Tải bản đầy đủ (.doc) (12 trang)

Bài thu hoạch Lớp bồi dưỡng nhận thức về đảng

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (120.2 KB, 12 trang )

BÀI THU HOẠCH
LỚP BỒI DƯỠNG NHẬN THỨC VỀ ĐẢNG NĂM 2023

Họ và tên:
Sinh ngày:
Quê quán :
Đơn vị :
Chi bộ :
-------------------------------------------------------Câu 1: Phân tích những nội dung cơ bản của nguyên tắc tập trung dân chủ nêu
trong Điều lệ Đảng cộng sản Việt Nam?
Trả lời:
Một trong những vấn đề được Đảng, Nhà nước và nhân dân ta đặc biệt quan
tâm hiện nay đó là vấn đề thực hiện nguyên tắc tập trung dân chủ của tổ chức cơ sở
Đảng. Nguyên tắc tập trung dân chủ có vị trí, vai trị và tầm quan trọng hàng đầu
trong tổng thể các nguyên tắc tổ chức, sinh hoạt và bảo đảm sự vững mạnh về
chính trị, tư tưởng và tổ chức của Đảng. Tập trung dân chủ là nguyên tắc cơ bản
trong 5 nguyên tắc về tổ chức và hoạt động của Đảng; được xem là nguyên tắc
sống còn, nguyên tắc căn bản chi phối các nguyên tắc khác. Nguyên tắc tập trung
dân chủ là sự kết hợp hài hoà giữa hai mặt tập trung và dân chủ. Cả hai mặt tập
trung và dân chủ tạo thành chỉnh thể thống nhất của một nguyên tắc, trong đó, dân
chủ là điều kiện, là tiền đề của tập trung; còn tập trung là cơ sở, là cái bảo đảm cho
dân chủ được thực hiện. Thực hiện tốt ngun tắc này sẽ góp phần quan trọng vào
cơng cuộc xây dựng và chỉnh đốn Đảng ngày càng trong sạch, vững mạnh.
Chế độ tập trung dân chủ dựa trên cơ sở những địi hỏi khách quan của
phong trào vơ sản. Trong cuộc đấu tranh để tự giải phóng mình, giai cấp vô sản
phải đương đầu với một kẻ thù có tổ chức, bộ máy nhà nước hùng mạnh là giai cấp
tư sản. Muốn chiến thắng, giai cấp vô sản phải có ý thức tổ chức kỷ luật cao, đồn
kết thống nhất và phải thành lập chính đảng của mình. Mác, Ăng nghen và Lênin
đã xây dựng, luận chứng và áp dụng nguyên tắc tập trung dân chủ làm nguyên tắc
tất yếu trong xây dựng và hoạt động của đảng cách mạng của giai cấp cơng nhân.
Chủ tịch Hồ Chí Minh người sáng lập, giáo dục và rèn luyện Đảng ta đã vận dụng


và phát triển sáng tạo học thuyết xây dựng Đảng của chủ nghĩa Mác-Lênin vào


2
điều kiện cụ thể của Việt Nam để giải quyết đúng đắn những vấn đề đặt ra trong
quá trình xây dựng Đảng.Người chỉ rõ Đảng ta là Đảng của giai cấp cơng nhân, do
đó, ngun tắc tập trung dân chủ là nguyên tắc cơ bản của Đảng.
Như vậy, tập trung dân chủ là nguyên tắc cơ bản chỉ đạo xây dựng tổ chức,
sinh hoạt và hoạt động của Đảng Cộng sản, là nguyên tắc tổ chức cơ bản của Đảng.
Đây cũng là nguyên tắc quan trọng nhất để chỉ đạo mọi hoạt động, tổ chức sinh
hoạt nội bộ và phong cách làm việc của Đảng. Nguyên tắc này đảm bảo cho sự
thống nhất ý chí và hành động, tạo nên sức mạnh vơ địch của một đảng cách mạng
chân chính.
Tập trung dân chủ là thể hiện bản chất giai cấp cơng nhân của Đảng cộng
sản. Nó có tác dụng phân biệt chính đảng của giai cấp cơng nhân, đảng cách mạng
chân chính với các đảng phái khác. Có thể khẳng định, tập trung dân chủ là ngun
tắc có tính chuẩn mực, là thước đo tính đảng của đảng viên.
Phủ nhận nguyên tắc tập trung dân chủ là phủ nhận Đảng cộng sản từ bản
chất. Xoá bỏ nguyên tắc này là phá hoại sức mạnh của Đảng cộng sản từ gốc. Xoá
bỏ nguyên tắc này tất sẽ sa vào bệnh đa ngun chính trị, đa đảng đối lập, từ đó
dẫn đến sự phân liệt trong Đảng, làm cho xã hội phân tâm, lịng người ly tán, rối
loạn, mất ổn định chính trị. Kinh nghiệm của phong trào cộng sản quốc tế và hoạt
động của Đảng ta cho thấy, chỉ có duy trì và thực hiện đúng nguyên tắc tập trung
dân chủ thì Đảng mới khơng tan vỡ về tổ chức. Sự tan rã và sụp đổ của Đảng cộng
sản Liên Xô và các Đảng cộng sản ở các nước Đông Âu đã chỉ rõ, phủ nhận
nguyên tắc tập trung dân chủ sẽ phải trả một giá rất đắt và là sai lầm không thể sửa
chữa được.
Điều lệ Đảng quy định 05 nguyên tắc tổ chức và hoạt động của Đảng như
sau: “Đảng Cộng sản Việt Nam là một tổ chức chặt chẽ, thống nhất về ý chí và
hành động; lấy tập trung dân chủ làm nguyên tắc tổ chức cơ bản, thực hiện tập thể

