BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC TÂY BẮC
PHẠM THỊ PHƯƠNG LOAN
SỰ THA HÓA CỦA CON NGƯỜI TRONG
GIÔNG TỐ VÀ SỐ ĐỎ CỦA VŨ TRỌNG PHỤNG
KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC
SƠN LA, NĂM 2013
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC TÂY BẮC
PHẠM THỊ PHƯƠNG LOAN
SỰ THA HÓA CỦA CON NGƯỜI TRONG
GIÔNG TỐ VÀ SỐ ĐỎ CỦA VŨ TRỌNG PHỤNG
Chuyên ngành: Văn học Việt Nam
KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC
Người hướng dẫn: TS. Đỗ Hồng Đức
SƠN LA, NĂM 2013
LỜI CẢM ƠN
Nhân dịp khóa luận “Sự tha hóa của con người trong Giông tố, Số đỏ”
được hoàn thành, tôi xin bày tỏ sự biết ơn chân thành sâu sắc tới giảng viên hướng
dẫn khoa học Tiến sĩ Đỗ Hồng Đức - người đã tận tình giúp đỡ, chỉ bảo và khích lệ
động viên tôi trong suốt quá trình nghiên cứu và hoàn thiện khóa luận.
Tôi xin chân thành cảm ơn sự giảng dạy, giúp đỡ nhiệt tình của các thầy
cô trong khoa Ngữ Văn, Ban Chủ Nhiệm khoa, phòng Quản lí khoa học, thư
viện trường Đại học Tây Bắc, Ban Giám Hiệu trường Đại học Tây Bắc đã tạo
điều kiện giúp đỡ để tôi hoàn thành tốt nhiệm vụ trong học tập và nghiên cứu
khoa học của mình.
Cuối cùng, tôi xin cảm ơn người thân, bạn bè, đặc biệt là tập thể lớp K50
ĐHSP Ngữ Văn đã động viên, ủng hộ tôi trong suốt quá trình học tập và hoàn
thiện khóa luận này.
Sơn La, tháng 5 năm 2013
Sinh viên thực hiện
Phạm Thị Phương Loan
MỤC LỤC
MỞ ĐẦU 1
1. Lý do chọn đề tài 1
2. Lịch sử vấn đề 2
3. Đối tượng, nhiệm vụ và phạm vi nghiên cứu 4
3.1. Đối tượng nghiên cứu 4
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu 4
3.3. Phạm vi nghiên cứu 4
4. Mục đích nghiên cứu của khóa luận 4
5. Phương pháp nghiên cứu 4
5.1. Phương pháp khảo sát, thống kê 4
5.2. Phương pháp phân tích, tổng hợp 4
5.3. Phương pháp so sánh, đối chiếu. 4
6. Những đóng góp của đề tài 5
7. Cấu trúc của khóa luận 5
KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU 6
CHƯƠNG 1: NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG 6
1.1. Cuộc đời và con người Vũ Trọng Phụng 6
1.1.1. Cuộc đời 6
1.1.2. Con người 7
1.2. Quan điểm nghệ thuật của Vũ Trọng Phụng 9
1.3. Sự nghiệp sáng tác 11
1.3.1. Chặng thứ nhất: Từ năm 1930 đến năm 1935 12
1.3.2. Chặng đường thứ hai: Từ năm 1935 đến năm 1936 13
1.3.3. Chặng đường thứ ba: Từ năm 1936 đến tháng 10 năm 1939 15
Tiểu kết. 16
1.4. Hoàn cảnh ra đời của hai tác phẩm Giông tố, Số đỏ của Vũ Trọng Phụng 16
1.5. Đôi nét về tác phẩm Giông tố, Số đỏ của Vũ Trọng Phụng 18
1.6. Khái niệm tha hoá 21
CHƯƠNG 2: SỰ THA HOÁ CỦA CON NGƯỜI TRONG GIÔNG TỐ, SỐ
ĐỎ CỦA VŨ TRỌNG PHỤNG 22
2.1. Sự tha hóa của con người trong Giông tố của Vũ Trọng Phụng 22
2.1.1. Nghị Hách - đỉnh cao của sự tha hóa 22
2.1.2. Nhân vật Tú Anh, quan huyện Cúc Lâm 31
2.1.3. Nhân vật thị Mịch 34
2.1.4. Nhân vật Long 37
2.1.5. Nhân vật ông bà đồ Uẩn và nhân dân làng Quỳnh Thôn 39
Tiểu kết. 45
2.2. Sự tha hóa của con người trong Số đỏ của Vũ Trọng Phụng 46
2.2.1. Xuân tóc đỏ - “số đỏ” hay sự tha hóa trá hình 46
2.2.2. Sự tha hoá của những người trong đại gia đình cụ cố Hồng 54
2.2.3. Sự tha hóa của “gái mới” 58
2.2.4. Sự tha hóa liên hoàn, có hệ thống 61
Tiểu kết. 63
KẾT LUẬN 65
TÀI LIỆU THAM KHẢO 66
1
MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Chúng tôi chọn khoá luận “Sự tha hoá của con người trong Giông tố và
Số đỏ của Vũ Trọng Phụng” vì những lí do cơ bản sau:
1.1. Vũ Trọng Phụng là tác giả có văn nghiệp khá đồ sộ. Mặc dù cuộc đời
ngắn ngủi (27 năm), nhưng trong quãng thời gian cầm bút, ông đã để lại nhiều
tác phẩm xuất sắc ở nhiều thể loại khác nhau, mà nổi bật hơn cả là tiểu thuyết và
phóng sự. Trong nền văn học Việt Nam nói chung và văn học 1930 - 1945 nói
riêng, Vũ Trọng Phụng có nhiều đóng góp. Vì thế, ngay từ khi còn sống và cả
khi đã qua đời, Vũ Trọng Phụng được giới nghiên cứu phê bình rất quan tâm. Đã
có rất nhiều những ý kiến tranh luận trái ngược nhau xung quanh vấn đề Vũ
Trọng Phụng, và trong một thời gian dài tác giả này đã trở thành hiện tượng khá
đặc biệt trong văn học. Vì vậy, việc tìm hiểu về tác giả Vũ Trọng Phụng vẫn là
điều cần thiết. Và cũng chính những điều đặc biệt, bí ẩn về nhà văn đã lôi cuốn
chúng tôi vào với khoá luận này.
1.2. Trong đó vấn đề tha hóa là một trong những vấn đề nổi bật trong
khuynh hướng sáng tác, tác phẩm của ông. Từ trước đến giờ cũng đã có những
nhà nghiên cứu đề cập đến vấn đề tha hoá trong các tác phẩm của Vũ Trọng
Phụng. Trên cơ sở đó, đã tạo nên sự tò mò, thôi thúc niềm đam mê, hứng khởi
của chúng tôi đối với đề tài này.
1.3. Vũ Trọng Phụng là tác giả lớn được giảng dạy trong trường phổ
thông và trường đại học. Thực tế cho thấy, việc giảng dạy tác giả này vẫn gặp
phải những khó khăn. Có lẽ là do số lượng tác phẩm cũng như số tiết học ở
nhà trường phổ thông, chuyên nghiệp con hạn chế. Như ở chương trình phổ
thông chỉ có một trích đoạn “Hạnh phúc của một tang gia” của tiểu thuyết Số
đỏ, hay ở nhà trường chuyên nghiệp thì cũng chỉ chiếm vài ba tiết dạy về Vũ
Trọng Phụng. Điều này xuất phát từ những cách hiểu khác nhau, từ những tài
liệu khác nhau về Vũ Trọng Phụng. Về Vũ Trọng Phụng luôn có những luồng
tư tưởng đánh giá trái chiều nhau. Từ đó thiết nghĩ, việc tìm hiểu để nắm bắt
về tư tưởng của Vũ Trọng Phụng là rất quan trọng đối với người giáo viên.
Nghiên đề tài này để làm rõ hơn, hiểu rõ hơn vấn đề đồng thời làm tư liệu trong
việc giảng dạy ở trường phổ thông.
1.4. Thực hiện đề tài này của chúng tôi nhằm mục đích tập dượt nghiên
cứu khoa học, đồng thời để có thêm kinh nghiệm và kĩ năng nghiên cứu về
một vấn đề trong văn học và là bước chuẩn bị cho công tác giảng dạy sau này.
2
Trên cơ sở nghiên cứu về khoá luận này sẽ giúp cho bản thân tôi có cái nhìn sâu
sắc, toàn diện hơn về tác giả cũng như tác phẩm được đề cập. Từ đó, tạo cơ sở
cho việc nghiên cứu, hoàn thành khoá luận này, đồng thời phục vụ cho công tác
giảng dạy sau này.
Với những lí do trên, chúng tôi chọn đề tài “Sự tha hoá của con người
trong Giông tố và Số đỏ của Vũ Trọng Phụng” cho khoá luận của mình để
nghiên cứu. Hi vọng kết quả nghiên cứu sẽ là nguồn tư liệu bổ ích góp phần hiểu
thêm về tác giả Vũ Trọng Phụng, cũng như sẽ giúp ích được công tác giảng dạy
cho các bạn sinh viên khi ra trường.
2. Lịch sử vấn đề
Trong lĩnh vực văn hóa nghệ thuật, chúng ta phấn đấu để sáng tạo những
giá trị mới, thể hiện được tầm cao của thời đại và chiều sâu của truyền thống.
