Tải bản đầy đủ (.pdf) (68 trang)

Khóa luận tốt nghiệp văn học: Tín hiệu thẩm mĩ trăng trong thơ Hàn Mặc Tử.

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (860.04 KB, 68 trang )


1
MỞ ĐẦU
1. Lí do chọn đề tài
Ngôn ngữ là yếu tố thứ nhất của văn học, như màu sắc đối với hội họa,
âm thanh đối với âm nhạc, hình khối đối với kiến trúc. Nói cho cùng, văn học là
nghệ thuật của ngôn ngữ và những nhà văn lớn đều là những nhà có tài sử dụng
ngôn ngữ điêu luyện. Trong sự sáng tạo của nhà văn, sự sáng tạo về ngôn ngữ
đóng vai trò quan trọng khiến tín hiệu ngôn ngữ trở thành tín hiệu thẩm mĩ
(THTM). THTM trong văn học là một lãnh địa mới mẻ và trừu tượng để khám
phá, nghiên cứu nó không hề đơn giản nhưng chính vì thế nó vô cùng lôi cuốn,
hấp dẫn người nghiên cứu. Mỗi phát hiện dù là nhỏ nhất trong lĩnh vực này đều
có khả năng tạo ra nhiều khoái cảm thẩm mĩ mới lạ.
Việc tìm hiểu thơ Hàn Mặc Tử là một quá trình lâu dài. Hàn Mặc Tử được
coi là một hồn thơ dị thường nhất của thơ ca Việt Nam hiện đại. Cả cuộc đời ông
đã tạo nên như một huyền thoại và trải qua nó với tất cả trái tim, cả niềm đam
mê trong sáng tạo. Với tâm hồn siêu thoát, luôn khát vọng vươn tới sự huyền bí,
vô thường, thế giới thơ ca của Hàn Mặc Tử luôn ám ảnh bởi trăng, hồn, máu.
Đặc biệt hơn cả, đó là hình ảnh trăng được xuyên suốt trong cảm hứng thi ca
của ông, tạo ra một hình tượng nghệ thuật đặc sắc và đó chính là một THTM. Có
thể nói, trăng là mô típ chủ đạo trong thơ Hàn Mặc Tử thể hiện thế giới mơ ước,
thế giới lí tưởng ở ông.
Tài năng Hàn Mặc Tử trong lĩnh vực ngôn ngữ là mảnh đất còn hoang sơ,
còn nhiều điều phải khám phá. Ở đây, chúng tôi muốn bàn về trăng trong thơ
Hàn Mặc Tử dưới góc độ là một THTM nhằm góp phần khẳng định một cách
tiếp cận mới các hình tượng văn học từ góc độ lí thuyết về THTM để góp thêm
tiếng nói ca ngợi tài năng xuất chúng của nhà thơ, đồng thời phục vụ cho việc
giảng dạy các tác phẩm văn học trong nhà trường hiện nay, và ở mức độ nhất
định góp phần nâng cao năng lực cảm thụ thẩm mĩ các thi phẩm của Hàn Mặc
Tử nói riêng, các tác phẩm thơ ca nói chung.
Với tất cả lí do trên, chúng tôi quyết định đi tìm hiểu, nghiên cứu về: Tín


hiệu thẩm mĩ trăng trong thơ Hàn Mặc Tử.
2. Lịch sử vấn đề
Nghiên cứu ngôn ngữ trong tác phẩm văn chương có rất nhiều hướng đi,
song những năm gần đây, nhiều vấn đề của văn học đang được soi rọi dưới cái
nhìn của ngôn ngữ học hiện đại; trong đó vấn đề lí thuyết về tín hiệu tỏ ra rất có
ưu thế. Ở nước ta, vấn đề tín hiệu và THTM đã được các tác giả như Hoàng Tuệ,

2
Hoàng Trinh, Đào Thản, Phan Ngọc, Đái Xuân Ninh quan tâm nghiên cứu
nhiều. Nhiều luận án triển khai theo hướng nghiên cứu này cũng đã khẳng định
được ý nghĩa thực tiễn của hướng nghiên cứu văn học từ góc độ ngôn ngữ học;
đồng thời đã có những đóng góp bổ sung quan trọng vào lí thuyết vềTHTM. Có
thể kể đến các luận án của tác giả Trương Thị Nhàn “ Sự biểu đạt bằng ngôn
ngữ của THTM- không gian trong ca dao”, Phạm Thị Kim Anh “Tín hiệu thuộc
trường nghĩa cây trong thơ Việt Nam”, Bùi Thị Hồng “Tìm hiểu vấn đề tín hiệu
thẩm mĩ trong thơ Huy Cận”, Lê Thị Tuyết Hạnh “Một số tín hiệu thẩm mĩ
trong thơ Xuân Quỳnh” Nhiều luận văn và các bài viết khác cũng góp phần
khẳng định thế mạnh của hướng nghiên cứu này.
Các nhà nghiên cứu Hàn Mặc Tử mới tập trung vào tìm hiểu các tác phẩm
của ông từ góc độ văn học. Những công trình nghiên cứu các tác phẩm của nhà
thơ từ góc độ ngôn ngữ học còn chưa nhiều. Riêng việc nghiên cứu thơ Hản
Mặc Tử từ lí thuyết THTM nói chung, đặc biệt THTM trăng trong thơ ông hầu
như cho đến nay vẫn chưa thấy có công trình chuyên khảo nào. Vì vậy, khóa
luận của chúng tôi sẽ đi tìm hiểu và nghiên cứu vấn đề còn khá mới mẻ này.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Mục đích
Dựa trên những cơ sở lí thuyết về THTM, chúng tôi mong muốn tiếp tục
thể nghiệm phương pháp nghiên cứu văn học dưới cái nhìn của tín hiệu học nói
chung, ngôn ngữ học nói riêng, đồng thời đóng góp tiếng nói khẳng định thêm
thành công của thơ Hàn Mặc Tử cũng như dòng thơ ca lãng mạn, qua đó khắc

