Tải bản đầy đủ (.docx) (23 trang)

Cơ sở lý luận và thực tiễn đẩy mạnh công nghiệp hóa hiện đại hóa gắn với kinh tế tri thức ở việt nam và coi kinh tế tri thức là nhân tố quan trọng quyết định nền kinh tế 1

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (207.97 KB, 23 trang )

Bài thảo luận:
CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN ĐẨY MẠNH CƠNG NGHIỆP HĨA, HIỆN ĐẠI
HĨA GẮN VỚI KINH TẾ TRI THỨC Ở VIỆT NAM VÀ COI KINH TẾ TRI THỨC
LÀ NHÂN TỐ QUAN TRỌNG QUYẾT ĐỊNH NỀN KINH TẾ.

Nhận thức rõ vai trò quan trọng của nền kinh tế tri thức và con đường phát triển
tất yếu của đất nước ta, Văn kiện Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ IX đã đề ra: “Con
đường cơng nghiệp hóa, hiện đại hiện đại hóa của nước ta cần và có thể rút ngắn thời
gian, vừa có những bước tuần tự, vừa có bước nhảy vọt. Phát huy những lợi thế của đất
nước, tận dụng mọi khả năng để đạt trình độ công nghệ tiên tiến, đặc biệt là công nghệ
thông tin và công nghệ sinh học, tranh thủ ứng dụng ngày càng nhiều hơn, ở mức cao
hơn những thành tựu mới về khoa học công nghệ, từng bước phát triển kinh tế tri thức.
Phát huy nguồn trí tuệ và sức mạnh tinh thần của người Việt Nam” nhằm đạt mục tiêu:
“Dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ và văn minh”. Văn kiện Đại hội Đảng
toàn quốc lần thứ X cũng chỉ rõ: Đẩy mạnh cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa gắn với phát
triển kinh tế tri thức.
1, Sự hình thành kinh tế tri thức và những đặc trưng cơ bản của nền kinh tế tri
thức:
Sự phát triển kinh tế trong lịch sử nhân loại đả trải qua những giai đoạn khác
nhau. Trước hết là kinh tế săn bắn và hái lượm tồn tại hàng trăm nghìn năm. Tiếp đó là
kinh tế nơng nghiệp kéo dài khoảng mười nghìn năm. Rồi đến kinh tế cơng nghiệp xuất
hiện trước tiên ở Anh vào khoảng giữa thế kỹ XVIII. Sau đó là kinh tế tri thức (lúc đầu
thường được gọi là kinh tế thông tin) đã ra đời ở Mỹ vào đầu năm 1970, lan rộng sang
những nước công nghiệp phát triển và ngày nay ở cả các nước công nghiệp mới (NICs).
Những năm gần đây, trong nhiều cơng trình nghiên cứu, hội thảo quốc tế và
trong nhiều văn bản chiến lược phát triển của các quốc gia, người ta dùng nhiều tên gọi
khác nhau cho các giai đoạn phát triển mới của nền kinh tế tri thức: Để nói lên vai trò

1



quyết định của công nghệ thông tin trong phát triển kinh tế, người ta gọi là”Information
economy – Kinh tế thông tin”, “network economy – Kinh tế mạng”, “Digital economy –
Kinh tế số”. Để nói lên động lực chủ yếu của nền kinh tế là sự học tập suốt đời của mọi
người, người ta gọi là “learning economy – Kinh tế học hỏi”. Để nói lên vai trị quyết
định của tri thức và công nghệ đối với phát triển kinh tế, người ta gọi là “Knowledge
based economy – Kinh tế dựa vào tri thức”, “Knowledge driven economy – Kinh tế dẫn
dắt bởi tri thức”, “Knowledge economy – Kinh tế tri thức”. Tên gọi chung, không xác
định nội dung là “New economy – Kinh tế mới”. Trong số những tên gọi trên thì tên gọi
thường dùng nhiều nhất là “Kinh tế tri thức” đã được Tổ chức hợp tác và phát triển
kinh tế (ODEC) chính thức dùng từ năm 1996. Theo Bộ Thường mại và công nghiệp
Anh: “Một nền kinh tế được dẫn dắt bởi tri thức là một nền kinh tế mà việc sản sinh và
khai thác tri thức có vai trị nổi trội trong q trình tạo ra của cái”. Theo GS-VS. Đặng
Hữu: “Kinh tế tri thức là nền kinh tế trong đó sự sản sinh ra, phổ cập và sử dụng tri
thức giữ vai trò quyết định đối với sự phát triển kinh tế, tạo ra của cải, nâng cao chất
lượng cuộc sống”.
So sánh khái quát các thời đại kinh tế

Kinh tế nông

Kinh tế công nghiệp

Kinh tế tri thức

nghiệp

Đầu vào của sản Lao
xuất

động, Lao động, đất đai, Lao động, đất đai, vốn công


đất đai, vốn.

vốn,

cộng

nghệ nghệ, thiết bị, tri thức, thơng

thiết bị

Các

q

trình Trồng

tin.

trọt, Chế tạo, gia cơng.

chủ yếu.

chăn ni

Đầu ra của SX

Lương thực .

Thao tác, điều khiển, kiểm
soát.


Của cải, hàng hoá Sản phẩm đáp ứng nhu cầu

2


tiêu dùng, các xí ngày càng cao của cuộc sống,
nghiệp, nền công công nghiệp, tri thức, vốn tri
nghiệp.

Cơ cấu kinh tế

Nông nghiệp Công
là chủ yếu

thức.

nghiệp

và Các ngành kinh tế tri thức

dịch vụ là chủ yếu

thống trị.

Công nghệ chủ Sử dụng súc Cơ giới hố, cơ khí Cơng nghệ cao, điện từ hoá,
yếu

thúc


đẩy vậy, cơ giới hoá, hoá học hoá, tin học hố, siêu xa lộ thơng

phát triển

hố đơn giản

điện

khí

hố, tin, thực, ảo…

chun mơn hố.