Đồng thời chúng ta trân trọng tiếp thu, giữ gìn các giá trị cũ của cha ông.
Hơn sáu mươi năm qua, kể từ lúc Vũ Trọng Phụng gia nhập làng văn với
Chống nạng lên đường, Con người điêu trá, Bà lão lòa, cả khi sinh thời cũng
như lúc đã quá cố, ông luôn lênh đênh chìm nổi trên dòng sông dư luận. Giờ
đây, xem xét lại những chặng đường, những khúc quanh, ngã rẽ của lịch sử phê
bình nghiên cứu con người và văn chương Vũ Trọng Phụng không chỉ có ích
cho tìm hiểu, đánh giá Vũ Trọng Phụng mà còn có ý nghĩa tích cực về mặt quan
điểm, phương pháp luận nghiên cứu di sản văn học quá khứ nói chung.
Năm 18 tuổi, Vũ Trọng Phụng đã đến với văn chương qua một loạt truyện
ngắn trong chuyên mục Chuyện thứ hai đăng trên tờ Ngọ báo. Những tác phẩm
ấy vượt qua ý nghĩa thử bút, bước đầu đã phát lộ những dấu hiệu của một tài
năng. Ông bắt đầu được công chúng chú ý từ vở kịch Không một tiếng vang
(1931), các phóng sự Cạm bẫy người (1933), Kĩ nghệ lấy Tây (1934). Với các
tác phẩm này đồng nghiệp tôn vinh ông là “ông vua phóng sự đất Bắc”. Báo
chí càng viết nhiều hơn về ông khi chỉ trong năm 1936, ngoài tập phóng sự
nổi tiếng Cơm thầy cơm cô, các truyện ngắn Bộ răng vàng, Hồ sê líu hồ líu sê
sàng… Vũ Trọng Phụng lần lượt cho ra ba tiểu thuyết hiện thực xuất sắc
Giông tố, Số đỏ, Vỡ đê.
Từ đó cho đến nay, theo sự thống kê chưa đầy đủ, đã có trên dưới 170
bài tiểu luận, phê bình viết về Vũ Trọng Phụng. Ngoài ra có hai cuốn sách viết
về riêng ông. Đó là Vũ Trọng Phụng – mớ tài liệu cho văn sử Việt Nam của Lan
Khai (Nxb Minh Phương, H.1941) và cuốn Vũ Trọng Phụng – nhà văn hiện thực
của Văn Tâm (Nxb Kim Đức, H.1957).
3
Vấn đề tha hoá là một trong những vấn đề nổi bật trong khuynh hướng
sáng tác của các nhà văn đương thời lúc bấy giờ và đặc biệt là trong các sáng tác
của Vũ Trọng Phụng. Giông tố và Số đỏ là hai tác phẩm tiêu biểu thể hiện đậm
nét vấn đề này. Và đây cũng là vấn đề được giới nghiên cứu quan tâm nghiên
cứu. Cũng đã có những công trình nghiên cứu đề cập gián tiếp hoặc trực tiếp đến
vấn đề tha hoá của con người mà tác giả Vũ Trọng Phụng đã nói đến trong hai
tác phẩm Giông tố và Số đỏ.
Trong bài viết “Sự thể hiện con người tha hoá trong các tiểu thuyết hiện
thực của Vũ Trong Phụng” của tác giả Đinh Trí Dũng đã đề cập đến hai tác
phẩm Giông tố, Số đỏ ở khía cạnh con người tha hoá. Với những đánh giá sắc
sảo về sự tha hoá trong hệ thống các nhân vật. Ở đây tác giả Đinh Trí Dũng cũng
đã nhắc đến khái niệm tha hoá thấy rõ theo nghĩa rộng. Đồng thời cũng hoạt kê
ra hệ thống các nhân vật tha hoá. Qua đó cũng có sự phân tích so sánh, đối chiếu
để thấy rõ được sự tha hoá của con người ở trong hai tác phẩm.
Hay như ở cuốn Lược thảo lịch sử Văn học Việt Nam của nhóm Lê Quý
Đôn cũng đã có đánh giá về sự tha hoá của nhân vật Mịch “từ một cô gái quê
hiền lành, chất phác, giản dị, chung tình qua thời gian Mị đã trở thành một con
người dâm đãng, khát dục. Sự tha hoá này như một đại diện cho quá trình xuống
dốc không phanh của toàn xã hội lúc bấy giờ”.
Nguyễn Tuân trong bài viết về “Đọc lại truyện Giông tố” cũng đã nói
đến sự tha hoá biến chất ở hai nhân vật Mịch và Nghị Hách. Hai nhân vật chi
phối tác động tới nhau, thúc đẩy quá trình tha hoá được nhanh và gấp hơn.
Hay bài viết “Đọc lại Giông tố của Vũ Trọng Phụng” Giáo sư Nguyễn
Đăng Mạnh cũng đã nói đến sự xuống dốc trong nhân phẩm, đạo đức con người
ở tác phẩm này với những mức độ khác nhau.
Trong loạt bài nghiên cứu về sự tha hoá của con người trong Số đỏ của
các tác giả như Nguyễn Hoành Khung (“Số đỏ”), Phan Cự Đệ (“Đánh giá lại Số
đỏ”), Hoàng Ngọc Hiến (“Trào phúng của Vũ Trọng Phụng trong Số đỏ”), Hà
Minh Đức (“Nhân vật Xuân Tóc Đỏ trong Số đỏ của Vũ Trọng Phụng”) đã gián
tiếp hoặc trực tiếp bàn đến vấn đề tha hoá của con người trong Số đỏ.
Trên đây là những tổng hợp của chúng tôi về những công trình nghiên cứu
đã đề cập, bàn tới vấn đề tha hoá của con người trong hai tác phẩm Giông tố, Số
đỏ. Trên cở sở tiếp nhận và tìm hiểu những ý kiến, đánh giá đó, chúng tôi cũng
mạn phép đề cập đến một hướng nghiên cứu, một góc quan sát khác về vấn đề
tha hoá của con người trong hai tác phẩm Giông tố và Số đỏ mà các nhà nghiên
cứu chưa đề cập hoặc nói chưa sâu.
4
Do hạn chế về mặt tài liệu cũng như các điều kiện khác trong tiến trình
thực hiện khoá luận này nên không tránh khỏi những hạn chế nên mong được sự
đóng góp ý kiến của mọi người để khoá luận được hoàn thiện hơn.
3. Đối tượng, nhiệm vụ và phạm vi nghiên cứu
3.1. Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu trực tiếp trong khóa luận của chúng tôi là sự tha hoá
của con người trong hai tác phẩm Giông tố, Số đỏ của nhà văn Vũ Trọng Phụng -
một cây bút hiện thực trào phúng xuất sắc của trào lưu văn học hiện thực phê phán
1930 - 1945 ở Việt Nam.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
Khóa luận của chúng tôi tập trung vào nhiệm vụ: tìm hiểu về nguyên nhân,
mức độ của sự tha hoá của các nhân vật trong hai tiểu thuyết Giông tố, Số đỏ.
3.3. Phạm vi nghiên cứu
Giông tố và Số đỏ phản ánh về nhiều vấn đề của xã hội nhưng khoá luận
này chỉ đi tìm hiểu về sự tha hoá của con người trong hai tác phẩm này.
4. Mục đích nghiên cứu của khóa luận
Đề tài nghiên cứu của chúng tôi nhằm mục đích làm rõ hơn về thành công
của Vũ Trọng Phụng trong việc phản ánh sự tha hoá của con người. Từ đó, hiểu
sâu hơn về tài năng của Vũ Trọng Phụng. Ta không chỉ thấy ông là “ông vua
phóng sự đất Bắc”, mà còn là nhà “tiểu thuyết bậc thầy”. Qua đó thấy được Vũ
Trọng Phụng xứng đáng là một thiên tài, một vì tinnh tú lấp lánh trên bầu trời
văn học Việt Nam hiện đại. Qua đó ta thấy, hiểu được và đánh giá một cách
xứng đáng về vị trí của ông trong nền văn học Việt Nam.
5. Phương pháp nghiên cứu
5.1. Phương pháp khảo sát, thống kê
Ở khoá luận này, phương pháp khảo sát, thống kê được sử dụng để hệ
thống những nhân vật trong hai tác phẩm có sự tha hoá, ở những mức độ và
phạm vi khác nhau.
5.2. Phương pháp phân tích, tổng hợp
Đây là phương pháp được sử dụng thường xuyên trong quá trình thực hiện đề
tài nhằm làm rõ sự tha hóa của con người trong hai tác phẩm Giông tố và Số đỏ.
5.3. Phương pháp so sánh, đối chiếu: Đây là phương pháp quan trọng nhằm làm
nổi bật, khắc rõ thêm sự tha hóa của con người trong hai tác phẩm Giông tố và Số đỏ.
5
Đồng thời, có sự so sánh, đối chiếu trong hai tác phẩm này của Vũ Trọng Phụng và
các tác phẩm của các tác giả khác cùng viếtt về sự tha hoá của con người.
Ngoài ra, trong quá trình nghiên cứu chúng tôi còn kết hợp sử dụng các
phương pháp khác để hỗ trợ cho ba phương pháp chủ đạo trên và hoàn thiện đề
tài nghiên cứu một cách tốt nhất.
