Tải bản đầy đủ (.pdf) (162 trang)

Luận Án Tiến Sĩ Luật Học Thực Hiện Pháp Luật Về Giải Quyết Thủ Tục Hành Chính Của Cơ Quan Nhà Nước Cấp Tỉnh Ở Việt Nam Hiện Nay_Watermark.pdf

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.26 MB, 162 trang )

1
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của việc nghiên cứu đề tài
Đề tài Luận án “Thực hiện pháp luật về giải quyết thủ tục hành chính của
cơ quan nhà nước cấp tỉnh ở Việt Nam hiện nay” là đề tài nghiên cứu có tính lý
luận và thực tiễn cấp thiết. Điều đó được thể hiện ở ba lý do chủ yếu sau:
Thứ nhất: Từ mối quan hệ giữa thủ tục hành chính (TTHC) với yêu cầu giải
quyết TTHC (thực hiện TTHC) hiện nay.
TTHC là cách thức tổ chức các công việc nhà nước, cũng là cách thức giải
quyết các công việc liên quan đến quyền và lợi ích hợp pháp của cá nhân, tổ chức,
phản ánh bản chất dân chủ, tính phục vụ, khoa học và hiện đại của nền hành chính
nhà nước. TTHC có nhiều loại, trong đó loại TTHC giải quyết cơng việc liên quan
đến quyền và lợi ích hợp pháp của cá nhân, tổ chức chiếm số lượng lớn, hết sức đa
dạng, ảnh hưởng trực tiếp đến sinh hoạt, đời sống, sản xuất, kinh doanh của người
dân, doanh nghiệp. Trong thời kỳ đổi mới, hội nhập quốc tế, loại thủ tục này đã bộc
lộ nhiều hạn chế, rườm rà, phức tạp, tốn kém, tiềm ẩn nguy cơ sách nhiễu, cửa
quyền… Chính vì thế, cải cách TTHC, trong đó cải cách các thủ tục liên quan đến
đời sống, sản xuất, kinh doanh của người dân, doanh nghiệp đã được Đảng và Nhà
nước ta coi là khâu đột phá của CCHC. Theo chủ trương đó và bằng sự quyết liệt
của Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ, của các Bộ, ngành và các chính quyền địa
phương, hệ thống thủ tục ấy đã được đổi mới một bước, góp phần hồn thiện thể
chế của nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa (XHCN), cải thiện môi
trường đầu tư, tạo thuận lợi cho người dân, doanh nghiệp trong sinh hoạt, sản xuất,
kinh doanh. Mặc dù vậy, thực tế cho thấy có một hệ thống TTHC tốt chỉ là điều
kiện cần. Việc phát huy được vai trò quan trọng của TTHC, làm cho TTHC được
thực hiện trong thực tế, đáp ứng những yêu cầu đặt ra trong giải quyết TTHC, nhất
là u cầu về bảo đảm tính cơng khai, minh bạch, khách quan, công bằng, kịp thời,
không gây phiền hà, sách nhiễu, đặt ra nhiều điều kiện… là những điều kiện tiên
quyết, trong đó điều kiện căn bản là phải xác lập, thực hiện được một cơ chế pháp
lý giải quyết thủ tục chặt chẽ, khoa học, dễ kiểm tra, dễ giám sát, phù hợp với tính
chất từng loại cơng việc, với tình hình thực tế của địa phương. Thực tế cải cách



Luận án tiến sĩ Luật học


2
TTHC cho thấy cùng với việc đổi mới các TTHC trên từng lĩnh vực quản lý nhà
nước, Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ, các Bộ, ngành, cơ quan nhà nước cấp tỉnh
trong cả nước đã ban hành nhiều văn bản quy phạm pháp luật, hình thành pháp luật
về giải quyết TTHC; pháp luật này đã xác lập được cơ chế pháp lý giải quyết TTHC
(cơ chế một cửa và cơ chế một cửa liên thơng). Có thể khẳng định, sự xuất hiện
pháp luật về giải quyết TTHC đối với các việc liên quan đến quyền và lợi ích hợp
pháp của cá nhân, tổ chức là một điều mới mẻ và là một bước tiến lớn, bảo đảm tính
đồng bộ, tồn diện của hệ thống pháp luật TTHC ở Việt Nam. Mặc dù vậy, pháp
luật ấy vẫn chưa được hoàn thiện, còn bộc lộ nhiều hạn chế, nhất là những hạn chế
trong thực tiễn thực hiện đã làm giảm hiệu quả các yêu cầu của CCHC. Do vậy
nghiên cứu những cơ sở lý luận và thực tiễn bảo đảm thực hiện pháp luật giải quyết
TTHC, đáp ứng được các yêu cầu về tính cơng khai, minh bạch, khách quan, cơng
bằng… là hết sức cần thiết hiện nay.
Thứ hai: Từ yêu cầu phát huy vị trí, vai trị của cơ quan nhà nước cấp tỉnh,
trực tiếp là của cơ quan hành chính (CQHC) cấp tỉnh trong xây dựng và thực hiện
pháp luật về giải quyết TTHC ở địa phương.
Cơ quan nhà nước cấp tỉnh, trực tiếp là các CQHC cấp tỉnh theo quy định
của pháp luật có vị trí, vai trị quan trọng trong xây dựng và thực hiện pháp luật về
giải quyết TTHC. Điều đó được thể hiện ở thẩm quyền và trách nhiệm của Ủy ban
nhân dân (UBND) cấp tỉnh, Chủ tịch UBND cấp tỉnh, các cơ quan chuyên môn
thuộc UBND trong việc xây dựng, ban hành văn bản quy phạm pháp luật quy định
TTHC, rà soát, sửa đổi, bổ sung TTHC được ban hành theo thẩm quyền, quy định
cụ thể thực hiện cơ chế một cửa, cơ chế một cửa liên thông tại địa phương; quy định
tổ chức, hoạt động, quy trình tiếp nhận, xem xét, trả kết quả tại Bộ phận tiếp nhận
và trả kết quả theo hai cơ chế trên, trách nhiệm xem xét, xử lý, phối hợp giải quyết

thủ tục của cán bộ, công chức (CBCC), của các cơ quan chức năng, người có thẩm
quyền, chỉ đạo, kiểm tra CQHC cấp huyện, cấp xã trong toàn tỉnh thực hiện cơ chế
một cửa, cơ chế một cửa liên thông.
Với trách nhiệm và thẩm quyền trên, việc nghiên cứu để có một hệ thống các
giải pháp bảo đảm phát huy vai trị, vị trí của cơ quan nhà nước cấp tỉnh trong xây

Luận án tiến sĩ Luật học


3
dựng và thực hiện pháp luật về giải quyết TTHC ở địa phương là hết sức cấp thiết,
nhất là trước thực tế còn nhiều hạn chế, vướng mắc ở nhiều cơ quan nhà nước cấp
tỉnh hiện nay.
Thứ ba: Về phương diện lý luận, có thể khẳng định cơng tác nghiên cứu lý
luận về nền hành chính, trong đó nghiên cứu lý luận về TTHC, giải quyết TTHC,
pháp luật về giải quyết TTHC chỉ được quan tâm đẩy mạnh khi Đảng đề ra chủ
trương CCHC tại Hội nghị lần thứ tám Ban Chấp hành Trung ương (khóa VIII).
Mặc dù đạt được nhiều kết quả, song cơng tác ấy vẫn cịn nhiều hạn chế, ngay cả
khái niệm TTHC hiện trong giới khoa học pháp lý vẫn chưa có sự thống nhất về
nhận thức. Việc nghiên cứu những vấn đề lý luận pháp luật về giải quyết TTHC,
làm rõ khái niệm, đặc điểm của pháp luật và thực hiện pháp luật ấy, nhất là đặc
điểm của thực hiện pháp luật của cơ quan nhà nước cấp tỉnh, những yêu cầu và điều
kiện bảo đảm thực hiện… hầu như chưa có cơng trình nào nghiên cứu.
Những hạn chế về lý luận nêu trên làm cho công tác nghiên cứu lý luận
không cung cấp được các luận chứng cho việc hoàn thiện cơ chế giải quyết TTHC,
hồn thiện cơng tác chỉ đạo, điều hành của các CQHC cấp tỉnh trong thực hiện pháp
luật về giải quyết TTHC, ảnh hưởng đến công tác tuyên truyền, phổ biến, giáo dục
pháp luật, nhất là hạn chế trong việc bảo đảm nhận thức thống nhất trong đội ngũ
CBCC, trong chỉ đạo, điều hành của các CQHC nhà nước cấp tỉnh.
2. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu đề tài

Luận án có mục đích nghiên cứu những vấn đề lý luận và thực tiễn làm cơ sở
cho việc đề xuất và luận chứng các quan điểm, giải pháp thực hiện pháp luật về giải
quyết TTHC của cơ quan nhà nước cấp tỉnh ở Việt Nam hiện nay.
Những vấn đề lý luận và thực tiễn theo mục đích nghiên cứu của Luận án
được triển khai thực hiện thông qua việc thực hiện các nhiệm vụ cụ thể sau:
- Trên cơ sở những vấn đề lý luận về thủ tục, TTHC, giải quyết TTHC, Luận
án xây dựng khái niệm pháp luật về giải quyết TTHC, phân tích các đặc điểm, nội
dung, các hình thức văn bản pháp luật về giải quyết TTHC.
- Phân tích làm rõ khái niệm thực hiện pháp luật về giải quyết TTHC, các
đặc điểm, các yêu cầu và điều kiện bảo đảm thực hiện pháp luật này của cơ quan
nhà nước cấp tỉnh hiện nay.