họa phong cách ngôn ngữ của thí sĩ này.
3.2. Nhiệm vụ
Với khóa luận này, chúng tôi tiến hành theo những bước sau:
Thứ nhất: Tìm hiểu chung về THTM.
Thứ hai: Tiến hành khảo sát thơ ca Hàn Mặc Tử, tìm ra những bài thơ,
câu thơ có sử dụng THTM trăng.
Thứ ba: Phân loại, thống kê THTM trăng theo đặc điểm cấu tạo.
Thứ tư: Phân tích giá trị nghệ thuật của THTM trăng trong việc biểu đạt
nội dung, ý nghĩa, tư tưởng, tình cảm của nhà thơ Hàn Mặc Tử.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng

3
Chúng tôi lấy THTM trăng trong thơ Hàn Mặc Tử làm đối tượng nghiên
cứu chính.
4.2. Phạm vi
Phạm vi khảo sát của khóa luận chúng tôi theo cuốn Hàn Mặc Tử tác
phẩm phê bình và tưởng niệm do GS. Phan Cự Đệ biên soạn đây là bản mà các
sáng tác của nhà thơ được tập hợp một cách tương đối đầy đủ và hệ thống hơn
cả bao gồm:
- Thơ văn xuôi: chơi giữa mùa trăng.
- Lệ thanh thi tập.
- Gái quê.
- Đau thương bao gồm: hương thơm; mật đắng; máu cuồng và hồn điên.
- Xuân như ý.
- Thượng thanh khí.
- Cẩm châu duyên.
- Thơ kịch: Duyên kì ngộ, Quần tiên hội (trích).
- Những bài thơ khác
5. Phương pháp nghiên cứu

Khóa luận nghiên cứu theo các phương pháp cơ bản sau:
5.1. Phương pháp thống kê, phân loại: Phương pháp thống kê phân loại sẽ giúp
người làm khóa luận có kết quả cụ thể, khách quan và đảm bảo độ chính xác cao.
Đây là một phương pháp rất quan trọng và cần thiết cho việc nghiên cứu khóa
luận. Nó không chỉ giúp cho khóa luận được logic, rõ ràng, sâu sắc, mang tính
khoa học và khách quan cao mà nó còn giúp người nghiên cứu có cái nhìn tổng
quát hơn về việc sử dụng THTM trăng trong thơ Hàn Mặc Tử.
5.2. Phương pháp so sánh, đối chiếu: Cùng với quá trình nghiên cứu khóa luận
này chúng tôi sẽ cố gắng so sánh đối chiếu với các công trình nghiên cứu của
các tác giả khác về thơ Hàn Mặc Tử. Phương pháp này là một việc làm cần thiết
để thấy được khía cạnh cạnh nào mà các tác giả đề cập tới về thơ Tử còn tản
mạn, rải rác ở một số công trình chưa thành một hệ thống, từ đó, lấy làm cơ sở,
làm cơ sở khách quan hỗ trợ đắc lực cho việc nghiên cứu.
5.3. Phương pháp phân tích ngữ nghĩa: Phương pháp này sẽ giúp ta giải mã
một cách đầy đủ hơn về những hiện tượng cách tân trong lựa chọn hình ảnh, sử

4
dụng ngôn ngữ, tư duy nghệ thuật độc đáo của tác giả trong việc xây dựng
THTM trăng với những ý nghĩa thẩm mĩ mới lạ.
6. Những đóng góp của khóa luận
Thực hiện khóa luận THTM trăng trong thơ Hàn Mặc Tử, chúng tôi mong
muốn có những đóng góp một phần nhỏ đối với việc phát triển chuyên ngành
Việt ngữ học trong lĩnh vực THTM. Thiết nghĩ, đây cũng là một việc làm quan
trọng giúp chúng ta có cái nhìn thực tế, sâu sắc và toàn diện hơn về phong cách
thơ Hàn Mặc Tử cũng như thấy được sự tài hoa của ông trong việc xây dựng
THTM trăng hết sức tươi lạ và độc đáo. Chúng tôi hi vọng rằng kết quả đạt
được của khóa luận này sẽ có những bổ sung đối với bộ môn phong cách học và
giúp ích thiết thực cho việc giảng dạy tác phẩm của tác giả Hàn Mặc Tử trong
nhà trường từ góc độ ngôn ngữ học.
7. Cấu trúc khóa luận

Ngoài phần mở đầu và phần kết luận, khóa luận có cấu trúc gồm ba
chương:
Chương 1: Những vấn đề chung.
Chương 2: Đặc điểm cấu tạo của tín hiệu thẩm mĩ trăng trong thơ Hàn
Mặc Tử.
Chương 3: Ý nghĩa thẩm mĩ của tín hiệu thẩm mĩ trăng trong thơ Hàn
Mặc Tử.
Ngoài ra, khóa luận còn có phần mục lục và danh mục tài liệu tham khảo,
phụ lục.