lãnh đạo, cá nhân phụ trách, thương yêu đồng chí, kỷ luật nghiêm minh, đồng thời
thực hiện các ngun tắc: Tự phê bình và phê bình; đồn kết trên cơ sở Cương lĩnh
chính trị và Điều lệ Đảng; Đảng giữ mối liên hệ mật thiết với nhân dân; Đảng hoạt
động trong khuôn khổ Hiến pháp và pháp luật”.
Điều 9, Điều lệ Đảng cộng sản Việt nam quy định:
Đảng Cộng sản Việt Nam tổ chức theo nguyên tắc tập trung dân chủ. Nội
dung cơ bản của nguyên tắc đó là:
1. Cơ quan lãnh đạo các cấp của Đảng do bầu cử lập ra, thực hiện tập thể
lãnh đạo, cá nhân phụ trách.


3
2. Cơ quan lãnh đạo cao nhất của Đảng là Đại hội đại biểu toàn quốc Cơ
quan lãnh đạo ở mỗi cấp là đại hội đại biểu hoặc đại hội đảng viên. Giữa hai kỳ đại
hội, cơ quan lãnh đạo của Đảng là Ban Chấp hành Trung ương, ở một cấp là ban
chấp hành đảng bộ, chi bộ (gọi tắt là cấp ủy).
3. Cấp ủy các cấp báo cáo và chịu trách nhiệm về hoạt động của mình trước
đại hội cùng cấp, trước cấp ủy cấp trên và cấp dưới; định kỳ thơng báo tình hình
hoạt động của mình đến các tổ chức đảng trực thuộc, thực hiện tự phê bình và phê bình.
4. Tổ chức đảng và đảng viên phải chấp hành nghị quyết của Đảng. Thiểu số
phục tùng đa số, cấp dưới phục tùng cấp trên, cá nhân phục tùng tổ chức, các tổ
chức trong toàn Đảng phục tùng Đại hội đại biểu toàn quốc và Ban Chấp hành
Trung ương.
5. Nghị quyết của các cơ quan lãnh đạo của Đảng chỉ có giá trị thi hành khi
có hơn một nửa sẽ thành viên trong cơ quan đó tán thành. Trước khi biểu quyết,
mỗi thành viên được phát biểu ý kiến của mình. Đảng viên có ý kiến thuộc về thiểu
số được quyền bảo lưu và báo cáo lên cấp ủy cấp trên cho đến Đại hội đại biểu
toàn quốc, song phải chấp hành nghiêm chỉnh nghị quyết, không được truyền bá ý
kiến trái với nghị quyết của Đảng. Cấp ủy có thẩm quyền nghiên cứu xem xét ý
kiến đó; khơng phân biệt đối xử với đảng viên có ý kiến thuộc về thiểu số.

6. Tổ chức đảng quyết định các vấn đề thuộc phạm vi quyền hạn của mình,
song khơng được trái với ngun tắc, đường lối, chính sách của Đảng, pháp luật
của Nhà nước và nghị quyết của cấp trên.
Nguyên tắc tập trung dân chủ được thể hiện trên các nội dung sau:
Một là, trong việc ban hành các chủ trương, đường lối. Các chủ trương,
chính sách của Đảng đều được công bố rộng rãi để cán bộ, đảng viên và các tầng
lớp nhân dân cho ý kiến. Những chủ trương lớn trước khi ban hành đã được thảo
luận dân chủ, rộng rãi từ cơ sở. Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật có quy
định các dự thảo đều phải công bố công khai trên cổng thông tin điện tử hoặc các
phương tiện truyền thông đại chúng để nhân dân góp ý.Thực tế thời gian qua cho
thấy, nhiều chủ trương, định hướng lớn của Đảng đã phải qua rất nhiều vòng tọa
đàm, hội thảo, đúc rút kinh nghiệm từ thực tiễn... Nhiều nội dung được cơng bố
dân chủ rộng rãi, cơng khai, có nhiều ý kiến tham gia góp ý trước khi ban hành,
nên khi thực thi đã nhận được sự đồng tình khá cao của người dân và xã hội.
Hai là, dân chủ trong sinh hoạt Đảng. Sinh hoạt Đảng, sinh hoạt cấp ủy
ngày càng dân chủ hơn; góp ý, phản ánh của đảng viên được các tổ chức Đảng
lắng nghe và sửa đổi cho phù hợp. Nhiều quy định của Đảng được ban hành hoặc
tiếp tục thực hiện có hiệu quả như: việc phê bình, chất vấn tại các hội nghị Ban