Cơ cấu xã hội

Nơng dân

Cơng nhân

Cơng nhân tri thức

Đâu tư cho R&D

< 0,3% GDP

1-2% GDP

> 3% GDP


> 30%

> 80%

2-4% GDP

6-8% GDP

Lớn

Rất lớn

Tỷ lệ đóng góp < 10%
của KHCN cho
tăngtrưởng kinh
tế

Đầutư cho giáo < 1% GDP
dục

Tầm quan trọng Khơng
của giáo dục

lớn

Tỉ lệ văn hóa Tỷ lệ mù chữ Trung học
trung bình

cao


3

Trên trung học


- Trong nền kinh tế tri thức vẫn cịn nơng nghiệp và công nghiệp nhưng hai
ngành này chiếm tỷ lệ thấp, chiếm đa số là các ngành kinh tế dựa vào tri thức, dựa vào
các thành tựu mới nhất của khoa học và công nghệ. So sánh khái quát các thời đại kinh
tế trong bảng trên đây cho chúng ta thấy rõ sự khác biệt giữa nền kinh tế tri thức vớí
các nền kinh tế khác. Có thể nói kinh tế tri thức la một giai đoạn phát triển mới, cao hơn
ra đời sau và kế thừa những thành tựu của nền kinh tế cơng nghiệp với vai trị sử dụng
tri thức trong tăng trưởng kinh tế ngày càng trở nên quan trọng. Tri thức đã trở thành
nhân tố hàng đầu của sản xuất, vượt lên trên các nhân tố sản xuất cổ truyền như vốn và
lao động… Đây chính là cốt lõi của nền kinh tế tri thức. Loại hình kinh tế trước đây, lấy
cơng nghiệp truyền thống làm nền tảng, lấy nguồn tài nguyên thiên nhiên thiếu thốn và
ít ỏi làm chỗ dựa để phát triển sản xuất. Cịn kinh tế tri thức lấy cơng nghệ cao làm lực
lượng sản xuất, lấy trí lực – nguồn tài nguyên vô tận làm chỗ dựa chủ yếu, lấy công
nghệ thông tin làm nền tảng. Đó là nền kinh tế mà khoa học công nghệ trở thành lực
lượng sản xuất trực tiếp, là yếu tố quyết định hàng đầu việc sản xuất ra của cải, có sức
cạnh tranh và triển vọng phát triển to lớn.
Những đặc trưng cơ bản kinh tế tri thức:
Thứ nhất, chuyển dịch cơ cấu kinh tế và lao động
Trong nền kinh tế công nghiệp, sản xuất dựa vào sự tổ chức sản xuất hàng loạt,
quy chuẩn hoá, thì nền kinh tế tri thức được tổ chức trên cơ sở sự sản xuất linh hoạt,
hàng hoá và dịch vụ dựa vào công nghệ cao. Đây cũng là kinh tế văn phòng (người trực
tiếp sản xuất ra sản phẩm trong các nhà máy ít đi, người làm việc ở văn phòng nhiều
lên). Hiện nay ở Mỹ 93 triệu người lao động (80% lực lượng lao động) không phải giành
thời gian để làm ra các vật phẩm, mà họ chuyển sang làm các công việc khác như di
chuyển các vật phẩm, xử lý thông tin, cung cấp các dịch vụ cho người dân. Trong các
nước OECD hiện nay 60-70% lực lượng lao động là công nhân tri thức. Các công ty

công nghệ ngày càng quan trọng. Tỷ lệ giá trị gia tăng công nghiệp công nghệ cao trong
công nghiệp chế tạo đang tăng nhanh. Hiện nay ở Mỹ và nhiều nước phát triển, tỷ lệ đó
đạt khoảng 25-30%.

4


Thứ hai, sản xuất cơng nghệ trở thành loại hình sản xuất quan trọng nhất, tiên tiến
nhất, tiêu biểu nhất của nền kinh tế tri thức
Các ngành kinh tế tri thức đều phải dựa vào công nghệ mới để đối mới và phát
triển. Các doanh nghiệp đều có sản xuất cơng nghệ, đồng thời có nhiều doanh nghiệp
chun sản xuất cơng nghệ, có thể gọi là doanh nghiệp tri thức, trong đó khoa học và
sản xuất được nhất thể hố, khơng cịn phân biệt phịng thí nghiệm với cơng xưởng,
những người làm việc trong đó là cơng nhân tri thức, họ vừa nghiên cứu vừa sản xuất.
Vì sản xuất cơng nghệ có ý nghĩa quyết định như thế nên người ta chạy đua vào đầu tư
mạo hiểm, tức đầu tư cho nghiên cứu triển khai nhằm tạo ra công nghệ mới. Năm 1998
ở Mỹ đầu tư mạo hiểm cho phát triển Internet hơn 3,5 tỷ USD, (năm 1997 là 2,1 tỷ, năm
1996 là 1,1 tỷ), và riêng quý II năm 1999 đã đầu tư 3,8 tỷ USD. Đó là nguồn gốc làm giàu
lên rất nhanh chóng của các doanh nghiệp tri thức.
Thứ ba, việc ứng dụng công nghệ thông tin (CNTT) rộng rãi trong mọi lãnh vực và thiết
lập mạng thông tin đa phương tiện phủ khắp nước, nối với hầu hết các tổ chức, các gia đình
Thơng tin trở thành tài nguyên quan trọng nhất. Mọi người đều có nhu cầu thông
tin và được truy nhập vào các kho thơng tin câ(n thiết cho mình. Mọi lĩnh vực hoạt động
trong xã hội đều có tác động của CNTT để nâng cao năng suất, chất lượng, hiệu quả.
Cũng chính vì vậy, nhiều người gọi nền kinh tế tri thức là nền kinh tế số hay kinh tế
mạng. Thương mại điện tử, thị trường ảo, tổ chức ảo, xí nghiệp ảo, làm việc từ xa, được
thiết lập, làm cho các hoạt động sản xuất kinh doanh rất nhanh nhạy, linh hoạt, khoảng
cách bị xố dần, ý nghĩa của vị trí địa lý giảm đi.
Thứ tư, các doanh nghiệp vừa cạnh tranh vừa hợp tác để phát triển
Trong cùng một lĩnh vực, khi một công ty thành công hơn, lớn mạnh hơn, thì

cơng ty khác phải tìm cách sáp nhập vào hoặc chuyển hướng khác ngay, nếu không
muốn bị phá sản. Gần đây chúng ta thấy nhiều các công ty khổng lồ hàng chục, hàng
trăm tỷ USD “mua” nhau, trở thành những tập đoàn chi phối cả thế giới. Người ta lo
ngại sự tập trung này dẫn tới độc quyền và thủ tiêu cạnh tranh. Mặt khác các công ty
khổng lồ chia ra các công ty con trên khắp thế giới, và các công ty con được quyền chủ

5


động nhiều hơn để có thể linh hoạt, thích nghi với sự đổi mới. Cho nên mua bán để
thành những cơng ty khổng lồ mà thực tế thì lại là sự chia nhỏ.
Thứ năm , xã hội thông tin thúc đẩy dân chủ hố
Thơng tin đến với mọi người, mọi người đều dễ dàng truy cập đến các thông tin
cần thiết. Do đó đặt ra vấn đề là phải dân chủ hoá các hoạt động và tổ chức điều hành
trong xã hội, người dân nào cũng có thể được thơng tin kịp thời về các quyết định của
nhà nước, cơ quan nhà nước, tổ chức có liên quan đến họ và họ có thể có ý kiến ngay
nếu thấy khơng phù hợp. Khơng thể bưng bít thơng tin được. Cách tổ chức quản lý cũng
sẽ thay đổi nhiều. Trong thời đại thơng tin, mơ hình chỉ huy tập trung, có đẳng cấp là
khơng phù hợp, mà phải theo mơ hình phi đẳng cấp, phi tập trung, mơ hình mạng,
trong đó tận dụng các quan hệ ngang, không cần đi qua các nút xử lý trung gian. Đó là
mơ hình tổ chức dân chủ, nó linh hoạt trong điều hành, dễ thích nghi với đổi mới, khơi
dậy sự năng động sáng tạo của mọi người.
Thứ sáu, xã hội thông tin là một xã hội học tập
Giáo dục rất phát triển. Mọi người đều học tập, học thường xuyên, học ở trường
và học trên mạng, để không ngừng trao đổi kỹ năng, phát triển trí sáng tạo. Khơng học
tập thường xun thì không phát triển được tri thức. Đầu tư cho giáo dục và cho khoa
học chiếm tỷ lệ rất cao. Nói chung đầu tư vơ hình (cho con người, cho giáo dục, khoa
học, văn hoá, xã hội …) cao hơn đầu tư hữu hình (đầu tư xây dựng cơ sở vật chất kỹ
thuật). Phát triển con người trở thành nhiệm vụ trung tâm của xã hội. Vốn con người là
yếu tố then chốt nhất tạo ra giá trị cho doanh nghiệp tri thức.