5
CHƯƠNG 1
NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG
1.1. Cơ sở lí thuyết
1.1.1. Tín hiệu ngôn ngữ
1.1.1.1. Khái niệm tín hiệu ngôn ngữ
Ngôn ngữ là một hệ thống tín hiệu đặc biệt, cũng giống như tín hiệu, ngôn
ngữ gồm có hai mặt: mặt biểu đạt (mặt âm thanh), mặt được biểu đạt (mặt ý
nghĩa). Nhưng hệ thống tín hiệu rất phức tạp, đa dạng bao gồm các yếu tố đồng
loại và không đồng loại, với số lượng không xác định. Ngôn ngữ có rất nhiều

loại đơn vị khác nhau: âm vị khác với hình vị, hình vị khác với từ, từ khác với
câu. Số lượng từ và câu trong một ngôn ngữ là vô số. Vì vậy, hệ thống ngôn ngữ
vừa có đặc điểm giống và khác với loại tín hiệu khác. Tín hiệu ngôn ngữ có
những đặc tính và quan hệ như sau:
1.1.1.2. Đặc tính của tín hiệu ngôn ngữ
a. Mang tính chất võ đoán
Mối quan hệ phổ biến giữa hai mặt của tín hiệu nói chung và tín hiệu
ngôn ngữ nói riêng là mối quan hệ võ đoán, tức là không có lí do. Song, trong
tín hiệu ngôn ngữ có một số trường hợp mức độ võ đoán thấp, nghĩa là có tính lí
do. Theo F. De. Sausure trong Giáo trình ngôn ngữ học đại cương Nxb KHXH,
H, 1973, ông đã nêu ra ba trường hợp có tính lí do:
Thứ nhất: có lí do về âm thanh (từ tượng thanh), tức là hình thức âm thanh
của chúng là do mô phỏng âm thanh tự nhiên: rào rào, róc rách, gâu gâu, tắc
kè, đùng đoàng…
Thứ hai: có lí do về hình thái học (cấu tạo từ), tức là tín hiệu gốc (từ đơn)
thường mang tính võ đoán cao. Còn các từ phái sinh (từ láy, từ ghép) đã có tính
lí do ở mức độ nhất định giữa hình thức âm thanh và nội dung ý nghĩa. Ví dụ,
các từ đơn nhà, máy trong Tiếng Việt có tính võ đoán rất cao, nhưng khi tạo nên
từ ghép nhà máy thì từ này có thể cắt nghĩa được (nhà có máy móc và ở đó có
con người làm việc bằng máy móc).
Thứ ba: : có lí do về nghĩa (chuyển nghĩa), tức là giữa nghĩa chuyển ở từ
đa nghĩa với nghĩa gốc và với âm thanh của từ đã có mối quan hệ có lí do: giống
nhau ở một hay một số nét nghĩa nào đó. Ví dụ, nghĩa từ đơn đầu (nghĩa gốc: bộ
phận trên cùng của người hay bộ phận trước hết ở con vật, có chứa bộ não, điều
khiển cơ thể) so sánh với nghĩa của nó với các tổ hợp: đầu bàn, đầu bút, đầu

6
cành…(phần trước tiên của đồ vật), đầu núi , đầu sông, đầu làng…(phần trước
tiên của không gian), đầu năm , đầu tháng , đầu ngày…(phần trước tiên của thời
gian)… Ta thấy nghĩa của đầu trong các cách dùng sau có tính lí do: đều chỉ

phần dưới trước hết hay trên cùng của một sự vật nào đó.
Như vậy, tính võ đoán của tín hiệu ngôn ngữ không mang mức tuyệt đối.
b. Mang tính chất đa trị
Ở nhiều loại tín hiệu mang tính đơn trị tức là mối hình thức tín hiệu
thường chỉ biểu thị một nội dung. Ví dụ, trong tín hiệu đèn giao thông: màu
xanh chỉ ứng với nghĩa được đi, màu đỏ chỉ biểu đạt nghĩa dừng lại, màu vàng
chỉ nghĩa chuẩn bị. Còn tín hiệu ngôn ngữ có tính đa trị , nghĩa là có thể có các
trường hợp:
- Một tín hiệu ngôn ngữ biểu thị nhiều nội dung khác nhau, như trường
hợp các từ nhiều nghĩa, đồng âm. Chẳng hạn, cùng hình thức âm thanh đánh,
theo Từ điển tiếng Việt có đến 27 nghĩa.
- Nhiều tín hiệu ngôn ngữ biểu thị một nội dung, như trường hợp các từ
đồng nghĩa.
- Nội dung của mỗi tín hiệu ngôn ngữ, ngoài phần hiện thứ khách quan
còn có thể gợi ra những tình cảm, cảm xúc, thái độ, cách đánh giá…đối với các
sự vật, hiện tượng (nghĩa biểu cảm). Ví dụ, xét trong các tín hiệu đồng nghĩa:
chết, từ trần, ngoẻo…, các tín hiệu này cùng chỉ trạng thái (mất khả năng sống,
không còn biểu hiện của sự sống), nhưng giữa chúng có sự khác nhau về phần
tình cảm, cách đánh giá con người.
Các phương tiện đồng âm, đồng nghĩa, nhiều nghĩa cũng như các sắc thái
kèm theo của các tín hiệu ngôn ngữ thường xuất hiện trong các tác phẩm văn
học. Vì vậy, khi tiếp cận các tác phẩm văn chương, chúng ta cần nên chú ý đến
các phương tiện đó.
c. Mang tính hình tuyến
Mặt biểu đạt các ngôn ngữ là âm thanh. Khi sử dụng, các âm thanh ngôn
ngữ diễn ra lần lượt, kế tiếp nhau trong thời gian. Nói cách khác, các tín hiệu
ngôn ngữ có tính hình tuyến rất chặt chẽ. Tính hình tuyến của các tín hiệu ngôn
ngữ thể hiện rõ, khi chúng ta ghi lại bằng chữ viết (dùng tuyến không gian của
tín hiệu văn tự thay cho sự kế tiếp trên tuyến thời gian).
Chính tính hình tuyến của tín hiệu ngôn ngữ dẫn đến một hệ quả: thứ tự