4
Chấp hành Trung ương, Bộ Chính trị, Ban Bí thư, hoặc trong thời gian giữa hai kỳ
họp; chất vấn và trả lời chất vấn trong Đảng; việc thực hiện chế độ thông báo, báo
cáo của các cấp ủy, tổ chức Đảng đi vào nền nếp, từng bước có chiều sâu; các
quyết định kỷ luật đảng viên được bàn bạc công khai, dân chủ, quyết định theo đa
số và thông báo rộng rãi...
Ba là, dân chủ trong công tác cán bộ. “Trong nhiệm kỳ, để đáp ứng yêu cầu
của công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng, Bộ Chính trị, Ban Bí thư đã tập trung chỉ
đạo nghiên cứu, ban hành nhiều văn bản cụ thể hóa nguyên tắc tổ chức và hoạt
động của Đảng, góp phần tháo gỡ những khó khăn, vướng mắc trong tổ chức thực

hiện. Chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn, mối quan hệ công tác của cấp ủy, tổ chức
đảng các cấp được quy định cụ thể hơn.
Bản chất (mối quan hệ) của nguyên tắc tập trung dân chủ được hiểu đó là:
Nguyên tắc tập trung dân chủ là sự kết hợp hài hoà giữa hai mặt tập trung và dân
chủ. Cả hai mặt tập trung và dân chủ tạo thành chỉnh thể thống nhất của một
nguyên tắc, trong đó, dân chủ là điều kiện, là tiền đề của tập trung; còn tập trung là
cơ sở, là cái bảo đảm cho dân chủ được thực hiện.
Nguyên tắc tắc trung dân chủ trong Đảng cộng sản nói chung và Đảng ta nói
riêng bao giờ cũng là sự kết hợp hài hoà giữa tập trung và dân chủ; hai mặt này có
mối quan hệ biện chứng (ràng buộc, phụ thuộc, tác động và bổ sung cho nhau) với
nhau tạo thành một chính thể thống nhất khơng thể tách rời. Sự thống nhất này
khơng phải là ngẫu nhiên, mà nó được qui định bởi những nhân tố khách quan của
cuộc đấu tranh cách mạng của giai cấp công nhân và bởi nhiệm vụ của Đảng cộng
sản trong việc lãnh đạo cuộc đấu tranh đó cho đến thắng lợi cuối cùng.
Tập trung có nghĩa là, Đảng cộng sản phải có một cương lĩnh cách mạng
chung, trong đó, nêu lên mục tiêu của cách mạng và được toàn thể đảng viên quán
triệt thực hiện. Có nghĩa là, trong Đảng phải có một Điều lệ thống nhất, thể hiện
những tiêu chuẩn sinh hoạt đảng mà tất cả các tổ chức đảng và toàn thể đảng viên
phải tuân theo. Tập trung còn thể hiện ở việc lãnh đạo các tổ chức Đảng, các công
tác của Đảng do một trung tâm thực hiện là đại hội đại biểu toàn quốc và trong thời
kỳ giữa hai đại hội là Ban Chấp hành Trung ương Đảng. Các nghị quyết của đại
hội và của Ban Chấp hành Trung ương Đảng với tính cách là biểu hiện ý chí của
tồn Đảng, bắt buộc tất cả các tổ chức và toàn thể đảng viên phải thi hành. Tập
trung đòi hỏi phải có kỷ luật thống nhất, phải tuân thủ những tiêu chuẩn sinh hoạt
đảng, có ý thức phục tùng nghị quyết của Đảng. Do đó, tập trung trong Đảng
khơng những là uy quyền của tư tưởng mà còn là uy quyền của quyền lực do các
cơ quan Đảng và những người lãnh đạo các cơ quan đó thể hiện. Đó là việc thừa
nhận sức mạnh về sự lãnh đạo thống nhất của Đảng. Xét trên phạm vi tổng thể, tập