Thứ bẩy, vốn quý nhất trong nền kinh tế tri thức là tri thức
Tri thức là nguồn lực hàng đầu tạo sự tăng trưởng không phải như các nguồn lực
khác bị mất đi khi sử dụng, tri thức và thơng tin có thể có được chia sẻ và trên thực tế lại
tăng lên khi sử dụng. Nền kinh tế tri thức là một nền kinh tế dư dật chứ không phải
khan hiếm. Quyền sở hữu đối với tri thức trở thành quan trọng nhất, hơn cả sở hữu vốn,
tài nguyên, đất đai. Ai chiếm hữu được nhiều tài sản trí tuệ hơn, người ấy thắng. Pháp

6


luật về sỡ hữu trí thức trở thành nội dung chủ yếu trong quan hệ dân sự cũng như trong
thương mại quốc tế.
Thứ tám, sự đổi mới thường xuyên là động lực chủ yếu nhất thúc đẩy sự phát triển
Công nghệ đổi mới rất nhanh, vịng đời cơng nghệ rút ngắn; quá trình từ lúc ra
đời, phát triển rồi tiêu vong của một sản phẩm, lĩnh vực sản xuất, hay một cơng nghệ
trở nên rất ngắn. Có khi từ lúc ra đời đến tiêu vong chỉ mấy năm, thậm chí mấy tháng.
Trong nền kinh tế tri thức có nhiều điều tưởng như nghịch lý: của cải làm ra là dựa chủ
yếu vào cái chưa biết; cái đã biết khơng cịn giá trị nữa; tìm ra cái chưa biết, đó là tạo ra
giá trị, mơi trường để tìm ra cái chưa biết là mạng thông tin. Mạng thông tin, thực tế ảo
… gợi ra các ý tưởng mới, những giải pháp mới đáp ứng các nhu cầu mới; khi phát hiện
ra cái chưa biết thì cũng tức là loại trừ cái đã biết. Cái cũ mất đi, thay thế bằng cái mới;
nền kinh tế - xã hội luôn đổi mới, cái mời ngày càng nhiều. Đó là đặc trưng của sự phát
triển, sự tiến hoá của xã hội sắp tới, phát triển từ cái mới chứ không phải từ số lượng lớn
dần lên. Sản phẩm có giá trị sử dụng càng cao thì giá bán rẻ, thậm chí nhiều phần mềm
cơ bản được cho khơng, (để rồi sau đó nâng cao hơn một ít thì bán rất đắt), sản phẩm
càng nhiều người dùng thì giá trị sử dụng càng cao. Hiện nay vàng bạc hiếm thì q,
song ở thời đại thơng tin, cái được dùng nhiều nhất là cái có giá trị cao. Ví dụ máy Fax,
nếu có ít thì khơng có tác dụng nhưng khi có đến hàng nghìn máy để liên lạc với nhau
thì lúc đó mới có giá trị. Mạng cũng vậy, cò nhiều người vào, cùng sử dụng thì lúc ấy
nó mới có giá trị.

Thứ chín, nền kinh tế tri thức là nền kinh tế toàn cầu hố
Thị trường và sản phẩm mang tính tồn cầu, một sản phẩm sản xuất ở bất kỳ nơi
nào cũng có thể nhanh chóng có mặt khắp nơi trên thế giới; rất ít sản phẩm do một một
nước làm ra, mà phần lớn là kết quả của sự tập hợp các phần việc được thực hiện từ
nhiều nơi trên thế giới, kết quả của cơng ty ảo, xí nghiệp ảo, làm việc từ xa . Q trình
tồn cầu hố cũng là q trình chuyển sang nền kinh tế tri thức, tồn cầu hoá và kinh tế
tri thức thúc đẩy nhau, gắn quyện với nhau, là hai anh em sinh đôi của cuộc cách mạng
khoa học cơng nghệ hiện đại. Tồn cầu hoá một mặt tạo thuận lợi cho sự phát triển
nhanh kinh tế tri thức ở các nước, nhưng đồng thời cũng đặt nhiều thách thức rủi ro.

7


Cho tới nay thì khoảng cách giàu nghèo đang tăng nhanh, do chênh lệch nhiều về tri
thức, nếu rút ngắn được khoảng cách về tri thức thì sẽ thu hẹp được khoảng cách giàu
nghèo.
Thứ mười, sự thách thức vể văn hố
Trong nền kinh tế tri thức – xã hội thơng tin , văn hố có điều kiện phát triển
nhanh và văn hoá là động lực thúc đẩy sự phát triển kinh tế xã hội. Do thông tin, tri
thức bùng nổ, trình độ nền văn hố nâng cao, nội dung và hình thức các hoạt động văn
hố phong phú đa dạng. Giao lưu văn hoá hết sức thuận lợi, tạo điều kiện cho các nền
văn hố của mình. Nhưng mặt khác các nền văn hoá đứng trước những rủi ro rất lớn: bị
pha tạp, dễ mất bản sắc, dễ bị các sản phẩm văn hố độc hại tấn cơng phá hoại, mà
khơng có cách gì ngăn chặn được.
2. Khái qt chiến lược phát triển kinh tế tri thức của một số nước trên thế giới
và những bài học kinh nghiệm cho việt nam:

Chiến lược quốc gia

Các chính sách ưu tiên


Biện pháp thúc đẩy

Mỹ: Siêu xa lộ thông -Phát triển Internet thế hệ hai, - Chuyển đổi từ một chiến
tin

ba, phát triển các dịch vụ, ứng lược các mạng quốc gia diện
dụng các nguyên tắc cụ thể rộng được gắn kết qua lại,
liên quan đến các dịch vụ sang tập trung vào Internet
chung và kết nối các tổ chức y như là một mạng xương
tế và giáo dục.

sống. Các phát triển chủ yếu
được

thơi

thúc

bởi

thị

trường với một số tài trợ
của chính phủ, đặc biệt là về
R&D.

EU : xã hội thơng tin

- Nối mạng có khả năng vận - Cách tiếp cận then chốt là

hành qua lại và phát triễn kết đào tạo sự cạnh tranh trong

8


cấu hạ tầng xuyên Châu Au; các thị trường ; thúc đẩy
tập tung vào các dự án thử R&D xuyên quốc gia là
nghiệm



thúc

đẩy

các quan trọng. Luật pháp bảo

chương trình nghiên cứu của mật và baỏ đảm an tồn sẽ
các cơng ty• xuyên quốc gia; giúp vượt qua các nhận
đẩy mạnh sự hiểu biết IT của thức tiêu dùng tiêu cực.
các SME và xây dựng các
chiến lược kinh doanh quốc
tế.