Luận án tiến sĩ Luật học


4
- Tìm hiểu pháp luật về giải quyết TTHC ở một số nước, từ đó rút ra những
điểm hợp lý trong thực hiện có thể vận dụng ở Việt Nam.
- Khái quát thực trạng, rút ra những ưu điểm, hạn chế trong thực hiện pháp
luật về giải quyết TTHC theo cơ chế một cửa, một cửa liên thông tại cơ quan nhà
nước cấp tỉnh trong tiến trình CCHC, trong cải cách nền hành chính nhà nước ở
địa phương.
- Luận chứng các quan điểm, giải pháp bảo đảm thực hiện pháp luật về giải
quyết TTHC tại cơ quan nhà nước cấp tỉnh ở Việt Nam hiện nay.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Về đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của Luận án là các quy phạm pháp luật về giải quyết
TTHC đối với các công việc liên quan đến quyền và lợi ích hợp pháp của cá nhân,
tổ chức, tập trung nghiên cứu các Nghị định của Chính phủ quy định việc kiểm soát
TTHC, các Quyết định của Thủ tướng Chính phủ về giải quyết TTHC theo cơ chế

một cửa, một cửa liên thông tại CQHC địa phương và các quy định về giải quyết
TTHC do cơ quan nhà nước cấp tỉnh ban hành theo thẩm quyền. Đối tượng nghiên
cứu của Luận án còn là các quan hệ phát sinh từ thực tiễn thực hiện pháp luật về
giải quyết TTHC của cơ quan nhà nước cấp tỉnh.
Về phạm vi nghiên cứu
Luận án không nghiên cứu sâu về pháp luật quy định TTHC nói chung, mà
tập trung nghiên cứu pháp luật về giải quyết TTHC và thực tiễn thực hiện pháp luật
đó của các CQHC cấp tỉnh và chỉ đối với các thủ tục liên quan đến quyền và lợi ích
hợp pháp của cá nhân, tổ chức. Luận án cũng không nghiên cứu việc thực hiện pháp
luật giải quyết TTHC trên từng lĩnh vực cụ thể của quản lý nhà nước (xây dựng,
thuế, hải quan, đầu tư…), mà chỉ nghiên cứu cơ chế pháp lý chung áp dụng đối với
việc giải quyết tất cả các loại thủ tục liên quan.
Luận án có phạm vi nghiên cứu về mặt thời gian kể từ khi Thủ tướng Chính
phủ ra Quyết định số 38/2001/QĐ-TTg phê duyệt Chương trình tổng thể CCHC nhà
nước giai đoạn I (2001 - 2010) [78], song chủ yếu tập trung vào thời gian sau khi
Thủ tướng Chính phủ ra Quyết định số 181/2003/QĐ-TTg ngày 04/9/2003 ban
hành Quy chế thực hiện cơ chế “một cửa” [79] (sau đây gọi là Quyết định số 181),

Luận án tiến sĩ Luật học


5
sau là Quyết định số 93/2007/QĐ-TTg ngày 22/6/2007 ban hành Quy chế thực hiện
cơ chế một cửa, cơ chế một cửa liên thông tại CQHC nhà nước ở địa phương [83]
(sau đây gọi là Quyết định số 93).
4. Phương pháp nghiên cứu của đề tài
Trên cơ sở phương pháp luận của Chủ nghĩa Mác -Lênin, tư tưởng Hồ Chí
Minh và các quan điểm của Đảng về nhà nước pháp quyền và pháp luật, về CCHC,
trực tiếp là cải cách hệ thống TTHC, giải quyết TTHC cho cá nhân, tổ chức, Luận
án sử dụng các phương pháp của triết học duy vật biện chứng và duy vật lịch sử,

trực tiếp là phương pháp kết hợp giữa lý luận và thực tiễn, phân tích và tổng hợp,
lịch sử cụ thể và các phương pháp của khoa học chuyên ngành, trong đó chú trọng
phương pháp của lý thuyết hệ thống, phương pháp của luật học so sánh, khoa học
thống kê và xã hội học. Luận án cũng sử dụng phương pháp trừu tượng hóa để
nghiên cứu, xây dựng khái niệm pháp luật về giải quyết TTHC, chỉ ra những đặc
điểm của việc thực hiện pháp luật này.
Các phương pháp nêu trên được sử dụng nhằm thực hiện các nhiệm vụ của
Luận án, đảm bảo tính khoa học và lơgic giữa các vấn đề của Đề tài nghiên cứu. Do
nhiệm vụ nghiên cứu được đề ra trong từng chương của Luận án là khác nhau, nên
các phương pháp được sử dụng cho từng chương cũng có sự khác nhau. Phương
pháp phân tích và tổng hợp, lý thuyết hệ thống, phương pháp của luật học so sánh
và phương pháp trừu tượng hóa được Luận án sử dụng để giải quyết những vấn đề
lý luận của Chương 2. Các phương pháp kết hợp lý luận và thực tiễn, lịch sử cụ thể,
luật học so sánh, phương pháp của khoa học thống kê được sử dụng tại Chương 3.
Chương 4 sử dụng đồng thời các phương pháp nêu trên.
5. Những kết quả nghiên cứu mới của Luận án
Luận án là cơng trình nghiên cứu chun khảo trong khoa học pháp lý Việt
Nam ở cấp độ Tiến sỹ luật học, nghiên cứu một cách tồn diện, có hệ thống về thực
hiện pháp luật về giải quyết TTHC của cơ quan nhà nước cấp tỉnh ở Việt Nam. Có
thể xem những nội dung sau đây là những đóng góp của Luận án:
- Điểm mới thứ nhất: Luận án đã xây dựng mới khái niệm TTHC dựa trên
những quan niệm khác nhau về TTHC và đặt trong mối quan hệ với CCHC, chuyển
từ nền hành chính cai trị sang nền hành chính phục vụ mà cải cách TTHC là khâu

Luận án tiến sĩ Luật học


6
đột phá, trong đó những yếu tố tạo thành nội hàm của khái niệm TTHC giải quyết
công việc của cá nhân, tổ chức được xác định gắn liền với chức năng thực hiện dịch

vụ công, thực hiện các giao dịch hành chính. TTHC theo đó khơng chỉ là cơng cụ
quản lý của CQHC, là cách thức phục vụ dân của các cơ quan này mà cịn là cơng
cụ thực hiện và bảo vệ quyền, lợi ích của tổ chức và cá nhân.
- Điểm mới thứ hai: Trên cơ sở của phương pháp trừu tượng hóa và mối
quan hệ biện chứng giữa pháp luật và thực hiện pháp luật, từ thực trạng thực hiện
các quy định pháp luật, Luận án đã xây dựng khái niệm pháp luật về giải quyết
TTHC, chỉ ra những đặc điểm của pháp luật này. Luận án khẳng định pháp luật về
giải quyết TTHC là lĩnh vực pháp luật đặc thù của hệ thống pháp luật hành chính có
nhiệm vụ hiện thực hóa và bảo đảm sự thống nhất, công bằng, khách quan, kịp thời
trong giải quyết TTHC, mà nội dung cơ bản của nó là cơ chế thực hiện và kiểm soát
TTHC. Luận án cũng xác định rõ các văn bản quy phạm pháp luật do cơ quan nhà
nước ở Trung ương và cơ quan nhà nước cấp tỉnh ban hành theo thẩm quyền là
nguồn của các quy phạm pháp luật tạo thành pháp luật về giải quyết TTHC. Như
vậy, nếu thực hiện pháp luật nói chung từ phía cơ quan nhà nước, nhà chức trách là
một q trình áp dụng pháp luật mang tính cá biệt thì thực hiện pháp luật về giải
quyết TTHC lại phải theo một cơ chế pháp lý chung, thống nhất áp dụng ở tất cả
các cấp chính quyền địa phương, đối với tất cả các lĩnh vực của quản lý nhà nước.
Điều đó có thể khẳng định: Hiệu lực, hiệu quả thực hiện pháp luật về giải quyết
TTHC của cơ quan nhà nước cấp tỉnh không chỉ phụ thuộc vào chất lượng của các
quy phạm quy định thủ tục mà còn phụ thuộc vào cơ chế thực hiện và kiểm sốt thủ
tục mà nó xác lập. Đây là kết quả có ý nghĩa phương pháp luận quan trọng cho việc
xác định các yêu cầu, điều kiện bảo đảm thực hiện, các quan điểm, giải pháp thực
hiện pháp luật về giải quyết TTHC.
- Điểm mới thứ ba: Từ những yêu cầu, điều kiện bảo đảm thực hiện pháp
luật về giải quyết TTHC và từ thực tiễn, Luận án phân tích, đánh giá thực trạng thực
hiện pháp luật này qua các giai đoạn CCHC, chỉ ra những ưu điểm, hạn chế của
việc triển khai thực hiện cơ chế một cửa, cơ chế một cửa liên thông tại cơ quan nhà
nước cấp tỉnh. Đó cũng là cơ sở thực tiễn cho việc đề xuất các quan điểm, giải pháp
thực hiện pháp luật về giải quyết TTHC ở địa phương.