của các tín hiệu cũng đóng vai trò cần yếu trong việc thể hiện nội dung ý nghĩa:

7
thay đổi nghĩa, làm mất nghĩa, thêm nghĩa biểu cảm, nhấn mạnh ý… khi thứ tự
các từ ngữ thay đổi, tuy vẫn là từ ấy. Ví dụ: thuê nhà/ nhà thuê, thịt gà/ gà thịt,
ba tháng/ tháng ba, củi một cành khô lạc mấy dòng/ một cành củi khô lạc mấy
dòng…
Tính hình tuyến của tín hiệu ngôn ngữ là điểm cơ bản giúp ta phân biệt nó
với các tín hiệu khác. Các tín hiệu khác có thể được sắp xếp, phân bố một không
gian đa chiều, thậm chí bất chấp cả trật tự không gian và thời gian, nhưng với
ngôn ngữ thì tất cả đều phải bị giới hạn trong trật tự thời gian. Tính chất này là
nguyên lí cơ bản chi phối hoạt động của ngôn ngữ, giúp cho các cá nhân tham
gia giao tiếp nhận biết được các đoạn âm thanh (ngữ đoạn), phân tích và hiểu
được, đồng thời giúp cho các nhà nghiên cứu nhận diện, phát hiện được các đơn
vị ngôn ngữ, các quy tắc cấu tạo từ, đặt câu, dựng đoạn và tạo lập văn bản…Nhờ
tính hình tuyến mà văn chương có thể trần thuật, miêu tả, diễn bất tận, không hề
bị giới hạn về thời gian của các biến cố hay tâm trạng.
1.1.1.3. Các quan hệ của tín hiệu ngôn ngữ
a. Quan hệ cấp độ ( cấp bậc, tôn ti, bao hàm, tầng bậc)
Quan hệ cấp độ thể hiện ở chỗ đơn vị thuộc cấp độ cao hơn bao giờ cũng
bao hàm đơn vị thuộc cấp độ thấp hơn. Ngược lại, đơn vị thuộc cấp độ thấp hơn
bao giờ cũng nằm trong đơn vị thuộc cấp độ cao hơn. Tức là, câu bao hàm từ, từ
bao hàm hình vị, hình vị bao hàm âm vị và ngược lại.
Ví dụ: hình “s” trong tiếng Anh gồm 1 âm vị, từ bàn, vở, bút mỗi từ gồm
1 hình vị, câu cháy! gồm một từ, văn bản cháy nhà ra mặt chuột gồm một câu.
Như vậy, quan hệ cấp độ là quan hệ giữa các đơn vị không đồng loại,
khác nhau về cấp độ, tức là khác nhau về phẩm chất, về chức năng mà chúng
đảm nhận trong hệ thống ngôn ngữ.
b. Quan hệ đồng nhất và đối lập
Giữa các yếu tố có quan hệ đồng nhất khi chúng có một cái gì đó chung

(có thể chung về hình thức, có thể chung về nội dung). Tất cả các yếu tố có cái
gì đó chung tức là chúng có quan hệ đồng nhất với nhau.
Ví dụ1: các từ chạy, bò, đi, trườn, xô, đẩy, ném, lao ,quăng, phóng… đều
giống nhau về nét nghĩa : hoạt động dời chỗ.
Giữa các yếu tố có quan hệ đối lập khi chúng đã có quan hệ đồng nhất
nhưng lại có gì khác nhau, trái ngược nhau (có thể trái ngược về hình thức, trái
ngược về nội dung) tức là các quan hệ đó có quan hệ đối lập nhau.

8
Ví dụ 2: ở ví dụ 1 thể hiện sự trái ngược nhau, khác nhau ở những từ hiển
thị cùng nét nghĩa hoạt động dời chỗ: trườn, bò, chạy, đi chỉ hoạt động tự dời chỗ
của chủ thể; xô, đẩy, ném, lao quăng, bắn chỉ hoạt động làm cho dời chỗ; chạy, đi
là dời chỗ bằng tư thế thẳng đứng; bò, trườn dời chỗ bằng tư thế nằm ngang.
Như vậy quan hệ đồng nhất và đối lập có quan hệ quy định lẫn nhau. Trên
cơ sở sự đồng nhất mà chúng ta tìm ra cái đối lập. Từ đối lập lấy đó làm đồng
nhất tìm ra cái đối lập.
c. Quan hệ ngang - dọc
Quan hệ ngang là quan hệ giữa các yếu tố trong dòng âm thanh. Khi nói
đến quan hệ ngang là nói đến giá trị phân biệt các yếu tố khi chiếm giữ các vị trí
khác nhau trên quan hệ ngang. Quan hệ này không phải là quan hệ bất kì, không
phải là sự sắp xếp bất kì. Quan hệ ngang là những quan hệ có thể phân biệt được
các yếu tố với nhau.
Ví dụ 1: Trong Tiếng Việt, âm tiết |tam| do 3 âm tố tạo thành. Ba âm tố
này đi với nhau thành quan hệ ngang |t| ở vị trí 1, |a| ở vị trí 2, |m| ở vị trí 3. Như
vậy, 1,2, 3 là những vị trí trên quan hệ ngang và chúng ta có thể phân biệt các
âm tố thành từng loại khác nhau như : không có dạng âm tiết |atm| hoặc |mat|
hay |mta|. Như vậy, không phải tất cả các âm tố của tiếng việt đều có thể giữ bất
kì vị trí nào trong âm tiết.
Quan hệ dọc là quan hệ giữa các yếu tố có thể thay thế cho nhau ở một vị
trí trên quan hệ ngang. Tức là, quan hệ xâu chuỗi một yếu tố xuất hiện với