Nhật Bản

- Phát triễn kết cầu hạ tầng và - Lịch trình chính sách có
áp dụng cạnh tranh nhằm đổi trọng tâm là tái cơ cầu

Thơng tin hố xã hội,

kết cầu hạ tầng liên
lạc, thông tin

hướng sự suy nghỉ, giảm tập nippon,

telephone



trung kinh tế ở thành thị và telegaph trong suốt những
hỗ trợ phát triễn cho ngành năm 90. Cuối những năm
công nghệ thông tin đại 1990, sự phát triễn kết cấu
chúng; tập trung vào mở rộng hạ tầng đã chuyển đến phát
dải phát sóng, tài trợ chính triễn Internet và các dịch vụ
phủ cho R&D và các nghiên đa

phương

tiện

truyền

cứu thử nghiệm; thúc đẩy sử thơng, các dự án của chính
dụng Internet tồn cacao

phủ về điện tử, các khu
bn bán ảo và bảo đảm an
tồn thanh tốn.

Singapore:


- Kết cấu hạ tầng cho phép - Chính phủ có vai trị lớn
phát triễn dịch vụ và các ứng dựa trên kế hoạch dài hạn và

Hịn đảo trí tuệ

dụng; thu hút các hoạt động Singapore Telecom là tác
giá trị gia tăng xuyên quốc gia nhân chính. Việc áp dụng
từ nước ngồi; tập trung vào cạnh tranh khơng có vai trị
các dự án và thử nghiệm quan trung tâm. Phát triễn dịch
trọng . Lịch trình bao gồm các vụ tập trung vào các ứng

9


thời hạn mục tiêu cho phát dụng của chính phủ. Mạng
triễn mạng cáp quang và các Internet

diện

rộng

dự án đầu tư. Khung pháp lý Singapore One về các dịch
được dẫn dắt bởi chính phủ vụ thương mại và dịch vụ
điện tử.

chính phủ được kết nối đến
mọi nhà. Thử nghiệm của
chính phủ về thẻ độc giả
thơng minh.


Malaysia:

- Các chính sách cơng nghệ - Có một lịch trình với sự hổ
thơng tin và truyền thông trợ mạnh mẽ của thủ tướng,

Xã hội giàu thông tin

(ICT) là một phần của một thu hút sự chú ý đáng kể
chương trình thơng tin rộng của quốc Tế.
hơn. Kết cấu hạ tầng siêu
hành lang truyền thông đa
phương tiện.

( Trích nguồn: CIRCIT tại RMIIT và Chương trình về chính sách thơng tin và các
nguồn lực, 1998 (Northfield 1999)
Những bài học kinh nghiệm về phát triển kinh tế tri thức đối với việt nam:
Thứ nhất: Phát triển kinh tế tri thức rất cần tư duy đổi mới để nhận thức được
tính kế thừa và sự khác biệt của nền kinh tế này so với nền kinh tế hàng hóa thông
thường đã và đang tồn tại trong lịch sử. Để theo kịp các nước Châu Âu và Mỹ về trinh
độ phát triển công nghệ, các nước Châu Á cần phải đổi mới tư duy kinh tế, đổi mới thể
chế kinh tế hiện hành và đổi mới công nghệ. Vấn đề không chỉ đơn thuần là vốn và công
nghệ mà trước hết phải bắt đầu từ cách nghĩ của từng người dân, giới kinh doanh đến
đội ngũ những người làm công tác khoa học và hoạch định chính sách. Cuộc cách mạng
thông tin không chỉ là cuộc cách mạng về công nghệ, máy móc, kỹ thuật, phần mềm hay
tốc độ, mà còn là cuộc cách mạng về quan niệm đổi mới tư duy.

1
0



Thứ hai: Để thúc đẩy tăng trưởng kinh tế trong thời đại kinh tế tri thức thì việc
đầu tiên và quan trọng nhất là phải hình thành nguồn nhân lực, khuyến khích và bồi
dưỡng nhân tài, lấy con người làm trung tâm của sự phát triển. Trong nền kinh tế tri
thức thì khả năng sáng tạo tri thức, trình độ tiếp cận và vận dụng kiến thức tiên tiến để
sản xuất các giá trị vật chất và tinh thần mang ý nghĩa quyết định đối với sự phát triển
kinh tế. Tất cả những yếu tố này đều gắn chặt với con người và do con người quyết
định, nên nhiệm vụ giáo dục và đào tạo nguồn nhân lực là rất quan trọng, nó hướng
đến mục tiêu biến tri thức thành kỹ năng, thành trí lực, dân trí thành nhân lực để phát
triển công nghệ thông tin và thu hẹp khoảng cách về kỹ thuật số. Việc triển khai kế
hoạch đào tạo nguồn nhân lực của các nước tập trung chủ yếu vào các lĩnh vực như:
Tăng cường đầu tư cho giáo dục, xúc tiến cải cách, hiện đại hóa hệ thống giáo dục để có
thể hình thành cho xã hội một nguồn nhân lực có chất lượng cao. Gắn kết một cách chặt
chẽ giữa công tác nghiên cứu khoa học tại các viện trường đối với các trung tâm dạy
nghề và với doanh nghiệp; tăng đầu tư cho công tác R&D gắn giáo dục và đào tạo với
việc làm, giữa lý thuyết với thực tiễn. Tăng đầu tư cho kết cấu hạ tầng kỹ thuật, đặc biệt
là hạ tầng thông tin. Khuyến khích tính chủ động, sáng tạo và tự chịu trách nhiệm trong
cơng việc, tạo dựng bầu khơng khí dân chủ, cởi mở, sẵn sàng tiếp nhận mọi ý tưởng
mới về khoa học - cơng nghệ, có chế độ đãi ngộ nhân tài một cách xứng đáng. Ưu tiên
phát triển các ngành công nghệ cao, đặc biệt là IT và coi chúng là động lực chủ yếu của
tăng trưởng kinh tế. Đây là hướng đi mà hầu hết các nước đều tuân thủ nhằm tạo cơ sở
khoa học cho nền kinh tế tri thức.
Thứ ba: Tiến hành cải cách kinh tế – xã hội theo hướng tự do hóa và cởi mở hơn.
Kinh nghiệm thành công và thất bại của các nước cho thấy nền kinh tế tri thức khơng
chỉ địi hỏi phải được đầu tư thích hợp mà còn phải tạo dựng được một nhà nước pháp
quyền, một mơi trường chính trị – xã hội dân chủ, cho phép mọi người dân có thể bày tỏ
quan điểm và chính kiến, cũng như các ý tưởng sáng tạo của mình, mơi trường pháp lý
minh bạch, ổn định khơng bị thay đổi một cách tùy tiện. Theo Eisuke Sakakibara: “Để
phát triển kinh tế kỹ thuật số, vốn là nhân tố quyết định, nhưng cũng không thể thiếu
điều kiện tiên quyết là nhà nước pháp quyền thực sự dân chủ và một nền kinh tế thị

trường cạnh tranh lành mạnh, cùng tri thức và công nghệ”.