6. Những đóng góp của đề tài
Khóa luận hoàn thành sẽ góp phần vào quá trình tìm hiểu cuộc đời, sự
nghiệp sáng tác, tư tưởng, phong cách nghệ thuật, phương pháp sáng tác của nhà
văn Vũ Trọng Phụng.
Từ đó, giúp chúng tôi hiểu biết thêm về hai tác phẩm Giông tố, Số đỏ, có
cái nhìn toàn diện về vị trí của ông trong nền văn học Việt Nam - một thiên tài
văn học, một ngôi sao băng chói lòa sáng rực trên bầu trời văn học.
Khóa luận hoàn chỉnh cũng là cơ sở tài liệu tham khảo cho nhiều sinh
viên có đề tài, khóa luận nghiên cứu về tác giả Vũ Trọng Phụng đặc biệt là hai
tác phẩm Giông tố, Số đỏ.
7. Cấu trúc của khóa luận
Ngoài phần Mở đầu, Kết luận và Tài liệu tham khảo, phần Nội dung của
khóa luận gồm 2 chương:
Chương 1: Những vấn đề chung.
Chương 2: Sự tha hoá của con người trong Giông tố, Số đỏ của Vũ
Trọng Phụng.
6
KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU
CHƯƠNG 1
NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG
1.1. Cuộc đời và con người Vũ Trọng Phụng
1.1.1. Cuộc đời
Vũ Trọng Phụng sinh ngày 20 tháng 10 năm 1912 (tức ngày 11 tháng 9
năm Nhâm Tý) trong một gia đình rất nghèo ở Hà Nội (theo cách nói của Ngô
Tất Tố là nghèo “gia truyền”).
Ông thân sinh là Vũ Văn Lân, nguyên quán ở làng Hảo (tức làng Bần, Yên
Nhân, huyện Mĩ Hào, tỉnh Hưng Yên) làm nghề thợ điện ở xưởng xe ôtô
Ch.Biollot ở Hà Nội. Ông mất lúc Vũ Trọng Phụng mới 7 tháng tuổi.
Bà thân sinh là Phạm Thị Khách, sống bằng nghề khâu vá thuê, người
làng Vẽ, phủ Hoài Đức, tỉnh Hà Đông nay thuộc Thành phố Hà Nội. Bà ở vậy
nuôi con từ năm 24 tuổi, đây là một người mẹ chí từ của một người con chí hiếu.
Vũ Trọng Phụng lớn lên trong tình yêu thương ấm áp của mẹ và được cắp
sách đến trường. Năm 1921, Tý - tên sữa của Vũ Trọng Phụng bắt đầu học Pháp
văn ở trường Hàng Vôi (nay là trường viết văn Nguyễn Du), sau đó nữa học ở
trường Hàng Kèn (nay là chỗ trường Quang Trung), sau đó nữa là trường Sinh Từ.
Tuổi thơ của Vũ Trọng Phụng không được may mắn. Dù ở trong môi
trường nhà trường, nhưng do hoàn cảnh xuất thân mồ côi, nghèo khó và tách
biệt với đám học trò con nhà giàu không biết đến tình thương, nên Vũ Trọng
Phụng mang trong mình sự mặc cảm, yếu đuối và đơn độc. Và chính sự mặc
cảm đó đã ngày một lớn dần trong lòng cậu học trò thơ ngây để rồi tích đọng lại
thành nỗi bi phẫn, uất ức, thù hằn với đời, với xã hội.
Năm 1926, lúc 15 tuổi, Vũ Trọng Phụng đã đỗ bằng Tiểu học. Trong hoàn
cảnh gia đình rất bần cùng, Vũ Trọng Phụng chọn thi vào trường Sư phạm sơ
cấp với hi vọng có học bổng để đỡ phần nào nỗi vất vả cho mẹ nhưng không
thành. Từ đó Vũ Trọng Phụng phải bươn trải kiếm sống, lặn lội với hiện thực
nghiệt ngã. Khoảng tháng 10 năm 1926, Vũ Trọng Phụng xin được vào làm thư
kí ở nhà hàng Godard (chỗ Bách hóa tổng hợp bây giờ) nhưng chỉ được vài
tháng ông bị sa thải do say mê văn chương mà ít chú tâm vào chuyên môn. Sau
đó vào năm 1927 ông lại xin được chân đánh máy chữ ở nhà in Viễn Đông (Viễn
Đông ấn quán - IDEO). Nhưng do mê văn chương mà Vũ Trọng Phụng dành
thời gian việc công để viết văn, viết báo, nên chỉ sau 2 năm ông lại bị mất việc.
7
Bị mất việc cũng là duyên cớ đầu tiên đưa Vũ Trọng Phụng chuyển sang chuyên
tâm viết văn, viết báo. Chính trong khoảng thời gian làm thư kí và sống ở phố
Hàng Bạc - nơi nhà văn sống gần hết cuộc đời đã cung cấp cho Vũ Trọng Phụng
một vốn sống vô cùng phong phú. Ông được tiếp xúc với nhiều hạng người, va
chạm với cuộc sống mưu sinh khốc liệt, những cách làm tiền, bon chen, tội ác,
trụy lạc, cạm bẫy, những cảnh bi đát và đê tiện. Mặt khác, Vũ Trọng Phụng lớn
lên trong thời buổi bi thương của lịch sử đất nước, đó là cuộc khủng hoảng kinh
tế 1929 - 1933 trên quy mô toàn thế giới, làm cho đời sống của giai cấp lao khổ
đã khốn đốn lại càng khốn đốn, bọn giàu có lại càng giàu có do tích trữ đầu cơ,
cho vay nặng lãi. Tiếp đó là sự thoái trào của phong trào Cách mạng 1930 -
1931, rồi phong trào Âu hóa rầm rộ. Tất cả đã hình thành nên một Vũ Trọng
Phụng với tư tưởng bi quan, phẫn uất sau này.
Đầu năm 1938, Vũ Trọng Phụng lập gia đình với cô Vũ Mị Nương, con
một gia đình buôn bán nghèo ở xã Nhân Mục (tên nôm là Mọc) thôn Giáp Nhất,
nay thuộc phường Nhân Chính, quận Thanh Xuân, Thành phố Hà Nội. Cuối năm
có con gái đặt tên là Võ Mị Hằng.
Do phải làm việc quá sức, lại trong tình cảnh thiếu thốn, bệnh lao ngày
một trầm trọng nên Vũ Trọng Phụng đã mất vào ngày 13 tháng 10 năm 1939 tại
căn nhà số 73 phố Cầu Mới, Ngã Tư Sở, nay thuộc quận Thanh Xuân, Thành
phố Hà Nội. Lúc ấy Vũ Trọng Phụng mới 27 tuổi. Ông để lại một bà nội, một
mẹ già, vợ góa và một con gái vừa đầy năm.
1.1.2. Con người
Tìm hiểu xu hướng văn chương của một tác giả, điều quan trọng là phải
tìm hiểu con người với những hoàn cảnh gia đình, xã hội tác động vào họ như
thế nào. Bởi suy cho cùng tác phẩm chương là sự phản ánh thế giới khách quan
qua lăng kính chủ quan của nhà văn, lăng kính chủ quan của một nhà văn chính
là thế giới quan của họ. Thế giới lại được định hình dựa trên những điều kiện gia
đình, xã hội, tiểu sử bản thân. Chẳng hạn thơ Tố Hữu có giọng điệu ngọt ngào,
đằm thắm cũng là chịu ảnh hưởng của người mẹ thuộc nhiều ca dao, dân ca và
của quê hương xứ Huế với những điệu hò mái đẩy hết sức thiết tha. Vì vậy tìm
hiểu về con người của một nhà văn sẽ giúp chúng ta giải mã được dễ dàng
những tư tưởng của nhà văn ấy phản ánh trong tác phẩm.
Từ những lí luận trên, khi soi chiếu vào tác giả Vũ Trọng Phụng ta thấy
những điểm cần lưu ý về con người như sau:
Vũ Trọng là một con người thông minh từ thuở nhỏ. Lớn lên ông cũng đã
thể hiện mình là một cây bút đa tài. Vũ Trọng Phụng tham gia viết nhiều thể loại
8
văn học: kịch, tiểu thuyết, truyện ngắn, phóng sự, dịch thuật… và ở thể loại nào
Vũ Trọng Phụng cũng có được những thành công nhất định. Đặc biệt Vũ Trọng
Phụng nổi bật với mảng tiểu thuyết và phóng sự.
Do phần lớn cuộc đời Vũ Trọng Phụng sống ở thành thị, nên ông có một
vốn sống vô cùng phong phú ở nơi đây. Xuất thân trong cảnh nghèo hèn, lại phải
quay cuồng, chầy chật, vật lộn với những cuộc sống mưu sinh hằng ngày, nên
Vũ Trọng Phụng có cơ hội gần gũi với những người nghèo khổ thành thị. Ông
có dịp tiếp xúc thường xuyên với những hạng cùng đinh dưới đáy xã hội, đó là
con sen, thằng ở, là đám dân nghiện hút, bọn lưu manh, bon gái điếm… nên ông
có cái nhìn rất chân thật về họ. Tuy nhiên Vũ Trọng Phụng lai không được gần
gũi, tiếp xúc với những người lao động chân chính với sự trong sáng, khỏe
khoắn ở họ. Cho nên Vũ Trọng Phụng chưa có cái nhìn bao dung về người lao
động, những trang viết của ông về người lao động phần nhiều là méo mó, phiến
diện. Đồng thời Vũ Trọng Phụng cũng thông thuộc những hạng người thuộc
tầng lớp trên: bọn nghị viên, bọn thầu khoán, bọn me tây, bọn tư sản, bọn viên
chức, các loại người trong bộ máy cai trị đương thời… Đời sống xã hội ấy đã
cung cấp cho Vũ Trọng Phụng nhiều hình mẫu nhân vật, gây ra trong ông cái ý
thức mạnh bạo, sự cần thiết phải bày tỏ thái độ trước một thực trạng xã hội “vô
nghĩa lí”, đầy dẫy những tệ nạn, cũng như ý thức về thân phận và tình cảnh
nghèo khổ cơ cực của mình.