những yếu tố đứng sau nó có thể thay thế cho nó hay nói cách khác, là cùng một
vị trí trong chuỗi lới nói có thể thay bằng cả một loạt các yếu tố đồng loại.
Ví dụ 2: trong câu Đứa bé ném quả bóng có thể thay thế vị trí từ ném với
các từ có nghĩa giống nhau như: quăng, đá, đẩy.
Đứa bé ném quả bóng
quăng
vứt
đá
1.1.2. Tín hiệu thẩm mĩ
1.1.2.1. Khái niệm THTM
Mỗi loại hình nghệ thuật luôn có một chất liệu riêng để biểu hiện tư
tưởng, cảm xúc thẩm mĩ của tác giả. Các nhà nghiên cứu gọi chung những chất

9
liệu ấy bằng khái niệm: Tín hiệu thẩm mĩ. Như vậy, khái niệm này có thể được
hiểu theo hai cách:
Thứ nhất (nghĩa rộng): THTM là chất liệu để xây dựng nên hình tượng
nghệ thuật của tất cả các ngành nghệ thuật nói chung. Chẳng hạn, tín hiệu của
hội họa là đường nét, màu sắc, bố cục; của âm nhạc là âm thanh, tiết tấu; của
điện ảnh là hình ảnh; của sân khấu là hành động và của văn học là ngôn từ.
Thứ hai (nghĩa hẹp): THTM là chất liệu của văn học. THTM lấy tín hiệu
ngôn ngữ tự nhiên làm chất liệu nhưng đi vào từng tác phẩm chúng được tổ chức
lại để phục vụ cho một mục đích thẩm mĩ nhất định. Như Đỗ Việt Hùng cho
rằng THTM trong ngôn ngữ văn học là: “ kiểu tín hiệu đặc biệt, được tổ chức lại
từ tín hiệu thẩm mĩ nguyên cấp (sự vật, hình ảnh, hoạt động ) và tín hiệu ngôn
ngữ…” [9. tr.73].
THTM (theo nghĩa hẹp), từ khi ra đời cho đến nay vẫn chưa có một định
nghĩa trọn vẹn, thống nhất. Điểm chung trong quan niệm của các nhà nghiên cứu
là việc thừa nhận THTM là yếu tồ thuộc hệ thống phương tiện biểu hiện của
nghệ thuật. Đó là những phương tiện nghệ thuật được tập trung theo một hệ

thống tác động thẩm mĩ, được chúng ta tiếp nhận như là những tín hiệu đặc biệt,
có khả năng kích thích mạnh mẽ thế giời tinh thần của chúng ta. Trong nhận
định này, khái niệm THTM được dùng với nghĩa “ tín hiệu ngôn từ tthực hiện
chức năng thẩm mĩ trong văn chương”.
Trên cơ sở tiếp thu những người đi trước, chúng tôi chọn khái niệm
THTM của Đỗ Việt Hùng và Nguyễn Thị Ngân Hoa như sau “Tín hiệu thẩm mĩ
là những tín hiệu được sử dụng để thực hiện chức năng thẩm mĩ: xây dựng hình
tượng trong tác phẩm nghệ thuật” [9. tr. 270].
THTM được xây dựng trên cơ sở tín hiệu ngôn ngữ tự nhiên, lấy ngôn
ngữ tự nhiên làm chất liệu biểu hiện. Do đó, nếu coi ngôn ngữ tự nhiên là hệ
thống tín hiệu nguyên cấp (hệ thống tín hiệu thứ nhất) thì tín hiệu ngôn ngữ
nghệ thuật là hệ thống tín hiệu thứ cấp (hệ thống tín hiệu thứ hai). Cái biểu đạt
của THTM bao gồm cả hình thức ngữ âm và ý nghĩa sự vật – lôgic của ngôn ngữ
tự nhiên. Cái được biểu đạt là lớp ý nghĩa hình tượng. Như vậy, THTM là một
tín hiệu phức hợp. Tuy nhiên, mối quan hệ giữa cái biểu đạt và cái được biểu đạt
của THTM không phải là mối quan hệ võ đoán mà mang tính có lí do. Có thể
miêu tả bản chất tín hiệu học của THTM như sau:


10
Tín hiệu thẩm mĩ
Cái biểu đạt
Cái được biểu đạt
Tín hiệu ngôn ngữ
Ý nghĩa thẩm mĩ
Âm thanh
Ý nghĩa sự vật- lôgic
Như vậy, giá trị của một THTM chủ yếu được quy định bởi những mối
quan hệ bên ngoài ngôn ngữ. Sự thực hiện chức năng của THTM là sự thống
nhất của mối quan hệ ngữ đoạn, quan hệ tuyến tính trong văn bản ngôn từ và các

nhân tố này. Tuy nhiên, khác với ngôn ngữ tự nhiên, các mối quan hệ này là
quan hệ mang tính hàm ẩn, không biểu hiện một cách trực tiếp tường minh.
1.1.2.2. Phương thức cấu tạo của THTM trong văn bản nghệ thuật
THTM hình thành từ hai cơ sở: Ý nghĩa và giá trị thực thể của các thực
thể văn hóa và ý nghĩa bản thể trong hệ thống ngôn ngữ tự nhiên. Sự tổ chức lại
các tín hiệu tự nhiên thành các THTM để nâng cấp hoạt động nhận thức và biểu
hiện thế giới tinh thần của con người là một bước tiến quan trọng nhất trong tư
duy con người, biểu hiện sự kết hợp giữa duy lí tính và tư duy biểu tượng: “Con
người không chỉ phản ứng một cách trực tiếp và thô sơ trong phạm vi những
nhu cầu thực dụng, trái lại, những mối liên hệ đầy ý nghĩa của các sự vật, đối
tượng luôn bao bọc the giới của con người. Nói cách khác, phản ứng của con
người, trong một chừng mực nhất định, phụ thuộc vào ý nghĩa biểu trưng của sự
vật, hơn nữa con người còn khác xa với loài vật ở chỗ không chỉ nhận biết ý
nghĩa mối liên hệ của các sự vật riêng biệt mà luôn cố gắng sáng tạo, phủ định,
điều chỉnh lại sự diễn đạt bằng biểu tượng” [9. tr. 63].
Như vậy, các THTM trong văn học nghệ thuật có thể có nguồn gốc từ tự
nhiên – xã hội (các loại cây cối, động vật, các hiện tượng, vật thể tự nhiên hay
nhân tạo) hoặc là những chi tiết, sự kiện, điển tích - điển cố hay những sản phẩm
tinh thần thuộc đời sống văn hóa của từng dân tộc hay nhân loại. Từ những
nguồn ấy, THTM được cấu tạo chủ yếu theo hai phương thức sau:
a. Ẩn dụ: Là phương thức chuyển nghĩa của đối tượng này thay cho đốt tượng
khác khi hai đối tượng có một nét nghĩa tương đồng nào đó thông qua tín hiệu
ngôn ngữ với THTM.
Ví dụ: Hoa sao hoa khéo đọa đầy bấy hoa.
( Truyện Kiều- Nguyễn Du)

11
Hình ảnh hoa cũng chính là hình ảnh mang ý nghĩa tượng trưng cho thân
phận người con gái (đẹp, nhanh tàn, mỏng manh). Từ đó, tác giả dùng hình ảnh
hoa (đối tượng trong hiện thực) làm THTM.

Với phương thức ẩn dụ, để xây dựng THTM, các tác giả cần trải qua một
quá trình với nhiều công đoạn:
- Quan sát, nhận thức, cảm nhận, phát hiện, ra đối tượng hàm chứa sự
tương đồng với ý nghĩa thẩm mĩ định thể hiện
- Lựa chọn và sử dụng từ ngữ (tín hiệu ngôn ngữ) gọi tên đối tượng trong
hiện thực.
- Chuyển hóa tín hiệu ngôn ngữ thành THTM: giữ nguyên cái biểu đạt,
nhưng chuyển cái được biểu đạt của tín hiệu ngôn ngữ thành cái được biểu đạt
của THTM.
b. Hoán dụ: Là phương thức chuyển nghĩa (lấy tên gọi của đối tượng này gọi
cho đối tượng khác) dựa trên mối quan hệ tương cận, tức là thường xuyên đi
đôi, gần gũi với nhau. Chẳng hạn, miệng, chân, tay … vốn là từ chỉ bộ phận cơ
thể người có thể dùng để chỉ người: Nhà có năm miệng ăn; Anh ta có chân trong
ban quản trị công ty; Anh ta là một tay cừ khôi về bóng bàn…
Ví dụ: Sống trong cát, chết vùi trong cát
Những trái tim như ngọc sáng ngời.
(Mẹ Tơm- Tố Hữu)
Tim là một tín hiệu thẩm mĩ được xây dựng theo phương thức hoán dụ để
chỉ những người mẹ như mẹ Tơm giàu tình thương yêu các chiến sĩ cách mạng,
giàu lòng yêu nước.
Tóm lại, hai phương thức ẩn dụ và hoán dụ là hai phương thức chủ yếu để
xây dựng THTM từ các tín hiệu thẩm ngôn ngữ. Nhưng để có được giá trị và
hiệu quả thẩm mĩ cao thì bên cạnh việc thực hiện hai phương thức trên còn phải
phối hợp với một số biện pháp nghệ thuật khác như: các biện pháp về ngữ âm, từ
vựng, ngữ pháp.
1.1.2.3. Chức năng của THTM
a. Chức năng biểu hiện
Những kết quả nghiên cứu văn học từ góc độ tín hiệu học như: R.
Jaokovson, R. Barthes, Y. Lotman… có thể cung cấp cho chúng ta một cái nhìn
đầy đủ hơn về cái gọi là chức năng phản ánh của tín hiệu. Trong tác phẩm nghệ


