Tải bản đầy đủ (.doc) (14 trang)

SKKN MỘT SỐ BIỆN PHÁP RÈN KĨ NĂNG NÓI TRONG GIỜ KỂ CHUYỆN CHO HỌC SINH LỚP 2

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (425.95 KB, 14 trang )

Sáng kiến kinh nghiệm:
MỘT SỐ BIỆN PHÁP RÈN KĨ NĂNG NÓI
TRONG GIỜ KỂ CHUYỆN CHO HỌC SINH LỚP 2
(Nguyễn Thị Thu)
A - ĐẶT VẪN ĐỀ
I./Lời mở đầu.
Sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa của đất nước đòi hỏi phải đổi
mới chương trình giáo dục phổ thông. Nhân tố quyết định thắng lợi là nguồn
lực con người Việt Nam trên cơ sở mặt bằng dân trí được nâng cao, cho nên
trước hết phải chăm lo phát triển nguồn lực con người, chuẩn bị lớp người lao
động có những phẩm chất và năng lực phù hợp với yêu cầu phát triển đất nước
trong giai đoạn mới. Điều này cần được bắt đầu từ giáo dục phổ thông.
Năm 2003 - 2004 Bộ Giáo dục và Đào tạo đã áp dụng thay sách giáo
khoa lớp 2 trên toàn quốc. Ở chương trình tiểu học cùng với các phân môn như
Tập đọc, Tập làm văn phân môn kể chuyện có mối quan hệ gắn bó, quan hệ
chặt chẽ với nhau. Nó có sự gắn bó không chỉ ở sự phân bố giờ học mà còn ở
nội dung dạy, thể hiện rõ quan điểm tích hợp, tạo ra một phong cách mới trong
dạy học phân môn kể chuyện. Việc lấy văn bản ở bài Tập đọc làm ngữ liệu cho
giờ kể chuyện, giúp giáo viên tiết kiệm được khá nhiều thời gian, giúp học sinh
tìm hiểu truyện; ghi nhớ cốt truyện. Do đó, chương trình đã dành được nhiều
thời gian cho việc rèn kỹ năng nói cho học sinh.
Phân môn kể chuyện ở tiểu học có một vị trí quan trọng. Nó góp phần
bồi dưỡng tâm hồn, đem lại niềm vui, trau dồi vốn sống và vốn văn học, phát
triển tư duy và ngôn ngữ cho học sinh. Ngoài ra nó còn nhằm nâng cao năng
lực trí tuệ, đồng thời rèn luyện cho các em khả năng diễn đạt bằng ngôn ngữ.
Chính vì vậy tiết kể chuyện đòi hỏi giáo viên vừa biết kể chuyện hấp dẫn, vừa
biết dạy cho học sinh tập nói - tập kể chuyện và phát triển ngôn ngữ, bước đầu
tập dùng ngôn ngữ của bản thân để diễn tả (tập kể chuyện). Qua mỗi tiết kể
chuyện, học sinh được tiếp xúc với một văn bản truyện kể khá lý thú, cảm nhận
được nội dung và thu hoạch được những bài học bổ ích nhưng điều quan
trọng hơn là các em học được cách dùng từ ngữ, câu văn để diễn đạt một ý, liên


kết các ý trong một đoạn, một bài. Đây chính là yêu cầu rèn kỹ năng nói cho
học sinh.
-1/14-
Xuất phát từ thực tế trên, tôi đã chọn nội dung: “Một số biện pháp rèn kĩ
năng nói trong giờ kể chuyện cho học sinh lớp 2”.
II./Thực trạng việc rèn kỹ năng trong giờ kể chuyện ở lớp 2.
Năm học 2008 – 2009 tôi được nhà trường phân công chủ nhiệm và
giảng dạy lớp 2A. Tổng số học sinh là 29 trong đó 15 HS nam, 14 HS nữ.
1. Thuận lợi:
Tất cả học sinh được sự quan tâm chăm sóc chu đáo của gia đình; học
sinh có đầy đủ sách vở và đồ dùng học tập. Các em đều được kế thừa truyền
thống hiếu học của gia đình, được sự quan tâm của các lực lượng gáio dục ở địa
phương.
Học sinh được học tập 2 buổi/ngày có nhiều điều kiện để giáo viên quan
tâm nhiều hơn đến từng đối tượng học sinh.
Điều kiện cơ sở vật chất nhà trường đàm bảo được yêu cầu Dạy - Học
của giáo viên và học tập của học sinh.
Giáo viên có lòng nhiệt tình, luôn tìm tòi, nghiên cứu các tài liệu đáp ứng
kịp thời nhiệm vụ dạy học; quan tâm đến mọi đối tượng học sinh.
2. Khó khăn.
Trong những năm vừa qua hầu hết giáo viên vẫn còn bị ảnh hưởng theo
lối dạy kể chuyện theo chương trình cũ, giờ kể chuyện giáo viên kể mẫu xong
chỉ đặt các câu hỏi như: Câu chuyện này có mấy nhân vật? là những nhân vật
nào? để cho các em nhớ lại cốt truyện, sau đó là để các em kể lại theo đoạn và
cả câu chuyện. Với hình thức dạy kể chuyện như vậy nhiều khi học sinh không
thể nắm bắt được cốt truyện ngay trên lớp, trừ một số em đã đọc truyện đó ở
nhà một hai lần. Do đó hạn chế kỹ năng kể lại và nhận xét bạn kể của các em.
Điều đó cũng ảnh hưởng đến việc rèn khả năng nghe, nói cho học sinh. Khi tổ
chức các hoạt động dạy trong giờ kể chuyện chưa phát huy được tính tích cực,
sáng tạo, năng động của học sinh. Chưa linh hoạt khi xử lí các tình huống có