1
1


Thứ tư: Lấy doanh nghiệp làm chủ thể của các chương trình đầu tư nghiên cứu
và triển khai. Phần lớn các nghiên cứu và triển khai nhằm thương mại hóa việc sản xuất
đều chuyển về cho các doanh nghiệp đảm nhận.
Thứ năm: Muốn tiến nhanh đến nến kinh tế tri thức, phải nhanh chóng hội nhập
sâu vào nền kinh tế thế giới, sẳn sàng đương đầu với những thách thức, tận dụng lợi thế
so sánh tương đối về các nguồn lực để thực hiện chiến lược đuổi kịp và phát triển bền
vững. Ngày nay, tồn cầu hóa là xu hướng tất yếu, nên mọi nền kinh tế đều tồn tại trong
sự ràng buộc lẫn nhau, các dịng di chuyển thơng tin, tài chính hàng hóa, dịch vụ…
đang diễn ra với tốc độ nhanh chóng. Bên cạnh đó, các nước đi sau nếu có chiến lược
phát triển đúng đắn có thể tranh thủ được mọi thời cơ do thời gian mang lại, khơi dậy
mọi tiềm năng, tập trung mọi nguồn lực để phát triển thành công nền kinh tế tri thức.
3. Cơ sở lý luận và thực tiễn, nội dung, định hướng đẩy mạnh cơng nghiệp hóa,
hiện đại hóa gắn với kinh tế tri thức ở nước ta trong những năm tới:
Đại hội X xác định trong những năm tới cần “ Tranh thủ cơ hội thuận lợi do bối
cảnh quốc tế tạo ra và tiềm năng, lợi thế của nước ta để rút ngắn quá trình CNH, HĐH
đất nước theo định hướng XHCN, gắn với phát triển kinh tế tri thức, coi kinh tế tri thức
là yếu tố quan trọng của nền kinh tế và CNH, HĐH” [ 2, tr 87 ]. Đại hội IX nhận định:
trong thế kỷ XXI “Khoa học và cơng nghệ sẽ có những bước tiến nhảy vọt. Kinh tế tri
thức có vai trị ngày càng nổi bật trong qúa trình phát triển lực lượng sản xuất” [ 3, tr
13 ]. Đảng ta xác định “ Con đường CNH, HĐH ở nước ta cần và có thể rút ngắn thời
gian…, vừa có những bước tuần tự, vừa có những bước nhảy vọt. Phát huy những lợi
thế của đất nước, tận dụng mọi khả năng để đạt trình độ cơng nghệ tiên tiến, đặc biệt là
cơng nghệ tin học và công nghệ sinh học, tranh thủ ứng dụng ngày càng nhiều hơn, ở
mức cao hơn và phổ biến hơn những thành tựu mới về khoa học công nghệ, từng bước

phát triển kinh tế tri thức” [ 3, tr 25 ] . Cơ sở lý luận và thực tiễn của của chủ trương
này có thể tóm tắt: một là, nước ta là nước nghèo và kém phát triển, nếu không thực
hiện CNH, HĐH gắn với kinh tế tri thức, chúng ta khơng thể thốt khỏi đói nghèo, kém
phát triển. Hai là, thế giới ngày nay với đặc điểm nổi bật là cuộc cách mạng KH –CN
phát triển như vũ bão và xu hướng tịan câù hóa kinh tế diễn ra hết sức mạnh mẽ, nếu
không thực hiện CNH, HĐH gắn với kinh tế tri thức, chúng ta không thể đuổi kịp các

1
2


nước và hội nhập với thế giới. Ba là, thực hiện CNH, HĐH gắn với kinh tế tri thức ở
nước ta nhằm thực hiện mục tiêu xây dựng CNXH với sáu đăc trưng mà một trong
những đặc trưng là : có một nền kinh tế phát triển cao, dựa trên lực lượng sản xuất hiện
đại và chế độ công hữu về các tư liệu sản xuất chủ yếu. Bốn là, thực tiễn thực hiện
CNH, HĐH gắn với kinh tế tri thức ở nước ta những năm qua, đã đạt được những
thành tưụ to lớn , chứng tỏ sự đúng đắn trong đường lối cuả Đảng ta và là tiền đề để
chúng ta thực hiện những bước tiếp theo.
Nội dung chủ yếu của qúa trình này là:
-Phát triển mạnh các ngành và các sản phẩm kinh tế có giá trị gia tăng cao dựa
nhiều vào tri thức; kết hợp việc sử dụng nguồn vốn tri thức của con người Việt Nam với
tri thức mới nhất của nhân loại.
- Coi trọng cả số lượng và chất lượng tăng tưởng kinh tế trong mỗi bước phát
triển của đất nước ở từng vùng,từng địa phương, trong từng dự án kinh tế – xã hội.
- Xây dựng cơ cấu kinh tế hợp lý, hiện đại theo ngành, lĩnh vực và lãnh thổ.
- Giảm chi phí trung gian , nâng cao năng suất lao động của tất cả các ngành, lĩnh
vục, lãnh thổ nhất là những ngành có sức cạnh tranh cao.
- Để thực hiện những nội dung trên, Đại hội X định hứơng phát triển 6 ngành và
lĩnh vực chủ yếu của qúa trình này trong những năm tới là:
- Đẩy mạnh CNH, HĐH nông nghiệp, nông thôn, giải quyết đồng bộ các vấn đề

nông nghiệp, nông thôn, nông dân. Chuyển dịch mạnh cơ cấu kinh tế nơng thơn theo
hứơng tạo ra gía trị gia tăng ngày càng cao, gắn với công nghiệp chế biến và thị trường;
thực hiện cơ khí hố, điện khí hố,thuỷ lợi hóa, đưa nhanh tiến bộ khoa học kỹ thuật và
công nghệ sinh học vào sản xuất , nâng cao năng suất , chất llượng hiệu qủa và sức
cạnh tranh, phù hợp với từng vùng , từng địa phương. Chuyển dịch cơ cấu lao động ở
nông thôn, tăng nhanh tỉ trọng lao động làm công nghiệp và dịch vụ; phấn đấu đến năm
2010 lao động nông , lâm, ngư nghiệp còn dưới 50%, nâng cao tỉ lệ sử dụng thời gian lao
động ở nông thôn lên 85%.

1
3


- Phát triển nhanh hơn công nghiệp, xây dựng và dịch vụ. Khuyến khích phát
triển các ngành cơng nghiệp cơng nghệ cao, các ngành có lợi thế cạnh tranh, tạo nhiều
việc làm, tạo nhiều sản phẩm xuất khẩu. Trong giai đoạn 2006 -20010 tâp trung phát
triển các ngành có lợi thế cạnh tranh, tạo nhiều việc làm, tạo nhiều sản phẩm xuất
khẩu, phấn đấu đạt mức tăng tưởng ngành công nghiệp 10 -12 %/ năm, ngành dịch vụ
đạt 7,7 -8,2%/ năm
- Phát triển kinh tế vùng. Thúc đẩy phát triển các vùng kinh tế trọng điểm, tạo
động lực , tác động lan toả đến các vùng khác, đồng thời tạo điều kiện phát triển nhanh
hơn các vùng cịn nhiều khó khăn, vùng sâu, vùng xa, biên giới, hải đảo, Tây Nguyên,
Tây Bắc.
- Phát triển kinh tế biển. Xây dựng nước ta thành một quốc gia mạnh về kinh tế
biển gắn với bảo đảm quốc phòng an ninh và hợp tác quốc tế.
- Chuyển dịch cơ cấu lao động, cơ cấu công nghệ. Phát triển nguồn nhân lực để
đến năm 2010 có cơ cấu đồng bộ với chất lượng cao, tỷ trọng của lao động công nghiệp
và dịch vụ chiếm trên 50%, lao động đã qua đào tạo đạt trên 40% tổng số lao động xã
hội.
- Bảo vệ và sử dụng có hiệu qủa tài ngun quốc gia, cải thiện mơi trường .