12
thuật, sự phản ánh bản chất của đối tượng luôn đi liền với vai trò xây dựng hình
tượng nghệ thuật. Vì vậy, khái niệm chức năng biểu hiện bộc lộ rõ hơn mối quan
hệ mật thiết giữa ; tác giả - tín hiệu – hình tượng nghệ thuật.
Trong phạm vi tác phẩm văn học, chức năng biểu hiện đối tượng và xây
dựng hình tượng của THTM luôn phải là một sự tương tác của các kiểu quan hệ,
các cấu trúc. Do đó, THTM luôn được tổ chức theo các cấp độ mà cơ sở là từ
ngữ rồi đến các quan hệ cú đoạn và văn bản. Bên cạnh đó, đối tượng mà tác
phẩm văn học biểu hiện không phải là một đối tượng mang tính khách quan mà
luôn là một đối tượng đã được chủ quan hóa, tinh thần hóa ở các mức độ khác
nhau. Cho nên, cái cốt yếu mà ngôn ngữ nghệ thuật biểu hiện không phải là đặc
điểm, thuộc tính, trạng thái của đời sống mà là toàn bộ thế giới cảm xúc và tri
nhận về đời sống ấy, đặc điểm ấy của một chủ thể nhất định.
b. Chức năng tác động
L. X. Vư gôt xki đã chỉ ra cơ chế của quá trình tác động từ các tín hiệu
ngôn ngữ đến độc giả: “Sẽ đúng hơn nếu nói rằng khi cảm thụ nghệ thuật hình
tượng cũng như nghệ thuật trữ tình, quá trình tâm lí được diễn ra theo công
thức: từ cảm xúc do hình thức đến một cái gì tiếp sau đó. Vô luân trong trường
hợp nào, cảm xúc do hình thức vẫn là điểm mở đầu và xuất phát mà nếu thiếu
nó thì hoàn toàn không tiến hành được việc tìm hiểu nghệ thuật” [9. tr. 108].
Đây là một luận điểm quan trọng trong tâm lí học nghệ thuật và hoàn toàn xác
đáng khi dùng nó về quá trình tác động của các THTM đến người đọc: hình thức
là nhân tố đầu tiên tác động đến cảm xúc thẩm mĩ của độc giả.
Quá trình tác động của ngôn ngữ nghệ thuật là sự tổng hòa và thẩm thấu
tất cả các phạm vi của đời sống tinh thần. Quá trình tác động thẩm mĩ chính là
sự kích thích những năng lực tưởng tượng và cảm xúc một cách có định hướng
rõ rệt nhằm cung cấp cho con người một khả năng tự ý thức, tự soi chiếu cái bản
thể của mình.
1.1.2.4. Những đặc trưng tiêu biểu của THTM

a. Tính truyền thống và tính cách tân
Tính tuyền thống và tính cách tân của THTM liên quan đến vấn đề cái
mới của nó. Theo G.s. Đỗ Hữu Châu : “truyền thống và cách tân là hai phương
diện biện chứng của THTM”. [4. tr. 559].
Tính truyền thống hay chính là tính dân tộc. Tính dân tộc trước hết được
thể hiện ở chất liệu đậm đà bản sắc dân tộc của nó, đó chính là ngôn ngữ dân

13
tộc. Văn chương được sáng tác bằng ngôn ngữ dân tộc, bằng các tín hiệu của
ngôn ngữ dân tộc, do đó mang tính dân tộc.
Ví dụ: Truyện Kiều của đại thi hào Nguyễn Du đã dùng chất liệu ngôn ngữ
dân tộc là chữ Nôm để sáng tác, dùng thể loại thơ lục bát cũng của dân tộc và dùng
rất nhiều THTM của dân tộc việt nam để đưa vào trong tác phẩm.
Ngoài ra, THTM mang tính dân tộc còn thể hiện trên bình diện ngữ nghĩa
của các THTM. Nguồn gốc của các THTM là các sự vật, sự việc, hiện tượng,
trạng thái tâm lí của con người. Những đối tượng đó chính là thuộc về môi
trường tự nhiên hay xã hội của một cộng đồng dân tộc, gắn bó mật thiết với
cộng đồng dân tộc.
Ví dụ: Đêm thu buồn lắm chị Hằng ơi!
Trần thế em nay chán nửa rồi,
Cung quế đã ai ngồi đó chửa?
Cành đa xin chị nhắc lên chơi.
Có bầu, có bạn, can chi tủi,
Cùng gió cùng mây, thế mới vui.
Rồi cứ mỗi năm rằm tháng tám,
Tựa nhau trông xuống thế gian, cười.
(Muốn làm thằng Cuội – Tản Đà)
Các THTM cá thể rõ rệt, thể hiện cá tính và phong cách nghệ thuật của
Tản Đà: hồn thơ ngông. Nhưng các tín hiệu đó mang bản sắc dân tộc sâu sắc, rõ
nét. Ngay từ ngữ, lối nói thể hiện hồn dân tộc ( chị, em; đã… chửa…; có bầu có

bạn;…). Quan trọng nhất là các THTM đó còn gắn liền với hàng loạt quan niệm,
phong tục, nếp nghĩ của người Việt Nam như: quan niệm mặt trăng có cây đa
thằng cuội, hoặc có cây quế, gọi mặt trăng là chị Hằng, coi ngày rằm tháng tám
là ngày Tết Trung thu… Tất cả đều nhuốm màu sắc văn hóa dân tộc.
Tính dân tộc trong THTM còn có trong các cách nhìn, nếp cảm, sự tri
nhận mang bản sắc của một cộng đồng dân tộc.
Ví dụ: THTM trong Sự tích trầu cau của truyện cổ tích Việt Nam có chất
liệu từ các sự vật như: trầu, cau, tục lệ ăn trầu của người Việt. Nhưng các tín
hiệu đó còn được xây dựng dựa trên cơ sở một tình cảm hết sức cao đẹp và đáng
trân trọng của con người Việt Nam đó là: quan hệ, tình cảm anh em gắn bó,keo
sơn; vợ chồng thủy chung, son sắt. Vì thế, ý nghĩa thẩm mĩ cao quý của các tín