vấn đề khi dạy giờ kể chuyện
Ở phân môn kể chuyện trong bộ SGK không có quyển Truyện kể dùng
riêng cho các giờ Kể chuyện. Trên lớp, học sinh chỉ kể lại hoặc dựng lại dưới
hình thức hoạt cảnh những câu chuyện đã học trong tiết tập đọc đầu tiên trong
tuần.
Trong quá trình dạy học giáo viên chưa động viên kịp thời học sinh, chưa
giúp các em nhập hồn vào các nhân vật khi kể dẫn đến giờ học hiệu quả chưa
-2/14-
cao. Việc chuẩn bị bài của học sinh chưa chu đáo, tình trạng học sinh không
nắm được yêu cầu, nội dung câu chuỵên cần kể còn hạn chế.
Từ đó dẫn đến học sinh chưa phân biệt được các mức độ: kể được bằng
lời trong văn bản, kể bằng lời của mình, kể bằng lời trong câu chuyện. Các em
diễn đạt chưa lưu loát, chưa biết thay đổi giọng phù hợp với nội dung câu
chuyện, chưa biết sử dụng điệu bộ, cử chỉ hỗ trợ cho lời kể. Vì vậy chưa phát
huy được khả năng nói của học sinh trong giờ học kể chuỵên.
Do số học sinh phần lớn là con em gia đình nông nghiệp, đời sống kinh
tế còn khó khăn nên vấn đề quan tâm của gia đình đến việc học tập của con em
vẫn bị hạn chế. Phụ huynh học sinh chưa có điều kiện để giúp đỡ con em về
phương pháp học tập.
Học sinh lớp 2 - các em còn nhỏ tuổi nên chưa thực sự tự tin khi diễn
giải điều gì trước lớp
Cụ thể chất lượng khảo sát đầu năm học 2008- 2009 ở lớp 2A về khả
năng nói của học sinh trong giờ kể chuyện như sau:
Tốt: 2 em = 6,8%
Khá: 8 em = 27,5%
TB: 10 em = 34,4%
Yếu: 9 em = 31%
Như chúng ta đã biết, việc rèn luyện kỹ năng nói cho học sinh nhằm đáp
ứng mục tiêu giáo dục và giáo dưỡng, chương trình đề ra là một việc làm không
dễ dàng, đòi hỏi phải có sự đầu tư về thời gian và phải có những biện pháp

thích hợp nhằm giúp học sinh phát huy tốt khả năng tự tin, cách diễn đạt của
mình trong giờ kể chuyện.
B - GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ
I./Một số giải pháp rèn luyện kĩ năng nói cho học sinh qua phân môn
kể chuyện lớp 2.
1. Rèn luyện kĩ năng nói qua phương pháp, hình thức tổ chức dạy học:
2. Rèn luyện kĩ năng nói qua hình thức kể chuyện theo tranh:
3. Rèn luyện kĩ năng nói qua hình thức kể chuyện bằng hội thoại, giao
tiếp.
4. Rèn luyện kĩ năng nói qua hình thức kể chuyện phân vai:
-3/14-
II./Một số biện pháp rèn luyện kĩ năng nói cho học sinh qua phân
môn kể chuyện lớp 2.
Trong cấu trúc SGK Tiếng Việt lớp 2, các câu chuyện được phân bố như sau:
Thể loại truyện Số lượng Tên truyện
Thần thoại
Truyền thuyết
2
Sơn Tinh, Thuỷ Tinh
Chuyện quả bầu
Cổ tích và cổ tích mới 5
Sự tích cây vú sữa
Hai anh em
Bà cháu
Tìm ngọc
Ông Mạnh thắng Thần Gió
Ngụ ngôn 6
Có công mài sắt có ngày nên kim
Chuyện bốn mùa
Một trí khôn hơn trăm trí khôn