Luận án tiến sĩ Luật học


7
- Điểm mới thứ tư: Luận chứng các quan điểm, giải pháp thực hiện pháp
luật về giải quyết TTHC gắn với việc thúc đẩy công cuộc cải cách nền hành chính
nhà nước cấp tỉnh, nâng cao chất lượng tuyên truyền, giáo dục pháp luật, tăng
cường vai trò giám sát xã hội, củng cố lòng tin của nhân dân, doanh nghiệp đối
với chính quyền…
6. Ý nghĩa của Luận án
Luận án góp phần bổ sung và phát triển một số vấn đề lý luận của bộ môn lý
luận chung về nhà nước và pháp luật và khoa học luật hành chính về TTHC, về
pháp luật và thực hiện pháp luật về giải quyết TTHC. Từ kết quả đạt được, Luận án
góp phần nâng cao sự nhận thức thống nhất của đội ngũ CBCC về pháp luật và thực
hiện pháp luật về giải quyết TTHC, nhất là về vai trò của pháp luật này trong việc
thực hiện chức năng, nhiệm vụ của nền hành chính, trong CCHC đối với nền hành
chính nhà nước ở địa phương. Về mặt học thuật, Luận án có thể làm tài liệu tham
khảo bổ ích cho cơng tác giảng dạy và nghiên cứu của các cơ sở đào tạo luật, các cơ
sở nghiên cứu khoa học pháp lý, cũng là tài liệu tham khảo bổ ích trong tuyên
truyền, giáo dục pháp luật và trong giải quyết TTHC của các cấp chính quyền.
7. Kết cấu của Luận án
Ngồi phần mở đầu, kết luận, danh mục các cơng trình của tác giả đã công
bố và danh mục tài liệu tham khảo, Luận án gồm 4 chương, 14 tiết.

Luận án tiến sĩ Luật học


8
Chương 1
TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI

Có thể nhận thấy, chỉ sau khi Đảng ta đề ra chủ trương cải cách một bước
nền hành chính nhà nước, trong đó xác định cải cách TTHC là khâu đột phá tại Hội
nghị lần thứ tám Ban Chấp hành Trung ương (khóa VII - 1995) thì việc nghiên cứu
những vấn đề lý luận về TTHC, pháp luật về giải quyết TTHC và những vấn đề liên
quan mới được xúc tiến. Có khá nhiều cơng trình khoa học về vấn đề này, trong đó
những cơng trình liên quan đến đề tài có thể phân chia ra như sau:
1.1. NHỮNG CƠNG TRÌNH CĨ Ý NGHĨA PHƯƠNG PHÁP LUẬN

Thực tiễn cho thấy việc thực hiện đường lối, chủ trương của Đảng, chính
sách, pháp luật của Nhà nước, trong đó có pháp luật về giải quyết TTHC có được
nghiêm minh, hiệu quả hay không suy cho cùng là phụ thuộc vào nhân tố con
người, vào chất lượng đội ngũ CBCC. TTHC tốt mà công chức giải quyết thủ tục
lại yếu kém về phẩm chất, năng lực thì cũng rất khó tránh khỏi phiền hà, sách nhiễu
dân. Vì lẽ ấy, những vấn đề lý luận liên quan đến vị trí, vai trị của đội ngũ CBCC,
đến việc xây dựng đội ngũ công chức trong điều kiện đổi mới, trong bối cảnh của
kinh tế thị trường, hội nhập và nhà nước pháp quyền là cơ sở phương pháp luận đặc
biệt quan trọng để NCS nghiên cứu, thực hiện đề tài Luận án.
Có rất nhiều những cơng trình khoa học nghiên cứu những vấn đề lý luận về
CBCC nêu trên, nhất là sau các sự kiện Đại hội đại biểu giữa nhiệm kỳ (khóa VII),
với chủ trương xây dựng nhà nước pháp quyền XHCN của nhân dân, do nhân dân,
vì nhân dân; Hội nghị lần thứ ba Ban Chấp hành Trung ương với việc thông qua
Chiến lược cán bộ thời kỳ cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước; Hội nghị lần thứ
bảy Ban chấp hành Trung ương khóa (VIII) về đổi mới hệ thống chính trị. Có thể kể
đến một số cơng trình tiêu biểu sau:
- Đề tài KX 04.01 “Nhà nước pháp quyền XHCN của dân, do dân, vì dân Lý luận và thực tiễn” thuộc Chương trình nghiên cứu khoa học và công nghệ cấp
Nhà nước, mã số KX04 [69]. Đề tài nghiên cứu những học thuyết, tư tưởng về nhà
nước pháp quyền trong lịch sử tư tưởng nhân loại, quan điểm của Chủ nghĩa MácLênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và của Đảng Cộng sản Việt Nam về nhà nước pháp

Luận án tiến sĩ Luật học



9
quyền XHCN của dân, do dân, vì dân. Đặc biệt, đề tài đã phân tích, làm nổi bật các
đặc trưng chính trị, dân chủ và pháp lý của nhà nước pháp quyền XHCN, nhà nước
tôn trọng và bảo hộ quyền con người, quyền cơng dân, phân tích các điều kiện và
các yếu tố chi phối quá trình xây dựng nhà nước ấy ở Việt Nam. Kết quả nghiên
cứu của đề tài, nhất là những luận cứ về đặc trưng của nhà nước pháp quyền XHCN
của dân, do dân, vì dân là cơ sở lý luận quan trọng cho việc nghiên cứu mục tiêu,
yêu cầu đổi mới, cải cách tổ chức và hoạt động của Nhà nước ta trên các lĩnh vực
lập pháp, hành pháp, tư pháp, xây dựng mối quan hệ ràng buộc trách nhiệm giữa
nhà nước và công dân. Đó là những vấn đề có tính phương pháp luận, là chỗ dựa
khoa học cho các nghiên cứu đề tài Luận án. Đề tài KX 04.01 đồng thời đã đưa ra
một hệ thống giải pháp xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam, trong đó
có hệ thống giải pháp tổ chức thực hiện pháp luật, bảo đảm dân chủ, nghiêm minh,
thống nhất, thể hiện tính pháp quyền của nhà nước.
- Đề tài “Đổi mới và tăng cường hệ thống chính trị ở nước ta trong giai đoạn
hiện nay” thuộc Chương trình khoa học và cơng nghệ cấp Nhà nước [3]. Đề tài đã
nghiên cứu khái niệm, cấu trúc và những đặc trưng cơ bản của hệ thống chính trị
nước ta; vị trí của các thiết chế trong hệ thống chính trị, khẳng định nhà nước có vị
trí trụ cột đồng thời đưa ra các giải pháp đổi mới nhà nước, trong đó có việc đổi mới
việc thực thi chức năng và quyền lực của Quốc hội, Chính phủ, các cơ quan tư pháp
và chính quyền địa phương các cấp. Những kết quả nghiên cứu của đề tài là cơ sở
cho các lập luận khẳng định nền hành chính nhà nước là bộ phận cấu thành quan
trọng của hệ thống chính trị nước ta trong thời kỳ đổi mới.
- Đề tài KX-XH 05.03 (2000), “Luận cứ khoa học cho việc nâng cao chất
lượng đội ngũ cán bộ nhằm đáp ứng u cầu cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa” thuộc
Chương trình khoa học cơng nghệ cấp Nhà nước [89], trong đó đã luận chứng một
cách thuyết phục các tiêu chuẩn và giải pháp xây dựng đội ngũ công chức nhà nước
trong thời kỳ đổi mới và hội nhập.
- Bộ sách (2 tập): “Quá trình đổi mới tư duy lý luận của Đảng từ năm 1986

đến nay” (2006) [70]. Tập I của Bộ sách đã dành một Chương trình bày vấn đề “Đổi
mới tư duy lý luận của Đảng trên lĩnh vực chính trị”, phân tích mối quan hệ giữa đổi
mới kinh tế với giữ vững ổn định chính trị và đổi mới lĩnh vực chính trị, sự phát

Luận án tiến sĩ Luật học


10
triển của các quan niệm về đổi mới hệ thống chính trị, xây dựng nền dân chủ
XHCN và phát huy dân chủ trong điều kiện một đảng cầm quyền và nhà nước pháp
quyền; về phát triển nhận thức trong xây dựng nhà nước pháp quyền XHCN của
dân, do dân, vì dân… Tập II của Bộ sách công bố các bài viết của các nhà khoa học
của Học viện về những vấn đề nêu trên, trong đó có những nghiên cứu quá trình
phát triển nhận thức của Đảng về dân chủ với tính cách là chế độ nhà nước XHCN,
về nhà nước pháp quyền và về cải cách nền hành chính nhà nước.
Trong số những cơng trình đã nghiên cứu có thể kể đến hai cơng trình có ý
nghĩa phương pháp luận trực tiếp liên quan đến đề tài là:
- Chương trình KX-07 “Con người - mục tiêu và động lực của sự phát triển
KT - XH và vấn đề con người trong cơng cuộc đổi mới” [34]. Cơng trình đã xây
dựng các khái niệm “con người”, “sự phát triển con người và nhân cách”, “con
người mới”, những nhận thức lịch sử về con người Việt Nam, những biến động
trong thang giá trị và vai trị của con người trong cơng cuộc đổi mới cũng như
những vấn đề về quyền con người, giáo dục con người, vấn đề xây dựng ngành
khoa học nghiên cứu con người Việt Nam.
- Cơng trình nghiên cứu của Đinh Duy Hòa, với tiêu đề “Yếu tố con người
trong CCHC” [39]. Bên cạnh việc phân tích những vấn đề lý luận liên quan đến nền
hành chính, CCHC, sách đã phân tích vai trị của con người với tư cách là chủ thể
cấu thành nền hành chính nhà nước (đội ngũ cơng chức hành chính - nhân vật vận
hành bộ máy hành chính), và với tư cách là chủ thể thực hiện CCHC, chỉ ra những
yếu tố ảnh hưởng và những kiến giải nhằm phát huy nhân tố con người trong thực

hiện CCHC, xây dựng một nền hành chính trong sạch, dân chủ, hiện đại, phục vụ
hiệu quả người dân, đưa đất nước phát triển.
1.2. NHỮNG CƠNG TRÌNH VỀ CÁC VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CƠ BẢN LIÊN
QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI LUẬN ÁN