Đọc những trang văn Vũ Trọng Phụng viết về mặt trái của xã hội dễ khiến
người ta liên tưởng đây là tay sành sỏi, thạo đời, đã từng lăn lóc lâu năm trong
hang ổ của bọn đĩ điếm, của đám nghiện hút, bọn cờ bạc, bịp bợm… Thế nhưng
theo chứng thực của bạn bè cùng thời với Vũ Trọng Phụng, ông lại là người rất
khuôn phép, rất nề nếp, rất giàu tự trọng và rất bình dị. Trong cuộc sống ông chỉ
mong kiếm chút tiền phụ giúp mẹ già và dành dụm tiền cưới vợ để có con nối
dõi. Song cuộc sống ngheo khổ cứ bám riết lấy ông. Từ tuổi thơ bất hạnh đến
lớn lên gặp cảnh lố lăng, đã hình thành trong tư tưởng Vũ Trọng Phụng nỗi hoài
nghi, tư tưởng phủ nhận khó phai mờ. Cảnh thất nghiệp thường xuyên (làm
nhiều nghề mà nghề nào cũng dang dở) cộng với xã hội xung quanh lại xa hoa,
phè phưỡn, trụy lạc, trác táng, xã hội ấy trái ngược hoàn toàn với mong muốn
của Vũ Trọng Phụng. Cho nên Vũ Trọng Phụng sớm có tâm trạng bi phẫn với
thời cuộc. Cái bi phẫn ấy không chỉ là sự uất ức của một cá nhân mà là tâm trạng
chung của một lớp người có hoài bão đẹp nhưng đành bất lực trước thực trạng
xã hội, mà Vũ Trọng Phụng chỉ là một đại diện tiêu biểu. Và cách để Vũ Trọng
Phụng giải tỏa những uất ức ấy là ông đem phản ánh vào văn chương. Cho nên
9
các sáng tác của ông như những câu chửi rủa thẳng thừng vào xã hội mà ông gọi
là “Xã hội chó đểu”, là “khốn nạn”.
Bên cạnh đó thì Vũ Trọng Phụng còn là người bi quan, ông đã thừa nhận:
“tôi vốn là người bi quan” [1,218], vì thế trong ý thức sáng tác của Vũ Trọng
Phụng là tâm trạng hoài nghi, phủ định, lấy cảm hứng phê phán làm cảm hứng
xuyên suốt và chủ đạo. Và suy cho cùng đó chính là sự bế tắc của một người bất
đắc chí và từ sự bế tắc đó Vũ Trọng Phụng rơi vào cái nhìn cực đoan về con
người, nhất là người lao động, ông rơi vào chủ nghĩa định mệnh.
1.2. Quan điểm nghệ thuật của Vũ Trọng Phụng
Quan niệm nghệ thuật chính là tư tưởng, lập trường, là cách nhìn của một nhà
văn về cuộc sống. Văn học phản ánh cuộc sống, lấy chất liệu từ hiện thực cuộc
sống. Song trong cuộc sống có vô vàn sự vật, hiện tượng có thể tác động đến
nhà văn, làm nảy sinh ở họ cảm hứng sáng tác. Nên việc lựa chọn những tác
động nào, những mảng hiện thực cuộc sống nào để phản ảnh trong tác phẩm
chính là xuất phát từ quan niệm nghệ thuật. Hay nói cách khác, quan niệm nghệ
thuật chính là cái để nhà văn lựa chọn phạm vi hiện thực để cấu tứ thành tác
phẩm văn học. Và mỗi một nhà văn lại có cách thể hiện quan niệm nghệ thuật
rất riêng, có người bộc lộ trực tiếp, có người bày tỏ gián tiếp. Nếu như Nam Cao
thường hé mở quan niệm nghệ thuật của mình thông qua phát ngôn hoặc suy
nghĩ của các nhân vật thì Vũ Trọng Phụng lại thể hiện nó một cách trực tiếp
thông qua các bài viết của mình.
Ngay từ khi bước vào con đường văn chương, Vũ Trọng Phụng đã khẳng
định cho mình khuynh hướng “tả thực” để theo đuổi đến cùng. Nghĩa là ông viết
về cuộc sống với tất cả những gì vốn có của nó, không màu mè, không tô vẽ,
không bôi hồng hay nhào nặn nó cho sáng sủa, cho tốt đẹp. Theo ông người viết
văn vác trên vai mình một chiếc gương khổng lồ để đi vào cuộc sống mà phản
ánh cho thực chất, triệt để cuộc sống ấy, dù cho nó có nhiều ung nhọt, xấu xa.
Trong bài viết “Thư ngỏ cho ông Thái Phỉ, chủ báo Tin văn về bài “Văn chương
dâm uế (in trên Hà Nội báo số 38 ngày 23/9/1936) Vũ Trọng Phụng có viết:
“Tôi là một trong những nhà văn sĩ tả chân” [1,205].
Như vậy Vũ Trọng Phụng đã khẳng định mình là một văn sĩ “tả chân” cũng
có nghĩa với ông viết về hiện thực xã hội trở thành một niềm thôi thúc, một nhu cầu
và trách nhiệm của người cầm bút. Hiện thực cuộc sống với nhan nhản cảnh tượng bỉ
ổi, đê hèn đã thẩm thấu vào tư tưởng Vũ Trọng Phụng để nó bật ra thành những
trang văn cay nghiệt. Những cảnh bê tha nghiện hút, những kẻ sống không lí tưởng
chỉ biết chúi đầu vào cờ bạc, ăn chơi, những kẻ trưởng giả chỉ quen dâm dật, hà hiếp
10
người nghèo là thế giới nhân vật chính trong sáng tác của Vũ Trọng Phụng. Có thể
nói, tả thực cái xã hội “chó đểu”, “khốn nạn” Vũ Trọng Phụng không bỏ sót đối
tượng nào. Tất cả trở thành đối tượng để ông trút nỗi căm hờn của mình. Do vậy khi
viết về bọn trưởng giả, Vũ Trọng Phụng rất tài tình trong việc phanh phui bản chất
dâm ô, đểu cáng, hám tiền, hám danh, độc ác… của chúng.
Như vậy, quan điểm nghệ thuật của Vũ Trọng Phụng trái ngược hoàn toàn
so với thứ văn chương lãng mạn đương thời, tiêu biểu là các nhà văn của Tự lực
văn đoàn. Nếu như các nhà tiểu thuyết lãng mạn ưa miêu tả cuộc sống bằng sự
mĩ miều, đẹp đẽ, tô vẽ cho nó có cái thơ mộng, tươi tắn, thì Vũ Trọng Phụng lại
miêu tả cuộc sống với tất cả những cái xấu xa, bẩn thỉu của nó. Vũ Trọng Phụng
hướng ngòi bút sắc sảo của mình đi mổ xẻ những tệ nạn, những cái xấu xa của
xã hội. Bởi theo lời của chính Vũ Trọng Phụng: “Nhà báo thì phải nói sự thật
cho mọi người biết” [1,223]. Nói là nhà báo cũng có nghĩa là nhà văn sĩ nói
chung khi viết phải thành thực, phải như người thư kí của thời đại, phải ghi lại
được tất thảy những sự thật hiển hiện trong đời sống. Ví dụ khi viết về Hà Nội
thì đó là: “Hà Nội lầm than, ăn cướp, ăn cắp, ăn trộm, đàn bà nghiện hút, buôn
người, đồng bóng, sư vãi hoang dâm” [1,219].
Theo Vũ Trọng Phụng, “Nhà những văn sĩ tả chân có quyền và bổn phận
tả những điều ấy mặc lòng đó là thứ dâm uế, nhơ bẩn” [1,207]. Đặc biệt, quan
điểm nghệ thuật của Vũ Trọng Phụng được thể hiện rõ nét nhất, tập trung nhiều
nhất trong luận điểm “Các ông muốn tiểu thuyết cứ là tiểu thuyết; Tôi và các
nhà văn cùng chỉ hướng như tôi, muốn tiểu thuyết là sự thực ở đời (…) Tả thực
cái xã hội khốn nạn, công kích cái xa hoa, dâm đãng của bọn người có nhiều
tiền, kêu ca những sự thống khổ của dân nghèo bị bóc lột, bị áp chế, bị cưỡng
bức muốn cho xã hội công bình hơn nữa” [1,215 - 218].