5
trung là điều kiện cần thiết cho sự tồn tại, hoạt động và phát triển của Đảng cộng
sản; ở một giác độ hẹp hơn, nó là cơ sở bảo đảm cho dân chủ được thực hiện.
Nếu khơng có dân chủ trong Đảng, thì sự tồn tại của Đảng cộng sản sẽ trở
nên vơ nghĩa, vì đây là một tổ chức chính trị tự nguyện, độc lập. Sức mạnh của
Đảng là do tính tích cực tự giác của tồn thể đảng viên. Chỉ khi nào đảng viên tự
giác thảo luận và giải quyết tất cả mọi vấn đề, kể cả việc thành lập các cơ quan
lãnh đạo của Đảng thì tính tích cực của đảng viên mới được nâng cao. Có thực hiện
dân chủ trong Đảng mới có điều kiện rèn luyện và giáo dục đảng viên, mới phát
huy tốt nhất nghị lực của họ vào việc đề ra và thực hiện đường lối, chính sách và
nghị quyết Đảng. Như Lênin đã xác định, bản chất dân chủ trong Đảng là tất cả
mọi công việc của Đảng đều được tất cả đảng viên bình quyền tiến hành trực tiếp
hoặc thơng qua các đại biểu; đồng thời tất cả những người có trách nhiệm trong
Đảng, tất cả các ban lãnh đạo của Đảng, tất cả các cơ quan của Đảng đều được bầu
ra, đều có trách nhiệm phải báo cáo và có thể bị bãi miễn. Như vậy, dân chủ trong
Đảng thực chất là quyền làm chủ của toàn thể đảng viên, là sự tham gia tích cực
của tồn thể đảng viên vào việc quản lý công việc của Đảng một cách trực tiếp hay
thông qua những đại biểu của họ, vào việc vạch ra đường lối, chính sách cũng như
thành lập các cơ quan lãnh đạo của Đảng. Nhưng chỉ trong điều kiện có tính tổ
chức cao, tính kỷ luật chặt chẽ, thừa nhận sự lãnh đạo thống nhất của Đảng thì
đảng viên mới có thể thực hiện được nghĩa vụ và quyền hạn của mình. Nói như thế
có nghĩa là, dân chủ là điều kiện, là tiền đề của tập trung.
Trong sinh hoạt và tổ chức mọi hoạt động của Đảng, mọi tổ chức Đảng và
đảng viên cần tránh hiểu nguyên tắc tập trung dân chủ là một phép cộng số học
thuần tuý giữa hai khái niệm tập trung và dân chủ, mà phải hiểu đây là một thực
thể, một chỉnh thể thống nhất gồm hai thành tố tập trung và dân chủ. Tập trung và
dân chủ trong nguyên tắc tập trung dân chủ của Đảng không đối lập nhau, mà
chúng có tác động hỗ trợ qua lại nhằm tạo ra sức mạnh thống nhất trong Đảng. Dân
chủ chỉ đối lập với thứ tập trung mang tính quan liêu, gia trưởng và độc đoán
chuyên quyền.

Tập trung và dân chủ trong nguyên tắc tập trung dân chủ của Đảng cũng
không được hiểu một cách tách biệt đâu là mục tiêu đâu là động lực, mà nó phải
được hiểu vừa là mục tiêu, vừa là động lực nhằm tạo cho Đảng một sức mạnh vơ
địch một ý chí thống nhất tạo sức mạnh tổng hợp của toàn Đảng, toàn dân xây
dựng thành công CNXH, thực hiện dân giàu, nước mạnh, dân chủ, cơng bằng, văn minh.
Tựu trung, trong q trình thực hiện nguyên tắc tập trung dân chủ, tất cả các
cơ quan của Đảng và tồn thể đảng viên phải ln giải quyết vấn đề trên cơ sở nắm
vững mối quan hệ biện chứng giữa hai mặt tập trung và dân chủ, phải luôn xem


6
đây là một chỉnh thể thống nhất không được tách rời, không nên xem nhẹ mặt này
hay coi nặng mặt kia cũng như khơng được tuyệt đối hố mặt nào. Việc tuyệt đối
hố tập trung sẽ kìm hãm tính năng động, sáng tạo và tự giác của đảng viên, dẫn
đến chun quyền, độc đốn và chủ quan duy ý chí. Ngược lại, nếu tuyệt đối hoá
dân chủ sẽ biến tổ chức Đảng thành một câu lạc bộ, không tập trung được ý chí
thống nhất của Đảng, khơng tạo ra được sức mạnh tập thể và dễ rơi vào tình trạng
dân chủ vơ tổ chức. Lịch sử q trình sụp đổ của Đảng cộng sản Liên xô và các
nước XHCN Đông Âu cũng như thực tế cách mạng Việt Nam trong nhiều thập kỷ
qua đã chứng minh vị trí, vai trị và tầm quan trọng trong việc nhận thức đúng và
thực hiện đúng nguyên tắc xương sống của Đảng cộng sản - nguyên tắc tập trung
dân chủ.
Kể từ khi ra đời đến nay, Đảng Cộng sản Việt Nam luôn giữ vững
nguyên tắc tập trung dân chủ. Nhờ thực hiện nghiêm nguyên tắc này, chế độ tập
trung, kỷ cương, kỷ luật trong Đảng được giữ vững. Những quyết sách lớn của
Đảng đều được tổ chức thảo luận rộng rãi, lấy ý kiến của đảng viên và tổ chức
đảng từ cơ sở. Sinh hoạt chi bộ, các hội nghị Đảng được tiến hành dân chủ, bàn
bạc công khai, quyết theo đa số, dân chủ trong Đảng ngày càng được mở
rộng. Công tác tổ chức và cán bộ, nhất là đánh giá tuyển chọn, bổ nhiệm cán bộ
được tiến hành cơ bản công khai, dân chủ. Tình trạng cục bộ, mất đồn kết trong