4. Một số giải pháp chủ yếu nhằm đẩy mạnh cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa
gắn với kinh tế tri thức.
Việt Nam, một nước có xuất phát điểm thấp cả về lực lượng sản xuất và trình độ
quản lý, cần chọn phương thức tiếp thu nhanh các thành tựu khoa học của kinh tế tri
thức và đi thẳng vào kinh tế tri thức theo cách chọn lựa ngành phù hợp và có thế mạnh.
Muốn vậy, cần thực hiện các giải pháp sau đây:
Một là, đẩy mạnh q trình cơng nghiệp hóa – hiện đại hóa, vì chỉ có cơng nghiệp
hóa – hiện đại hóa mới tạo đầy đủ điều kiện vật chất cần thiết, tạo cốt vật chất cho nền
kinh tế tri thức trong tương lai. Cơng nghiệp hóa – hiện đại hóa, nhân tố quan trọng cho
việc sử dụng kinh tế tri thức. Mục đích cơng nghiệp hóa ở Việt Nam để trang bị cơ sở

1
4


vật chất kỹ thuật cho toàn bộ nền kinh tế quốc dân, nhanh chóng chuyển lao động thủ
cơng, khai thác đối tượng lao động có sẵn, năng suất lao động thấp, sang lao động sử
dụng máy móc, sáng tạo nhiều đối tượng lao động mới, năng suất lao động cao. Cùng
với q trình cơng nghiệp hóa phải hiện đại hóa các cơ sở vật chất được trang bị, để
chống nguy cơ tụt hậu và tạo điều kiện tiếp cận nhanh với những thành tựu mới nhất,
hiện đại nhất của khoa học công nghệ trên thế giới. Trong phát triển khoa học - cơng
nghệ, tìm cách đi thẳng vào cơng nghệ mũi nhọn như công nghệ tin học, công nghệ sinh
học… đặc biệt chú trọng phát triển phần mềm, tham gia xuất khẩu phần mềm. Phải xã
hội hóa, thị trường hóa hoạt động nghiên cứu triển khai, biến các công ty xí nghiệp
thành các chủ thể nghiên cứu triển khai. Phải có một hệ thống chính sách và biện pháp
tổ chức đủ sức kích thích cao độ tính tích cực, sáng tạo cái mới của mọi người. Nghĩa là
phải tìm ra phương thức đi tắt, đón đầu phù hợp để rút nhanh khoảng cách, đón bắt
được mọi thời cơ của thời đại kinh tế tri thức.
Hai là, mở rộng phân công lao động quốc tế, xuất phát từ yêu cầu cần phát triển
kinh tế hàng hóa, quốc tế hóa và tồn cầu hóa. Muốn đa dạng hóa chủng loại sản phẩm

thỏa mãn nhu cầu ngày càng tăng, tất yếu phải đa dạng hóa chủng loại lao động cụ thể,
nghĩa là phải mở rộng phân công lao động xã hội không chỉ trong phạm vi quốc gia mà
là trên phạm vi quốc tế, phải phát triển kinh tế hàng hóa nhiều thành phần; trong đó
khơng thể thiếu kinh tế tư bản nhà nước. Đề cập đến chất lượng sản phẩm là đề cập đến
chất lượng lao động cụ thể, chúng ta điều biết mỗi lao động cụ thể được xác định trên
bốn đặc trưng, trong đó cấu thành cốt vật chất của sản phảm là đối tượng lao động, cịn
sản phẩm đó được tạo ra như thế nào lại tùy thuộc vào tư liệu lao động và phương thức
hoạt động của nó. Thực hiện tốt các nhân tố trên đây không chỉ tiến hành cơng nghiệp
hóa – hiện đại hóa là đủ mà còn phải phát triển kinh tế tư bản nhà nước tạo sức mạnh
tổng hợp thúc đẩy nền kinh tế phát triển.
Ba là, nâng cao trình độ sức lao động, trí thức hóa người lao động. Đây là một
trong những giải pháp có ý nghĩa sống cịn đối với sự phát triển của một quốc gia, yếu
tố quan trọng nhất trong cấu thành các yếu tố của quá trình sản xuất, nhất là trong nền
kinh tế tri thức như V.I Lê Nin đã khẳng định: “Lực lượng sản xuất hàng đầu của toàn
thể nhân loại là người lao động. Phải đào tạo nguồn lao động chất xám, lao động trí tuệ
để sử dụng các thành tựu mới của khoa học - công nghệ trên thế giới trong phát triển

1
5


kinh tế. Trứơc hết phải tập trung phát triển giáo dục, nâng cao dân trí, rút ngắn khoảng
cách về tri thức với các nước phát triển. Cần chú trọng lĩnh vực giáo dục – đào tạo một
cách toàn diện từ mẫu giáo đến đại học, sau đại học để tạo ra đội ngũ lao động có chất
lượng cao. Đổi mới nội dung, chương trình, phương pháp dạy và học trong tất cả các
cấp học, thực hiện tốt phương châm giáo dục: học đi đôi với hành, lý luận gắn liền với
thực tiễn, nhà trường gắn liền với xã hội. Từng bước trang bị các điều kiện cần thiết và
hiện đại phục vụ tốt cho việc dạy và học; như: phòng thực nghiệm, thí nghiệm, xưởng
trường. . . để có được đội ngũ lao động tri thức trong tất cả các ngành của nền kinh tế
quốc dân. Tăng ngân sách đầu tư cho giáo dục, đầu tư cho giáo dục là đầu tư phát triển,

phải chú trọng đầu tư đối với tất cả các cấp học. Trong đầu tư cho giáo dục phải tính
đến đặc thù của Việt Nam, thích ứng với điều kiện cụ thể của đất nước ta về: kinh tế,
chính trị, văn hóa, tư tưởng. Đồng thời phải cập nhật những thành tựu mới nhất của
khoa học - công nghệ trên thế giới. Đào tạo gắn với sử dụng lao động sao cho hiệu quả
kinh tế cao nhất đối với nguồn quan trọng này.
Bốn là, phát huy nội lực, mở rộng hình thức liên doanh, liên kết giữa nhà nước
với kinh tế tư nhân trong và ngoài nước. Khơi dậy và sử dụng có hiệu quả cao tiềm
năng của kinh tế tư nhân, phát triển các hình thức hợp tác, liên doanh, liên kết . Nhà
nước cần có các chính sách kinh tế hợp lý, chính sách ưu đãi đối với một số ngành nghề,
để có thể huy động nguồn lực đầu tư vào sự phát triển nền kinh tế ở nước ta. Mở rộng
và phát triển hình thức liên doanh với nước ngoài là một trong những giải pháp quan
trọng cho sự phát triển nền kinh tế tri thức. Giải pháp này không chỉ phù hợp với xu thế
phát triển của thời đại, xu thế quốc tế hóa, tồn cầu hóa, nhất là sự phát triển như vũ
bảo của cuộc cách mạng khoa học công nghệ trên thế giới hiện nay. Trong q trình này,
cần có sự phân bố một cách hợp lý cân đối giữa các thành phố và các trung tâm kinh tế
lớn, với vùng sâu, vùng xa, tạo điều kiện cho sự phát triển nền kinh tế toàn diện. Chú
trọng hợp tác trên một số lĩnh vực mà Việt Nam chưa có điều kiện sản xuất, hoặc có sản
xuất song chi phí q cao, một số lợi thế mà Việt Nam cần phát huy mặt mạnh của
mình.
Năm là, hồn thiện cơng tác tổ chức quản lý, cải cách các thủ tục hành chính, hồn
thiện hệ thống luật pháp, thể chế kinh tế thị trường, chính sách kinh tế, chống tham
nhũng một cách có hiệu qủa.

1
6


Sáu là, việc chuyển giao công nghệ vào Việt Nam, thơng qua liên doanh, liên kết
vừa lưu ý tính hiệu quả, lợi nhuận, vừa phải là những thành tựu mới nhất của khoa học
công nghệ, các thiết bị hiện đại có ý nghĩa quan trọng trong việc thúc đẩy lực lượng sản

xuất phát triển, phù hợp với cuộc cách mạng khoa học công nghệ trên thế giới hiện nay.
Đây cũng là nhân tố cần thiết tạo điều kiện thúc đẩy nền kinh tế Việt Nam gắn với xu
thế quốc tế hóa tịan cầu hóa.
Bẩy là , phát triển kinh tế tư bản Nhà nước là một trong những nhiệm vụ chiến
lược quan trọng cho phát triển nền kinh tế tri thức trong tương lai. Để thực hiện liên
doanh, liên kết, sử dụng có hiệu quả những thành tựu mới của khoa học công nghệ,
phải huy động được tối đa nguồn lao động ở trong nước, giải quyết được nhiều việc
làm, cần phải đào tạo nguồn lao động tương xứng. Đào tạo nâng cao chất lượng nguồn
lao động không chỉ là cơ hội để tiếp cận nhanh với các thành tựu mới của khoa học cơng
nghệ trên thế giới mà cịn tạo khả năng sáng tạo, phát minh những quy trình cơng nghệ
mới đang là địi hỏi cấp bách của thời đại. Thực tiễn cho thấy tiềm năng kinh tế Việt
Nam còn rất lớn cả về: vốn, kỹ thuật, lao động, quy mô ngành nghề, lĩnh vực hoạt động,
thị trường tiêu thụ sản phẩm… Phát triển kinh tế tư bản nhà nước, thơng qua liên
doanh, liên kết hình thành các khu cơng nghệ cao sẽ có điều kiện tiếp cận các thành tựu
mới khoa học công nghệ trên thế giới, tạo thêm công ăn việc làm cho người lao động;
làm thay đổi bộ mặt kinh tế theo hướng cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa. Phát triển kinh
tế tư bản nhà nước không chỉ mang lại hiệu quả xã hội, kinh tế phát triển, lợi ích kinh tế
được đảm bảo, người lao động gắn bó với q trình sản xuất, mà cịn tạo động lực kinh
tế quan trọng đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa gắn với phát triển nền kinh tế tri
thức ở Việt Nam trong những năm tới.
5. Nhiệm vụ đặc biệt của giáo dục Việt Nam trong thời đại kinh tế tri thức
Nhà nước ta coi giáo dục và đào tạo, khoa học và công nghệ là quốc sách hàng đầu, là
nền tảng và động lực thúc đẩy sự nghiệp cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Với
cuộc cách mạng về khoa học công nghệ đang diễn ra mạnh mẽ trên phạm vi toàn thế
giới hiện nay, khoa học và công nghệ đã trở thành "lực lượng sản xuất trực tiếp", trong
đó tri thức và thơng tin trở thành yếu tố quan trọng và nguồn tài nguyên đặc biệt, có giá
trị cao. Do đó, vai trị của các yếu tố truyền thống trong sản xuất và cạnh tranh đã có sự

1
7



thay đổi lớn: yếu tố trí tuệ có vai trị quyết định nhất trong mối tương quan với các yếu
tố tài nguyên thiên nhiên, vốn và sức lao động. Đồng thời cũng chính từ nó đã hình
thành nên nguồn lực nội sinh cho sự phát triển.
Cuộc cách mạng khoa học và công nghệ hiện đại đang tiếp tục phát triển với trình độ
ngày càng cao, tăng nhanh lực lượng sản xuất, đồng thời thúc đẩy quá trình chuyển
dịch cơ cấu kinh tế thế giới, quốc tế hóa nền kinh tế và đời sống xã hội; các quốc gia lớn,
họ tham gia ngày càng nhiều vào quá trình hợp tác và liên kết khu vực, liên kết quốc tế
về kinh tế, thương mại và nhiều lĩnh vực khác. Tình hình đó đã tạo nên thời cơ thuận lợi
để các nước có điều kiện phát triển; sự hợp tác giữa các nước ngày càng tăng nhưng
cạnh tranh cũng trở nên gay gắt…
Thành quả trong nhiều năm qua của nền giáo dục của chúng ta là đã tạo nên một đội
ngũ cán bộ khoa học - cơng nghệ có bản lĩnh chính trị vững vàng, có kiến thức cơ bản
vững chắc và gắn bó chặt chẽ với thực tiễn. Họ đã có những đóng góp xứng đáng vào
sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, đồng thời đã góp phần đào tạo bồi dưỡng nên
một thế hệ cán bộ khoa học – cơng nghệ trẻ kế tiếp, giàu trí tuệ và năng động. Đội ngũ
này là lực lượng nòng cốt đáng tin cậy, đã và đang tích cực góp phần tạo nền tảng để
đến năm 2020 nước ta cơ bản trở thành một nước cơ bản theo hướng hiện đại.
Nghị quyết đại hội Đảng lần thứ X đã chỉ rõ phương hướng phấn đấu của nền giáo dục
nước ta trong giai đoạn mới là :nâng cao chất lượng giáo dục toàn diện, đổi mới cơ cấu
tổ chức, nội dung, phương pháp dạy và học, thực hiện "chuẩn hóa, hiện đại hóa, xã hội
hóa", chấn hưng nền giáo dục Việt Nam.
Theo phương hướng trên, trước nền giáo dục của chúng ta có trách nhiệm rất to lớn và
nặng nề là góp phần đào tạo và bồi dưỡng thế hệ trẻ thành những chiến sĩ kiên cường
bảo vệ những giá trị và thành quả của cách mạng, trung thành với Đảng và sự nghiệp
của Tổ quốc và dân tộc, có khả năng biến kiến thức thành niềm tin chỉ đạo cho hành
động, có sức đề kháng mạnhmẽ trước mọi ảnh hưởng của những tư tưởng độc hại đang
xâm nhập, thẩm thấu, làm biến chất thế hệ trẻ của chúng ta. Trong mối quan hệ giưã
nhà trường và xã hội, cần phá vỡ bức tường ngăn cách đào tạo, khoa học với sản xuất;

phải làm cho quá trình giáo dục và đào tạo thực sựmềm dẻo, thích ứng với những đổi

1
8


thay của thời đại mà nổi bật là xu thế quốc tế hóa nền kinh tế thế giới và hướng tới "xã
hội thông tin"; phải cân đối lại các nguồn nhân lực được đào tạo, chủ yếu là giữa những
người trực tiếp sản xuất, những cán bộ thiết kế và kỹ thuật, những cán bộ là công tác
nghiên cứu và phát triển, cân chú trọng đồng thời cả ba mặt: nâng cao dân trí, đào tạo
nhân lực, bồi dưỡng nhân tài. chỉ làm như vậy mới có thể tạo nên nguồn lực nội sinh dồi
dào, mạnh mẽ và có khả năng kết hợp chặt chẽ được với nguồn lực ngoại sinh, thực hiện
tốt nhiệm vụ trong giai đoạn đầu tiên của cả thời kỳ cơng nghiệp hóa, hiên đại hóa ở
nước ta là: tiếp nhận chuyển giao công nghệ từ bên ngoài, vận dụng phù hợp với điều
kiện thực tế bên trong, đồng thời đi thẳng vào công nghệ tiên tiến ở những ngành,
những lĩnh vực có tác động chi phối nền kinh tế quốc dân, và tiến tới sáng tạo ra cơng
nghệ mới.
Ngồi ra, phải phân đấu xây dựng xã hội ta thành một xã hội có trình độ dân trí và học
vấn cao. Tùy theo điều kiện cụ thể từng giai đoạn mà nâng dần trình độ phổ cập giáo
dục cho toàn dân theo độ tuổi quy định (trước mắt là phổ cập giáo dục tiểu học, tiến lên
phổ cập ở bậc trung học cơ sở), khuyến khích để ngày càng có nhiều người lao động
trực tiếp sản xuất vươn tới trình độ học vấn cao đẳng, đủ khả năng làm việc trong một
hệ thống dây chuyền công nghệ hiện đại. Cần đào tạo điều kiện cho con em các dân tộc
ở vùng sâu, vùng xa… được học hành, tiếp thu nền giáo dục tốt và có khả năng vươn
lên trình độ học vấn cao. Như vậy, vừa bảo đảm được sự công bằng xã hội trong giáo
dục, vừa góp phần bảo đảm sự phân bố cán bộ khoa học- công nghệ theo vùng và lãnh
thổ một cách phù hợp, tạo lực lượng nòng cốt cho sự nghiệp cơng nghiệp hóa, hiện đại
hóa của các ngành và các địa phương.
Trong bối cảnh của cuộc cách mạng khoa học và cơng nghệ hiện đại, sự nghiệp cơng
nghiệp hóa hiện đại hóa nhà nước địi hỏi phải khơng ngững nâng cao chất lượng đào

tạo. hiện nay nhiều nước trên thế giới đã bước vào giai đoạn phát triển cao của khoa học
và cơng nghệ, cịn ước ta vẫn ở trong tình trạng khá lạc hậu, chưa ứng dụng được nhiều
thành tự của nền khao học và công nghệ tiên tiến. Để nước ta có thể rút ngắn được
khoảng cách đối với các nước tiên tiến, có thể đi tắt, đi nhanh, đóng đầu, tiến thẳng lên
trình độ hiện đại, để thúc đẩy mạnh mẽ sự phát triển nền kinh tế, hội nhập được vào
một thế giới đầy biến đồng có nhiều thời cơ, nhưng cũng lắm ngu cơ, thử thách, chúng
ta cần phải có một đội ngũ cán bộ và nhân viên kỹ thuật được đào tạo tốt. Đặc biệt là

1
9


phải hết sức chú trọng bồi dưỡng nhân lực tinh hoa – các nhân tài làm nhiệm vụ chủ trì
những hướng, ngành và lĩnh vực khoa học và công nghệ quan trọng, then chốt của đất
nước do đó cùng với việc mở rộng quy mô đào tạo, cần hết sức quan tâm đến việc
không ngừng nâng cao chất lượng đào tạo, chú trọng xây dựng tốt năng lực công nghệ
Quốc gia ở bước đi đầu tiên. Nhưng để xây dựng tốt năng lực công nghệ Quốc gia, cần
phải chú trọng xây dựng năng lực khoa học công nghệ quốc gia vì hoạt động khoa học
cho phép phát hiện quy luật của các sự vật và hiên tượng, vận dụng những quy luật ấy
vào thực tiễn, và do đó tạo thành cơ sở của cơng nghệ. Hơn nữa, chỉ có trình độ khoa
học cao mới có khả năng tiếp thu được công nghệ tiên tiến, hiện đại cũng như sáng tạo
ra cơng nghệ mới. Vì thế, phải chú ý đào tạo, bồi dưỡng và thu hút các tài năng khoa
học trẻ làm công tác nghiên cứu khoa học và phát triển, tạo ra một thế hệ đồng bộ đội
ngũ chuyên gia – nhà khoa học học, bao gồm những cán bộ có năng lực nghiên cứu,
thiết kế giỏi và những cán bộ có năng lực cơng nghệ giỏi.
Cần hình thành những trung tâm chất lượng cao để đào tạo nhân lực tinh hoa cho một
số ngành khoa học – công nghệ trọng điểm, có đẳng cấp quốc tế. Những trung tâm như
vậy cần được đầu tư tốt đội ngũ giáo sư- giảng viên, cơ sở vật chất thí nghiệm và các
điều kiện học tập, kể cả các điều kiện giao lưu và hợp tác quốc tế, sinh viên đượcđào tạo
tại các trung tâm như vậy cần được tuyển chọn tốt bằng mọi quy trình hết sức chặt chẽ.

Nhiệm vụ đào tạo theo nhân lực tinh hoa không nên chỉ giao cho một số trường, hoặc
thành lập một trường riêng biệt, mà là cần căn cứy vào thế mạnh, truyền thống của các
trường trọng điểm quốc gia hiện nay (Đại học Quốc gia Hà Nội, Đại học Quốc gia
Thành phố HCM, Đại học Bách Khoa Hà Nội) để hình thành những trung tâm chất
lượng cao phù hợp với đẳng cấp Quốc tế.
Cần làm cho đất nước ta trở thành đất nước của những người hiền tài, ở đó , mọi năng
lực trọng dụng và tạo điều kiện để phát triển mọi sáng tạo được khuyến khích và phát
huy, giúp phần thực hiện được mục tiêu "dân giàu, nước mạnh, xa hội công bằng, dân
chủ văn minh", sánh vai cùng các nước trên thế giới trong nhịp bước khẩn trương của
thời đại (Báo cáo chính trị Đại hội X).

2
0



×