Như thế đồng nghĩa với việc Vũ Trọng Phụng ý thức được mối quan hệ mật
thiết giữa văn học và cuộc sống. Hiện thực cuộc sống chính là nền tảng cơ bản nhất
làm nên nội dung của tác phẩm văn học, có như vậy tác phẩm văn học mới phục vụ
đắc dụng cho con người. Tả thực cái xã hội khốn nạn để thấy được những vấn đề
nhức nhối, nổi cộm, những tệ nạn đang hoành hành xã hội, giúp con người ý thức
được sự thật đó để lánh xa, để bài trừ và để hướng đến một xã hội công bình hơn
chứ nếu cứ say sưa trong những “danh từ điêu trá của văn chương” sẽ là liều thuốc
đầu độc con người chìm sâu trong ảo tưởng, cổ xúy cho lối sống thác loạn mà
không thể thức tỉnh kịp thời. Chẳng hạn, Vũ Trọng Phụng không biết gọi gái đĩ là
“nàng”, bởi chữ ấy nó thi vị lắm. Ông chỉ ra các tai hại của kiểu viết lãng mạn “tô
11
điểm cho gái đĩ ấy cái thi vị mà gái đĩ ấy không có, đến nỗi đọc xong chuyện người
ta chỉ thấy một gái đĩ làm gương cho thế gian noi theo!” [1,215].
Trong quan điểm nghệ thuật của Vũ Trọng Phụng rất trọng sự thực, nhà
văn phải là người dám nói lên những vết thương của xã hội cho mọi người nghe,
không lảng tránh, không trốn chạy hiện thực. Đi ngược lại với điều ấy là văn
chương giả dối. Cho nên trong quan niệm nghệ thuật của Vũ Trọng Phụng
không có chỗ cho những điều thanh cao, tao nhã, những thứ ấy chỉ là loại văn
chương xoàng xĩnh mà thôi.
Tuy vậy, do bị chi phối bởi tâm trạng bi quan, bi phẫn và tư tưởng định
mệnh chủ nghĩa cho nên cái nhìn của Vũ Trọng Phụng về hiện thực nhiều khi
lệch lạc, thậm chí là cực đoan, dẫn đến thế giới quan hay chính là quan điểm
nghệ thuật của ông có những biểu hiện sai lầm, thiếu nhất quán. Nhất là trong
cách nhìn của ông về con người là rất nghiệt ngã, chỉ toàn người xấu: “Riêng tôi,
xã hội này tôi chỉ thấy là khốn nạn, quan lại tham nhũng, đàn bà hư hỏng, đàn
ông dâm bôn, một tụi văn sĩ đầu cơ xảo quyệt” [1,219].
Công bằng mà nói thì trong thế giới quan của Vũ Trọng Phụng, mặc dù thống
nhất trong khuynh hướng “tả chân”, nhưng tư tưởng của ông cũng có chông chênh
dao động, cái nhìn về xã hội, về con người có phần đen tối. Song những hạn chế ẩy
cũng không làm mờ nhạt được một cây bút sắc sảo, tài năng, một người có quan
điểm hết sức tiến bộ và dũng cảm, dám nhìn thẳng vào hiện thực xã hội để phản ánh
nó một cách sinh động, chân thực, cho dù xã hội ấy là thối nát, dơ dáy.
1.3. Sự nghiệp sáng tác
Vũ Trọng Phụng là nhà văn “Tài danh bạc mệnh”, sự ra đi của ông đúng vào
lúc tài năng đang ở độ chín nhất, để lại niềm thương tiếc vô hạn cho nhiều đồng
nghiệp cũng như nhiều độc giả.
Mặc dù sự nghiệp sáng tác của Vũ Trọng Phụng diễn ra vẻn vẹn chưa đầy 10
năm, nhưng ông đã để lại cho hậu thế một di sản văn học đồ sộ, trong đó có
nhiều sáng tác xuất sắc.
Trong khoảng thời gian Vũ Trọng Phụng sáng tác, xã hội Việt Nam có nhiều
sóng gió, nhiều biến động sâu sắc, tác động mạnh mẽ để nhịp độ phát triển văn
học. Nhìn một cách tổng quát thì quá trình sáng tác của Vũ trọng Phụng có thể
chia làm 3 chặng đường sáng tác:
- Chặng đường thứ nhất: Từ năm 1930 đến năm 1935
- Chặng đường thứ hai: Từ năm 1935 đến năm 1936
- Chặng đường thứ ba: Từ năm 1936 đến tháng 10 năm 1939
12
1.3.1. Chặng thứ nhất: Từ năm 1930 đến năm 1935
Vũ Trọng Phụng có sáng tác đăng báo từ những năm 1930. Qua những lời
kể sơ sài của Tam Lang (“Hoài niệm về Vũ Trọng Phụng” – Tao đàn, số đặc
biệt ,về Vũ Trọng Phụng), của Thiều Quang (“Tập san phê bình” số đặc biệt trên
Ngọ báo khoảng năm 1930, ngòi bút Vũ Trọng Phụng đã có khuynh hướng tả
chân rõ rệt. “Tả chân” ở đề tài, vạch ra những chuyện dơ dáy của xã hội; nhất là
lối văn “lại tả một cách bạo hơn nữa, bạo đến sỗ sàng” (Tam Lang - Bài đã dẫn).
Năm 1931, Vũ Trọng Phụng cho ra mắt vở kịch Không một tiếng vang. .
Tác phẩm này có thể được coi là cột mốc đánh dấu sự nghiệp sáng tác của Vũ
Trọng Phụng một cách chính thức, qua tác phẩm ông đã khẳng định mình là một
cây bút hiện thực phê phán.
Vũ Trọng Phụng chỉ thực sự nổi tiếng từ những thiên phóng sự Cạm bẫy
người (Đăng trên báo Nhật Tân, 1933) và Kĩ nghệ lấy Tây (Đăng trên báo Nhật
Tân từ số 69, ngày 05/12/1934).
Cũng năm 1934, Vũ Trọng Phụng cho đăng tiểu thuyết Dứt tình trên Hải
Phòng tuần báo. Câu chuyện tình lãng mạn diễn ra trên bãi biển, phòng khách
này không hợp lắm với ngòi bút “tả chân” của nhà văn, nó chỉ chứng tỏ sức hấp
dẫn mạnh mẽ của trào lưu lãng mạn khi đó đối với ông.
Tựu chung lại, những sáng tác của Vũ Trọng Phụng thời kì này có mấy
đặc điểm nổi bật:
Trước hết, đó là khuynh hướng “tả chân” và tố cáo xã hội, thể hiện rõ
trong phần lớn các tác phẩm. Hơn hẳn các nhà văn trước năm 1930, Vũ Trọng
Phụng đã táo bạo, xông xáo trong việc “lật mặt trái” dơ dáy của xã hội thuộc địa
thối nát khi đó. Ngay từ sớm ông đã thể hiện mình là kẻ thù không đội trời
chung của xã hội đồng tiền. Giá trị hiện thực chủ yếu của sáng tác Vũ Trọng
Phụng thời kì này phần nào phản ánh được tình trạng bần cùng, phá sản, lưu
manh hóa của tầng lớp tiểu tư sản, dân nghèo thành thị và nông dân trong những
năm khủng hoảng kinh tế, tình trạng giàu - nghèo bất công và những tệ nạn
trong xã hội thành thị đương thời. Qua đó ông bày tỏ thái độ ghê gớm đến thói
lừa lọc, đểu giả, bất nhân, chà đạp lên chuẩn mực đạo đức, lên luân thường đạo
lí, chỉ biết đến tiền và nhục dục.
Tuy vậy, thời kì này Vũ Trọng Phụng cũng bộc lộ nhiều mặt yếu. Đó là
phạm vi phản ánh còn hẹp, đối tượng phản ánh chủ yếu là đám lưu manh và dân
nghèo ở thành thị; chưa đi vào đề tài hiện thực rộng lớn, điển hình, chiều sâu của
sự phản ánh cũng như tình cảm của nhà văn còn hạn chế.
13
Nhà văn lên án sự bất công, thối nát của xã hội, song chưa nhìn rõ mối
mâu thuẫn giai cấp và nguyên nhân sâu xa của những tệ nạn xã hội như lưu
manh, mại dâm… Những lời kết án đồng tiền tuy đanh thép nhưng chưa chỉ ra
được nguyên nhân căn bản khiến đồng tiền lũng đoạn xã hội là do thế lực sử
dụng đồng tiền.
Sáng tác Vũ Trọng Phụng thời kì này còn có những mâu thuẫn. Trong khi
phơi bày những ung nhọt của xã hội, phản ánh cuộc sống khốn khổ của người
nghèo, những nạn nhân của xã hội, ngòi bút Vũ Trọng Phụng rơi vào chủ nghĩa
tự nhiên lạnh lùng và có thái độ miệt thị đối với họ. Lối viết của Vũ Trọng
Phụng vẫn còn sống sượng hay đề cập đến cái dâm của con người như loài động
vật. Cũng trong thời kì này, tư tưởng bi quan định mệnh bắt đầu chi phối đến
sáng tác của Vũ Trọng Phụng, mặc dù nó chưa thực sự đậm nét và phổ biến. Chỉ
trong Dứt tình, tư tưởng này mới trở thành tư tưởng chủ đạo của tác phẩm.