Kho báu
Câu chuyện bó đũa
Quả tim khỉ
Danh nhân lịch sử 3
Ai ngoan sẽ được thưởng
Chiếc rễ đa tròn
Bóp nát quả cam
Sinh hoạt
11 Phần thưởng
Bím tóc đuôi sam
Chiếc bút mực
Mẩu giấy vụn
Người thầy cũ
Người làm đồ chơi
Bông hoa niềm vui
Sáng kiến của bé Hà
Con chó nhà hàng xóm
Những quả đào
-4/14-
Thể loại truyện Số lượng Tên truyện
Người mẹ hiền
Đồng thoại 4
Bạn của Nai nhỏ
Chim Sơn ca và bông cúc trắng
Bác sĩ Sói.
Tôm càng và cá con
1. Rèn luyện kĩ năng nói qua phương pháp, hình thức tổ chức dạy
học:
Theo luật giáo dục về yêu cầu nội dung, phương pháp giáo dục tiểu học
thì: phương pháp giáo dục tiểu học phải phát huy tính tích cực, tự giác, chủ

động của từng học sinh, phù hợp với đặc điểm của từng lớp học, môn học, bồi
dưỡng phương pháp tự học, rèn luyện kĩ năng vận dụng kiến thức vào thực tiễn,
tác động đến tình cảm, đem lại niềm vui, hứng thú cho học sinh.
Đổi mới phương pháp dạy học là một khâu quan trọng không thể thiếu
được trong quá trình giáo dục. Đổi mới phương pháp dạy học được thể hiện
đậm nét trong chương trình mới ở chỗ:
Chương trình tiểu học mới tập trung vào cách dạy học, đặc biệt là giúp học
sinh biết cách học và có nhu cầu tự học, khuyến khích dạy học cá nhân và dạy học
hợp tác để phát triển năng lực theo tốc độ học, khả năng của từng học sinh.
Là một phân môn nằm trong chương trình tiểu học mới, phân môn kể
chuyện lớp 2 cũng được dạy theo phương pháp mới. Trong giờ kể chuyện, giáo
viên chỉ nêu đầu bài, yêu cầu và mục đích của tiết kể chuyện. Học sinh tự kể
(cá nhân) hoặc nhóm theo các yêu cầu đó. Giáo viên chỉ là người đạo diễn,
hướng dẫn, chỉ đạo, còn học sinh là diễn viên, là người thực hiện, chủ đạo trong
tiết kể chuyện đó. Giáo viên chỉ kể mẫu một lần, thậm chí giáo viên không cần
kể mẫu, mà gọi một học sinh khá kể mẫu, cho học sinh xung phong kể mẫu.
Còn lại các học sinh khác lần lượt kể theo đoạn và cả câu chuyện bằng nhiều
hình thức khác nhau. Trong khi học sinh kể, chỗ nào các em quên, lúng túng thì
giáo viên nhắc một cách khéo léo, tế nhị hoặc mời một học sinh khác nhắc giúp
bạn học. Như vậy, trong giờ dạy học kể chuyện, học sinh sẽ phát huy được khả
năng nghe nói của mình một cách tối đa. Hơn nữa giáo viên lại sử dụng các
phương tiện dạy học như tranh ảnh, một số dụng cụ thật với hình thức kể
chuyện sắm vai, làm cho giờ học kể chuyện thực sự sôi nổi, hấp dẫn.
-5/14-
Hình thức dạy học cũng được đổi mới: giáo viên có thể tổ chức dạy học
theo lớp, theo nhóm Trước kia giáo viên chỉ dạy theo lớp là chủ yếu, học sinh
ít được học theo nhóm. Học theo hình thức mới này sẽ giúp cho học sinh phát
triển kĩ năng nói trước lớp, trước đám đông.
Ví dụ bài: Con chó nhà hàng xóm (Tiếng Việt 2 - tập 1 trang 128) yêu
cầu dựa vào tranh kể lại từng đoạn câu chuyện đã học. Với tiết kể chuyện này,