Đó là những vấn đề lý luận về pháp luật, thực hiện pháp luật, vai trò và mối
quan hệ của nó với xây dựng pháp luật. Từ lâu những vấn đề này đã được nhiều
trường phái, học thuyết chính trị - pháp lý, nhiều nhà tư tưởng lớn của nhân loại quan
tâm nghiên cứu, đề cao. Quản từ - học trò xuất sắc của Hàn Phi tử, người đề xướng
Học thuyết Pháp trị thời Trung Hoa cổ đại, đã nói: “Vua tơi, trên dưới, sang hèn nhất

Luận án tiến sĩ Luật học


11
nhất tuân theo pháp luật ấy là thịnh trị”. Các nhà tư tưởng của Chủ nghĩa Mác - Lênin
trong Học thuyết của mình về Nhà nước kiểu mới XHCN cũng đã đặc biệt đề cao vấn
đề thực hiện pháp luật. Các Mác khi sinh thời đã cho rằng “một đạo luật nếu không
được thực hiện cũng chỉ là đống giấy lộn”. Cùng tư tưởng của Các Mác, VI.Lênin đã
khẳng định“một đạo luật nếu khơng được thực hiện thì cùng lắm cũng chỉ làm lay
động khơng khí”. Đặc biệt, trong Tác phẩm “Chính sách kinh tế mới và những nhiệm
vụ của Ban Giáo dục chính trị”, VI.Lênin đã khẳng định: “Một đạo luật chỉ có thể
đưa đến kết quả xấu hơn, nếu trên thực tiễn nó được đem áp dụng trong điều kiện nạn
hối lộ còn được dung thứ và đang thịnh hành” [48, tr.218]. Các nhà tư tưởng cũng
đồng thời đặc biệt quan tâm đến xây dựng pháp luật, đến chất lượng của pháp luật,
của các đạo luật, coi là tiền đề và điều kiện tiên quyết cho thực hiện pháp luật. Cũng
vì lẽ ấy, khi sinh thời VI.Lênin đã khẳng định: “Mọi đề nghị nhằm sửa đổi những luật
pháp cũ sẽ ln ln khơng gặp một sự kìm hãm nào mà đều gặp sự ủng hộ và thái
độ tốt của bộ máy luật pháp tối cao của chúng ta” [47, tr.251].
Những vấn đề lý luận cơ bản trực tiếp liên quan đến đề tài Luận án, từ những

khái niệm thực hiện pháp luật, các hình thức thực hiện pháp luật, trong đó có hình
thức áp dụng pháp luật, cơ chế điều chỉnh pháp luật, hiệu quả thực hiện pháp luật …
chủ yếu được trình bày trong các giáo trình lý luận chung về nhà nước và pháp luật
của các cơ sở đào tạo luật, như của Viện nhà nước và pháp luật. Học viện Chính trị
quốc gia Hồ Chí Minh và các cơ sở đào tạo luật khác, mà điển hình là của Đại học
Luật Hà Nội. Quan niệm thực hiện pháp luật là q trình hiện thực hóa pháp luật,
với sự tác động đồng thời của các yếu tố chủ quan, khách quan, trong đó có các yếu
tố môi trường, điều kiện kinh tế - xã hội (KT-XH), ý thức và kỹ năng của các chủ
thể trong các quan hệ pháp luật đã được các giáo trình trên trình bày khá chi tiết,
thuyết phục.
Bên cạnh những cơng trình khoa học trình bày các vấn đề lý luận cơ bản nêu
trên đã có những cơng trình nghiên cứu vấn đề thực hiện pháp luật gắn với công
cuộc đổi mới, trong đó có đổi mới tư duy pháp lý. Những cơng trình ấy được triển
khai theo ba hướng nghiên cứu sau:
- Hướng nghiên cứu về hiệu quả thực hiện pháp luật. Nhiều Luận án Tiến sĩ,
luận văn Thạc sĩ luật đã nghiên cứu chất lượng, hiệu quả thực hiện pháp luật trên

Luận án tiến sĩ Luật học


12
từng lĩnh vực quan hệ xã hội mà pháp luật điều chỉnh. Nguyễn Minh Đoan trong sách
“Thực hiện pháp luật và áp dụng pháp luật” [31], đã trình bày những vấn đề lý luận
về thực hiện pháp luật và áp dụng pháp luật đặt trong bối cảnh nhà nước pháp quyền
XHCN, gắn với việc thực hiện đường lối, chủ trương của Đảng. Bên cạnh việc xây
dựng các khái niệm thực hiện pháp luật, áp dụng pháp luật, chỉ rõ các đặc điểm, hình
thức, các nguyên tắc, quy trình thực hiện pháp luật, trong đó có quy trình áp dụng
pháp luật, cuốn sách đã nghiên cứu những bảo đảm thực hiện pháp luật, vấn đề hiệu
quả thực hiện pháp luật ở Việt Nam hiện nay. Sách đã phân tích ba bảo đảm thực
hiện pháp luật, gồm chất lượng của hệ thống pháp luật, trình độ ý thức pháp luật

trong xã hội và các điều kiện, môi trường thực hiện pháp luật. Về hiệu quả thực hiện
pháp luật, sách đã trình bày khái niệm “hiệu quả thực hiện pháp luật”, các tiêu chí
đánh giá hiệu quả và những kiến giải về việc nâng cao hiệu quả thực hiện pháp luật.
- Hướng nghiên cứu những vấn đề lý luận thi hành pháp luật của các cơ quan
nhà nước, trong đó có vấn đề về quản lý nhà nước công tác thi hành pháp luật. Năm
2008, Chính phủ đã ra Nghị định mới số 93/2008/NĐ-CP quy định chức năng,
nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức của Bộ Tư pháp, trong đó có bổ sung nhiệm
vụ theo dõi chung về thi hành pháp luật. Nhằm xây dựng những luận cứ khoa học
về thi hành pháp luật của cơ quan nhà nước, phát triển khoa học pháp lý, phục vụ
trực tiếp cho việc thực hiện Nghị định 93 nêu trên, Bộ Tư pháp đã xây dựng luận cứ
và thực hiện Đề tài khoa học cấp Nhà nước, với tiêu đề “Nâng cao hiệu quả thi hành
pháp luật của các cơ quan nhà nước, đáp ứng yêu cầu của Nhà nước pháp quyền
XHCN Việt Nam” [22]. Trên cơ sở các phương pháp tiếp cận thực hiện pháp luật
theo cơ chế, theo phương pháp toàn diện, liên ngành và thực tiễn. Đề tài đã đề xuất
nghiên cứu bốn nội dung, gồm:
Thứ nhất, nghiên cứu những vấn đề lý luận về thi hành pháp luật, trong đó đã
làm rõ cách thức và đặc trưng thi hành pháp luật của các cơ quan cụ thể trong bộ
máy nhà nước (Quốc hội, CQHC, Tòa án, Viện kiểm sát), nhận diện các yếu tố tác
động đến hiệu quả thi hành pháp luật của các cơ quan đó;
Thứ hai, nghiên cứu kinh nghiệm nước ngoài về nâng cao hiệu quả thi hành
pháp luật của cơ quan nhà nước;
Thứ ba, nghiên cứu thực trạng và dự báo những vấn đề đặt ra trong thi hành
pháp luật của cơ quan nhà nước trên một số lĩnh vực của đời sống KT-XH;

Luận án tiến sĩ Luật học


13
Thứ tư, nghiên cứu các quan điểm, định hướng và giải pháp nâng cao hiệu
quả thi hành pháp luật của cơ quan nhà nước.

Ở nội dung này, Đề tài đã xác định những định hướng và giải pháp hoàn
thiện nhằm phát huy vai trị tích cực của từng loại chủ thể thực hiện chức năng quản
lý, theo dõi công tác thi hành pháp luật.
Có thể khẳng định những cơng trình nghiên cứu thuộc Đề tài theo ba hướng
nghiên cứu trên đã giúp cho NCS tiếp cận được những vấn đề lý luận theo tư duy
pháp lý mới, với các phương pháp tiếp cận mới trong vấn đề thực hiện pháp luật, từ
đó đi sâu nghiên cứu có kết quả khái niệm và những đặc thù trong thực hiện pháp
luật về giải quyết TTHC và những nhiệm vụ khác của Luận án.
1.3. CÁC CƠNG TRÌNH NGHIÊN CỨU NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ
THỰC TIỄN THỰC HIỆN PHÁP LUẬT TRÊN CÁC LĨNH VỰC KHÁC NHAU CỦA
QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC

Những cơng trình nêu trên khá phong phú, được cơng bố dưới hình thức các
sách chuyên khảo, các bài viết trên các tạp chí chuyên ngành, và đặc biệt là các luận
án tiến sĩ, luận văn thạc sĩ luật. Có thể kể đến một số cơng trình sau:
- Luận văn thạc sĩ luật của Nguyễn Việt Đức, đề tài “Thực hiện pháp luật về
đặc xá ở Việt Nam hiện nay” (2012) [32].
- Luận văn thạc sĩ luật của Phạm Duy Hải, đề tài “Thực hiện pháp luật về
dân chủ ở cơ sở trong ngành kiểm sát nhân dân ở Việt Nam” (2012) [35].
Các luận án tiến sĩ luật nghiên cứu về thực hiện pháp luật trên các lĩnh vực hành
pháp, tư pháp và quản lý nhà nước các lĩnh vực xã hội cũng hết sức phong phú, như:
- Luận án Tiến sĩ luật của NCS Lê Xuân Thân, về “Áp dụng pháp luật trong
hoạt động xét xử của Tòa án nhân dân” (2003) [77].
- Mới đây, NCS Trần Thị Quốc Khánh đã bảo vệ thành công luận án tiến sĩ
luật với đề tài “Thực hiện pháp luật về bình đẳng giới ở Việt Nam” [45].
Điểm chung của các cơng trình khoa học nêu trên là trên cơ sở những vấn đề
lý luận cơ bản về thực hiện pháp luật đã đi sâu phân tích các đặc thù của việc thực
hiện pháp luật trên từng lĩnh vực quản lý nhà nước, từng lĩnh vực pháp luật, xem là
cơ sở để luận chứng những giải pháp cần thiết, trong khuôn khổ của cơ chế thực
hiện phù hợp.