14
hiệu thẩm mĩ trầu cau đó là tình cảm, quan hệ, ứng xử trong các mối quan hệ gia
đình và cả cộng đồng.
Như vậy, các THTM đều biểu hiện rõ đặc trưng văn hóa dân tộc mang
tính truyền thống dân tộc sâu sắc.
Còn tính cách tân chính là tính cả thể, cái sáng tạo riêng của từng tác giả.
Tín hiệu mang tính cá thể tức là tín hiệu thẩm mĩ do cá nhân sáng tạo ra,
mang nét riêng của người sáng tạo, thể hiện cái mới, cái không lặp lại.
Với sự sáng tạo cá nhân của tác giả, nhiều THTM rất độc đáo, do đó có
sức hấp dẫn và giá trị nghệ thuật cao.
Ví dụ: Màu thời gian không xanh
Màu thời gian tím ngát
Hương thời gian không nồng
Hương thời gian thanh thanh
( Màu thời gian – Đoàn Phú Tứ)
Tín hiệu thời gian là khái niệm trừu tượng, nhưng bằng sáng tạo cá nhân tác
giả đã đưa tín hiệu đó thành cái cụ thể. Nhà thơ sử dụng biện pháp ẩn dụ chuyển
đổi cảm giác, biến thời gian thành cái hữu hình, có màu sắc, có mùi hương, có thể

cảm nhận bằng thị giác, vị giác. Vì thế, Đoàn Phú Tứ xây dựng thành công một tín
hiệu thẩm mĩ độc đáo, có sức truyền cảm mạnh mẽ, khó quên.
Có những THTM được nhiều tác giả sử dụng từ cùng một nguồn gốc hiện
thực, từ cùng một tín hiệu ngôn ngữ, nhưng chúng vẫn là THTM khác nhau,
mang nét riêng, và có giá trị nghệ thuật riêng.
Ví dụ: cùng là tín hiệu tre nhưng ở bài thơ Tre Việt Nam của Nguyễn Duy
và bài kí Cây tre Việt Nam của nhà văn Nguyễn Tuân lại mang nét riêng cả về
mặt cái biểu hiện và cả về cái được biểu hiện.
Trong bài thơ Tre Việt Nam – Nguyễn Duy, THTM tre thể hiện
hình ảnh con người Việt Nam, dân tộc Việt Nam với tất cả những biểu hiện đặc
trưng từ ngàn đời nay như: tính chịu thường, chịu khó ( Rễ siêng không ngại đất
nghèo – Tre bao nhiêu rễ bấy nhiêu cần cù), sự đùm bọc, che chở, tương than
tương ái (Bão bùng than bọc lấy thân – tay ôm tay níu tre gần nhau hơn), về ý
chí bất khuất, kiên cường (Nòi tre đâu chịu mọc cong – chưa lên đã thẳng như
chông lạ thường),….

15
Ở bài kí Cây tre Việt Nam của Nguyễn Tuân thì THTM tre, qua phong
cách riêng của tác giả đã hiện lên một cá thể, một người bạn mà tác giả rất quen
thuộc, thân thiết về tích cách: Anh rất cứng rắn, thẳng thắn, đồng thời lại cũng rất
bền bỉ, dẻo dai. Lúc thẳng thì làm một cái hình ảnh người quân tử, thì làm một cái
mũi tên. Vừa cứng dắn, vừa mềm mại, cái sào tre đực đã thắng được những dòng
nước ngược, lúc chống đẩy những chiếc phà chở hang tấn hang trên nước lũ. Lúc
vòng cong thì thành một cái cạp thuyền. Lúc mềm dẻo làm một sợi dây, thì “lại
mềm buộc chặt”. Anh rất tinh tế nhưng cũng rất giản dị…
(Cây tre việt nam, dẫn theo Tư liệu Ngữ
văn 6, NXB Gíao dục, 2003, tr. 93)
Có khi, những tín hiệu có cùng một cái biểu đạt, do cùng một tác giả tạo
ra những trong những ngữ cảnh khác nhau, vẫn mang những nét riêng, không
lặp lại, để thể hiện những ý nghĩa thẩm mĩ khác nhau.

Ví dụ: Tín hiệu trăng trong Truyện Kiều. khi là “vầng trăng vằng vặc
giữa trời” như một đấng thiêng liêng chứng giám cho mối tình trong sáng giữa
Thúy Kiều và Kim Trọng; khi là “ trăng mới” để chỉ vẻ non tươi, mới mẻ trên
khuôn mặt ( Mày ai trăng mới in ngần). Khi là “trăng tàn” ( Trăng tàn mà lại
hơn mười rằm xưa) ám chