh niên mặc trang phục truyền thống Cơtu đứng xếp
thành trước cổng vào làng đón chào đón khách.
Già làng và các người già trong làng là những ngưòi cúgn bắt đầu thực hiện

công việc của mình.
Tất cả mọi gười cùng tất bật với công việc của miònh trong sự hăng say, và
vui vẻ ai cũng náo nưc trong ngay hội.
Những người tham gia cúng phải mặc trang phục truyền thống của người
Cơtu.
5.1 Khấn vái giàng và đấng siêu nhiên:
11
Khi tham gia cúng già làng khấn rằng :
“ Ơ giàng,ơ các thần sông, thần suối, thần núi, thần đát, thần trời, và các
linh hồn người chết, những con ma trong rừng trong núi …., hôm nay dân
làn mở hội đâm trâu để mừng một mùa rẫy, dânlàng biết ơn giàng , các
thần linh đã giúp đỡ dân làng, ban cho dân làng hạt lúa , hạt bắp về đầyn
nhà, đầy kho, dân làng không bị đau ốm, không bị chết xấu.Dân làng cầu
mong Giàng, thần linh về dự với dân làng để biết cái bụng của dân làng
rất biết ơn giàng, cúgn con trâu, con gà, chén rượu cho giàng , để mùa rẫy
tới lại được tốt đẹp như mùa rẫy này”.
Sau đó là nghi lễ, già làng và các chủ gia đình làm phép dùng một tua tre
chấm máu gà, máu heo làm lúc nãy, năm gạo tẻ vung ra chung quanh và
tung lên mái gươl nơi thờ các đầu thú, chiêng trống được đánh lên.
5.2 Hát lí:
Một người già trng làng, hát lí giỏi (bhơơ noóch) hát một bài lí có nội dung
tha thiết, cảm động, lời tâm sự với các già làng trong lang hay khach đến
tham dự.
Một người khách đáp từ:”ơ… , ơ hôm nay trời trong xanh, hkí hậu mát
lạnh, dân làng ta tổ chức ngày hội này ; chúng tôi là những người khách
được mời rất vinh dự và rất chân thành, cảm ơn già làng cùng bà con cô
bác thôn ta đã có lòng mời chúng tôi; mong muốn những điều ước tốt đẹp
đến với làng chúng ta, chucvs thôn ta trong năm nhà nhà no đủ, mjạnh
khoẻ, lúa về đầy kho, đầy nhà… ”
Một người già trong thôn đáp từ khách với hàm ý:

“xin một khách đưng chê thôn nghèo, khách đến thôn chúng tôi quý lắm,
chúng tôi chỉ có tấm lòng dành cho khách, mời khách những chén rượu
nhạt”.
Kết thúc già làng hô to hiệu lệnh và ra lệnh cho đội chiêng trống nổi lên
khai hội,
5.3. phần hội cồng chiêng :
Tiếng chiêng ,tiếng trống nổi lên. Trống to và chiêng có núm (cathu,
Goòng,)được đánh lên trước, tiếp sau đó là trống chiêng các loại đánh tiếp
theo, và điệu Đhưng nhanh dần,mrất mạnh mẽ,hùng dũng.
Trong bộ cồng chiêng của người Cơtu thưỡgn dược sử dụng vào những dịp
lễ hội, mỗi loại thường được đáh theo tiết tấu riêng, âm thanh riêng như :
điêu Đhưng, điệu đhập, điệu pơrlư……
Khi tiếng trống to và tiếng chiêng khai hôi vừa dứt thì tiếng hú, tiếng reon
hò của các chàng trai trogn làng vang lên hoà cùng tiếng chiêng trống làm
cho đât trời cũng rộn lên, họ vừa đi vừa đánh trống xung quanh xơnur tiếp
ddos là các già làng và những người khách được mời đi theo sau đội trống
chiêng, múa theo nhịp đập (rađoóc).người đi tước cầm tù và làm bằng sừng
trâu và thổi theo nhịp điệu của khèn; những người tiếp theo tay cầm dù đen,
cầm dao, mác mỏ, nỏ, taléc(nhịp nhún hai bước một).
12
Điệu múa truyền thông từ troểna đứng xếp thành hàng dọc. Điệu
múa tung tung, dá dá là vũ điêu uyển chuyển và đầy uy lực của thanh niên
Cơtu, không ai khôbng biết điệu múa này trong đồng bào Cơtu
Điêu tung tung là điệu múa dành cho tất cả những changtrai trong
làng đều thể hiện một cách nhuần nhuyễn, những động tác mạnh mẽ, dũ dôi
thể hiện sức mạnh và tinh thànn đoàn kết của đồng bào để chông lại thú dữ
phá hoại mua mang của đồng bào,tay cầm khiên và dao, những điêu mua
như đi săn con thú trong rưng và chống lại thú dữ bảo vệ dân làng.
Điêu dá dá là điệu múa của phái nữ, bất kể già trẻ ai cũng biết điệu
múa này.Với dáng đi uyển chuyển, nhẹ nhàng, hai tay giơ lên như nhưng

búp măng rừng, hay tượng trưng cho hai sừng trâu, biểu thị sưc mạnh của
thần linh và lòng chung thuỷ của người con gái Cơtu, đoògn thời hai tay
như đón lấy những ân huệ mà giàng và các thần linh ban cho dân lang với
một niềm tôn kính, một mua mới bội thu,dân làng no ấm.
Các chàng trai cô gái múa điệu múa truyền thống của mình thể hiện
rõ mối quan hệ giữa con người và con người, với các tế lực siêu nhiên. Qua
đây ta có thể hiểu được tín ngưỡgn của đồng bào và niềm tin vào thần linh
đât trời liên quan đến cuộc sống phụ thuộc vào thiên nhiên của họ.
Cả hai phái múa theo nhịp trống đi theo vòng tròn quanh xơnur và con trâu.
Nhịp điệu mỗi lúc một dồn dập, thúc dục nhiều hơn, điệu múa tiến hành
nhiều lần; hoà với tiếng hú vang lên cangf làm cho không khí lễ hội trở nên
sôi động.
Khách mời và dân làng cùng hoà nhịp vào lam nhịp điệu dân ca Cơtu
truyền thống ; nghi lễ đâm trâu để xem, lễ hội trở nên sôi nổi tưng bừng
trong tiếng chiêng trống rộn rã.Tiếng chiêng tiếng trống như nhịp đập của
con tim của người Cơtu , đồng thời thể hiện sức manh giao tiếp với sức
manhj với thiên nhiên , với thần linh
5.4. NGHI LỄ ĐÂM TRÂU:
Con trâu la một con vật gắn bó thân thiết với người nông dân, đối với
người cơtu thi cũng vậy không chỉ trong nông nghiêp mà trong công vieecj
hằng ngày cũng nhờ đến con trân như kéo gỗ làm nhà, và nó là một con vật
lam vật hiến sinh trong các lễ hội của người Cơtu
Nghi lễ này gắn liền với tục hiến sinh,cầu an ,cầu mùa của cư dân nông
nghiệp với mong muốn cho một mùa bôi thu ,góp phần cho cuộc sống yên
vui của bản làng.
Trong nghi lễ này ,người được chọn đấm trâu nhát đầu tiên là một
già làng có uy tín, tiếp theo là những chàng trai khoẻ mạnh tay cầm dụ dài
vung lên đâm liên tiếp vào hông con trâu cùng tiểngeo hò của dân
làng.Nhát dụ đầu tiên không bao giờ được đâm vào tim khiến con trâu chét
ngay ma chỉ là nhát dụ danh dự làm phép .Sau đó, nhiều người đm nhiều

nhát làm chop con trâu lồng lộn, chạy nhảy, đau đớn , một hồi thì càng tốt
cùng với nhịp trống, tiếng chiêng, lẫn tiêng reo hò cuỉa dân làng vang tẻong
13
không gian của núi rừng làm cho ngày hội càng thêm tưng bừng, náo nhiệt
hẳn lên
Cuối cùng là một nhát dụ đâm thẳng vào tim con trâu, trâu chết đầu
quay về phía Gươl thì báo hiệu một điềm lành, giàng và thần linh sẽmphù
hộ cho dân làng một vụ mùa sắp đến đầy hứa hẹn, bôịi thu, mưa thuận gió
hoà , núi rừng yên ổn và dân làng không ai đau ốm chết chóc.
Trâu chêt cuũng là lúc tiếng chiêng tiêngs trống dừng hẳn và điệu
tung tugn dá dá chấm dứt.
5.5. những nghi lễ cuối cùng được tiến hành :
Một đoạn đuôi trâu được cắt ra, nhúng vaò máu trâu để làm phép
câu xin giàng, thần linh tiếp nhận con vật mà dân làng hiến tế
“Cầu xin giàng ,thần linh tiếp nhận con trâu mà dân làng cúng cho
giàng , cho thần linh ,mong giàng , thần linh tiêp nhận , cầu xin cho dân
làng có thóc lúa nhiều hơn, của cải nhiêu hơn”.
Người khấn vái, cầu nguyện cầm đuôi trâu có dnhs máu trâu ném lên
đỉnh cột buộc trâu ; nơi có chiếc phiễu dan bằng tre ném lên một lần lọt vào
thì cs nghĩa là giàng và thần linh đã tiếp nhận và đồng ý.
Các gia đình mang tấm dồ , tấm tút của nhà mình đem ra phủ lên mình con
trâu, lấy gaoj tẻ, rượu với hàm ý cho nó có của cải mang đi thế giói bên
kia.
Tiếng chiêng tiêng trống lại bắt đầu nổi lên theo nhịp điệu Đhâp,
pơrlư, để tiễn đưa linh hồn con trâu về với thế giơi loài ma.
Đám thanh niên tiến hành xẻ thịt trâu lam thức ăn cho dân làng và
cho khách.
Đầu trâu được cắt riêng ra để lam lễ treo đầu vào lúc lễ hội chấm
dứt.
Thịt trâu đựoc chia ra nhiều phần khác nhau: nướng luộc hko trong

nồi lớn , các thứ trên được đem lên Gươl làm thức ăn , thức nhắm rượu cho
các già làng và khách mời, còn lại được chia ra thành nhiều phần bằng
nhau, chia đều cho tất cả mọi người trong từng gia đình trong thôn không ai
thiếu phần kể cả đứa bé trong bụng chưa sinh ra.
Một phần thịt ngon được cắt ra thànhn những miếng dài dành biếu
cho khách khi ra về.
Tiếng chuyện trò rộn lên trên Gươl, những vị tiên bối tronh làng,
những người đàn ông trong thôn ,và những người khách tiếng cười tiếng
nói vui vẻ rôm rả.
Các mẹ các chj thì tất bật với công việc nấu nướng , giã gạo tiếp
khách, cùng vơi tiếng nói cười vui vẻ về công việc và ngày hội thật sự đên
vói mọi ngươi tiếng gọi nhau í ới. Không khí thật tưng bừng.
Từng mâm thiịt trâu thịt heo thịt gà được bưng lên Gươl cung với
những ché rượu cần được mang ra để trong Gươl.Những ché rượu được
những em gái trong làng rót ra chén, ra ống mời khách quý đến vơi ngày
hội của làng. Mọi người cùng nhau ăn uống trò chuyện với nha.Họ hát đối
14
cùng nhau nói về những chựên làm chưa tốt của dânlàng và bàn tính công
chuyện cho vụ mùa năm sau, không xảy ra những sai sot như năm nay và
cầu mong cho giàng sẽ tha thứ khôbng trách phạt sẽ cho dân lang được
mạnh cái tay, khoẻ cái chân để lên nương lên rẫy.
bếp lửa Gươl luôn đỏ , rươụ cần chưa cạn ,dân làng còn ăn uống trò
chuyện râm ran, hát bhơơ noóch, đem đến tiếng chiêng tiếng trống vag dội
cả môt vùng. nhiều chàng trai cô gái đến tuổi yêu đương thì mượn ngày hội
để tỏ tình với nhau., để rồi nhiều cặp vợ chông hình thành từ lễ hội này,
sống hạnh phúc và co những đưa con thât đáng yêu.
Kết thúc lễ hôi, khách mời được ăn uống no say,có dịp tâm tinh vơii
nhau mọi người gắn bó với nhau hơnvà được mang về những miếng thịt
trâu cho người thân, mọi người ra về trong niềm hân hoan và quyến luyến
nhau. Hẹn năm sau gặp lại.

15
CHƯƠNG III: PHƯƠNG HƯỚNG VÀ GIẢ PHÁP CHO LỄ
HỘI Ở ĐÔNG GIANG

I. Những kết quả đạt được và những mặt tồn tại trong lễ hôi ở
Đông Giang:
1. Những kết quả đạt được:
Ban lãnh đạo huyện đã ban hành những văn bản chỉ đạo hướng dẫn và
triển khai chương trình cụ thẻ cho lễ hội, đã tạo được sự ủng hộ của các
tầng lớp nhân dân, góp phần nâng cao dân trí và phát triển kinh tế của
vùng.
Xây dựng các thiết chế văn hoá ở cơ sở là vấn đề then chốt trong việc
thưch hiện quy chế hoạt động của lễ hội, Uỷ ban nhân dân tỉnh và huyện
đã vận dụng vào điều kiệnncụ thể của đại phương.
Bộ máy nganh văn hoá cơ bản đã được kiện toàn, can bộ đượ bố trí
tương đối đủ về số lượng và chất lượng.
Xây dựng các chương trình văn hoá phục vụ cho lễ hội, do nhân dân tự
tham gia hoạt động tại chỗ.
Kết hợp với sở VHTT tỉnh triển khai chương trình du lịch tại làng văn
hoá Bhơhôông tại xã Sông kôn và tại Nông Trường chè Quyết Thắng ở
xã Ba.
Quan tâm xây dựng cơ sở vật chất phục vụ lễ hội mhằm làm tốt việc
giáo dục tuyên truyền, nâng cao chất lượng hoạt động của các thiết chế
văn hoá hỗ trợ lễ hội.
2.Những tồn tại cần khắc phục:
Công tác tuyên truyền chưa tốt, công tác quản lí thanh tra, kiẻm tra còn
chưa quan tâm đúng mức, việưc tổ chức lễ hội còn nhiều bất cập, quá
phô trương lãn phí, nặng về tính sân khấu hoá.
Chưa khai thác tốt các tềm năng văn hoá dân gian truyền thống của địa
phương.

Việc tu bổ tôn tạo những giá trị văn hoá của người Cơtu còn chưa hợp lí
gây ảnh hưởng đến quá trình tôn tạo những giá trị truyền thống.
Lễ hội diễn ra trong thời gian dài gây tốn kém tiền của, gây lãng phí,
người đân thì chưa phát huy quyền làm chủ của mình trong lễ hội.
Do ảnh hưởng của mặt trái kinh tế thị trường đã làm cho bản sắc văn
hoá Cơtu ít nhiều bị mai mọt, lãng quên, và lai căng những giá trị khác
trrong trang phục truyền thống, tiếng nói, nghệ thuật như hát lí, dân ca
truyền thống Cơtu,… đây là một điều đáng lo ngại cho viẹc xây dựng
con người mới với những phẩm chất đạo đức và những phẩm chất tốt
đẹp của người Việt Nam, sống và làm việc theo hiến pháp và pháp luật.
II. Những phương hướng và giải pháp :
16
1. Những phương hướng:
Xây dựng mô hìnhlễ hội theo tiêu chí: xây dựng nếp sống văn minh, văn
hoá ở lễ hội, trong hoạt động làng văn hoá , thôn văn hoá.
Thực hiện quy chế trong giao tiếp ứng xử trong lễ hội.
Xây dựng nhiêù chương trình văn hoá phục vụ lễ hội, cho nhân dân, tự
tham gia, các hoạt động tại chỗ, khuyến khích việc tổ chức những lễ hội
truyền thống nhằm bảo tồn và phát huy những giá trị truyền thống của
đồng bào dân tộc nơi đây, tạo nên sự gắn kết cộng đồng.
Mất lễ hội là mất đi một phần lich sử truyền thống, vì vậy cần phải giữ
gìn, phục dựng phát huy vai trò của lễ hội trong đời sống cộng đồng.vai
trò của cơ quan quản lí rất quan trọng, cân phải phát huy để baot\r tồn
những giá trị truyền thống đó một cách cẩn trọng và có khoa học.
Đảng bộ huyện uỷ đã cụ thể hoá nghị quyết trung ương 5 khoá VIII
thanh chương trình hành động cụ thể của huyện với nội dung sau:
- Xây dựng con người mới với những phẩm chất đạo đức, đức tính tốt
đẹp của con người Việt Nam, sống và làm việc theo hiến pháp và
pháp luật.
- Giữ gìn và bảo tồn, phát huy, khôi nphục những bản sắc văn hoá của

người Cotu ngày thêm phong phú.
- Kiên quyết loại bỏ một số phong tục tập quán lạc hậu trong ma chay
cưới hỏi.
- Nâng cao trình độ dân trí và mức hưởng thụ văn hoá cho nhân dân
trong toàn huyện.
- Bằng nhiều hình thức phong phú, tuyên truyền, vân động giáo dục
làm chưyển biến nhận thức trong toàn dân.
2.Giải pháp:
Tuyên truyền cho nhân dân những thông tin về những giá trị văn hoá
truyền thống của địa phương để nhân dân nhận thức đầy đủ, sâu sắc nhất
những giá trị văn hoá và có cách nghĩ đúng hơn về những giá trị văn hoá
truyền thống.
Kiên quyêt loại bỏ những yếu tố không cần thiét cho lễ hội, cái gì cần
hạn chế thì hạn chế, cần loại bỏ thì loại bỏ, và những giá trị cần giữ lại
thì giữ lại, phát huy tối đa những giá trị của nó.
Tiếp tục xã hội hoá các hoạt động trong lễ họi nhằm động viên sức
người sức của để phát huy lễ hội nâng cao vai trò trchs nhiệm của nhà
nước trong quản lí văn hoá, hướng dẫn nghiệp vụ đối với các hoạt động
văn hoá.
Đẩy mạnh công tác tuyên truyền, nâng cao nhận thức của các cấp cấp
ngành, các tâng lớp nhân dân về mục đích ý nghĩa của lễ hội nhằm phát
huy trách nhiệm của toàn xã hội đối với việc đưa các hoạt động lễ hội
vào nề nếp, giữ gìn bản sắc văn hoá dân tộc.
17
Giải quyết hài hoà mối quan hệ giưa kinh tế và văn hoá trong tổ chức lễ
hội, xác định rõ hơn lợi ích cá nhân trong cộng đồng để nâng cao nhận
thức trách nhiệm của nhân dân về vật chất cũng như về sáng tạo văn hoá
C.PHẦN KẾT LUẬN
Việt nam, một quốc gia vó 54 dân tộc anh em cùng chung sống là
một sự thống nhất trong đa dạng, mỗi dân tộc mang trong mình một bản

sắc vă hoá hoá riêng lam phong phú thêm bản sắc văn hoá dân tộc, tạo
cho viêt nam là một bưc tranh sinh động nhiều màu sắc với nhiều lễ hội,
nhiều phong tục tập quán.Tuy nhiên xã hội hiên nay phát triển thì kéo
theo đó là những mặt trái cua cơ chế thị trường , những bản sắc văn hoá
ttruyền thống của các dân tộc đang dần mai mọt là điều không tránh
khỏi, lối sống mới đã vào tưng ngôi nhà của đồng bào thiếu số, nhưng
ngôi nhà Rông hay nhà Gươl … truyền thống , thậm chí những đúa trẻ
sinh ra không biết đến những giá trị văn hoá truyền thống của dân tộc
mình là gì? Lam sao chúng ta không lo ngại cơ chứ, đây là mọt điều
đáng báo động cho toàn xã hội hiện nay.
Văn hoá cơ tu cũng nằm trong nền văn hoá chung ở việt nam, đó
là những giấ trị vật chất và tinh thần được sáng tạo trong quá trình đấu
tranh sinh tồn , tạo dựng cuộc sống của người cơ tu, đồng bào cơ tu
cũng có những nét văn hoá tương tự như những đồng bào dân tộc khác
trên đất nước này nhưng trong phong tục tập quán trong nếp ăn nếp nghĩ
của đồng bào cuo nhữnh điều khác biệt nhất là trong lễ hội truyền thống
hay trong nhữn điệu hát lí , dân ca … điều này đã góp phần làm phpng
phú thêm bản sắc văn hoá của dan tộc ta.
Đến với ngưòi cơ tu bạn sẽ được thấy những điệu tung tung, dá dá
uyển chuyển trong những lễ hội truyền thống như: lễ hội mừng lúa mới ,
lễ hội đâm trâu, ……phản ánh rõ nét những truyền thống, đạo lí và tư
duy phong phú của người cơ tu cung như phần nào hiểu đựôc hong tuc
tập quán của đồng bào nơi đây.
Những nét riêng biệt v ủa đồng bào cơtu không phỉa ngãu nhiên mà
có mà đò là một quá trình đấu tranh sinh tồn, là sự ràng buộc máu thịt,
lòng tự hào và ngưỡng mộ về truyền thống cội nguồn thiêng liêng, nơi
chôn nhau cắt rốn của họ qua những điệu hát lí, chò chấp hoặc qua
nhưng vật truền thống như xơnul, baboach….
Giá trị văn hó cơtu là một ho tàng truyền thống quý báu đáng trrn
trọng và có vị trí hết sức quan trọng trong nền văn hoá của cộng đồng

các dân tộc việt nam nhưng hiện nay những giá trị đó đang đứng trước
nguy cơ mai mọt dần, chúng ta phải có những biện pháp bảo tồn và phát
huy nhưng giá trị văn hoá này
Lễ hội mừng lúa mới của người cơtu nằm trong hệ thống lễ hội ở
Đông Giang, nhưng qua lễ hội này chúng ta thaays rõ nhất bản sắc văn
18
hoá của người cơtu, lễ hội không chỉ là lễ hội mà ở đay còn phản aný rõ
được lối sống của người cơtu vùng đại ngàn trương sơn này. Sự gắn kết
cộng đồng tất cả ình thân ái thể hiện rõ trong lễ hội này, chúgn ta cần
phát huy những giá trị văn hoá có trong lễ hôị,cũng như những giá trị
văn hóa của người cơtu.
19
C. PHẦN PHỤ LỤC:
SỰ TÍCH TRỐNG CHIÊNG
20

×