Luận án tiến sĩ Luật học


14
Đặc biệt gần đây, từ thực tiễn CCHC, thực hiện Quyết định số 181 của Thủ
tướng Chính phủ ban hành Quy chế thực hiện cơ chế “một cửa” tại CQHC nhà
nước ở địa phương trong việc giải quyết các yêu cầu của cá nhân, tổ chức và Quyết
định số 93 của Thủ tướng Chính phủ về cơ chế một cửa, một cửa liên thông thay thế
cho Quyết định trên đã có những cơng trình nghiên cứu những vấn đề lý luận và
thực tiễn trực tiếp liên quan đến đề tài luận án, đáng chú ý là các cơng trình sau:
- Luận án tiến sĩ của Trần Thanh Phương với đề tài về “TTHC trong hoạt
động của UBND cấp huyện” (2003) [60].
- Luận án tiến sĩ của Nguyễn Hạnh với đề tài về “Hoàn thiện thủ tục pháp lý
về giải quyết khiếu nại của công dân” (2005) [37].
- Luận văn thạc sĩ luật của Lê Thị Hằng, về “Cơ chế một cửa, cơ chế một của
liên thông tại UBND cấp xã của Thành phố Huế hiện nay” (2011) [36].
Kết quả nghiên cứu của các luận án, luận văn trên có giá trị tham khảo bổ ích
cho việc thực hiện luận án của NCS, đặc biệt là những đánh giá về các cơ chế giải
quyết TTHC, những ưu điểm, hạn chế và khó khăn, vướng mắc của việc thực hiện
các cơ chế ấy trong q trình giải quyết TTHC.
1.4. NHỮNG CƠNG TRÌNH NGHIÊN CỨU CÁC VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ NỀN
HÀNH CHÍNH, CẢI CÁCH HÀNH CHÍNH, TRONG ĐĨ CĨ NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ
LUẬN VỀ THỦ TỤC HÀNH CHÍNH, CẢI CÁCH THỦ TỤC HÀNH CHÍNH

Như trên đã nêu, trước Hội nghị lần thứ tám Ban chấp hành Trung ương
(khóa VII) - Hội nghị này được tiến hành vào tháng giêng năm 1995 đã ra Nghị
quyết về “Tiếp tục xây dựng và hoàn thiện Nhà nước Cộng hòa XHCN Việt Nam,
trọng tâm là cải cách một bước nền hành chính” [28] những vấn đề lý luận về nền
hành chính trong khoa học pháp lý và khoa học quản lý hành chính mới được xúc

tiến nghiên cứu; các khái niệm “nền hành chính”, “thể chế hành chính”, “TTHC”,
“cơng vụ hành chính”… được trình bày trong các giáo trình của các bộ mơn khoa
học luật, trực tiếp là giáo trình Luật Hành chính. Như vậy, có thể khẳng định: Hội
nghị trên của Đảng không chỉ là mốc đánh dấu, mở đầu cho công cuộc cải cách sâu
rộng nền hành chính nhà nước ở Việt Nam mà cịn thúc đẩy mạnh mẽ cơng tác
nghiên cứu lý luận về nền hành chính, cải cách nền hành chính, với rất nhiều các
cơng trình khoa học, mà tiêu biểu có thể kể đến một số cơng trình sau:

Luận án tiến sĩ Luật học


15
- Giáo trình “Hành chính học đại cương” (1997) [90]. Có thể khẳng định đây
là cơng trình khoa học nghiên cứu những vấn đề lý luận cơ bản về nền hành chính, về
cấu trúc của nền hành chính và những vấn đề liên quan, như kiểm tra, giám sát hành
chính, thơng tin trong hoạt động quản lý hành chính, vấn đề CCHC. Sách đã dành
một chương nghiên cứu những vấn đề lý luận về TTHC, như khái niệm, ý nghĩa của
TTHC, phân loại TTHC, các nguyên tắc xây dựng và thực hiện TTHC và vấn đề cải
cách một bước TTHC ở Việt Nam hiện nay. Từ quan niệm chung “thủ tục là phương
cách giải quyết cơng việc theo một trình tự nhất định” các tác giả cuốn sách đã đi tới
quan niệm tổng quát về TTHC, khẳng định “TTHC là trình tự về thời gian, khơng
gian và là cách thức giải quyết công việc của CQHC nhà nước trong mối quan hệ với
cơ quan, tổ chức, cá nhân công dân”, “là một loại hình quy phạm hành chính” [90,
tr.208]. Giáo trình cũng xây dựng, phân tích các tiêu chí phân loại TTHC, các nguyên
tắc xây dựng và thực hiện TTHC, vai trò của TTHC và vấn đề cải cách TTHC.
- Giáo trình Luật Hành chính Việt Nam của các cơ sở đào tạo luật (Đại học
Luật Hà Nội, Khoa Luật Đại học quốc gia Hà Nội, Viện Đại học Mở Hà Nội…).
Điểm chung của các giáo trình trên là đều xác định TTHC là một chế định thuộc phần
chung của ngành luật hành chính, với những nội dung lý luận khá nhất quán trên
những vấn đề về khái niệm, đặc điểm của TTHC, phân loại TTHC, các nguyên tắc

xây dựng và thực hiện TTHC. Trên cơ sở kế thừa những tri thức lý luận của những
giáo trình của các cơ sở đào tạo luật khác, đồng thời tổng kết thực tiễn thực hiện Nghị
định 63/2010/NĐ-CP ngày 08/6/2010 của Chính phủ về kiểm soát TTHC (sau đây
gọi là Nghị định số 63) [16], các Quyết định của Thủ tướng Chính phủ về cơ chế giải
quyết TTHC cho cá nhân, tổ chức, các tác giả giáo trình Luật Hành chính Việt Nam
của Viện Đại học mở đã quan niệm “TTHC là cách thức tiến hành hoạt động quản lý
hành chính nhà nước, được QPPL hành chính quy định, trong đó xác định rõ các việc
cụ thể, yêu cầu, điều kiện đối với những việc ấy cũng như trình tự thực hiện mà các
cơ quan nhà nước, CBCC nhà nước, các cá nhân, tổ chức có liên quan phải tuân thủ”
[120]. Với quan niệm ấy, TTHC là cách thức thực hiện hoạt động quản lý hành chính
nhà nước, cũng là cách thức thực hiện quyền hành pháp do nhân dân ủy nhiệm cho
CQHC, đồng thời là cách thức phục vụ nhân dân của nền hành chính nhằm đáp ứng
tốt nhất các yêu cầu về vật chất, tinh thần của nhân dân. Các tác giả giáo trình cũng

Luận án tiến sĩ Luật học


16
nhấn mạnh: Trong nhà nước pháp quyền XHCN, TTHC - về bản chất, là “tổng hịa
của nhiều thuộc tính, trong đó tính hợp lý, đơn giản, chặt chẽ và tính phục vụ là
những thuộc tính quan trọng nhất, thể hiện tập trung trong việc xây dựng và thực hiện
TTHC giải quyết các công việc của cá nhân, tổ chức” [120]. Giáo trình Luật Hành
chính Việt Nam nêu trên đã xác định các nguyên tắc quan trọng trong thực hiện
TTHC, trong đó có ngun tắc cơng khai, minh bạch, ngun tắc dân chủ, nguyên tắc
đề cao trách nhiệm của người đứng đầu cơ quan có thẩm quyền quy định TTHC và
của cơ quan, CBCC tham gia thực hiện TTHC.
Bên cạnh các giáo trình, đã có một loạt các cơng trình khoa học được cơng
bố dưới hình thức các sách chun khảo, các đề tài khoa học công nghệ các cấp,
các bài viết trên các tạp chí chuyên ngành nghiên cứu những vấn đề lý luận liên
quan đến nền hành chính, các yếu tố cấu thành nền hành chính, trong đó có thể

chế hành chính, TTHC, vấn đề cải cách bộ máy hành chính, xây dựng đội ngũ
CBCC hành chính, nhận thức của Đảng về CCHC. Có thể kể đến một số cơng
trình khoa học sau:
- Đề tài khoa học cấp Bộ “Cơ sở khoa học của phân công, phân cấp quản lý
CBCC lãnh đạo cao cấp trong CCHC hiện nay” (1997) [7].
- Đề tài khoa học cấp Bộ “Xây dựng nền hành chính cơng theo u cầu phát
triển, hội nhập trong môi trường khoa học và công nghệ hiện đại” [41].
- Đồn Trọng Truyến (1999), “So sánh hành chính các nước ASEAN” [91].
- Bùi Thế Vĩnh (Chủ biên) (1999), “Thiết kế tổ chức các cơ quan hành
chính nhà nước” [122].
- Viện Nghiên cứu Khoa học tổ chức, Bộ Nội vụ (2004), “Thực trạng chồng
chéo chức năng, nhiệm vụ giữa các Bộ, cơ quan ngang Bộ, cơ quan thuộc Chính
phủ và giữa Trung ương - địa phương. Các khuyến nghị và giải pháp” [121].
- Nguyễn Văn Thâm (2000), “Những nguyên nhân ảnh hưởng đến quá trình
CCHC” [76].
- Kỷ yếu Hội thảo khoa học của Văn phịng Chính phủ về Dự thảo Luật
TTHC, tổ chức tại thành phố Hạ Long, tháng 7/2007 [115].
- Kỷ yếu Hội thảo khoa học của Văn phịng Chính phủ góp ý Dự thảo Luật
TTHC, tổ chức tại Hội An, tháng 3/2008 [114].