giáo viên cho học sinh làm việc theo nhóm. Giáo viên cho học sinh quan sát
tranh 1, sau đó đặt câu hỏi gợi ý:
- Bạn của Bé ở nhà là ai?
- Bé và Cún Bông đang làm gì?
Sau khi quan sát tranh 1, nghe giáo viên đặt câu hỏi, học sinh phải huy
động nhiều thao tác: nghe để nhớ câu hỏi, hiểu câu hỏi rồi các em vừa quan sát
tranh vừa nhớ lại nội dung câu chuyện đã được học để xác định nội dung câu
trả lời. Cuối cùng các em phải trình bày được câu trả lời của mình dưới hình
thức nói. Như vậy, để trả lời được câu hỏi, học sinh phải sử dụng nhiều thao tác
bộ phận của kĩ năng nói: nghe-nhớ, nghe-hiểu, xác định nội dung câu trả lời,
nói. Đó là từng hoạt động của từng học sinh, mỗi học sinh trong nhóm thảo
luận với nhau để tìm ra câu trả lời chính xác.
Sau khi học sinh đã nhớ lại được đoạn 1 của câu chuyện, giáo viên cho
học sinh kể. Đây là lúc các em bước đầu rèn luyện kĩ năng nói nhưng mới chỉ ở
dạng độc thoại. Lời kể của các em diễn ra liên tục, do đó các em ít có thời gian
để ngừng nghỉ, chuẩn bị. Chính vì vậy đòi hỏi học sinh phải chuẩn bị kĩ càng
nội dung kể, tâm thế kể chuyện (thậm chí cả ngôn từ và các yếu tố phụ trợ).
Khi kể chuyện, ngoài việc tự nghe mình kể, các em còn phải lưu ý quan sát
những phản ứng từ người nghe, để có sự điều chỉnh phù hợp về nội dung, giọng
kể, điệu bộ
Những học sinh khác, khi bạn kể chú ý nghe để nhận xét lời kể của bạn
về nội dung, về cách diễn đạt, cách thể hiện để bạn rút được kinh nghiệm và
chính bản thân các em cũng được bổ trợ những kinh nghiệm đó để điều chỉnh
mình khi kể.
Qua đây, ta thấy: rõ ràng phương pháp kể chuyện mới này đã có những
tiến bộ rõ rệt: trong tiết học, giáo viên chỉ là người hướng dẫn chỉ đạo còn học
sinh mới thực sự là người làm cho tiết học sôi nổi, hấp dẫn hơn. Bởi trong tiết
kể chuyện, hoạt động của học sinh chiếm 2/3 tiết học. Như vậy có nghĩa là học
-6/14-
sinh được chủ động trong việc nghe nói, đẩy ngôn ngữ nói của các em lên một

mức cao hơn.
2. Rèn luyện kĩ năng nói qua hình thức kể chuyện theo tranh:
Chúng ta cần phân biệt kể chuyện theo tranh và sử dụng tranh minh hoạ cho
truyện. Tranh ảnh là đồ dùng trực quan có thể được sử dụng trong bất kì một
môn học nào. Nhưng các môn học khác, sử dụng tranh khi giới thiệu khái niệm
hoặc nhằm minh họa cho khái niệm, nhưng ở tiết dạy kể chuyện của chương
trình cải cách giáo dục, giáo viên sử dụng tranh vẽ để minh hoạ cho nội dung
truyện, làm cho lời kể mẫu của mình sinh động và hấp dẫn hơn. Còn hình thức
kể chuyện theo tranh của chương trình mới thì hoàn toàn khác. Giáo viên phải
chuẩn bị đầy đủ tranh vẽ thể hiện nội dung, diễn biến của câu chuyện. Học sinh
dựa vào tranh vừa là phương tiện trợ giúp trí nhớ một cách đắc lực, vừa là công
cụ làm cho việc thể hiện lại câu chuyện một cách sinh động và hấp dẫn. Hình
thức kể chuyện theo tranh là hình thức rất hay, phát huy được khả năng quan
sát, óc tưởng tượng, đặc biệt là phát huy khả năng nói (ngôn ngữ) ở các em.
Hướng dẫn kể chuyện theo tranh.
* Trong sách giáo khoa:
Đa số các câu chuyện đều được kể theo tranh, mỗi bức tranh sẽ tương
ứng với nội dung của một đoạn truyện, thường thì mỗi câu chuyện có từ 3 đến
4 đoạn nên có từ 3 đến 4 bức tranh minh hoạ. Nhưng cũng có những truyện có
từ 5 đến 6 đoạn nên được minh hoạ bằng 5 đến 6 tranh, ví dụ như truyện “Tìm
ngọc” (Tiếng việt 2-trang 140 tập 1).
Tranh sử dụng trong kể chuyện có hai loại: tranh kèm lời gợi ý (dùng
trong những tuần đầu năm học) và tranh không kèm lời gợi ý (dùng trong
những tuần sau).
Trong việc áp dụng biện pháp này, giáo viên có thể sử dụng tranh trong
sách giáo khoa hoặc vẽ tranh lớn treo trên bảng.
+ Hướng dẫn đối với những truyện có tranh kèm theo lời gợi ý: Ví dụ
truyện “Có công mài sắt có ngày nên kim” (lớp 2-tập 1), sách giáo viên hướng
dẫn như sau:
* Quy trình hướng dẫn:

- Cho học sinh quan sát từng tranh.
- Giáo viên đặt câu hỏi gợi ý.
-7/14-
- Cho từng học sinh kể.
- Sau mỗi lần cho một học sinh kể, cho lớp nhận xét:
+ Về nội dung: Kể đã đủ ý chưa? Kể có đúng trình tự không?
+ Về cách diễn đạt: Nói đã thành câu chưa? Dùng từ có hợp không? Đã
biết kể bằng lời của mình chưa(mức độ cao)?
+ Về cách thể hiện: Kể có tự nhiên không? Đã biết phối hợp lời kể với
điệu bộ, nét mặt chưa? Giọng kể có thích hợp không?
* Kể theo tranh 1:
Câu hỏi gợi ý:
+ Cậu bé đang làm gì? Cậu đọc sách như thế nào?
+ Em hãy nhớ lại truyện đã đọc: Cậu bé tập viết như thế nào?
- Ví dụ về lời kể có sáng tạo: Ngày xưa có một cậu bé làm gì cũng chóng
chán. Cứ cầm đến quyển sách, đọc được vài ba dòng là cậu đã ngáp ngắn ngáp
dài, rồi gục đầu ngủ lúc nào không biết. Lúc tập viết, cậu cũng chỉ nắn nót được
mấy chữ đầu, rồi viết nguệch, viết ngoạc cho xong chuyện.
* Kể theo tranh 2:
Câu hỏi gợi ý:
- Tranh vẽ bà cụ đang làm gì?
- Cậu bé hỏi bà cụ điều gì?
- Bà cụ trả lời thế nào?
-C ậu bé có tin lời bà cụ nói không?
* Kể theo tranh 3:
Câu hỏi gợi ý:
- Bà cụ trả lời thế nào?
- Sau khi nghe bà cụ giảng giải, cậu bé làm gì?
Học sinh có thể tách lời giảng giải của bà cụ thành nhiều câu ngắn:
Hôm nay bà mài. Ngày mai bà lại mài. Mỗi ngày thỏi sắt nhỏ lại một ít.

Chắc chắn có ngày nó sẽ thành cái kim
* Kể theo tranh 4:
Câu hỏi gợi ý:
- Em hãy nói lại câu tục ngữ.
-8/14-
- Câu tục ngữ khuyên em điều gì?
Như vậy, ta thấy: đối với những câu chuyện kèm theo lời gợi ý, sách giáo
viên đã hướng dẫn khá kĩ. Vì vậy, giáo viên nhìn hệ thống câu hỏi gợi ý này có
thể điều hành một tiết kể chuyện dễ dàng, còn học sinh thì dựa vào hệ thống
câu hỏi đó có thể tự mình kể được câu chuyện.
Vậy là hình thức kể chuyện theo tranh đã phát huy được tác dụng của nó,
đó là việc rèn luyện kĩ năng nói cho học sinh.
Để dạy được hình thức bài tập này đạt hiệu quả cao thì giáo viên không
nên trao đổi tất cả các tranh cùng một lúc. Kể đoạn nào giáo viên treo tranh
đoạn đó để thu hút sự tập trung của các em. Nếu nhìn tranh kể lại toàn bộ câu
chuyện thì mới treo tất cả tranh cùng một lúc.(Phần củng cố)
Hơn nữa, giáo viên nên cho học sinh quan sát dưới lớp trước, sau đó gọi
các em lên bảng kể và khuyến khích các em khi kể không cần nhìn chăm chú
vào tranh mà chỉ dùng tranh như một phương tiện làm cho lời kể hay hơn, hấp
dẫn hơn. Nghĩa là học sinh quay xuống lớp kể chỗ nào cần đến tranh thì các em
mới chỉ vào tranh.
3. Rèn luyện kĩ năng nói qua hình thức kể chuyện bằng hội thoại, giao
tiếp.
Kể chuyện là khả năng sử dụng ngôn ngữ ở dạng nói có tính nghệ thuật.
Đây là một dạng đặc biệt của đối thoại. Kể chuyện bằng hội thoại, giao tiếp là
hình thức kể chuyện sử dụng dàn ý, câu hỏi gợi ý để hướng dẫn học sinh kể
chuyện. Trong tất cả các hình thức kể chuyện thì đây là hình thức dễ nhất vì các
tình tiết, diễn biến câu chuyện đã được ghi lại (trong dàn ý hoặc câu trả lời),
học sinh dựa vào đó để kể lại truyện. Với các câu chuyện dài, nhiều tình tiết,
giáo viên sử dụng hình thức kể chuyện này sẽ giúp học sinh dễ dàng kể lại câu

chuyện.
Ví dụ như truyện “Kho báu” (lớp 2-tập 2). Nói chung đây cũng là một
truyện khá dài, nhưng nếu giáo viên dùng hình thức hội thoại, giao tiếp trong
tiết kể chuyện sẽ giúp học sinh kể được câu chuyện dễ dàng hơn, đồng thời
giúp học sinh phát huy được khả năng nói của mình. Giáo viên có thể dùng dàn
ý dưới đây để giúp học sinh kể lại câu chuyện:
- Đoạn 1: Hai vợ chồng chăm chỉ.
+ Thức khuya dậy sớm.
+ Không lúc nào ngơi tay.
-9/14-
+ Kết quả tốt đẹp.
- Đoạn 2: Dặn con.
+ Tuổi già.
+ Hai người con lười biếng.
+ Lời dặn của người cha.
- Đoạn 3: Tìm kho báu.
+ Đào ruộng tìm kho báu.
+ Không thấy kho báu.
+ Hiểu lời dặn của cha.
Hướng dẫn học sinh kể chuyện bằng hội thoại, giao tiếp.
* Trong sách giáo khoa:
Qua khảo sát sách giáo khoa lớp 2 chương trình mới ta thấy, đây cũng là
một hình thức phổ biến của phân môn kể chuyện lớp 2 chương trình tiểu học
mới. Hình thức này không có yếu tố tranh ảnh phụ trợ. Song mỗi đoạn truyện
thường có 3-4 câu gợi ý ngắn, mỗi câu gợi ý chứa đựng nội dung tổng hợp của
đoạn truyện. Những câu gợi ý đó lại gợi lại trí nhớ, trí tưởng tượng của học
sinh một cách dễ dàng. Lệnh của hình thức kể chuyện bằng hội thoại, giao tiếp
thường là: “Dựa vào các gợi ý sau kể lại từng đoạn của câu chuyện mới học”.
Sau khi phát lệnh, giáo viên ghi gợi ý của từng đoạn lên bảng và cho học sinh
nhìn vào gợi ý đó để các em có thể kể lại. Tuy nhiên, để cho hình thức này phát

huy hiệu quả rèn kĩ năng nói cho học sinh thì giáo viên không nên ghi những
gợi ý đó lên bảng ngay, mà cần đưa ra câu hỏi cho học sinh trả lời. Những câu
hỏi này phải đảm bảo tính logic của truyện.
Như vậy, ở hình thức này, sách giáo khoa có những dạng bài tập cụ thể sau:
- Dạng 1: Sách giáo khoa đưa ra gợi ý hoặc dàn ý tương đối cụ thể để
hướng dẫn học sinh kể lại câu chuyện. Ví dụ: bài Chim sơn ca và bông cúc
trắng (Tiếng Việt2-tuần 21). Có một số bài thay dạng bài tập này bằng dạng bài
tập “Dựa vào tóm tắt sau kể lại câu chuyện”. Ví dụ: Người làm đồ chơi (Tiếng
Việt 2-tuần 34).
- Dạng 2: Nêu những nhân vật trong câu chuyện, kể lại sự xuất hiện của
nhân vật, nhắc lại lời nhân vật. Ví dụ truyện Người thầy cũ (Tiếng Việt 2 - tập
1), Bạn của Nai nhỏ(Tiếng Việt 2-tập 1),
-10/14-
- Dạng 3: Tóm tắt nội dung của từng đoạn bằng một câu và đặt tên cho
từng đoạn truyện. Ví dụ truyện Một trí khôn hơn trăm trí khôn (Tiếng Việt 2 –
tuần 22).
* Trong sách giáo viên:
Thứ nhất: Dạng bài tập nhắc lại lời nhân vật trong truyện.
Ví dụ truyện “Bạn của Nai nhỏ” (Tiếng Việt 2-tập 1), yêu cầu: nhắc lại
lời của Nai bố khi Nai nhỏ kể về bạn, sách giáo viên đã hướng dẫn như sau:
- Giáo viên cho học sinh nhìn lại tranh, nhớ và nhắc lại lời của Nai cha
với Nai nhỏ. (Có thể gợi ý: nghe Nai nhỏ kể lại hành động hích đổ hòn đá to
của bạn, cha Nai nói thế nào? Nghe Nai nhỏ kể chuyện người bạn đã nhanh trí
kéo mình chạy trốn khỏi con thú dữ, cha Nai đã nói gì? Nghe xong chuyện bạn
mình húc ngã lão Sói để cứu Dê non, cha Nai đã mừng rỡ nói với con như thế
nào? )
- Vài học sinh nhắc lại những lời của Nai bố nói với con theo yêu cầu nói
trên; giáo viên nhận xét, uốn nắn(nếu cần).
Chú ý: Học sinh chỉ cần nhắc lại đúng ý cơ bản của lời nhân vật (Nai
nhỏ, Nai bố), không nhất thiết phải nêu nguyên các câu văn trong sách giáo

khoa.
Như vậy, ở dạng bài tập này, sách giáo viên đã hướng dẫn khá cụ thể, chi
tiết tạo điều kiện thuận lợi cho giáo viên khi tiến hành tiết dạy kể chuyện. Giáo
viên không mất nhiều thời gian cho việc chuẩn bị giáo án. Cũng chính vì vậy
mà học sinh được rèn kĩ năng nói tốt hơn.
Thứ hai: Dạng bài kể lại sự xuất hiện của nhân vật.
Ví dụ truyện Người thầy cũ(Tiếng Việt 2-tập 1), yêu cầu: Câu chuyện
gồm có mấy nhân vật? Kể lại sự xuất hiện của nhân vật chính(chú bộ đội) ở
đoạn 1, sách giáo viên đã hướng dẫn như sau:
Dạy theo quy trình đã hướng dẫn. Chú ý:
+ Ý nghĩ của Dũng.
- Các nhân vật trong câu chuyện: Dũng, chú bộ đội tên là Khánh (bố của
Dũng) và là thầy giáo.
- Mở đầu câu chuyện: sự xuất hiện của nhân vật chính-chú bộ đội.
Những chi tiết chính cần kể:
+ Địa điểm diễn ra câu chuyện: trường của Dũng.
-11/14-
+ Thời gian diễn ra câu chuyện: giờ ra chơi.
+ Nhân vật: chú bộ đội.
+ Lí do xuất hiện của nhân vật: đến thăm thầy giáo cũ, cũng chính là thầy
giáo của con mình (Dũng).
- Kết thúc câu chuyện:
+ Bố của Dũng chào thầy giáo, ra rể.
Như vậy, cũng giống như dạng bài tập trên, ở dạng bài tập này, sách giáo
viên cũng hướng dẫn khá kĩ. Chắc chắn khi nhìn vào những gợi ý này học sinh
sẽ kể được truyện.
Thứ ba: Dạng bài tập dựa vào gợi ý, kể laị từng đoạn câu chuyện.
Ví dụ truyện “Chim sơn ca và bông cúc trắng” (lớp 2 –tập 2), yêu cầu:
Dựa vào các gợi ý dưới đây, kể lại từng đoạn câu chuyện trên bằng lời của em;
sách giáo viên đã hướng dẫn như sau:

Trước khi kể từng đoạn, giáo viên cho học sinh đọc thầm toàn bộ dàn ý
câu chuyện trong sách giáo khoa, trả lời:
- Truyện có mấy đoạn? Nôị dung chính của từng đoạn?
Truyện có 4 đoạn:
+ Đoạn 1: Cuộc sống tự do, sung sướng của Sơn Ca và Cúc.
+ Đoạn 2: Sơn Ca bị cầm tù.
+ Đoạn 3: Trong tù.
+ Đoạn 4: Sự hối hận muộn màng.
- Giáo viên viết nội dung từng đoạn lên bảng.
Qua đây ta thấy: ở dạng bài tập này, sách giáo viên cũng đã hướng dẫn
khá kĩ. Điều đó giúp giáo viên rất nhiều trong giờ lên lớp tiết kể chuyện. Bởi
giáo viên không mất nhiều thời gian trong việc chuẩn bị giáo án, hơn nữa lại
giúp học sinh rèn kĩ năng nói tốt.
4. Rèn luyện kĩ năng nói qua hình thức kể chuyện phân vai:
Đây là hình thức thu hút được đông đảo học sinh tham gia. Không chỉ các
em tham gia đóng vai có thể hiện tính cách của nhân vật mà các em ngồi dưới theo
dõi, cổ vũ hết sức nhiệt tình. Chính sự hứng thú của học sinh là điều kiện tốt để giáo
viên rèn luyện kĩ năng nói, giao tiếp cho các em trong giờ kể chuyện.
-12/14-
Ví dụ khi phân vai dựng lại câu chuyện Quả tim khỉ (Lớp 2-tập 2) gọi 3
em: một em đóng vai người dẫn chuyện, một em đóng vai Khỉ, và một em đóng
vai Cá sấu. Giọng người dẫn chuyện chậm rãi, nhẹ nhàng; giọng Khỉ ân cần lúc
hỏi han Cá Sấu và bình thản khi biết âm mưu của Cá Sấu; giọng Cá Sấu buồn
một cách giả dối, đặc biệt là con mắt của Cá Sấu thỉnh thoảng lại liếc sang Khỉ
để dò thái độ. Sau khi hướng dẫn xong, có thể giáo viên làm mẫu cho học sinh
xem.
Như vậy, những dạng bài tập hình thức kể chuyện phong phú đã thu hút,
lôi cuốn các em trong giờ kể chuyện, làm cho các em như sống lại với những
nhân vật trong truyện. Với niềm say mê của học sinh cũng như sự dạy dỗ tận
tình của giáo viên và phương pháp dạy học phù hợp thì giờ kể chuyện sẽ là một

môi trường tốt để rèn luyện kĩ năng giao tiếp, kĩ năng nói cho học sinh.
C - KẾT LUẬN
1. Kết quả nghiên cứu.
Việc áp dụng một số biện pháp để rèn kỹ năng nói trong giờ kể chuyện
cho học sinh ở lớp 2 do tôi chủ nhiệm đã có rất nhiều tiến bộ. Ở mỗi tiết kể
chuyện, các em đã biết kể lại câu chuyện ở các mức độ: kể bằng lời trong văn
bản, kể bằng lời của mình, kể bằng lời của nhân vật trong câu chuyện. Hầu hết
các em đều kể rất tốt, lưu loát, biết thay đổi giọng kể phù hợp với nội dung câu
chuyện, bước đầu biết sử dụng điệu bộ, cử chỉ để hỗ trợ cho lời kể. Khi kể, các
em biết thay thế, thêm bớt các từ ngữ làm cho câu chuyện sinh động hơn. Hầu
hết học sinh đã biết trước được nội dung của câu chuyện nên có rất nhiều thời
gian để rèn kĩ năng nói cho học sinh. Đặc biệt khi dùng dàn ý hoặc câu hỏi, rất ít
em phải nhìn vào dàn ý đó để kể lại.
Chất lượng khảo sát tháng 3/2009 về khả năng nói của học sinh trong giờ
kể chuyện như sau:
Tốt: 5 em = 17,2%
Khá: 12 em = 41,3%
TB: 10 em = 34,4%
Yếu: 2 em = 6,8%
2. Bài học kinh nghiệm
Với phương châm lấy học sinh làm trung tâm, giáo viên là người chỉ đạo,
hướng dẫn, còn học sinh là người thực hiện triển khai công việc, tôi nghĩ trong giờ
dạy, giáo viên nên tạo ra trong lớp học một không khí sôi nổi thoải mái.
-13/14-
Trong giờ kể chuyện học sinh phải được phát huy tối đa khả năng nói
của mình. Giáo viên nên dùng các hình thức động viên, khuyến khích các em,
đặc biệt là đối với những em rụt rè, chưa tự tin. Ngoài ra, để hình thành kỹ
năng kể chuyện cho học sinh còn phụ thuộc vào phương pháp, hình thức tổ
chức của giáo viên. Dạy phân môn kể chuyện giáo viên phải đưa ra và lựa chọn
những phương pháp, hình thức tổ chức phù hợp cho việc rèn luyện kĩ năng nói

của học sinh. Chẳng hạn về phương pháp: có phương pháp kể chuyện bằng
tranh, phương pháp đàm thoại, phương pháp nhập vai, phân vai. Về hình thức
tổ chức: hình thức lớp - bài, hình thức học theo nhóm trong đó hình thức học
theo nhóm là chủ yếu. Hình thức học này giúp học sinh bình tĩnh, tự tin hơn và
mạnh dạn nói ra ý kiến của mình. ở đây, học sinh được tham gia nói nhiều hơn,
được phát huy khả năng nói của mình. Bởi lẽ ai cũng biết, hoạt động giao tiếp
là hoạt động có ý nghĩa sống còn đối với xã hội. Giao tiếp đối với học sinh tiểu
học là vô cùng cần thiết. Việc rèn kĩ năng nói trong giờ kể chuyện cũng vậy, nó
giúp các em khi tiếp xúc với bạn bè, với thầy cô, với người thân một cách tự
nhiên hơn, thân mật hơn và tự tin hơn rất nhiều.
Trên đây là một số kinh nghiệm của bản thân được rút ra trong quá trình
dạy phân môn kể chuyện ở lớp 2. Tôi đã áp dụng những kinh nghiệm trên và đã
có hiệu quả nhất định và đây là kinh nghiệm của cá nhân. Trong quá trình viết
sáng kiến chắc chắn còn những khiếm khuyết, tôi rất mong được sự góp ý của
Hội đồng khoa học nhà trường và đồng nghiệp để sáng kiến của tôi sát thực tế
hơn và có giá trị trong dạy học kể chuyện lớp 2.
Tôi xin chân thành cám ơn!
Người viết SKKN: Nguyễn Thị Thu
-14/14-

×