Tải bản đầy đủ (.pdf) (61 trang)

Khóa luận tốt nghiệp văn học: Tìm hiểu tính lịch sự của lời mời trong ngôn ngữ Việt - Thái

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (668.24 KB, 61 trang )


BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC TÂY BẮC


LÙ THỊ XOAN

TÌM HIỂU TÍNH LỊCH SỰ CỦA LỜI MỜI
TRONG NGÔN NGỮ VIỆT - THÁI






KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC








SƠN LA, NĂM 2013

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC TÂY BẮC








LÙ THỊ XOAN

TÌM HIỂU TÍNH LỊCH SỰ CỦA LỜI MỜI
TRONG NGÔN NGỮ VIỆT - THÁI



CHUYÊN NGÀNH: NGÔN NGỮ HỌC


KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC


Người hướng dẫn: TS. Vũ Tiến Dũng



SƠN LA, NĂM 2013
LỜI CẢM ƠN

Khóa luận được hoàn thành dưới sự hướng dẫn khoa học, sự chỉ bảo tận
tình của Tiến sĩ Vũ Tiến Dũng, sự quan tâm của Phòng Đào tạo, Ban chủ nhiệm
khoa Ngữ Văn, Thư viện nhà trường, cùng các thầy cô giáo bộ môn tiếng Việt và
cô giáo chủ nhiệm, các bạn sinh viên K50 ĐHSP Văn – GDCD.
Nhân dịp khóa luận được công bố, em xin chân thành cảm ơn sự quan tâm,
giúp đỡ đó. Đặc biệt, em xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc tới Tiến sĩ Vũ Tiến

Dũng – người thầy đã tận tình chỉ bảo, giúp đỡ em trong suốt quá trình thực
hiện khóa luận.

Sơn La, tháng 5, năm 2013
Tác giả
Lù Thị Xoan
MỤC LỤC
MỞ ĐẦU 1
1. Lí do chọn đề tài 1
2. Lịch sử vấn đề 2
3. Mục đích, nhiệm vụ và ý nghĩa 4
3.1. Mục đích 4
3.2. Nhiệm vụ 4
3.3. Ý nghĩa 4
3.3.1. Ý nghĩa lí luận 4
3.3.2. Ý nghĩa thực tiễn 4
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu 4
4.1. Đối tượng nghiên cứu 4
4.2. Phạm vi nghiên cứu 4
5. Phương pháp nghiên cứu và nguồn ngữ liệu 5
5.1. Phương pháp nghiên cứu 5
5.1.1. Phương pháp khảo sát, thống kê 5
5.1.2. Phương pháp miêu tả, phân tích 5
5.1.3. Phương pháp hệ thống 5
5.1.4. Phương pháp phân tích, quy nạp 5
5.1.5. Phương pháp so sánh, đối chiếu 5
5.1.6. Phương pháp phân tích diễn ngôn 5
5.2. Nguồn ngữ liệu 6
6. Cấu trúc khóa luận 6
CHƯƠNG 1. CƠ SỞ LÍ LUẬN 7

1.1. Lí thuyết về hành vi ngôn ngữ 7
1.1.1. Lí thuyết về hành vi ngôn ngữ của Austin 7
1.1.1.1. Hành vi tạo lời (Locutionary act) 7
1.1.1.2. Hành vi mượn lời (Perlocution act) 8
1.1.1.3. Hành vi ở lời (Illocutionary act) 9
1.1.1.4. Phát ngôn khảo nghiệm và phát ngôn ngữ vi 10
1.1.1.5. Động từ ngữ vi 10
1.1.1.6. Phân loại các hành vi ngôn ngữ theo Austin 11
1.1.2. Lí thuyết hành vi ngôn ngữ của Searle 11
1.1.2.1. Điều kiện sử dụng các hành vi ở lời theo Searle 11
1.1.2.2. Phân loại hành vi ngôn ngữ theo Searle 11
1.1.3. Hành vi ngôn ngữ trực tiếp và hành vi ngôn ngữ gián tiếp 13
1.1.3.1. Hành vi ngôn ngữ trực tiếp 13
1.1.3.2. Hành vi ngôn ngữ gián tiếp 13
1.2. Lí thuyết hội thoại 15
1.2.1. Khái niệm cuộc thoại 15
1.2.2. Những đặc điểm khái quát của một cuộc thoại 15
1.2.3. Cấu trúc một cuộc thoại 16
1.2.4. Các nguyên tắc hội thoại 16
1.3. Lí thuyết lịch sự 16
1.3.1. Khái niệm lịch sự 16
1.3.2. Một số quan điểm về lịch sự trên thế giới 17
1.3.2.1. Quan điểm về lịch sự của R. Lakoff 17
1.3.2.2. Quan điểm về lịch sự của Leech 19
1.3.2.3. Quan điểm về lịch sự của Brwon và Levinson 22
1.3.3. Một số quan điểm về lịch sự ở Việt Nam 23
1.3.4. Lịch sự trong giao tiếp của người Việt 23
1.4. Hành vi mời trong giao tiếp 25
1.4.1. Khái niệm lời mời 25
1.4.2. Một số cách thức mời trong tiếng Việt 26

1.4.3. Điều kiện nhận diện lời mời 27
1.4.4. Tính lịch sự trong lời mời của một số ngôn ngữ Âu – Mĩ 28
CHƯƠNG 2. TÍNH LỊCH SỰ CỦA LỜI MỜI TRONG NGÔN NGỮ VIỆT
- THÁI 32
2.1. Lịch sự của lời mời trong tiếng Việt 32
2.1.1. Lịch sự của lời mời xét theo vai giao tiếp 32
2.1.2. Lịch sự trong hành vi mời thể hiện trong hành vi ở lời trực tiếp 34
2.1.3. Xưng hô một biểu hiện của lịch sự trong lời mời 35
2.1.3.1. Xưng hô trong gia đình 35
2.1.3.2. Xưng hô ngoài xã hội 36
2.1.4. Các thành phần bổ trợ - một trong những biểu hiện quan trọng của lịch
sự trong lời mời 37
2.1.4.1. Thành phần bổ trợ hô gọi 37
2.1.4.2. Thành phần chào hỏi 37
2.1.4.3. Thành phần nêu lí do mời 38
2.1.4.4. Thành phần thăm dò khả năng 38
2.1.4.5. Thành phần bộc lộ 38
2.1.4.6. Tỏ ra am hiểu về Sp2 39
2.1.4.7. Kết hợp một số biểu thức 39
2.2. Lịch sự của lời mời trong tiếng Thái 40
2.2.1. Lịch sự của lời mời xét theo vai giao tiếp 40
2.2.2. Lịch sự trong hành vi mời thể hiện qua hành vi ở lời trực tiếp 41
2.2.3. Xưng hô - một biểu hiện của lịch sự trong lời mời 41
2.2.3.1. Xưng hô trong gia đình 42
2.2.3.2. Xưng hô ngoài xã hội 42
2.2.4. Các thành phần bổ trợ - một trong những biểu hiện quan trọng của lịch
sự trong lời mời 43
2.2.4.1. Thành phần bổ trợ hô gọi 43
2.2.4.2. Thành phần chào hỏi 44
2.2.4.3. Thành phần nêu lí do mời 44

2.2.4.4. Thành phần thăm dò khả năng 45
2.2.4.5. Thành phần bộc lộ 45
2.2.4.6. Kết hợp một số biểu thức 46
2.2.5. Một số điểm tương đồng và nét khác biệt giữa tính lịch sự của lời mời
trong tiếng Việt và tính lịch sự của lời mời trong tiếng Thái 47
2.2.5.1. Điểm tương đồng 47
2.2.5.2. Điểm khác biệt 48
KẾT LUẬN 51
TÀI LIỆU THAM KHẢO

1
MỞ ĐẦU
1. Lí do chọn đề tài
Cùng với sự phát triển chung của xã hội loài người, ngôn ngữ cũng ngày
càng phát triển phong phú, đa dạng hơn. Trong những sự phát triển đó, chúng ta
phải kể đến sự xuất hiện của khái niệm lịch sự trong tương tác.
Lịch sự đã xuất hiện khá lâu đời và biểu hiện trong nhiều ngôn ngữ, trong
nhiều nền văn hóa khác nhau. Tuy nhiên, trong những ngày đầu tiên xuất hiện,
tính lịch sự chưa được quan tâm với tư cách như một khái niệm. Phải đến những
năm 70 của thế kỉ XIX thì khái niệm lịch sự mới được xem xét và phân tích một
cách khoa học với những tên tuổi như: N.Boston và J.C.Lock. Và đến một trăm
năm sau, khái niệm lịch sự mới được hình thành, phát triển và trở thành mối
quan tâm chú ý thường xuyên của ngành ngôn ngữ học nói chung và ngữ dụng
học nói riêng.
Tuy vậy, nội dung khái niệm lịch sự không chung cho tất cả các nền văn
hóa. Tùy theo mỗi nền văn hóa, mỗi vùng văn hóa khác nhau, khái niệm lịch sự
lại được hiểu theo những cách không giống nhau. Theo các tài liệu đã chứng
minh, văn hóa phương Tây coi lịch sự như một chiến lược giao tiếp. Đó là
những cách thức ứng xử bằng ngôn ngữ khôn khéo, tránh áp đặt và xúc phạm đến
đối tượng tham gia giao tiếp nhằm nâng cao hiệu quả trong tương tác. Văn hóa

phương Đông lại hiểu khái niệm lịch sự ở phương diện khác. Lịch sự được biểu
hiện ở các hành vi có tính lễ độ, chịu sự chi phối của những quy tắc tương tác nhất
định. Hiểu theo nghĩa này, lịch sự được coi như những chuẩn mực xã hội. Bên cạnh
đó, có một số nhà nghiên cứu lại nhận định lịch sự là sự dung hợp giữa lịch sự
chuẩn mực và lịch sự chiến lược. Hay nói cách khác, đó là sự kết hợp hài hòa giữa
các cách ứng xử khéo léo, khiêm nhường, lễ phép và đúng mực.
Ngày nay, xã hội ngày càng phát triển, cùng với đó là giao tiếp cũng ngày
càng được mở rộng. Càng ngày, người ta càng muốn nâng cao hiệu quả giao tiếp
và lịch sự là một trong những nhân tố góp phần đáng kể vào việc nâng cao hiệu
quả đó. Trong hội thoại, con người chúng ta ai cũng muốn được tôn trọng và giữ
thể diện. Do vậy, việc cân nhắc lựa chọn các phương tiện ngôn ngữ trong giao
tiếp của mỗi cá nhân để đạt được hiệu quả là điều không đơn giản. Dựa vào hoàn
cảnh giao tiếp cụ thể, những người tham gia giao tiếp cần có những cách thức phù
hợp để tránh đe dọa đến thể diện của người đối thoại cũng như thể diện của mình.
Trong giao tiếp, lời mời là một trong những nghi thức lời nói rất quan
trọng. Vậy mời như thế nào để đảm bảo sự khéo léo, tế nhị, lịch sự? Điều đó đòi

2
hỏi ở người nói sự tính toán để đưa ra chiến lược giao tiếp phù hợp nhằm đảm
bảo được thể diện của mình, đồng thời làm hài lòng và nâng cao thể diện của
người nghe. Tùy thuộc vào ngữ cảnh và quan hệ liên nhân giữa các đối tượng
mà người nói có thể vận dụng các chiến lược giao tiếp một cách linh hoạt sao
cho đạt hiệu quả giao tiếp cao nhất.
Là hành vi ngôn ngữ, cũng như mọi hành vi khác của con người, hành vi
mời vừa mang tính phổ quát vừa mang tính đặc ngữ, chịu sự chi phối sâu sắc
của văn hóa dân tộc. Việc tìm hiểu tính lịch sự trong lời mời ngôn ngữ Việt –
Thái sẽ góp phần bổ sung vào vốn hiểu biết của chúng ta những tri thức về văn
hóa của dân tộc Việt và dân tộc Thái. Đồng thời, việc tìm hiểu đó sẽ giúp chúng
ta khám phá ra những điểm tương đồng và khác biệt về tính lịch sự trong văn
hóa của hai dân tộc này thể hiện qua “lời mời”.

Tính đến nay, ở Việt Nam đã có nhiều công trình nghiên cứu về lịch sự và
lời mời. Tuy nhiên, chưa có một công trình nào chuyên biệt nghiên cứu về tính
lịch sự trong lời mời ngôn ngữ Việt – Thái.
Với tất cả những lí do trên, chúng tôi lựa chọn đề tài: “Tìm hiểu tính lịch
sự của lời mời trong ngôn ngữ Việt - Thái”.
2. Lịch sử vấn đề
Vấn đề lịch sự trong giao tiếp từ lâu đã được các nhà nghiên cứu trong và
ngoài nước đề cập đến trong nhiều công trình nghiên cứu về ngữ dụng học.
Ngày nay, lịch sự càng được nhiều người quan tâm và có một vị trí rõ nét
trong giao tiếp. Bởi vì, nhờ lịch sự trong giao tiếp, chúng ta có thể đạt được
những điều chúng ta mong muốn một cách tốt nhất.
Hiện nay, khi nghiên cứu về lịch sự, trên thế giới đang tồn tại ba khuynh
hướng chính. Các khuynh hướng này dựa trên những cứ liệu văn hóa khác nhau
của các dân tộc khác nhau trên thế giới. Tuy mục đích và phương pháp nghiên
cứu không giống nhau, nhưng kết quả nghiên cứu của các tác giả đều thừa nhận
lịch sự là một hiện tượng xã hội, có tính phổ quát cho mọi cộng đồng.
R.Lakoff đưa ra ba quy tắc khác nhau về lịch sự để đối tượng tham gia giao
tiếp có thể lựa chọn, sử dụng để thể hiện lịch sự. Theo tác giả này thì những
hành động lịch sự hay bất lịch sự đều gắn với bối cảnh giao tiếp cụ thể.
Leech cho rằng, lịch sự gắn với quan hệ liên nhân trong tương tác. Nhìn
chung, sáu tiêu chí lịch sự của Leech gần gũi với kết cấu các nguyên tắc hội
thoại của Grice. Leech cũng lưu ý rằng, một số hành động cố hữu mang tính

3
chất bất lịch sự như: ra lệnh, sai bảo, yêu cầu, khuyên răn,… và có hành động
mang bản chất lịch sự như hành động khen tặng.
Brown và Levinson là hai tác giả có những đóng góp to lớn trong lĩnh vực
nghiên cứu về lịch sự. Quan điểm của hai tác giả này hiện nay được xem là nhất
quán, có ảnh hưởng rộng rãi nhất, có hiệu quả cao nhất đối với nghiên cứu về
phép lịch sự. Hai tác giả này đưa ra bốn định hướng trong sự phân định hành

động tự thân có thể làm ảnh hưởng, phương hại đến thể diện (Thể diện là động
lực của lịch sự và lịch sự là phương tiện để bảo vệ thể diện). Brown và Levinson
cho rằng đa số các hành vi ngôn ngữ đều tiềm ẩn nguy cơ đe dọa thể diện và khi
giao tiếp, con người ta tìm cách hạn chế những nguy cơ đó. Những hành vi này
thuộc tính chiến lược lịch sự của cá nhân trong giao tiếp. Lịch sự ở đây được
hiểu là những toan tính cá nhân nhằm tránh áp đặt, tránh vi phạm thể diện để
mỗi cá nhân thành công trong tương tác xã hội.
Bên cạnh các quan điểm về lịch sự nêu trên, các nhà nghiên cứu về lịch sự
dựa trên các cứ liệu văn hóa phi phương Tây lại cho rằng lịch sự không đơn
thuần chỉ mang tính chiến lược cá nhân. Theo Gu và Matsumoto, lịch sự phải
gắn với những giá trị thuộc về giao tiếp cộng đồng xã hội hơn là những ý muốn
lựa chọn tự do của cá nhân trong giao tiếp. Có nghĩa là lịch sự phải tuân thủ các
quy tắc ứng xử của xã hội và nó được coi là lịch sự chuẩn mực. Mọi cá nhân
tham gia giao tiếp xã hội phải tuân thủ những chế định xã hội được mọi người
trong cộng đồng xã hội thừa nhận mới được coi là lịch sự.
Ngoài ra, một khuynh hướng nghiên cứu khác lại cho rằng lịch sự là sự kết
hợp giữa quan niệm lịch sự chiến lược và quan niệm lịch sự chuẩn mực. Hai tác
giả lớn tiêu biểu cho khuynh hướng này là Hill và Kasper.
Ở Việt Nam, vấn đề lịch sự cũng được nghiên cứu một cách cụ thể và đạt
được những thành tựu đáng quan tâm. Hai tác giả Vũ Thị Thanh Hương và Vũ
Tiến Dũng đã đưa ra những kết luận về nội dung của lịch sự theo quan niệm của
người Việt. Đó là, coi lịch sự vừa là chiến lược cá nhân, vừa là chuẩn mực xã
hội. Các tác giả đã xác định rõ tầm quan trọng của lịch sự trong giao tiếp. Các
công trình nghiên cứu đã đưa ra được những kết luận bước đầu về khái niệm lịch
sự trong tiếng Việt và đi sâu hơn nữa là tìm hiểu về lịch sự trong giới tính, trong
các hành động nói. Những công trình đó đã góp phần định hướng cho việc tìm
hiểu về lịch sự trong giao tiếp cho các công trình nghiên cứu tiếp theo.
Bên cạnh đó, tính lịch sự của lời mời cũng đã được một số tác giả đề cập
đến. Chẳng hạn như tác giả Nguyễn Thị Thu Thuỷ đã đề cập đến tính lịch sự của


4
lời mời trong luận văn thạc sĩ “Lịch sự của lời mời và cách thức từ chối lời mời
trong giao tiếp tiếng Việt”.
3. Mục đích, nhiệm vụ và ý nghĩa
3.1. Mục đích
Qua việc tìm hiểu tính lịch sự của lời mời trong ngôn ngữ Việt – Thái, khóa
luận này hướng đến những mục đích sau:
- Nhận ra những điểm tương đồng và khác biệt giữa tính lịch sự trong văn
hóa của dân tộc Việt và dân tộc Thái thể hiện qua “lời mời”.
- Chỉ ra được tính lịch sự của hành vi mời phù hợp với văn hóa của từng
dân tộc mà cụ thể là “tính lịch sự của lời mời trong ngôn ngữ Việt – Thái”.
3.2. Nhiệm vụ
Với mục đích được xác định như trên, khóa luận hướng tới các nhiệm vụ sau:
- Hệ thống hoá một số vấn đề về lí thuyết lịch sự.
- Xem xét tính lịch sự của lời mời trong ngôn ngữ Việt – Thái.
3.3. Ý nghĩa
3.3.1. Ý nghĩa lí luận
Khóa luận làm rõ những điểm tương đồng và những nét khác biệt về tính
lịch sự trong lời mời của ngôn ngữ Việt và ngôn ngữ Thái.
3.3.2. Ý nghĩa thực tiễn
Kết quả nghiên cứu của khóa luận nếu có tính khả chấp sẽ là tư liệu phục
vụ cho việc tìm hiểu văn hóa, ngôn ngữ của dân tộc Việt, dân tộc Thái mà hẹp
hơn là tính lịch sự thể hiện qua lời mời trong giao tiếp của hai dân tộc này, đồng
thời góp phần rèn luyện, nâng cao năng lực ngôn ngữ cho mỗi cá nhân.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu
Tìm hiểu về tính lịch sự của lời mời trong ngôn ngữ Việt - Thái.
4.2. Phạm vi nghiên cứu
Khảo sát việc sử dụng lời mời trong giao tiếp tiếng Việt và trong giao tiếp
tiếng Thái ở huyện Mường Ảng, huyện Tuần Giáo,…thuộc tỉnh Điện Biên.




5
5. Phương pháp nghiên cứu và nguồn ngữ liệu
5.1. Phương pháp nghiên cứu
5.1.1. Phương pháp khảo sát, thống kê
Phương pháp khảo sát được sử dụng để tiến hành để khảo sát các tài liệu
liên quan đến đề tài và sau đó thống kê lại toàn bộ nội dung đã khảo sát. Phương
pháp này giúp chúng ta sử dụng được nhiều nguồn ngữ liệu một cách có hiệu
quả và giúp chúng ta biết được vấn đề nào đầy đủ hay còn thiếu sót để bổ sung
và hoàn chỉnh.
5.1.2. Phương pháp miêu tả, phân tích
Phương pháp này được sử dụng sau khi đã khảo sát và thống kê nguồn ngữ
liệu mà khoá luận quan tâm, nghiên cứu. Thao tác miêu tả, giúp nhận dạng đúng
đối tượng và và sau đó phân tích để hiểu rõ về đối tượng một cách đầy đủ, cụ thể
và chi tiết nhất.
5.1.3. Phương pháp hệ thống
Phương pháp hệ thống giúp ta kiểm tra toàn bộ những nội dung đã tiến
hành khảo sát, thống kê nhằm giúp kiểm soát được chính xác nội dung miêu tả,
phân tích đã đạt được và căn cứ vào đó để chỉnh sửa, bổ sung nếu cần, tránh
được những kết luận thiếu nhất quán.
5.1.4. Phương pháp phân tích, quy nạp
Phương pháp này giúp khoá luận tổng hợp tất cả những nội dung đã thực
hiện ở trên rồi khái quát lại giúp cho các kết luận của khoá luận có căn cứ khách
quan, khoa học.
5.1.5. Phương pháp so sánh, đối chiếu
Phương pháp so sánh đối chiếu được chúng tôi sử dụng để so sánh tính lịch
sự trong lời mời ngôn ngữ Việt và tính lịch sự trong lời mời ngôn ngữ Thái.
Trên cơ sở đó, chỉ ra những điểm tương đồng và những nét khác biệt về tính lịch

sự trong lời mời hai ngôn ngữ này.
5.1.6. Phương pháp phân tích diễn ngôn
Đây là phương pháp phân tích các phát ngôn ngắm với mỗi tình huống giao
tiếp để mã hóa được ý nghĩa của phát ngôn đó ngắn với một tình huống giao tiếp
cụ thể.


6
5.2. Nguồn ngữ liệu
Khoá luận được thực hiện dựa trên nguồn ngữ liệu là lời ăn tiếng nói hàng
ngày của người Việt và người dân tộc Thái trong khu vực huyện Mường Ảng,
huyện Tuần Giáo,… thuộc tỉnh Điện Biên mà chúng tôi ghi chép được.
6. Cấu trúc khóa luận
Ngoài phần mở đầu, phần kết luận và tài liệu tham khảo, cấu trúc khoá luận
gồm hai chương cụ thể:
Chương 1. Cơ sở lí luận
Chương 2. Tính lịch sự của lời mời trong ngôn ngữ Việt - Thái

7
CHƯƠNG 1
CƠ SỞ LÍ LUẬN
1.1. Lí thuyết về hành vi ngôn ngữ
Hành vi (hay còn gọi là hành động) là toàn bộ nói chung các phản ứng,
cách cư xử biểu hiện ra ngoài của một người trong một hoàn cảnh cụ thể, nhất
định. [22]
Trong cuộc sống hàng ngày, dưới sự điều khiển của tư duy, con người có
hai hoạt động dễ nhận thấy là “nói” (speak) và “làm” (do). Và từ trước tới nay,
trong quan niệm của nhiều người thì thường đối lập giữa “nói” và “làm”. Thậm
chí, người Việt Nam chúng ta còn quan niệm “nói” và “làm” là hai phạm trù
khác hẳn nhau. Chính vì vậy, dân gian ta thường có câu: “Nói một đằng làm một

nẻo” hay “Ăn như rồng cuốn, nói như rồng leo, làm như mèo mửa”… Như vậy,
có thể thấy theo nhận thức thông thường, người ta quan niệm “đi”, “đứng”, “ăn”,
“uống”… mới là hành động, còn “nói” thì không được xếp vào chuỗi hành động.
Tuy nhiên, thực tế đã xác nhận rằng “nói” cũng là một hành động (Act). Đó là
hành động dùng ngôn ngữ để biểu hiện, diễn tả một thông báo gì đó. Hoạt động
lời nói là một phần, một dạng trong đời sống của con người. Nghiên cứu về hành
vi ngôn ngữ cũng có nhiều công trình khác nhau và đã có những kết luận khoa
học quan trọng.
1.1.1. Lí thuyết về hành vi ngôn ngữ của Austin
J.L.Austin – một nhà triết học người Anh là người xây dựng và đặt nền
móng cho lí thuyết hành vi ngôn ngữ. Năm 1955, tại trường đại học tổng hợp
Harvard (Mĩ), ông đã trình bày 12 chuyên đề. Những chuyên đề này, năm 1962
(tức hai năm sau ngày ông mất) đã được tập hợp lại xuất bản thành sách với
nhan đề “How to do things with words” (có thể tạm dịch là: Hành động như thế
nào bằng lời nói). Vào năm 1970, cuốn sách này được dịch sang tiếng Pháp với
nhan đề “Quand dire c′est faire” (khi nói tức là làm).[5]
Austin đã phân biệt phát ngôn khảo nghiệm và phát ngôn ngữ vi. Từ đó,
phát hiện ra bản chất của ngôn ngữ và gọi hành vi ngôn ngữ là hành vi nói năng.
Theo Austin, khi chúng ta nói năng tức là chúng ta hành động; chúng ta thực
hiện một hành vi đặc biệt mà phương tiện là ngôn ngữ. Theo ông, có ba loại
hành vi ngôn ngữ trong một phát ngôn là: Hành vi tạo lời (Locutionary act),
hành vi mượn lời (Perlocutionary act), hành vi ở lời (Illocutionary act).
1.1.1.1. Hành vi tạo lời (Locutionary act)
Hành vi tạo lời là hành vi sử dụng các yếu tố ngôn ngữ như: âm, từ, các

8
kiểu kết hợp từ thành câu,… để tạo ra một phát ngôn hoàn chỉnh về nội dung và
hình thức. Chẳng hạn, khi ta nói:
(1) Hôm nay, thời tiết đẹp quá!
thì ta sử dụng các từ: Hôm nay, thời tiết, đẹp, quá và các quy tắc đặt câu của

tiếng Việt như: Chủ ngữ đặt ngay trước vị ngữ, trạng ngữ chỉ thời gian đặt ngay
trước nòng cốt câu, phụ từ quá đặt sau tính từ trung tâm và bổ sung ý nghĩa
thang độ cho tính từ đẹp.
Trong thực tế, nếu như một người gặp khó khăn trong việc phát âm các từ
để tạo ra một phát ngôn có nghĩa trong một ngôn ngữ như người nước ngoài nói
tiếng Việt hay người ngắn lưỡi thì khó có thể thành công trong hành vi tạo lời.
Chẳng hạn, một người nước ngoài nói tiếng Việt thường sẽ nói là:
a. Xin chao!
Phát ngôn này bình thường sẽ không được coi là hành vi tạo lời mà hành vi
tạo lời phải là:
b. Xin chào!
Và một bộ phận của hành vi tạo lời là đối tượng nghiên cứu của ngữ pháp
tiền dụng học.
1.1.1.2. Hành vi mượn lời (Perlocution act)
Hành vi mượn lời là những hành vi “mượn” phương tiện ngôn ngữ, nói cho
đúng hơn là mượn các phát ngôn để gây ra một hiệu quả ngôn ngữ nào đó ở
người nghe hoặc ở chính người nói. Hay nói cách khác là bằng hành động nói ra
một câu nói, người nói có thể gây ra ở người nghe những hiệu quả, tác động tâm
lí, sinh lí, vật lí phù hợp hay không phù hợp với ý muốn của mình. Như vậy,
người nói đã thực hiện hành vi mượn lời.
Ví dụ: (2) Sp1: Đóng cửa lại!
Sp2: Đứng dậy đi ra cửa và đẩy cánh cửa cho kín lại với biểu
hiện vùng vằng, gắt gỏng, bực tức, càu nhàu, khó chịu.
Hành động vật lí đóng cửa lại và sự vùng vằng, gắt gỏng, bực tức, càu
nhàu, khó chịu đều thuộc về hành vi mượn lời. Chức năng hành động của giao
tiếp được thực hiện nhờ các hiệu quả mượn lời của các phát ngôn. Có những
hiệu quả mượn lời là đích của một hành vi ở lời (như đóng cửa là hiệu quả của
hành vi ở lời điều khiển), nhưng có những hiệu quả không thuộc đích của hành
vi ở lời (như vùng vằng, gắt gỏng, bực tức, càu nhàu, khó chịu khi nghe lệnh).
Những hiệu quả mượn lời nhiều khi rất phân tán, mơ hồ và không thể tính toán


9
được (khó kiểm soát). Chúng không có tính quy ước (trừ những hành vi mượn
lời đích của hành vi ở lời). [5]
1.1.1.3. Hành vi ở lời (Illocutionary act)
Hành vi ở lời là những hành vi người nói thực hiện ngay khi nói năng. Hiệu
quả của chúng là những hiệu quả thuộc ngôn ngữ, có nghĩa là chúng gây ra một
phản ứng ngôn ngữ tương ứng với chúng ở người nhận. Có rất nhiều hành vi ở
lời như: hỏi, yêu cầu, ra lệnh, mời, hứa hẹn,… [5] Chẳng hạn, khi chúng ta hỏi
ai về một điều gì đó thì người được hỏi có nhiệm vụ trả lời chúng ta, cho dù phải
trả lời rằng không biết. Nếu không trả lời hoặc không đáp lại câu hỏi, người
nghe sẽ bị xem là không lịch sự.
Một đặc điểm nổi bật của hành vi ở lời là nó làm thay đổi tư cách pháp nhân
của người đối thoại. Chúng đặt người nói, người nghe vào những nghĩa vụ và
quyền lợi mới so với tình trạng của họ trước khi thực hiện hành vi ở lời đó. [5]
Bên cạnh đó, hành vi ở lời còn có các đặc điểm như: có ý định (có đích tại
lời), có quy ước và thể chế. Mặc dù, quy ước và thể chế của chúng không hiển
ngôn mà quy tắc vận hành chúng được cộng đồng ngôn ngữ tuân theo một cách
không tự giác. Có thể nói, nắm được ngôn ngữ không chỉ là nắm được ngữ
nghĩa, âm, từ ngữ, câu của ngôn ngữ đó mà còn là nắm được các quy tắc điều
khiển hành vi ở lời trong ngôn ngữ đó sao cho đúng lúc, đúng chỗ, thích hợp với
ngữ cảnh, thích hợp với “phông văn hóa” của dân tộc đó. Chẳng hạn:
Trong một cuộc liên hoan giữa các bạn sinh viên quốc tế cùng một kí túc xá
tại Úc, một bạn nữ sinh người Việt mặc chiếc áo dài trắng, chiếc áo dài ôm gọn
lấy tấm thân thon lẳn của cô. Cô vừa bước vào phòng tiệc thì Paul – anh bạn
người Úc ở cùng tầng với cô, anh nhìn cô với đôi mắt mở to và thốt lên:
(3) Thu, you look really sexy to day!
(Thu, hôm nay trông cậu thật gợi tình quá!)
Thu trợn tròn mắt, mặt đỏ lự, cô lao vội về phòng mình và cảm thấy rất
xấu hổ. [13]

Như vậy, trong văn hóa Anh, Mĩ, Úc, đặc biệt đối với giới trẻ thì sexy
không phải là một cái gì phải bưng bít. Do vậy, Paul bảo Thu trông thật gợi tình
được hiểu là một lời khen. Trong khi đối với văn hóa Việt, sexy vẫn là một điều
cấm kị (Taboo). Và Thu hiểu câu nói của Paul như một sự xúc phạm. [13]
Hay như trong xã hội Việt Nam nói riêng, xã hội Á Đông nói chung thì
khi ta hỏi một ai đó (Sp2) về tuổi tác, về tình trạng hôn nhân là được phép, là tỏ

10
sự quan tâm của người hỏi với người được hỏi. Nhưng trái lại, hỏi về những
khía cạnh đó ở xã hội phương Tây lại bị xem là không lịch sự, là tò mò, “dí mũi”
vào đời tư của người khác. [5]
Lí thuyết hành vi ngôn ngữ liên quan chủ yếu tới các hành vi ở lời. Người
ta cố gắng để làm sao truyền đạt được nhiều hơn cái người ta nói. Vì thế, trong
ba loại hành vi ngôn ngữ ở trên thì hành vi ở lời được thảo luận nhiều nhất.
1.1.1.4. Phát ngôn khảo nghiệm và phát ngôn ngữ vi
Phát ngôn ngữ vi là phát ngôn – sản phẩm của một hành vi ở lời nào đó khi
hành vi này được thực hiện một cách trực tiếp chân thực. Phát ngôn ngữ vi có
một kết cấu lõi đặc trưng cho hành vi ở lời tạo ra nó. Kết cấu lõi được gọi là
biểu thức ngữ vi. Chẳng hạn, chúng ta có phát ngôn ngữ vi:
(4) Xin thầy cứ yên tâm, em sẽ cố gắng hoàn thành tốt khóa luận.
Phát ngôn trên có biểu thức ngữ vi nguyên cấp là: Em sẽ cố gắng hoàn
thành tốt khóa luận và một thành phần mở rộng cho hành vi cầu khiến tạo ra xin
thầy cứ yên tâm.
Biểu thức ngữ vi là những thể thức nói năng đặc trưng cho một hành vi ở
lời. Austin phân biệt hai loại biểu thức ngữ vi. Đó là biểu thức ngữ vi nguyên
cấp (primary) hay hàm ẩn (Impilicit) và biểu thức ngữ vi tường minh (Explixit).
Biểu thức ngữ vi nguyên cấp là biểu thức không có động từ ngữ vi nhằm
thực hiện một hiệu lực ở lời qua một hành vi nào đó. Biểu thức ngữ vi tường
minh là biểu thức có chứa động từ ngữ vi nhằm thực hiện một hành vi ở lời nào
đó như: mời, chào, xin lỗi, cảm ơn,…

1.1.1.5. Động từ ngữ vi
Động từ ngữ vi là động từ mà khi phát âm ra cùng với biểu thức ngữ vi (có
khi không cần biểu thức ngữ vi đi kèm) là lời nói thực hiện ngay các hành vi ở
lời do chúng ta biểu thị. Trong trường hợp xin lỗi, mời, cảm ơn, chúng ta thực
hiện hành vi xin lỗi, mời, cảm ơn chỉ bằng động từ ngữ vi chứ không phải là
biểu thức ngữ vi.
Austin cho rằng, động từ ngữ vi chỉ được dùng trong chức năng ngữ vi (có
hiệu lực ngữ vi) khi trong phát ngôn, nó được dùng ở ngôi thứ nhất (người nói
Sp1), thời hiện tại, thể chủ động, thức thực thi.
Ví dụ: (5) Tôi cảm ơn anh.
trong phát ngôn này, Sp1 thực hiện ngay hành vi cảm ơn bằng động từ ngữ vi

11
cảm ơn, bởi người nói là tôi – ngôi thứ nhất số ít, động từ cảm ơn được dùng ở
thời hiện tại, thể chủ động, thức thực thi.
1.1.1.6. Phân loại các hành vi ngôn ngữ theo Austin
Austin là người thử nghiệm thực hiện việc phân loại hành vi ngôn ngữ và
đã xếp chúng vào 5 phạm trù: 1.Phán xử; 2.Hành xử; 3.Cam kết; 4.Trình bày;
5.Ứng xử.
1.1.2. Lí thuyết hành vi ngôn ngữ của Searle
Với công trình Speech acts (hành vi ngôn ngữ) (1969), Searle được công
nhận là người có vị trí đặc biệt trong sự phát triển lí thuyết hành vi ngôn ngữ.
1.1.2.1. Điều kiện sử dụng các hành vi ở lời theo Searle
Trên cơ sở phân tích một hành vi ở lời (hành vi “hứa” trong tiếng Anh),
Searle điều chỉnh lại, bổ sung vào những điều kiện may mắn của Austin và gọi
chúng là điều kiện sử dụng hay điều kiện thỏa mãn. Mỗi hành vi ở lời đòi hỏi phải
có một hệ thống những điều kiện gọi là những quy tắc (Rules) để cho việc thực
hiện nó đạt hiệu quả đúng với đích của nó. Mỗi điều kiện là một điều kiện cần và
toàn bộ hệ điều kiện là điều kiện đủ. Theo Searle, có tất cả bốn điều kiện sử dụng
hành vi ở lời. Đó là: a.Điều kiện nội dung mệnh đề; b.Điều kiện chuẩn bị; c.Điều

kiện chân thành; d.Điều kiện căn bản. Mỗi điều kiện sử dụng lại biểu hiện khác
nhau, tùy theo từng phạm trù, từng loại và từng hành vi ở lời cụ thể. [6]
1.1.2.2. Phân loại hành vi ngôn ngữ theo Searle
Searle liệt kê 12 điểm khác biệt giữa các hành vi ngôn ngữ có thể được sử
dụng làm tiêu chí phân loại như sau:
a. Đích ở lời
Ví dụ: (6) Mẹ giúp con trông nhà trong thời gian con đi vắng nhé!
Ví dụ trên là một thỉnh cầu, lời thỉnh cầu đó hướng tới việc đưa Sp2 đến
việc thực hiện một điều gì đó.
b. Hướng khớp ghép với lời hiện thực mà có thể đề cập đến
Ví dụ, trần thuật có hướng khớp ghép lời – hiện thực. Vì giá trị đúng - sai
mà nó đưa ra được xác định trên cơ sở lời miêu tả có phù hợp hay không với sự
vật được nói đến.
c. Trạng thái tâm lí được thể hiện
Ví dụ: (7) Anh hứa từ nay anh sẽ không hút thuốc lá nữa.

12
Trong ví dụ trên, lời hứa thể hiện ý định của Sp1 thực hiện điều gì đó.
d. Sức mạnh và đích được bày ra
Ví dụ: (8) Tôi nhấn mạnh rằng mức độ mạnh hơn là Tôi xin gợi ý rằng.
e. Tính quan yếu của mối quan hệ liên cá nhân giữa Sp1 và Sp2
f. Định hướng
Ví dụ: (9) Tớ mua cái áo khoác này hết hai triệu.
Ví dụ: (10) Đừng khóc nữa, chuyện gì rồi cũng sẽ có cách giải quyết mà!
Trong hai ví dụ trên, ta thấy ở ví dụ (9) hướng vào Sp1 (khoe, than vãn), ở
ví dụ (10) hướng vào Sp2 (lời động viên, an ủi).
g. Câu hỏi và trả lời là hai thành phần của một cặp kế cận còn sai bảo thì
không
Ví dụ: (11) Sp1: Anh đã đọc “Cuốn theo chiều gió” chưa?
Sp2: Tôi đọc rồi.

h. Nội dung mệnh đề
Sp2 thực hiện A (tức là một hành vi nào đó) là đặc trưng của nội dung
mệnh đề sai bảo, còn Sp1 thực hiện A là hứa hẹn.
i. Hứa hẹn chỉ có thể thực hiện bằng lời
Điều này khác với xin lỗi hoặc cảm ơn, có thể thực hiện bằng cả những
hành vi ngoài lời.
k. Đặt tên thánh và rút phép thông công
Đặt tên thánh và rút phép thông công đòi hỏi phải có thể chế xã hội mới có
hiệu lực, nhưng trần thuật thì không đòi hỏi như vậy.
m. Không phải tất cả các tác động từ gọi tên hành vi ở lời đều là động từ
ngữ vi.
Ví dụ: (12) Việc khoe và dọa không phải là động từ ngữ vi.
Ví dụ: (13) Công bố và thổ lộ khác nhau ở phong cách thực hiện.
Searle đã dùng bốn trong 12 tiêu chí trên để phân lập 5 loại hành vi ở lời.
Đó là, dựa vào các tiêu chí đích ở lời, tiêu chí khớp – ghép, trạng thái tâm lí và
tiêu chí nội dung mệnh đề, Searle phân lập 5 loại hành vi ở lời như: tái hiện,
điều khiển, biểu cảm, tuyên bố.


13
1.1.3. Hành vi ngôn ngữ trực tiếp và hành vi ngôn ngữ gián tiếp
1.1.3.1. Hành vi ngôn ngữ trực tiếp
Trong các hành vi ngôn ngữ chân thực (hành vi ở lời), ta thấy những hành
vi ngôn ngữ được thực hiện đúng với đích ở lời, đúng với điều kiện sử dụng của
chúng. Đây là hành vi ngôn ngữ trực tiếp. Hành vi ngôn ngữ trực tiếp hướng
phát ngôn tới một mục đích duy nhất.
Ví dụ: (14) Khi ta nói:
Mai đi họp lớp.
Như vậy, ta thực hiện một hành vi thông báo là mai đi họp lớp mà ta không
có mục đích gì khác ngoài đích thông báo nội dung trên.

Hay như :
Ví dụ : (15)
Hôm nay là ngày mùng mấy âm lịch nhỉ?
Khi hỏi câu hỏi này, người hỏi muốn biết thông tin về thời gian cụ thể là
hôm nay là mùng mấy âm lịch.
Hành vi ở lời là hành vi được thực hiện ngay trong lời nói và bằng việc sử
dụng ngôn ngữ, phát ngôn. Hiệu quả ngôn ngữ có nghĩa là chúng gây ra một
phản ứng ngôn ngữ tương ứng với chúng ở người nhận. Chúng thường có những
động từ ngữ vi tương ứng để gọi tên (hỏi, mời, chào, chúc, khuyên, ra lệnh,
khẳng định, )
1.1.3.2. Hành vi ngôn ngữ gián tiếp
Trong thực tế giao tiếp, một phát ngôn không phải chỉ có một đích ở lời mà
“đại bộ phận các phát ngôn được xem như là một hiện thực đồng thời một số
hành vi Trong hội thoại, những người tham gia sử dụng ngôn ngữ để thuyết
giải cho nhau ý nghĩa của các sự kiện hiện hữu hay tiềm ẩn, vây bọc chung
quanh họ, từ đó rút ra những hệ quả cho những hành vi đã qua hoặc sẽ tới của
họ”. Hiện tượng người giao tiếp sử dụng trên bề mặt hành vi ở lời này nhưng lại
nhằm hiệu quả của một hành vi ở lời khác được gọi là hiện tượng sử dụng hành
vi ngôn ngữ theo lối gián tiếp. Một hành vi được sử dụng gián tiếp là một hành
vi trong đó người nói thực hiện hành vi ở lời này nhưng lại nhằm làm cho người
nghe dựa vào những hiểu biết ngôn ngữ và ngoài ngôn ngữ chung cho cả hai
người, suy ra hiệu lực ở lời của một hành vi khác.


14
Ví dụ : (16)
a. Khi một nhóm bạn nam đến phòng nữ ở kí túc xá sinh viên, đã 22h mà
các bạn nam vẫn chưa về.
Lan 1 (Một cô gái trong phòng hỏi một cô bạn)
- Mấy giờ rồi ấy nhỉ ?

Duyệt 1 (bạn trai)
- Thôi bọn này về nhé.
Hồng (cô gái khác trong phòng)
- Sao vội về thế, ngồi chơi đã.
Duyệt 2
- Thôi có người đuổi rồi, muốn ở cũng chẳng được.
Lan 2
- Đúng là trai khoa Văn. Sao tự ái thế !
Hoặc :
b. (Một cô bé có lệ hễ được 10 điểm là mẹ cho ăn kem)
Con 1 :
- Mẹ ơi, hôm nay con được điểm mười toán.
Mẹ :
- Nhưng trời lạnh thế này !
Con 2 :
Ứ, mẹ phải giữ đúng lời hứa chứ !
[5]
Ở ví dụ a, Lan đã dùng hành vi ở lời trực tiếp là hỏi để nhằm làm cho các
bạn trai nắm được hiệu lực ở lời gián tiếp là “mời họ ra về” hay là “đuổi
khéo”. Hiệu quả gián tiếp này đã đạt hiệu quả và được Duyệt “phiên dịch” rõ
ra “có người đuổi rồi”. Chúng ta nói hành vi ở lời “đuổi khéo” là hành vi ở
lời gián tiếp.
Ở ví dụ b, con 1 dùng hành vi ở lời trực tiếp là thông báo nhưng gián tiếp là
“đòi ” (mẹ mua kem cho mình). Lời đáp của mẹ trực tiếp là đánh giá nhưng
gián tiếp là hành vi ở lời “từ chối” (lời đòi hỏi của con) hoặc giả là “hoãn” việc
thực hiện điều mình đã cam kết với con.

15
Các hành vi ngôn ngữ gián tiếp là một trong những phương thức tạo ra tính
mơ hồ về nghĩa trong lời nói. Tuy nhiên, không phải tùy tiện muốn dùng hành vi

ở lời nào để tạo ra hành vi ở lời gián tiếp nào cũng được. Quy tắc sử dụng gián
tiếp các hành vi ở lời hoặc vấn đề một hành vi ở lời (trực tiếp) có thể được dùng
để tạo ra những hành vi gián tiếp nào là vấn đề chưa được giải quyết đến nơi đến
chốn. Có thể nói, hiệu lực ở lời gián tiếp là cái thêm vào cho hiệu lực ở lời trực
tiếp. Muốn nhận biết được hiệu lực ở lời gián tiếp thì người nghe trước hết phải
nhận biết được hiệu lực ở lời hành vi ngôn ngữ trực tiếp.
Vì phần lớn các hành vi ở lời, hành vi nào cũng được dùng gián tiếp, cho
nên muốn sử dụng và nhận biết được các hành vi ở lời gián tiếp thì phải biết tất
cả các hành vi ở lời. Nhận biết được hành vi ở lời gián tiếp là kết quả của hoạt
động suy ý từ hành vi trực tiếp nghe được (đọc được).
1.2. Lí thuyết hội thoại
Ngôn ngữ là công cụ quan trọng nhất của con người. Trong giao tiếp, có
giao tiếp một chiều và giao tiếp hai chiều. Giao tiếp một chiều là độc thoại, tức
là chỉ có một bên nói, bên kia tiếp nhận (mệnh lệnh quân sự, diễn văn, ). Trong
giao tiếp hai chiều thì bên này nói, bên kia nghe và phản hồi trở lại. Lúc vai trò
hai bên thay đổi, bên nghe trở thành bên nói và bên nói trở thành bên nghe. Đó
là hội thoại.
1.2.1. Khái niệm cuộc thoại
Cuộc thoại là một lần nói chuyện, trao đổi giữa những cá nhân, ít nhất là
hai người. Cuộc thoại ngắn là những cặp thoại chỉ chứa một cặp câu như : Chào
– chào, hỏi đáp, đề nghị - đồng ý, ra lệnh – nhận lệnh, dài, là những thương
lượng về một hợp đồng kinh doanh, sản xuất hay hợp tác văn hóa, nghệ thuật,
khoa học, Đó là chưa kể cuộc đàm phán giữa hai quốc gia về biên giới, về kinh
tế, chính trị,
1.2.2. Những đặc điểm khái quát của một cuộc thoại
Quan điểm của các nhà triết học duy vật biện chứng cho rằng : Bất kì một
sự vật, hiện tượng nào cũng bao gồm có hai mặt là mặt nội dung và mặt hình
thức. Nghiên cứu về cuộc thoại, các nhà ngôn ngữ chỉ ra đặc điểm của một cuộc
thoại bao gồm những đặc điểm nội tại và những đặc điểm ngoại tại. Trong đó,
những đặc điểm nội tại bao gồm : sự tương tác qua lại, sự liên kết, tính mục đích

và việc tôn trọng nguyên lí hội thoại. Đặc điểm ngoại tại được thể hiện qua số
lượng, quan hệ và chu cảnh.


16
1.2.3. Cấu trúc một cuộc thoại
Trong một cuộc nói chuyện, người ta có thể trao đổi hết vấn đề này sang
vấn đề khác, nhưng bao giờ cũng có lúc bắt đầu và lúc kết thúc. Chúng làm nên
ranh giới một cuộc thoại. Lúc bắt đầu được gọi là mở thoại, luôn luôn do một
bên chủ động. Lúc kết thúc cũng do một bên chủ động đề ra, gọi là kết thoại
(closing). Giữa phần mở thoại và kết thoại là phần trung tâm cuộc thoại, gọi là
phần thân thoại. Như vậy, cấu trúc một cuộc thoại bao gồm : mở thoại – thân
thoại – kết thoại.
1.2.4. Các nguyên tắc hội thoại
Nghiên cứu về các nguyên tắc hội thoại, các nhà ngôn ngữ học đã thống
nhất ở ba nguyên tắc là : a.Luân phiên lượt lời ; b.Nguyên tắc cộng tác hội
thoại ; c.Nguyên tắc tôn trọng thể diện của những người tham gia hội thoại ;
nguyên tắc khiêm tốn.
1.3. Lí thuyết lịch sự
1.3.1. Khái niệm lịch sự
Lịch sự là có thái độ nhã nhặn, lễ độ khi tiếp xúc, phù hợp với quan niệm
và phép tắc xã giao của xã hội. [22]
Từ “lịch sự” được dùng trong nhiều ngôn ngữ từ xa xưa. Ở Việt Nam, lịch
sự bắt nguồn trong các chế định về “ lễ ” và được hiểu rất rộng. Lễ bao gồm mọi
cách xử sự trong một xã hội có tổ chức, nhất là xã hội phong kiến. Chịu ảnh
hưởng của phong kiến Trung Hoa, tại Việt Nam, lễ được chế định thành những
phương châm xử thế. Kẻ bề tôi phải trung thành với vua đến mức : Quân xử
thần tử, thần bất tử bất trung (vua khiến bề tôi chết, bề tôi không chết là không
trung thành với vua) và nếu bất trung thì có chế tài xử phạt. Người thuộc nữ giới
phải giữ ba điều theo (tam tòng) rất nghiệt ngã : Tại gia tòng phụ, xuất giá tòng

phu, phu tử tòng tử (ở nhà phải nghe theo bố, đi lấy chồng phải nghe theo chồng,
chồng chết phải nghe theo con). Cho đến cách ăn mặc cũng phải y phục xứng kì
đức (áo quần phải ngang tầm đức độ). Nói năng thì tự xưng mình phải khiêm
tốn, gọi người phải tôn trọng. Nhìn chung, lịch sự ngày xưa là những quy định
xã hội do những người có quyền uy đặt ra và mọi người phải tuân theo. Sự phát
triển của xã hội cho thấy về sau lịch sự mới biến dần thành một nhu cầu xã hội
trong đời thường và nổi lên tính lịch sự trong giao tiếp bằng ngôn từ. [9]
Lịch sự trong giao tiếp bằng ngôn từ thể hiện rõ nhất trong các hội thoại –
thoại quy thức (formal) như giữa các quan chức ngoại giao tại một cuộc thương

17
nghị và thoại phi quy thức (informal) như cuộc trò chuyện giữa những người
đồng nghiệp, đồng học trong giờ nghỉ, ở quán nước, [9]
Hội thọai là sự kiện nói diễn ra thường xuyên trong sinh hoạt đời thường
của con người. Muốn cho một cuộc thoại thành công, mỗi bên hội thoại cần tuân
thủ những nguyên tắc nhất định trong hội thoại. Nhiều nhà nghiên cứu về ngữ
dụng học cho rằng những nguyên tắc cộng tác (cooperative principle) và nguyên
tắc lịch sự (principle of politeness). [9] Những nguyên tắc này “…chi phối, tác
động mạnh mẽ tới quá trình hội thoại cho phép giải thích những hàm ý ở mỗi
lượt lời, những hình thức ngôn từ và cấu trúc phát ngôn trong những tình huống
giao tiếp cụ thể” . [6]
Ở Việt Nam, nguyên tắc lịch sự trong giao tiếp còn gọi là phép lịch sự.
Phép lịch sự tác động nhiều đến việc tạo lập các phát ngôn trong quá trình giao
tiếp, thậm chí nó còn góp phần vào việc có nên tiến hành giao tiếp hay không
để đảm bảo khỏi thất bại trong giao tiếp. Tầm quan trọng của lịch sự to lớn
đến mức hầu như các tài liệu bàn về ngữ dụng đều không thể né tránh nó.
Nhiều cuộc hội thảo, nhiều công trình nghiên cứu có tính chất chuyên môn và
nhiều tạp chí chuyên ngành đã đề cập đến vấn đề chuyên sâu và tinh tế của
lịch sự. Ngay từ năm 1987, tạp chí Language society (ngôn ngữ trong xã hội)
hầu như số nào cũng có bài về phép lịch sự và cũng đã có một tuyển tập

nghiên cứu về phép lịch sự. [9]
Như vậy, lịch sự ngày nay đã trở thành mối quan tâm lớn và thường
xuyên của ngữ dụng học. Nhiều nhà nghiên cứu Âu – Mĩ đã xây dựng nên
những quan điểm tương đối về lịch sự, nâng những vấn đề thực tiễn trong
giao tiếp lịch sự lên thành “lí thuyết lịch sự” (theory of politeness) theo đúng
nghĩa của tên gọi này.
Trong phạm vi nghiên cứu của khóa luận, chúng tôi đưa ra những quan
điểm nghiên cứu về phép lịch sự trên thế giới như : Quan điểm của R. Lakoff,
quan điểm của G.N. Leech, quan điểm của P.Brown và S.Levinson và quan
điểm về lịch sự của một số nhà nghiên cứu ở Việt Nam.
1.3.2. Một số quan điểm về lịch sự trên thế giới
1.3.2.1. Quan điểm về lịch sự của R. Lakoff
R.Lakoff nêu ra ba quy tắc lịch sự khác nhau để người nói có thể lựa chọn
và thể hiện lịch sự. Các quy tắc đó là :
- Quy tắc 1: Không áp đặt (Don’t impose)
- Quy tắc 2: Để ngỏ sự lựa chọn (offer option)

18
- Quy tắc 3: Tăng cường tình cảm bằng hữu (Encourage feelings of ca maraderie)
Quy tắc 1 được dùng trong phép lịch sự quy thức (formal politeness). Quy
tắc này thích hợp với tình huống có sự khác nhau về quyền lực và địa vị giữa
những người tham gia tương tác như giữa một sinh viên và chủ nhiệm khoa,
giữa một công nhân nhà máy và vị phó giám đốc phụ trách nhân sự,… Không áp
đặt ở đây là không áp đặt đối với H (người nghe), có nghĩa là không ngăn cản H
hành động theo ý muốn của mình. Trái với không áp đặt là áp đặt đối với H, có
nghĩa là làm cho H không được hành động theo mong muốn của H. Người nói S
thực hiện lịch sự theo quy tắc không áp đặt sẽ tránh được hoặc làm giảm nhẹ sự
áp đặt bằng cách xin phép, xin lỗi H, khi buộc H làm một việc gì đó mà H không
muốn làm, tránh cả những hành động khiến H xao lãng việc H đang làm hoặc
điều H đang nghĩ tới. Khi S đang nói với H, S cũng sẽ lựa chọn những hành

động của mình để giảm đến mức tối thiểu mức độ mà S áp đặt đối với H. [9]
Không áp đặt cũng còn có nghĩa là không đưa ra hoặc không thỉnh cầu về những
quan điểm riêng tư, tránh nhắc đến cái riêng của mỗi cá nhân như đời sống gia
đình, thu nhập, thói quen,… Quy tắc này đòi hỏi chúng ta phải tránh nói những
lời nói tục tằn, thô lỗ, những tiếng lóng, tiếng bản địa và thậm chí cả những
ngôn ngữ cảm xúc, tránh những đề tài có tính chất kiêng kị trong cuộc thoại như
các đề tài về tình yêu, về giới tính, về chính trị, tôn giáo, khó khăn trong kinh tế,
về bệnh tật, và những điều tương tự. Bởi vì, chúng được xem là tính chất quá cá
nhân trong những cuộc trao đổi ngoài xã hội. [9]
Quy tắc 2 là quy tắc được dùng trong phép lịch sự phi quy thức (informal
politeness). Quy tắc này thích hợp với tình huống trong đó có những người tham
dự hội thoại có một sự bình đẳng gần ngang nhau về quyền lực và địa vị, nhưng
không có quan hệ gần gũi nhau. Chẳng hạn như mối quan hệ giữa thương nhân
với khách hàng, mối quan hệ giữa hai người xa lạ ở chung phòng tại bệnh
viện,… Để ngỏ sự lựa chọn cho người đối thoại có nghĩa là diễn đạt sao cho ý
kiến hay lời thỉnh cầu của mình phải do H tự suy diễn ra và như vậy S sẽ không
có nguy cơ bị H phản bác hay từ chối. Vì nói bằng hàm ý là một cách giúp
người nói tránh trách nhiệm đối với lời mình nói ra.
Như vậy, theo quy tắc này, nếu S mong muốn H thực hiện một hành động
nào đó, S sẽ có lối nói làm sao cho S không buộc phải chịu trách nhiệm về hàm
ý cầu khiến của mình. Ý áp đặt trong lời khẳng định hay lời lẽ thỉnh cầu của S
có thể được giảm nhẹ thông qua cách nói gián tiếp, hàm ẩn hoặc sử dụng biểu
thức rào đón. [9]

×