Luận án tiến sĩ Luật học


17
Kỷ yếu của hai cuộc Hội thảo khoa học trên đã tập hợp nhiều bài nghiên cứu,
trong đó có bài “Các yêu cầu trong Hiệp định Thương mại song phương Việt Nam Hoa Kỳ và các Hiệp định của Tổ chức Thương mại thế giới (WTO) về TTHC” của
John Benliley - Cố vấn trưởng pháp luật của Dự án Star - Việt Nam. Bài viết là
cơng trình khoa học có giá trị tham khảo bổ ích khơng chỉ cho việc bảo đảm tính
phù hợp của Luật TTHC với pháp luật và thơng lệ quốc tế mà cịn gợi mở nhiều vấn
đề quan trọng trong việc hoàn thiện và thực hiện pháp luật TTHC.

Ngoài ra, Kỷ yếu Hội thảo khoa học của Bộ Tư pháp trong khuôn khổ Dự án
VE/02/015-VNCI về “Báo cáo đánh giá tác động của Dự thảo Luật Ban hành văn
bản QPPL (sửa đổi)” [76] cũng có nhiều bài viết của các nhà khoa học nghiên cứu
các yếu tố ảnh hưởng đến tính hiệu quả và khả thi của pháp luật, đụng chạm trực
tiếp đến việc xây dựng và thực hiện pháp luật TTHC.
Nhằm thực hiện Đề án “Đơn giản hóa TTHC trên các lĩnh vực quản lý nhà
nước, giai đoạn 2007-2010” [82] theo Quyết định 30/QĐ-TTg ngày 10/01/2007 của
Thủ tướng Chính phủ (Đề án 30) và từ kết quả thực hiện Đề án, nhiều tác giả, trong
đó có Cục Kiểm sốt TTHC, Bộ Tư pháp đã biên tập nhiều sách tham khảo có giá
trị lý luận và thực tiễn, nhất là giá trị thực tiễn, trong xây dựng và thực hiện pháp
luật về giải quyết TTHC, đáng chú ý là các ấn phẩm sau:
- Các Hiệp hội doanh nghiệp Việt Nam, “Kiến nghị chính sách thương mại”
(2011) [21]. Cuốn sách được biên tập dưới sự tài trợ của Liên minh Châu Âu, được
coi là “Cuốn sách trắng”, trình bày các quan điểm, kiến nghị của các Hiệp hội
doanh nghiệp Việt Nam, như Hiệp hội Dệt may Việt Nam (VITAS), Hiệp hội Da
giày Việt Nam (LEFASO), Hiệp hội Chế biến và xuất khẩu thủy sản Việt Nam
(VASEP), Hiệp hội các Doanh nghiệp nhỏ và vừa thành phố Hà Nội (HASMEX),
Phịng Cơng nghiệp và Thương mại Việt Nam Chi nhánh thành phố Hồ Chí
Minh… nhằm cải thiện mơi trường kinh doanh, tháo gỡ những khó khăn về chính
sách, pháp luật, thực thi pháp luật, trong đó có đơn giản hóa TTHC trên các lĩnh vực
thuế, xuất nhập khẩu, quyền sở hữu trí tuệ, hạ tầng cơ sở khu, cụm cơng nghiệp,
chất lượng văn bản pháp luật, góp phần tăng cường năng lực về chính sách thương
mại cho các Hiệp hội doanh nghiệp Việt Nam.
- Đặc san của Tạp chí Đầu tư nước ngoài, với tiêu đề “Chung tay cải cách
TTHC” [75]. Đặc san đăng tải nhiều bài viết về kết quả nghiên cứu thực tiễn cải

Luận án tiến sĩ Luật học


18

cách và thực hiện TTHC, trong đó có bài viết của Nguyễn Minh Mẫn về “Cách
làm mới thể hiện quyết tâm chính trị”; bài “Mấu chốt thành cơng là từ người đứng
đầu”, tác giả Đinh Văn Ân; bài “Chính phủ cần tiếp tục điều hành trực tiếp”, tác
giả Lê Quốc Ân; bài “Máy xén phải đủ mạnh”, tác giả Dương Thu Hương; bài
“Ba được hai chưa”, tác giả Nguyễn Đình Cung; bài “Phải gỡ từ gốc những xung
đột giữa các luật”, tác giả Trần Du Lịch… Đặc biệt, Đặc san cũng đăng tải nhiều
bài viết về những thành công, những khó khăn, vướng mắc trong cải cách và thực
hiện TTHC ở một số địa phương, ngành KT-XH, như “Hà Nội- hiệu quả và quyết
tâm cải cách”, của tác giả Hiếu Chi; “Thành phố Hồ Chí Minh - Hiệu quả kinh tế chính trị thiết thực” của tác giả Hồi Nam; “Bắc Ninh và cuộc tổng động viên cho
cải cách” của tác giả Hoài Ngân; “Đề án 30 và Tập đoàn Dầu khí quốc gia” của
tác giả Đinh La Thăng; bài “Gỡ rối thủ tục xây dựng” của Nguyễn Long; bài “Các
hiệp hội muốn tăng cường đối thoại”, khảo sát của Hội đồng Tư vấn thuộc Ban
Chỉ đạo Đề án 30; “Tân Cảng Sài Gòn - Hiệu quả lớn từ đơn giản TTHC” của
Đinh Mạnh,…
- “Sổ tay nghiệp vụ kiểm soát thủ tục hành chính” (2012) [20]. Mặc dù tên
gọi là “Sổ tay nghiệp vụ kiểm sốt thủ tục hành chính” song cuốn sách có giá trị lý
luận và thực tiễn quan trọng, trong đó đã trình bày những vấn đề lý luận về kiểm
soát TTHC, về sự tham gia ý kiến đối với quy định về TTHC, tính tốn chi phí xây
dựng và thực hiện TTHC, cơng bố cơng khai TTHC, rà soát quy định TTHC, vấn
đề tiếp cận, xử lý phản ánh, kiến nghị, kiểm tra việc thực hiện TTHC, và đặc biệt là
vấn đề quản lý và sử dụng cán bộ đầu mối kiểm sốt TTHC. Có thể khẳng định
cuốn sách là cơ sở quan trọng để Luận án tham khảo trong các nghiên cứu việc thực
hiện và kiểm sốt TTHC của chính quyền cấp tỉnh ở Việt Nam.
1.5. CÁC CƠNG TRÌNH NGHIÊN CỨU CỦA CÁC TÁC GIẢ NƯỚC NGỒI

Một số tác giả nước ngồi có cơng trình nghiên cứu về nền hành chính, về vị
trí, vai trị của các cấu trúc nền hành chính, về quản trị nhân sự hành chính, về
CCHC ở các nước đang phát triển và về TTHC. Những cơng trình đó đã đưa ra
những nhận định, đánh giá mang tính khoa học, khách quan đối với công cuộc
CCHC nhà nước ở Việt Nam. Đáng chú ý trong các cơng trình đó là những báo cáo


Luận án tiến sĩ Luật học


19
của Ngân hàng Châu Á, Ngân hàng Thế giới, các tổ chức quốc tế có dự án tài trợ
nhằm nâng cao năng lực xây dựng pháp luật của Quốc hội, Chính phủ. Đặc biệt, Dự
án STAR-Việt Nam đã đề cập nhiều vấn đề trực tiếp đến cải cách TTHC, bảo đảm
tính cơng khai, minh bạch, tiết kiệm, tạo cơ hội tối đa trong tiếp cận pháp luật của
các cá nhân, tổ chức có nhu cầu giải quyết thủ tục, kinh nghiệm cải cách TTHC ở
một số nước trên thế giới, cụ thể là:
- Kỷ yếu Hội thảo khoa học “Nâng cao năng lực của cán bộ Chính phủ trong
CCHC” [42]. Kỷ yếu trình bày những kinh nghiệm xây dựng nguồn nhân lực cán
bộ Chính phủ, vai trị và nội dung hoạt động của Viện Nhân sự trong cơ cấu Chính
phủ, những vấn đề về tổ chức nhân sự nền hành chính.
- Kỷ yếu Hội thảo khoa học về “Quản lý thể chế và năng lực cạnh tranh
trong nền kinh tế suy thối” [43]. Hội thảo đã có nhiều tham luận quan trọng, đáng
chú ý là tham luận của TS.Jim Winkler, Giám đốc Dự án VNCI (Hỗ trợ phát triển
chính sách) về “Năng lực cạnh tranh và hiện đại hóa mơi trường thể chế”, về “Làm
sạch môi trường thể chế’; bài “Quản lý thể chế và đánh giá dự báo tác động chính
sách” của Faisal Waru, Cố vấn cao cấp về cải cách thể chế, Dự án VNCI… Các tác
giả trong các bài viết nêu trên đã trình bày kinh nghiệm thành công của các nước
Mêhicô, Croattia, Hàn Quốc về cải cách TTHC và bài học cho Việt Nam.
- Trong Đặc san của Tạp chí Đầu tư nước ngồi, với tiêu đề “Chung tay cải
cách thủ tục hành chính” như đã nêu trên, đã có nhiều tác giả nước ngồi trình bày
các bài viết nghiên cứu về cải cách thể chế, trong đó có cải cách TTHC ở Việt Nam:
+ Michael Foster trong bài viết của mình - Đề án 30, giải pháp kịp thời và nỗ
lực của cơ quan Kiểm soát TTHC [74], đã đánh giá ý nghĩa, kết quả của Đề án 30,
đồng thời chỉ ra những tồn tại cần khắc phục. Theo tác giả, Việt Nam đã xác định
rằng cần có một làn sóng cải cách mới với sự quan tâm thích đáng về các tác động

của TTHC đối với môi trường đầu tư, khả năng cạnh tranh kinh tế và tăng trưởng,
và Đề án 30 chính là một giải pháp kịp thời, thành công lâu dài của nó phần lớn sẽ
phụ thuộc vào động lực hiện có và việc thực thi nghiêm chỉnh các cải cách của các
cơ quan nhà nước theo hướng dẫn của Nghị định 63 mới được phê duyệt và bởi nỗ
lực của cơ quan kiểm soát TTHC.

Luận án tiến sĩ Luật học


20
+ Jim Winkler trong bài viết “Năng lực và thẩm quyền thực sự cho cơ quan
kiểm soát TTHC” [73] đã nhấn mạnh đến vai trị điều tiết của Chính phủ trong cải
cách và thực hiện TTHC, mà cụ thể là cơ quan kiểm soát TTHC phải đảm bảo rằng
việc đánh giá tác động của các luật lệ được thể hiện không chỉ đối với các TTHC
mà cả đối với các luật, pháp lệnh, nghị định. Cơ quan này cần phải có trách nhiệm
và khả năng để phối hợp thực hiện từ Trung ương đến địa phương.
+ Alanin Cany trong bài “Tiếp tục cải cách toàn diện và quyết liệt hơn” [71]
đã đề cập đến vai trò của các tổ chức phi Chính phủ ở Việt Nam, trong đó có
EUROMAM trong việc hỗ trợ Đề án 30.
- Sách “Hành chính trực tuyến - Hướng dẫn căn bản về chính phủ điện tử ở
Áo” [59]. Với quan niệm chính phủ điện tử nói chung “nghĩa là đơn giản hóa các
quy trình, thủ tục công việc hàng ngày thông qua ứng dụng công nghệ thông tin và
truyền thông vào các lĩnh vực quản trị thông tin, truyền thông và thủ tục trong nội
bộ và giữa các cơ quan nhà nước, cũng như giữa chính phủ và cơng dân, doanh
nghiệp” [59, tr.4]. Cuốn sách đã trình bày các yếu tố cơ bản của chính phủ điện tử,
lịch sử và tổ chức chính phủ điện tử ở Áo, nội dung và vai trò của dịch vụ điện tử
đối với công dân, doanh nghiệp, với các cơ quan cơng quyền, trong đó có “Trang
web HELP.gvoat cổng thông tin một cửa và ứng dụng mã số công dân, hệ thống
định danh cá nhân thống nhất trên phạm vi tồn nước Áo” [59, tr.2], nhờ đó “tồn
bộ quy trình có thể được thực hiện theo phương thức điện tử, mà không cần phải in

ra giấy ở bất kỳ khâu nào, từ việc điền mẫu đơn, nộp lệ phí, cho đến xử lý công việc
nội bộ (hệ thống hồ sơ điện tử ELAR) và gửi công văn, thông báo” [59, tr.2]. Cuốn
sách cũng cho biết nước Áo đã ban hành Luật Chính phủ điện tử, và nhờ những
thành tựu xây dựng chính phủ điện tử mà “góp phần đưa Áo tiến đến vị trí dẫn đầu
từ xuất phát điểm là vị trí thứ 13 năm 2012” [59, tr.2] trong Cộng đồng Châu Âu về
cải cách, đơn giản hóa và thực hiện TTHC. Có thể khẳng định cuốn sách đã gợi mở
những nhận thức mới, cách làm mới trong cải cách và thực hiện TTHC ở Việt Nam,
trong đó có việc áp dụng công nghệ thông tin và truyền thông, mà bước tiến vừa
qua là việc xúc tiến nghiên cứu áp dụng mã định danh cá nhân công dân do các cơ
quan Chính phủ tiến hành.

Luận án tiến sĩ Luật học


21
Một số cơng trình khác của tổ chức, học giả nước ngồi (tiếng Anh) trình bày
những bình luận, đánh giá về công cuộc cải cách TTHC ở Việt Nam và một số
nước, trong đó có:
- OECD (2011), “Administrative Simplìication in Vietnam supporting the
conapetitiveness of the Vietnamese economy" [128]. OECD là một diễn đàn dành
cho Chính phủ của các nền kinh tế thị trường phát triển nhất cùng nhau bàn bạc, giải
quyết các vấn đề kinh tế mà nền kinh tế nước họ đặt ra và kinh tế toàn cầu. Hiện
OECD có 34 thành viên là những nước phát triển, có thu nhập cao, trong đó Châu
Âu có 25 thành viên, Châu Mỹ có 4 thành viên, Châu Á có 3 thành viên (Nhật Bản,
Hàn Quốc, Israel), Châu Đại Dương có 02 thành viên gồm Newzeland và Úc.
Với tiêu đề nêu trên, Ấn phẩm trình bày mục đích, phạm vi, bối cảnh chính
trị, kinh tế ra đời của Đề án 30, những đánh giá cụ thể, trong đó có đánh giá về quy
trình một cửa và rộng hơn là tính hiệu quả của thể chế mới ở Việt Nam, những đổi
mới trong việc lấy ý kiến nhân dân về dự thảo luật mới, những đánh giá và đề xuất
các phương hướng để phát triển cải cách thể chế tại Việt Nam trong tương lai, trong

đó cơng khai, minh bạch, hiệu quả là những phương hướng ưu tiên.
OECD đồng thời cịn cơng bố nhiều ấn phẩm về cải cách thể chế, chính sách
đầu tư ở Việt Nam, về xúc tiến đến tự do thương mại và đầu tư của các nước công
nghiệp APEC, về cải cách thể chế ở Italia, Pháp, các nước Đông Nam Á.
- ACAPR "Advisory Council for Administrative Procedure Reform" (2009)
Preliminary Survey of Administrative Procedures, hanoi [124].
- Acuna - Afaro, Sairo (ed) (2009), "Reforming Public Administration in
Vietnam: Current Situation and Recommendations", United Wations Development
Programme Vietnam Hanoi. Ấn phẩm trình bày “CCHC nhân dân ở Việt Nam Thực trạng và đề xuất” [125].
- APEC "Asia-Pacific Economic Cooperation), Economic Committee"
(2009), “Vietnam: Developments in Regulatory Reform”, in: APEC Economic
Committee, APEC Economic Policy Report, Singapore [126], trình bày những
bước phát triển về cải cách thể chế ở Việt Nam.
- ICAS "Investment Climate Advisiry cervices) of the World Bank Group"
(2010) “Better Regulation for Growth: Regulatory Governance in Developing

Luận án tiến sĩ Luật học


22
Countries”, Report wrepared by Scott Jacobs and Peter Ladegaard, IFC
(Internationnal Finandce Co-operation) Washington DC [127]. Báo cáo của ICAS Tổ chức dịch vụ tư vấn đầu tư của Ngân hàng Thế giới về “Quy định tốt hơn cho sự
phát triển: Bộ máy, thể chế tại các nước đang phát triển (2010)”.
- Schwarz, Matthew (2010), “Project 30: A Revolution in Vietnamese
Governance”, Brookings Northeast Asia Commentary, No 41, The Brookings
Institution, Washington DC [129]. Bình luận của Brookings Đơng Nam Á, với tiêu
đề: “Đề án 30: Cuộc cách mạng của Chính phủ Việt Nam”, đã đánh giá cao ý nghĩa
và vai trò của Đề án 30 trong công cuộc cải cách thể chế ở Việt Nam.
Tổng quan tình hình nghiên cứu nói trên cho thấy tuy có sự nghiên cứu riêng
lẻ theo những hướng khác nhau, nhưng các cơng trình nghiên cứu đã góp phần khái

qt được một số mơ hình giải quyết TTHC chủ yếu. Những nghiên cứu trên là cơ sở
khoa học quan trọng, hữu ích cho việc nghiên cứu đề tài Luận án. Thực tế cho thấy,
cho đến nay vẫn chưa có cơng trình nào nghiên cứu một cách tồn diện, có hệ thống,
chuyên sâu những vấn đề lý luận và thực tiễn thực hiện pháp luật về giải quyết TTHC
của các cơ quan nhà nước, trong đó có cơ quan nhà nước cấp tỉnh ở Việt Nam.
Kết luận chương 1
Tổng quan tình hình nghiên cứu ở trong nước và nước ngoài cho thấy trong
thời kỳ đổi mới, hội nhập quốc tế đã có nhiều cơng trình khoa học có nội dung
nghiên cứu liên quan đến đề tài.
Ở trong nước, các tác giả đã nghiên cứu khá công phu, nghiêm túc, với các
góc độ, hình thức khác nhau, tập trung nghiên cứu những vấn đề chung về lý luận
và lịch sử nhà nước và pháp luật, mơ hình nhà nước pháp quyền, mơ hình giải quyết
TTHC; những vấn đề riêng về thực hiện pháp luật về giải quyết TTHC ở một số
nước trên thế giới. Một số cơng trình đã nghiên cứu trực tiếp về giải quyết TTHC
của cơ quan nhà nước ở Việt Nam. Những cơng trình nghiên cứu trên ít nhiều có sự
liên quan đến đề tài Luận án và là cơ sở khoa học để tham khảo trong q trình thực
hiện đề tài. Tuy nhiên, các cơng trình nghiên cứu đó chưa nghiên cứu một cách có
hệ thống, toàn diện những vấn đề lý luận về thực hiện pháp luật về giải quyết TTHC
của cơ quan nhà nước cấp tỉnh ở Việt Nam.