cán bộ được chấn chỉnh, những tổ chức cá nhân vi phạm bị xử lý kịp thời...
Ngày nay, Đảng ta đang lãnh đạo nhân dân tiến hành cơng cuộc đổi mới
tồn diện, vì vậy, địi hỏi Đảng phải lãnh đạo và đi tiên phong trong công cuộc đổi
mới và bản thân Đảng phải luôn tự đổi mới, tăng cường công tác xây dựng Đảng
về chính trị, tư tưởng và tổ chức để thích ứng với nền kinh tế và cơ chế thị trường
định hướng XHCN.
Văn kiện Đại hội lần thứ XIII của Đảng đã đánh giá, khẳng định công tác
xây dựng, chỉnh đốn Đảng và hệ thống chính trị được đẩy mạnh tồn diện, đồng
bộ, quyết liệt, có hiệu quả rõ rệt, “…đề cao trách nhiệm của cấp uỷ, sự gương mẫu
của cán bộ, đảng viên, nhất là những người đứng đầu các cấp; phát huy dân chủ;
tăng cường đoàn kết thống nhất trong Đảng”.
Bên cạnh những kết quả đạt được, Văn kiện Đại hội XIII của Đảng cũng chỉ
rõ: “...Thực hiện các nguyên tắc xây dựng Đảng, nhất là nguyên tắc tập trung dân
chủ ở một số tổ chức đảng cịn chưa nghiêm, thậm chí vi phạm”. Vẫn cịn tình
trạng tùy tiện, thiếu ý thức tổ chức, kỷ luật, không chấp hành chỉ thị, nghị quyết
của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước. Dân chủ trong Ðảng và trong xã
hội vẫn còn bị vi phạm. Kỷ cương, kỷ luật ở một số cấp, số ngành có lúc khơng
nghiêm. Cịn thiếu những quy chế cụ thể bảo đảm phát huy và thực hiện đúng nguyên


7
tắc tập trung dân chủ. Một số cấp ủy, tổ chức đảng và cán bộ lãnh đạo thiếu tôn trọng
và phát huy quyền của đảng viên, ít lắng nghe ý kiến cấp dưới; cán bộ lãnh đạo ở một
số nơi gia trưởng, độc đoán, chuyên quyền, mất dân chủ hoặc dân chủ hình thức. Việc
thực hiện nội dung “tập thể lãnh đạo, cá nhân phụ trách” trên thực tế ở nhiều
nơi cịn “lúng túng” do khơng xác định rõ cơ chế trách nhiệm, mối quan hệ giữa
tập thể và cá nhân; khi sai sót, khuyết điểm khơng ai chịu trách nhiệm. Có những
cấp ủy, tổ chức Đảng đã vi phạm nghiêm trọng nguyên tắc tập trung dân chủ, để
xảy ra những sai phạm khuyết điểm kéo dài gây mất đoàn kết nội bộ, khiến cán bộ,
đảng viên và nhân dân bất bình, bức xúc.

Để tiếp tục giữ vững, phát huy và thực hiện nghiêm nguyên tắc tập trung dân
chủ trong tổ chức và hoạt động của Đảng, cần phải:
Thứ nhất, không ngừng nâng cao nhận thức cho cán bộ, đảng viên về tầm
quan trọng của việc thực hiện nguyên tắc tập trung dân chủ. Phải luôn xác định
việc thực hiện tốt nguyên tắc này là một trong những yêu cầu quan trọng để xây
dựng đoàn kết thống nhất trong các tổ chức Đảng, phát huy trí tuệ tập thể, tạo sự
đồng thuận đối với những chủ trương, chính sách và các quyết sách được ban hành
và thực thi. Dân chủ phải dưới sự chỉ đạo của tập trung và tập trung trên tinh thần
dân chủ. Kiên quyết khắc phục cả hai khuynh hướng: hoặc là áp đặt tập trung mà
không lắng nghe dân chủ; hoặc là dân chủ quá trớn, dân chủ cực đoan không tuân
thủ nghị quyết, Điều lệ Đảng và vi phạm pháp luật.
Thứ hai, thực hiện nguyên tắc tập trung dân chủ phải nằm trong tổng thể
thống nhất việc thực hiện đầy đủ và nghiêm túc những nguyên tắc tổ chức và hoạt
động của Đảng. Mỗi cấp ủy Đảng phải thực chất đề cao tự phê bình và phê bình
trên tinh thần đồng chí, giúp nhau cùng tiến bộ, khắc phục tình trạng nể nang, né
tránh hoặc lợi dụng phê bình để “đấu tố”, “hạ bệ” nhau.
Thứ ba, cụ thể hóa, làm rõ nội dung, yêu cầu của nguyên tắc tập trung dân
chủ trong tình hình mới. Đối với các khâu, quy trình - từ việc ban hành các chủ
trương, chính sách đến cơng tác cán bộ - cần cụ thể hóa bằng các quy trình, các
bước tiến hành. Việc ban hành và thực thi các chỉ thị, nghị quyết cần đảm bảo tính
thống nhất, đồng bộ, liên thông.
Thứ tư, kiên quyết đấu tranh chống những luận điệu xuyên tạc, phủ nhận nguyên
tắc tập trung dân chủ. Chúng ta khơng phủ nhận, đã có những Đảng Cộng sản trên thế
giới thối hóa, biến chất; đã có những đảng viên có quyền lực ở một số cơ quan, đơn vị,
địa phương để xảy ra mất dân chủ trầm trọng - biến quyền lực được ủy quyền trở thành
quyền lực cá nhân, “lợi ích nhóm”... Tổng kết lý luận, thực tiễn cho thấy, sự sụp đổ của
Đảng Cộng sản Liên Xơ có nhiều sai lầm, trong đó có sai lầm nghiêm trọng là xa rời