1.3.2. Chặng đường thứ hai: Từ năm 1935 đến năm 1936
Đây là giai đoạn sáng tác ngắn nhất, song dồi dào và đạt tới đỉnh cao nhất
ra trong sự nghiệp văn học của Vũ Trọng Phụng. Đây thời kì mà tài năng của Vũ
Trọng Phụng nở rộ hơn cả. Bằng sức lao động nghệ thuật không biết mệt mỏi,
Vũ Trọng Phụng đã viết nên nhiều kiệt tác.
Trên tuần báo Công dân số 1, ra ngày 25 tháng 9 năm 1935, ông bắt đầu
cho đăng phóng sự Dân biểu và dân biểu. Tiếp đó trên Hà Nội báo số ra đầu tiên
ngày 01 tháng 01 năm 1936, ông bắt đầu cho ra mắt tiểu thuyết Giông tố. Cũng
trên Hà Nội báo, ông lần lượt đăng phóng sự Cơm thầy cơm cô (từ số 12, ra
ngày 25 tháng 3 năm 1936), Số đỏ (tiểu thuyết hoạt kê, từ số 40, ra ngày 07
tháng 10 năm 1936) và một loạt truyện ngắn (Giấc mơ ngày Tết, Tết ăn mày, Lỡ
lời, Bộ răng vàng, Con người điêu trá, Hồ sê líu hồ líu sê sàng). Trong khi đó,
trên tờ Tương lai Vũ Trọng Phụng cho đăng tiểu thuyết Vỡ đê (từ tháng 7 năm
1936) và nhiều bài bút chiến. Trên tờ Sông Hương ông cho đăng tiểu thuyết Làm
đĩ cũng trong năm 1936.
Thời kì này, không khí sinh hoạt chính trị náo nhiệt hào hứng khi bước
vào thời kì Mặt trận dân chủ đã ảnh hưởng mạnh mẽ đến ngòi bút của Vũ Trọng
Phụng, vốn đã được tích lũy và rèn luyện ở thời kì trước, để bước vào thời kì
sung sức nhất khiến ông có thể phát huy cao nhất những mặt tích cực, sở trường
và đạt được những thành tựu xuất sắc. Đây cũng là thời kì tư tưởng Vũ Trọng
Phụng bộc lộ rõ nét nhất về tính chất phức tạp của nó.
Với một loạt tiểu thuyết khá đầy đặn ra đời năm 1936 phạm vi hiện thực
đã mở rộng ra khá rộng lớn. Dường như nhà văn muốn bao quát toàn thể xã hội
14
để dựng nên bức tranh toàn cảnh về hiện thực Việt Nam đương thời. Sự phản
ánh đã được nâng lên cả bề rộng lẫn chiều sâu, thế giới nhân vật phong phú hơn
bao giờ hết.
Tiểu thuyết Giông tố, Vỡ đê bao trùm một địa bàn rất rộng từ nông thôn
đến thành thị, với rất nhiều môi trường hoạt động khác nhau cho các nhân vật
thuộc đủ mọi tầng lớp, địa vị xã hội, có tính cách và số phận khác nhau.
Cũng trong năm 1936, Vũ Trọng Phụng còn cho ra mắt tiểu thuyết Làm đĩ
được viết theo kiểu “tiểu thuyết thực nghiệm”. Tuy nhiên cuốn tiểu thuyết này
không gây ra được nhiều chú ý như Giông tố hay Số đỏ
Ngoài ra, thời kỳ này, Vũ Trọng Phụng còn có hai phóng sự Cơm thầy
cơm cô và Vẽ nhọ bôi hề.
Sở dĩ trong thời kì này bút lực của Vũ Trọng Phụng đạt tới mức đỉnh cao
là do sự tác động mạnh mẽ của Mặt trận dân chủ và sách bao tiến bộ. Mặt khác
cũng là do bản thân Vũ Trọng Phụng đã vượt qua được sự bi quan phẫn uất của
chính mình.
Tựu chung lại, quá trình sáng tác của Vũ Trọng Phụng thời kỳ này có thể
được khác quát ở những điểm cơ bản sau:
Sự thành công đáng kể đầu tiên của Vũ Trọng Phụng thời kỳ này là ông
đã chú ý lên án giai cấp thống trị, lột trần bản chất dâm ô, đểu cáng, độc ác của
chúng. Đây là điều chưa có ở giai đoạn trước. Nhà văn đã phản ánh được hiện
thực trên bình diện mâu thuẫn xã hội, đả kích lực lượng thống trị xã hội, đồng
thời ông cũng phần nào tái hiện được biến chuyển, sự phân hóa phức tạp, dữ dội
của các giai cấp, nhất là quá trình tích lũy tư bản, phất lên làm giàu, leo lên địa
vị cao sang và quá trình bần cùng hóa, tha hóa phổ biến của các tầng lớp bị trị.
Nhất là Vũ Trọng Phụng không chỉ dừng lại ở việc nêu hiện tượng như giai đoạn
trước mà ông đã đi sâu khai thác những mối quan hệ bên trong hiện tượng được
phản ánh. Và ông đã thấy được người dân nghèo là nạn nhân của giai cấp thống
trị. Đáng chú ý là ở ba tiểu thuyết Giông tố , Số đỏ , Vỡ đê đều dụng chạm đến
hệ thống trật tự xã hội, đả kích trực tiếp hoặc gián tiếp vào bộ máy thực dân
phong kiến. Đồng thời ông cũng đã chú ý đến cuộc sống của người dân nghèo
chịu nhiều thiệt thòi và sự phản kháng của họ. Ở Giông tố là việc đi kiện của gia
đình Thị Mịch, trong Vỡ đê là đám dân chúng biểu tình có tổ chức.
Về phương diện nghệ thuật, thời kỳ tài năng và sáng tạo của Vũ Trọng
Phụng được phát triển mạnh mẽ nhất, ông đã xây dựng được một số nhân vật
điển hình sinh động bất hủ về xã hội tư bản thành thị. Những Vạn Tóc Mai,
15
Nghị Hách, Xuân Tóc Đỏ, bà phó Đoan, cụ cố Hồng, ông Phán mọc sừng… Là
những cách sống, được cá thể hóa cao độ.
Mặt dù có nhiều điểm thành công so với giai đoạn trước, song ở giai đoạn
này ngòi bút Vũ Trọng Phụng vẫn còn bộc lộ một vài hạn chế nhỏ. Đó là tư
tưởng định mệnh vẫn còn chi phối đến sáng tác của ông, trong Số đỏ là ông thầy
địa lý đoán biết được “hậu vận” của Xuân Tóc Đỏ, trong Giông tố là ông già Hải
Vân “thượng thông thiên văn, hạ tri địa lý trung tri nhân sự” và lời phán của mụ
thầy cúng về “tiền dâm hậu phú” của Thị Mịch. Và ngay cả khi miêu tả về người
nông dân như một nạn nhân của giai cấp thống trị, Vũ Trọng Phụng còn tỏ ra
hoài nghi về họ ví họ như “đàn ruồi sau mông con bò”. Khi xây dựng hình
tượng người chiến sĩ cộng sản Vũ Trọng Phụng cũng không có sự hiểu biết sâu
sắc về họ, khắc họa về họ méo mó, thiếu chân thực.
1.3.3. Chặng đường thứ ba: Từ năm 1936 đến tháng 10 năm 1939
Đây là giai đoạn thoái trào của ngòi bút Vũ Trọng Phụng. Nếu như giai
đoạn 1935 - 1936 Vũ Trọng Phụng viết một cách say sưa, viết không biết mệt
mỏi với một sức sáng tạo đáng kinh ngạc thì thời kì này hầu như Vũ Trọng
Phụng không để lại một tác phẩm xuất sắc nào. Đây là thời kì yếu nhất trong đời
văn Vũ Trọng Phụng. Từ 1937, tư tưởng và sáng tác của Vũ Trọng Phụng bỗng
dưng xuống dốc một cách đột ngột. Dù ông vẫn viết nhiều, viết đều, vừa làm
báo, vừa sáng tạo truyện ngắn, phóng sự, kịch nói, truyện dài. Song ngòi bút Vũ
Trọng Phụng đã mất hẳn cái khí thế háo hức của năm 1936.
Vũ Trọng Phụng trở nên mất phương hướng, chìm sâu trong tâm trạng
hoài nghi, bi quan cố hữu.Vũ Trọng Phụng sau một thời gian tạo dựng niềm tin
lại trở về với cảm giác chán chường. Tay bút Vũ Trọng Phụng có biểu hiện mệt
mỏi, sức chiến đấu trong các sáng tác cũng vì thế mà giảm sút. Đây cũng là thời
kì u ám nhất trong đời cầm bút của nhà văn, trong các sáng tác của mình hầu
như Vũ trọng Phụng không đả động gì đến chính trị nữa, có chăng cũng chỉ như
bông đùa mà kém phần sâu sắc: Máu mê, Hội nghị đùa nhà. Năm 1936 ông có
thái độ hăng hái bao nhiêu thì giờ đây lại hời hợt bấy nhiêu.
Quay lưng với chính trị, Vũ Trọng Phụng lại tiếp tục viết về chủ đề sức
mạnh của đồng tiền, về sự tha hóa của những kẻ hám tiền. Đó là xã hội mà kẻ
không có tiền chỉ là con số không vô nghĩa lí, bị nhân tình bỏ rơi, bị tước quyền
làm bố (Quyền làm bố). Vì một đồng bạc, một người đứng đắn có học cũng có
thể trở mặt, cạn tàu ráo máng với bạn bè, hàng xóm láng giềng xưa kia thân thiết
(Một đồng bạc). Còn khi “trong tay đã có sẵn đồng tiền” thì con người bỗng đủ
mọi quyền uy, được mọi người kính nể, dù có làm việc càn dỡ thì xung quanh
16
cũng cứ xúm lại suy tôn. Đồng tiền ngự trị chi phối đến cả hành vi con người
(Trúng số động đắc). Một huyện ăn tết là phóng sự điều tra khá chân thực, miêu
tả lại thủ đoạn đục khoét ở huyện nha vào dịp Tết.
Những sáng tác của Vũ Trọng Phụng thời kì mặc dù có ý nghĩa tố cáo, thế
nhưng sự phê phán đồng tiền vẫn còn trừu tượng, mất đi ý nghĩa xã hội vì không
nhằm vào lực lượng sử dụng đồng tiền là tầng lớp thống trị, vào bản chất quan
hệ xã hội mà nhằm vào tâm lí “người đời” chung chung. Ông coi bản tính con
người ích kỉ, đó là chủ đề trở đi trở lại trong nhiều truyện ngắn, truyện dài,
truyện vui của Vũ Trọng Phụng thời kì này (Một đồng bạc, Cái ghen đàn ông,
Từ lí thuyết đến thực hành…)
Nếu như thời kì trước Vũ Trọng Phụng sắc sảo, xông xáo là thế thì giờ
đây lại tẩn mẩn đi vào những đề tài không có ý nghĩa xã hội gì (Đi săn khỉ, Lấy
vợ xấu, Một con chó hay chim chuột…)
Quay lưng với xã hội chính trị, ông đi vào phân tích tâm lí với quan điểm
bi quan sâu sắc về con người, coi bản chất con người là ích kỉ, khốn nạn, phủ
nhận khả năng con người có thể chiến thắng cái xấu và cải tạo xã hội. Dường
như ở thời kì này Vũ Trọng Phụng đã buông lỏng tay bút, ông không còn trụ
vững trên con đường hiện thực chủ nghĩa nữa. Ngòi bút “tả chân” của Vũ Trọng
Phụng vì thế trở nên mờ nhạt, thiếu sức sống.
Tiểu kết: Vũ Trọng Phụng là một nhà văn có cuộc đời bất hạnh, nhưng
bằng tài năng và sự nỗ lực của bản thân, ông đã tạo dựng cho mình một sự
nghiệp rất đáng nể phục. Mặc dù về mặt tư tưởng, Vũ Trọng Phụng có những
mâu thuẫn nhất định, nhưng những sáng tác của ông đã góp phần không nhỏ vào
tiến trình hiện đại hóa văn học thời kì 1930 - 1945, và Vũ Trọng Phụng xứng
đáng là một tác giả lớn trong nền văn học Việt Nam nói chung và trào lưu văn
học hiện thực phê phán trước Cách mạng nói riêng.
Sự tha hóa của con người đã được nhiều nhà văn đề cập khai thác song
phải đến Vũ Trọng Phụng cái nhìn đó mới thực sự cặn kẽ thấu đáo bởi có lẽ được
quy định bởi cái nhìn triệt để của Vũ Trọng Phụng về hiện thực cuộc sống. Và điều
đó được Vũ Trọng Phụng thể hiện rõ nét trong hai tác phẩm Giông tố, Số đỏ.
1.4. Hoàn cảnh ra đời của hai tác phẩm Giông tố, Số đỏ của Vũ Trọng Phụng
Để hiểu được thấu đáo và cặn kẽ bất kỳ một tác phẩm văn học nào cái yếu
tố tưởng chừng như rất dễ bị bỏ qua nhưng lại vô cùng quan trọng chính là hoàn
cảnh ra đời của tác phẩm ấy. Bởi lẽ một tác phẩm văn học muốn chào đời phải
được thai nghén trong một hoàn cảnh nhất định. Hoàn cảnh sáng tác chính là cơ
17
sở để ta soi chiếu vào một tác phẩm văn học, để thấy được những tác động của
những sự kiện, những hiện tượng trong cuộc sống đến tư tưởng của nhà văn như
thế nào. Nắm rõ được cội nguồn xuất xứ của tác phẩm văn học sẽ giúp dễ dàng
hơn trong việc lý giải mối quan hệ giữa hiện thực cuộc sống - nhà văn và tác
phẩm. Bởi suy cho cùng, tác phẩm văn học chính là hình ảnh của cuộc sống
được tái hiện dưới dạng hình tượng nghệ thuật đã được khúc xạ qua tư tưởng
chủ quan của nhà văn như vậy.
Nói như vậy để thấy rằng, hoàn cảnh ra đời của một tác phẩm văn học
cũng giống như chiếc chìa khóa để mở ra cánh cửa cho ta bước vào tìm hiểu thế
giới quan trong tác phẩm ấy, nhất là những tác phẩm của những nhà văn chịu
ảnh hưởng đặc biệt sâu sắc của hoàn cảnh, mà Vũ Trọng Phụng là một nhà văn
như vậy.
Tiểu thuyết Giông tố ra mắt công chúng vào ngày 01/01/1936 trên Hà Nội
báo số 1. Nó là kết quả của một quá trình chiêm nghiệm, từng trải của Vũ Trọng
Phụng là sản phẩm của sự công hưởng giữa hiện thực cuộc sống bế tắc và tư
tưởng bi quan định mệnh của tác giả.
Còn Số đỏ, được đăng trên Hà Nội báo từ số 40 (ra 7/10/1936). Lê Cường
in thành sách lần thứ nhất năm 1938. Đây là thời điểm diễn ra nhiều biến động
trong tình hình xã hội và trong bản thân nền văn học.
Những năm 1930, phong trào cách mạng của quần chúng nhân dân mặc
dù sôi nổi, nhưng liên tục bị thất bại. Thực dân Pháp tăng cường khủng bố, đàn
áp dìm các cuộc đấu tranh đó trong bể máu. Cuộc khởi nghĩa Yên Bái 1930 dù
gây được tiếng vang nhưng kết cục lại rất bi thảm với hàng loạt cái chết của
những người cầm đầu. Sau vụ bạo động ở Yên Bái đó không khí trong xã hội trở
nên ngột ngạt, tù túng, người dân chìm nghỉm trong kiếp nô lệ. Những năm 1931
- 1935 là những năm thoái trào của cách mạng sau cao trào Xô Viết Nghệ - Tĩnh
1930 - 1931, đây là thời kỳ có thể nói là khó khăn nhất trong cuộc kháng chiến
chống thực dân Pháp, Đảng ta phải rút vào hoạt động bí mật và phải tuyên bố
giải tán để hoạt động dưới dạng “ Hội nghiên cứu chủ nghĩa Mác” . Các phong
trào nổi dậy của quần chúng ngày càng yếu ớt và liên tục bị đàn áp một cách hết
sứ dã man. Những phong trào cách mạng đó không những không làm lung lay
chủ nghĩa thực dân mà còn khiến chúng thêm điên cuồng và ngày càng mạnh tay
hơn trong việc đàn áp.
Điều này đã ảnh hưởng không nhỏ tới tư tưởng của Vũ Trọng Phụng, khiến
ông không có cái nhìn lạc quan, tin tưởng vào vai trò của quần chúng, với ông, họ
18
chỉ là những đám đông thấp cổ bé họng, không có khả năng cách mạng. Vì vậy tư
tưởng hoài nghi về người lao động trở nên sâu đậm trong Vũ Trọng Phụng.
Thêm nữa là cuộc khủng hoảng kinh tế 1929 - 1933 trên phạm vi thế giới
cũng gây rối loạn trong xã hội Việt Nam. Nước ta vốn đã khủng hoảng, nay lại
thêm nạn khủng hoảng kinh tế, khiến cho mức độ khủng hoảng đó càng thêm
trầm trọng. Hàng loạt các doanh nghiệp bị phá sản, công nhân thất nghiệp tràn
lan, đời sống nhân dân vô cùng điêu đứng, bị bần cùng hóa hết sức nhanh chóng.
Nhiều người lao động đã phải tha phương cầu thực, rời nông thôn ra thành thị
kiếm việc. Tại đây một bộ phận không nhỏ trong số họ trở thành những con
người lưu manh, làm nhiều việc hèn hạ để kiếm sống. Cộng với chính những
con người thành thị, do ảnh hưởng của nạn khủng hoảng cũng trở lên tha hóa.
Trái lại với tình cảnh ấy của những người nghèo khổ thì bọn quan lại, bọn tay
sai, bọn giàu có lại tranh thủ thời cơ để đầu cơ tích trữ, bóp nặn bóc lột người
nghèo càng chặt hơn khiến chúng đã giàu có lại càng giàu, càng ăn chơi trụy lạc.
Sự thật trớ trêu trong sự mất cân bằng đến đối lập giữa kẻ nghèo và người giàu
ấy luôn thể hiện trước con mắt vốn nhạy cảm với những điều chướng tai gai mắt
của Vũ Trọng Phụng.
Bước sang thời kỳ cuối năm 1935 đầu năm 1936, đây là thời kỳ mà phong
trào dân chủ chống phát xít do Đệ tam quốc tế khởi xướng mới được phát động
trên toàn thế giới. Đây cũng là thời kỳ cách mạng Việt Nam chuyển từ đấu tranh
âm ỉ, bí mật sang đấu tranh công khai với nhiều hình thức khác nhau, trong đó
có đấu tranh bằng văn học và báo chí. Trong không khí đấu tranh chính trị công
khai đó, Vũ Trọng Phụng có điều kiện bộc lộ thẳng thắn cách nhìn, thái độ của
mình với hiện thực.
1.5. Đôi nét về tác phẩm Giông tố, Số đỏ của Vũ Trọng Phụng
Cũng như theo Giáo sư Nguyễn Đăng Mạnh, Giông tố là quả bom ném
vào cái xã hội “chó đểu”, quả bom này có sức công phá mạnh mẽ và ghê gớm
chưa từng thấy. Trong Giông tố là một xã hội quay cuồng điên đảo đến chóng
mặt, biết bao tình huống trớ trêu, biết bao cuộc đời lên voi xuống chó, xuống
chó lại lên voi, sướng trở nên khổ, khổ trở thành sướng, tất cả diễn ra trong tiếng
cười, tiếng khóc, tiếng chửi bới, rên la, có khi lại vừa cười vừa khóc, tạo ra một
tấn bi kịch về cái sự vô nghĩa lí, về cái “chó đểu” của cuộc đời.
Có thể nói Giông tố là một xã hội thu nhỏ, xã hội ấy không phải ở trạng
thái tĩnh mà luôn luôn biến động với các tầng lớp xã hội bị phân hóa hết sức
dữ dội về kinh tế, xã hội, về chính trị và tâm lí. Dữ dội và nhanh chóng đến
chính bản thân người trong cuộc cũng phải ngạc nhiên, bàng hoàng.Nhân vật
19
cứ giằng co bên nọ bên kia, cứ ngẩn ngơ chẳng rõ, như Thị Mịch đến nhà
Nghị Hách, như Long xuống nhà bà Nghị ở Hải Phòng, như bố con Nghị
Hách bắt quả tang bà Nghị ngủ với hay đến thằng Cung Văn, như Nghị Hách
bỗng gặp lại Hải Vân, nghe Hải Vân nói vanh vách về tiền vận, hậu vận của
mình, như cả làng Quỳnh Thôn vừa hôm nào chứng kiến tai họa giáng xuống
gia đình cụ Đồ Uẩn đã lại được mời đến ăn cỗ cưới linh đình cô Mịch lấy
chính người đã gieo tai họa cho mình.
Nhưng số phận thay đổi, những tính cách chuyển biến mau lẹ, đột ngột
như giẫm đạp lên nhau, huých vào nhau, sinh ra những cuộc cãi nhau, chửi
nhau, chơi xỏ nhau, tạo ra những màn kịch để tô đậm cho sự thối nát, sự khốn
nạn của những con người tráo trở, đổi trắng thay đen, bị tiền và danh vọng
điều khiển.
Giông tố đã bày ra đủ cảnh tượng điên đảo, láo nháo, quay cuồng như một
cơn lốc. Nó làm tanh bành tất cả, lật tẩy tất cả mọi thứ mặt nạ đắp điếm lên một
cái thực chất bất công, tàn ác, đểu giả, thối nát, hết sức vô nghĩa lí của xã hội
Việt Nam thời thuộc Pháp.
Như vậy, tiểu thuyết Giông tố đã bao quát hiện thực trên phạm vi tương
đối rộng, dựng nên một bức tranh toàn cảnh với nhiều chi tiết hiện thực, hiện
thực đến phũ phàng. Đó là sự đông đúc phức tạp của một xã hội với đủ các
lớp người, hạng người khác nhau và tất cả đều là sản phẩm của chính xã hội
nhố nhăng.
Và cũng trong Giông tố đã bộc lộ khá hệ thống sự tha hóa của con người
ở mọi khía cạnh, mọi tầng lớp. Nhân vật, là hình thức khái quát hiện thực cuộc
sống, là hình thức thể hiện quan điểm của nhà văn về con người. Với các tiểu
thuyết của Vũ Trọng Phụng, người đọc không thể quên được thế giới nhân vật
độc đáo của ông, một thế giới đông đúc với đủ các kiểu người, đủ các khuôn
mặt, chen chúc, ồn ào, náo loạn trong bối cảnh xã hội đầy thăng trầm, điên đảo.
Trong nền chung đó, nhiều nhân vật của Vũ Trọng Phụng đã bước ra ngoài trang
sách, bất tử với thời gian: Nghị Hách, Xuân tóc đỏ, bà Phó Đoan, cụ cố Hồng
Với tính chất là công cụ, nhân vật bao giờ cũng là chìa khóa để mở vào
thế giới hiện thực, khám phá những bí ẩn của đời sống con người. Sự ra đời của
chủ nghĩa hiện thực đã tạo ra một bước ngoặt mới trong việc khám phá con người
và thế giới nội tâm của con người. Phản ánh hiện thực trong hình thái của bản thân
đời sống, chủ nghĩa hiện thực luôn gắn với con người, hoàn cảnh, môi trường, tính
cách nhân vật bị quy định bởi hoàn cảnh, biến đổi theo hoàn cảnh. Và từ đó, văn
học hiện thực chủ nghĩa không thể không đề cập đến vấn đề con người tha hóa như
20
một quy luật nghiệt ngã trong xã hội cũ (tha hóa ở đây hiểu theo nghĩa rộng: tình
trạng con người bị bóp nghẹt bởi hoàn cảnh xã hội thối nát, con người không thể
sống như mình mong muốn, đánh mất chất người của mình).
Nhiều người đã nói đến khả năng tổng hợp, khái quát hiếm có của ngòi bút
Vũ Trọng Phụng. quả thật so với nhiều cây bút tiểu thuyết đương thời, Vũ Trọng
Phụng quả có biệt tài quan sát, bao quát hiện thực trên bình diện rộng. Thế giới
nhân vật trong các tiểu thuyết hiện thực của ông thật phong phú và đa dạng.
Trong Giông tố, Vũ Trọng Phụng đã “quản lí” được vài ba chục nhân vật, chưa kể
những đám đông không tên tuổi bao gồm đủ mọi giai cấp, mọi tầng lớp xã hội. Số
đỏ cũng không thua kém bao nhiêu. Đồng thời qua ngòi bút tài tình của mình, Vũ
Trọng Phụng đã lột tả được sự tha hóa của những con người trong tất cả các hệ
thống từ trên chí dưới đặc biệt ở trong hai tác phẩm Giông tố và Số đỏ.
Còn với Số đỏ bằng ngòi bút trào phúng độc đáo, Số đỏ lên án gay gắt cái
xã hội tư sản thành thị Việt Nam đang chạy theo lối sống văn minh rởm hết sức
lố lăng đồi bại đương thời. Tác giả đã đả kích cay độc các phong trào “Âu hóa”,
“thể thao”, “giải phóng nữ quyền” đang phát triển rầm rộ khi ấy. Đối với phong
trào “Âu hóa”, “Vui vẻ trẻ trung” mà nhóm Ngày nay đề xướng ra và thực dân
Pháp nâng đỡ, Vũ Trọng Phụng là kẻ thù số một, “Số đỏ” là tác phẩm vạch rõ
cái thực chất thối nát, giả dối, kệch cỡm của phong trào ấy. Người ta thấy hiện
lên những “vĩ nhân” tham gia vào việc “cải cách xã hội”như “me xừ” Xuân tóc
đỏ, Văn Minh, TYPN, ông Phán mọc sừng, những người đàn bà “trinh tiết” như
cô Hoàng Hôn, Tuyết, bà Phó Đoan, những bộ y phục như Ngây thơ, Chinh
phục, Ỡ ờ, Hãy chờ một chút…; nhân danh “văn minh”, “tiến bộ”, “cải cách xã
hội” mà thực chất chỉ là ăn chơi trụy lạc, làm tiền, chà đạp trắng trợn lên mọi nề
nếp đạo đức truyền thống. Ngòi bút của Vũ Trọng Phụng cũng không quên đề
cập tới “phong trào thơ mới” lãng mạn, khuynh hướng nghệ thuật “hũ nút”, tới
những tổ chức do thực dân đỡ đầu như Hội Chấn hưng Phật giáo, Hội Khai trí
tiến đức, tới cả bộ máy chính quyền thực dân, từ bọn cảnh sát đến Phủ Toàn
quyền; thậm chí, các quan Toàn quyền, Thống sứ, vua ta, vua Xiêm cũng bị đưa
lên sân khấu trò hề Số đỏ. Do đó, Số đỏ tuy chỉ tập trung phê phán xã hội tư sản
về phương diện đạo đức, sinh hoạt - đây là một hạn chế - song tác phẩm vẫn có
màu sắc chính trị thời sự và có tính chất chiến đấu rõ rệt. Số đỏ đã đưa ra hàng
loạt chân dung biếm họa rất mực sinh động về gần đủ loại nhân vật tiêu biểu cho
cái xã hội tư sản nhố nhăng đó: từ mụ me Tây đĩ thõa dơ dáng đến cô gái mới
lãng mạn hư hỏng một cách có lí luận; từ ông chủ hiệu may làm “cách mệnh
trong vòng pháp luật” bằng những mốt y phục phụ nữ tối tân đến nhà mĩ thuật
hăng hái cổ động Âu hóa; từ cụ cố Hồng hiếu danh hủ lậu và đần độn đến ông