Luận án tiến sĩ Luật học


23
Chương 2
CƠ SỞ LÝ LUẬN THỰC HIỆN PHÁP LUẬT VỀ GIẢI QUYẾT
THỦ TỤC HÀNH CHÍNH CỦA CƠ QUAN NHÀ NƯỚC CẤP TỈNH
2.1. KHÁI NIỆM, ĐẶC ĐIỂM CỦA PHÁP LUẬT VỀ GIẢI QUYẾT THỦ TỤC
HÀNH CHÍNH CỦA CƠ QUAN NHÀ NƯỚC CẤP TỈNH


2.1.1. Khái niệm pháp luật về giải quyết thủ tục hành chính
Khái niệm pháp luật về giải quyết TTHC liên quan đến khái niệm TTHC và
giải quyết TTHC. Như phần Mở đầu của Luận án đã phân tích, việc nghiên cứu
những vấn đề lý luận về nền hành chính, trong đó có các khái niệm thể chế hành
chính, TTHC, cơng chức, cơng vụ hành chính… chỉ được chú ý sau khi Đảng đề ra
Nghị quyết về CCHC tại Hội nghị lần thứ 8 Ban chấp hành Trung ương (Khóa VII).
Cho đến nay, mặc dù đã có nhiều cơng trình khoa học pháp lý nghiên cứu nhưng
vẫn có nhiều khái niệm, trong đó có khái niệm TTHC và giải quyết TTHC vẫn chưa
có sự nhận thức thống nhất. Trong khi hai khái niệm này là khái niệm cơ sở để
nghiên cứu, xây dựng khái niệm pháp luật về giải quyết TTHC. Vì lẽ ấy và để bảo
đảm sự nhất quán trong các phân tích, Luận án tiếp cận và xây dựng khái niệm
TTHC và khái niệm giải quyết TTHC như sau:
2.1.1.1. Khái niệm thủ tục hành chính
Khái niệm TTHC, rộng hơn là khái niệm thủ tục nhà nước liên quan đến một
khái niệm chung hơn, là khái niệm thủ tục. Về mặt thuật ngữ, nghĩa của từ thủ tục
được các từ điển giải thích nhưng có sự khác biệt nhất định. Chẳng hạn “thủ tục là
những việc cụ thể phải làm theo một trật tự quy định để tiến hành một cơng việc có
tính chất chính thức” [123, tr.927]; “thủ tục là cách thức tiến hành một công việc
với nội dung và trình tự nhất định, theo quy định của cơ quan nhà nước” [123,
tr.1535]. Từ điển Hán - Việt của Giáo sư Đào Duy Anh quan niệm “thủ tục là các
trình tự và phương pháp làm việc” [1, tr.441]. Từ điển Bách khoa Việt Nam thủ tục
được hiểu là “cách thức đã định để thực hiện một hoạt động” [120, tr.274].
Từ các quan niệm trên có thể thấy ở góc độ chung nhất, thủ tục bao gồm hai
yếu tố cơ bản là trình tự và cách thức, trong đó trình tự xác định quy trình, tức là trật
tự các bước, các giai đoạn tiến hành công việc; cách thức xác định phương pháp

Luận án tiến sĩ Luật học


24

tiến hành các công việc, gắn với những hoạt động cụ thể. Các hoạt động của cơ
quan nhà nước, trong đó có các hoạt động quản lý hành chính nhà nước đều được
diễn ra phổ biến với nhiều hành vi (hoạt động) kế tiếp nhau, với trình tự thời gian và
những công việc cụ thể, xác định, theo những thủ tục nhất định. Như vậy, trình tự là
yếu tố quan trọng và khơng thể thiếu của thủ tục nói chung và của TTHC nói riêng.
Tuy nhiên, trình tự mới chỉ là yếu tố có tính hình thức, để trình tự được tơn trọng và
thực hiện thì địi hỏi phải có cách thức phù hợp. Ví dụ, để giải quyết khiếu nại,
CQHC có thẩm quyền phải tiến hành các hoạt động để xác minh, làm rõ các vấn đề
có liên quan, như người khiếu nại có quyền khiếu nại khơng, thời hiệu và thời hạn
khiếu nại, đối tượng, nội dung khiếu nại, từ đó có cách thức giải quyết hợp lý.
Ngược lại, cách thức để tiến hành các hoạt động có ý nghĩa rất quan trọng, nhưng
nó chỉ có thể đạt được hiệu quả khi được áp dụng một cách đúng đắn, theo những
trình tự và thời gian nhất định. Nói cách khác, trình tự và cách thức thực hiện các
hoạt động cụ thể nhằm đạt được mục đích đặt ra là hai mặt có mối quan hệ mật thiết
với nhau của thủ tục.
Khái niệm thủ tục là khái niệm cơ bản cho phép đi sâu nghiên cứu khái niệm
thủ tục trên các lĩnh vực cụ thể, trong đó có khái niệm TTHC. Theo tác giả Trần
Thanh Phương trong nghiên cứu của mình về TTHC trong hoạt động của UBND
cấp huyện (năm 2003) đã quan niệm: “TTHC là cách thức và trình tự do luật hành
chính điều chỉnh về việc tiến hành các hoạt động của các cơ quan quản lý nhà nước
có thẩm quyền trong lĩnh vực quản lý nhà nước nhằm đạt tới những kết quả nhất
định đã được dự liệu trong pháp luật” [60]. Quan niệm này đã coi TTHC là phương
pháp điều chỉnh của luật hành chính đối với các hoạt động của CQHC trong quản lý
hành chính nhà nước các lĩnh vực của đời sống xã hội, theo những mục tiêu quản lý
đã được xác định. Tác giả Nguyễn Hạnh khi nghiên cứu đề tài “Hoàn thiện thủ tục
pháp lý về giải quyết khiếu nại của cơng dân” (năm 2005) đã quan niệm: “TTHC là
trình tự, cách thức do pháp luật hành chính quy định, để các CQHC nhà nước có
thẩm quyền tiến hành các hoạt động của mình trong phạm vi và lĩnh vực quản lý
hành chính, nhằm mục đích thực hiện các quy phạm vật chất do pháp luật hành
chính và các quy phạm của các ngành luật khác quy định” [37]. Theo quan niệm

này, TTHC được hiểu là các quy phạm thủ tục (hình thức), là một bộ phận cấu

Luận án tiến sĩ Luật học


25
thành của pháp luật hành chính; giữa quy phạm thủ tục và quy phạm vật chất có
mối quan hệ mật thiết với nhau, quy phạm thủ tục được quy định để thực hiện các
quy phạm vật chất.
Khái niệm TTHC cũng được đề cập trong các giáo trình giảng dạy của các
cơ sở đào tạo luật, hành chính. Nhìn chung, trong các giáo trình này đều có một
điểm chung là coi TTHC là một chế định độc lập của ngành luật hành chính, bao
gồm các quy phạm hình thức, đồng thời đều giải thích TTHC là trình tự và cách
thức tiến hành các hoạt động quản lý hành chính nhà nước. Tuy nhiên, về nội hàm
và cách thể hiện khái niệm TTHC trong mỗi giáo trình cụ thể vẫn có những khác
biệt nhất định. Ví dụ, Giáo trình Luật Hành chính Việt Nam của Khoa Luật Đại học
Quốc gia quan niệm: “Bộ phận những thủ tục của hoạt động quản lý được luật hành
chính quy định gọi là TTHC… Là trình tự và cách thức thực hiện những hành động
nhất định nhằm đạt tới những hệ quả pháp lý mà phần quy định của quy phạm vật
chất dự kiến trước” [46, tr.487]. Giáo trình Luật Hành chính Việt Nam của Đại học
Luật Hà Nội quan niệm: “TTHC là cách thức tổ chức thực hiện hoạt động quản lý
hành chính nhà nước được quy định trong các quy phạm pháp luật hành chính, bao
gồm trình tự, nội dung, mục đích, cách thức tiến hành các hoạt động cụ thể trong
quá trình giải quyết các cơng việc của quản lý hành chính nhà nước” [26, tr.144].
Trong giáo trình “Hành chính học đại cương” do Giáo sư Đoàn Trọng Truyến chủ
biên, khái niệm TTHC được trình bày một cách cụ thể hơn:
Thủ tục hành chính là trình tự về thời gian, khơng gian và là cách thức
giải quyết công việc của cơ quan hành chính nhà nước nhà nước trong
mối quan hệ với cơ quan, tổ chức, cá nhân cơng dân. Nó được đặt ra để
các cơ quan nhà nước có thể thực hiện một hình thức hoạt động cần thiết

của mình, trong đó bao gồm cả trình tự thành lập các cơng sở, trình tự bổ
nhiệm, bãi nhiệm, trình tự điều hành, tổ chức các hoạt động tác nghiệp
hành chính [90, tr.208].
Từ các phân tích trên cho thấy, quan niệm về TTHC về cơ bản đã có sự thống
nhất, mà cụ thể là đã có sự thống nhất về những yếu tố tạo thành TTHC, về những
đặc điểm chung của TTHC. Tuy nhiên các quan niệm trên cịn có hạn chế là chưa đề
cập hoặc đề cập chưa rõ những yêu cầu mới đối với TTHC trong cải cách TTHC hiện

Luận án tiến sĩ Luật học


×