8

nguyên tắc tập trung dân chủ trong quá trình cải tổ. Những “ví dụ cụ thể” nêu trên là
“mảnh đất màu mỡ” để các thế lực thù địch gieo rắc hồi nghi, xun tạc, phủ nhận vai
trị lãnh đạo và nguyên tắc tập trung dân chủ của Đảng Cộng sản Việt Nam. Vì thế, để
đấu tranh chống lại các luận điệu xuyên tạc, đòi hỏi mỗi cán bộ, đảng viên phải “nằm
lòng” những hiểu biết căn bản về nội dung nguyên tắc, về tính biện chứng giữa tập
trung và dân chủ và ngược lại.
Thứ năm, mở rộng dân chủ đi liền với tăng cường kỷ luật chặt chẽ, nghiêm minh
trong Đảng. Xây dựng các thiết chế, cơ chế cho phép phát huy dân chủ, trước hết là
bảo đảm thực hiện các quyền của đảng viên, nhất là quyền được thảo luận, chất vấn,
phê bình, thơng tin, bảo lưu ý kiến. Xác định đúng những nội dung cốt lõi đảm bảo
cho việc thực hiện dân chủ trong Đảng. Hoàn thiện, cụ thể hóa, quy chế hóa
nguyên tắc tập trung dân chủ cho từng lĩnh vực, từng mặt công tác xây dựng
Đảng. Đặc biệt cần thực hiện nghiêm túc chế độ tập thể lãnh đạo, cá nhân phụ
trách. Giải quyết tốt mối quan hệ giữa cấp ủy với chính quyền và các tổ chức
khác trong hệ thống chính trị./.
Câu 2: Những điều kiện để xem xét kết nạp một quần chúng ưu tú vào Đảng cộng
sản Việt Nam? Liên hệ bản thân?
Trả lời:
Đảng viên Đảng Cộng sản Việt Nam là chiến sĩ cách mạng trong đội tiên
phong của giai cấp công nhân, nhân dân lao động và dân tộc Việt Nam, suốt
đời phấn đấu cho mục đích, lý tưởng của Đảng, đặt lợi ích của Tổ quốc, của giai
cấp cơng nhân và nhân dân lao động lên trên lợi ích cá nhân; chấp hành nghiêm
chỉnh Cương lĩnh chính trị, Điều lệ Đảng, các nghị quyết của Đảng và pháp
luật của Nhà nước; có lao động, hồn thành tốt nhiệm vụ được giao; có đạo
đức và lối sống lành mạnh; gắn bó mật thiết với nhân dân; phục tùng tổ chức, kỷ
luật của Đảng, giữ gìn đồn kết thống nhất trong Đảng.
Đảng viên Đảng Cộng sản Việt Nam là lá cờ đầu, là đội ngũ tiên phong của
Đảng. Đảng viên là những chiến sỹ cách mạng trong đội quân tiên phong của giai
cấp công nhân, của nhân dân lao động và của dân tộc Việt Nam. Đảng viên Đảng
Cộng sản Việt Nam là người gia nhập và được kết nạp vào đồng thời sinh hoạt

trong Đảng Cộng sản Việt Nam Đảng viên là chiến sĩ cách mạng trong đội quân
tiên phong của giai cấp công nhân Việt Nam, của nhân dân lao động và của dân tộc
Việt Nam.
Đội ngũ đảng viên là những người có trách nhiệm góp phần xây dựng đường
lối, chủ trương, chính sách của Đảng; đồng thời có trách nhiệm tổ chức thực hiện


9
mọi đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng. Đảng viên dù ở cương vị nào,
cũng vừa là người lãnh đạo, vừa là người phục vụ quần chúng. Đảng viên là người
kiên định bảo vệ Đảng, bảo vệ đường lối, chủ trương của Đảng.
Theo Điều lệ Đảng thì cơng dân Việt Nam từ 18 tuổi trở lên; thừa nhận và tự
nguyện thực hiện Cương lĩnh chính trị, Điều lệ Đảng, tiêu chuẩn và nhiệm vụ đảng
viên, hoạt động trong một tổ chức cơ sở đảng; qua thực tiễn chứng tỏ là người ưu
tú, được nhân dân tín nhiệm, đều có thể được xét để kết nạp vào Đảng.
Dưới đây là quy định cụ thể về điều kiện kết nạp đảng viên:
1. Về tuổi đời.
- Tại thời điểm chi bộ xét kết nạp, người vào Đảng phải đủ 18 tuổi đến đủ 60
tuổi (tính theo tháng).
- Việc kết nạp vào Đảng những người trên 60 tuổi do cấp uỷ trực thuộc
Trung ương xem xét, quyết định.
Chỉ xem xét kết nạp vào Đảng những người trên 60 tuổi khi đủ các điều kiện:
+ Có sức khoẻ và uy tín;
+ Đang cơng tác, cư trú ở cơ sở chưa có tổ chức đảng, chưa có đảng viên
hoặc do yêu cầu đặc biệt;
+ Được ban thường vụ cấp ủy trực thuộc Trung ương đồng ý bằng văn bản
trước khi cấp ủy có thẩm quyền ra quyết định kết nạp.
2. Về trình độ học vấn
- Người vào Đảng phải có bằng tốt nghiệp trung học cơ sở trở lên.
- Học vấn của người vào Đảng đang sinh sống ở miền núi, hải đảo, vùng

đồng bào dân tộc thiểu số, vùng có điều kiện kinh tế - xã hội đặc biệt khó khăn và
những trường hợp cụ thể khác do yêu cầu phát triển đảng mà khơng bảo đảm được
quy định chung thì thực hiện theo hướng dẫn của Ban Bí thư.
Người vào Đảng đang sinh sống ở miền núi, biên giới, hải đảo, vùng đồng
bào dân tộc thiểu số và vùng có điều kiện kinh tế - xã hội đặc biệt khó khăn hoặc
ngư dân thường xun làm việc ngồi biển, đảo, nếu khơng bảo đảm theo Quy
định thi hành Điều lệ Đảng của Ban Chấp hành Trung ương khố XIII thì phải có
trình độ học vấn tối thiểu hồn thành chương trình bậc tiểu học.
Trình độ học vấn của người vào Đảng là già làng, trưởng bản, người có uy
tín, đang sinh sống ở miền núi, biên giới, hải đảo, vùng đồng bào dân tộc thiểu số
và vùng có điều kiện kinh tế - xã hội đặc biệt khó khăn hoặc ngư dân thường xuyên


10
làm việc ngoài biển, đảo tối thiểu phải biết đọc, biết viết chữ quốc ngữ và được ban
thường vụ cấp ủy trực thuộc Trung ương đồng ý bằng văn bản trước khi cấp ủy có
thẩm quyền ra quyết định kết nạp.
3. Thừa nhận và tự nguyện: thực hiện Cương lĩnh chính trị, Điều lệ Đảng,
tiêu chuẩn và nhiệm vụ đảng viên, hoạt động trong một tổ chức cơ sở đảng.
4. Qua thực tiễn chứng tỏ là người ưu tú, được nhân dân tín nhiệm.
Đáp ứng các điều kiện trên, trong q trình xem xét kết nạp người vào đảng
cịn phải đảm bảo các yêu cầu sau:
5. Bồi dưỡng nhận thức về Đảng
Người vào Đảng phải học lớp bồi dưỡng nhận thức về Đảng, có giấy chứng
nhận do trung tâm chính trị cấp huyện hoặc tương đương cấp; nơi khơng có trung
tâm chính trị thì do cấp ủy có thẩm quyền kết nạp đảng viên cấp.
6. Có đơn tự nguyện xin vào Đảng
Người vào Đảng phải tự làm đơn, trình bày rõ những nhận thức của mình về
mục đích, lý tưởng của Đảng, về động cơ xin vào Đảng.
7. Báo cáo trung thực lý lịch với chi bộ

Người vào Đảng tự khai lý lịch, đầy đủ, rõ ràng, trung thực theo quy định,
chịu trách nhiệm về nội dung đã khai; nếu có vấn đề nào khơng hiểu và khơng nhớ
chính xác thì phải báo cáo với chi bộ.
Lý lịch phải được cấp ủy cơ sở thẩm tra, kết luận trước khi ghi nội dung
chứng nhận, ký tên, đóng dấu.
8. Được đảng viên chính thức giới thiệu
Nơi có tổ chức Đồn Thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh, người vào Đảng
trong độ tuổi thanh niên phải là đoàn viên, được ban chấp hành đồn cơ sở và một
đảng viên chính thức giới thiệu.
Ở các cơ quan, doanh nghiệp nơi khơng có tổ chức Đồn Thanh niên Cộng
sản Hồ Chí Minh, người vào Đảng phải là đồn viên cơng đồn, được ban chấp
hành cơng đồn cơ sở và một đảng viên chính thức giới thiệu.
Đáp ứng các điều kiện kết nạp đảng viên vừa nêu, quần chúng sẽ được xem
xét kết nạp vào Đảng.
Qua học tập, nghiên cứu, tìm hiểu về Đảng, bản thân tôi nhận thức: Đảng
Cộng sản Việt Nam là lá cờ đầu của giai cấp công nhân, nhân dân lao động và của
cả dân tộc Việt Nam. Tơi có nguyện vọng được vinh dự đứng trong hàng ngũ của


11
Đảng, sau khi được học lớp bồi dưỡng nhận thức về Đảng, tôi càng nhận thức được
rõ hơn về Đảng Cộng sản và càng quyết tâm phấn đấu để trở thành Đảng viên
Đảng Cộng sản Việt Nam.
Bản thân tôi đã xác định cho mình động cơ vào Đảng: Đảng là tổ chức các
mạng có sứ mệnh cao cả đồn kết và lãnh đạo nhân dân đấu tranh cho độc lập và
chủ nghĩa xã hội. Được đứng trong hàng ngũ của Đảng là được đứng trong một tổ
chức của những người cùng chung chí hướng đấu tranh xây dựng một xã hội tốt
đẹp, dân giàu, nước mạnh, công bằng, dân chủ, văn mình. Khi vào Đảng, bản thân
tơi sẽ được phục vụ cách mạng, được phục vụ nhân dân, được nhân dân tin cậy và
yêu mến. Động cơ vào Đảng của tơi là muốn góp sức mình xây dựng đất nước ta

ngày càng tốt đẹp hơn nữa.
Để trở thành một đảng viên, tôi xác định bản thân phải rèn luyện bản lĩnh
chính trị, phẩm chất đạo đức cách mạng. Tơi quyết kiên định mục tiêu, lý tưởng đã
chọn, trong bất cứ tình huống khó khăn nào cũng khơng giao động, giảm sút niềm
tin và ý chí chiến đấu. Đồng thời, rèn luyện cho mình tinh thần độc lập, sáng tạo.
Bản thân tôi đã nỗ lực học tập, nắm vững lý luận Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí
Minh, nền tảng tư tưởng của Đảng. Tự rèn luyện mình qua thực tế hoạt động chính
trị, xã hội. Bên cạnh đó thường xun trau dồi đạo đức cách mạng, đi đôi với
chống chủ nghĩa cá nhân. Tôi nhận thức được, trong bối cảnh ngày nay, đạo đức
cách mạng là ý chí, quyết tâm và góp sức đưa đất nước thốt khỏi tình trạng kém
phát triển, trở thành quốc gia giàu mạnh, văn minh, nhân dân làm chủ xã hội và có
cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc. Tôi quyết tâm đi theo đường lối của Đảng: kết
hợp hài hoà ba loại lợi ích: lợi ích toàn xã hội, lợi ích tập thể và lợi ích cá nhân,
kiên quyết chống chủ nghĩa cá nhân, ích kỷ.
Để phấn đấu trở thành một người đảng viên, bản thân tơi khơng ngừng nâng
cao năng lực, trình độ đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ. Đối với cương vị là một cán
bộ ... thì nhiệm vụ trọng tâm là hoàn thành tốt các nhiệm vụ được .... giao, góp
phần vào xây dựng cơ quan, đơn vị phát triển vững mạnh. Tôi nguyện phấn đấu
học tập, công tác thật tốt và đóng góp hết sức mình vào kết quả hoàn thành nhiệm
vụ của ...
Truyền thống quý báu của Đảng Cộng sản Việt Nam là sự gắn bó mật thiết,
máu thịt với nhân dân. Để phấn đấu được đứng trong hàng ngũ của Đảng, bản thân
tơi hiểu rằng mình phải gắn bó với tập thể, với nhân dân, tích cực tham gia hoạt
động đồn thể, cơng tác xã hội. Đối với tơi, đó chính là tập thể cơ quan, chi nhánh,
là ngơi nhà chung ............. của mình. Phát huy tốt vai trị của bản thân trong xây
dựng tinh thần đồn kết nội bộ, vận động quần chúng chấp hành mọi đường lối,
chủ trưởng của Đảng, chính sách và pháp luật của Nhà nước, quy định của ...


12

Nhận thức được rằng, người phấn đấu vào Đảng phải tích cực tham gia xây
dựng Đảng, bản thân tơi sẽ cố gắng phấn đấu, phát huy tinh thần trách nhiệm đóng
góp ý kiến, đề xuất các chủ trương, biện pháp xây dựng chi bộ, chi nhánh... Ngồi
ra, cần tích cực hưởng ứng các phong trào, các hoạt động triển khai chủ trương,
nhiệm vụ do đảng bộ, chi bộ đề ra với tinh thần chủ động, sáng tạo, nỗ lực phấn
đấu cao nhất. Góp phần tích cực đưa những chủ trương, nhiệm vụ đó vào thực tiễn
cơng tác. Chủ động nắm bắt tình hình thực tế, những tư tưởng của quần chúng, kịp
thời phản ánh đề xuất với tổ chức Đảng. Tích cực mạnh dạn tham gia góp ý kiến
đối với lãnh đạo của tổ chức Đảng và đội ngũ đảng viên. Tích cực và kiên quyết
đấu tranh bảo vệ Đảng, giữ vững ổn định chính trị - xã hội ở cơ quan, đơn vị.
Trên đây là những nhận thức, suy nghĩ của bản thân tôi và phương hướng
phấn đấu để trở thành đảng viên Đảng Cộng sản Việt Nam. Bản thân tơi sẽ tiếp tục
phấn đấu, cố gắng hồn thành tốt nhiệm vụ trên cương vị, chức trách được giao để
sớm được đứng trong hàng ngũ của Đảng.
Hà Nội, ngày

tháng năm 2023

NGƯỜI LÀM BÀI THU HOẠCH



×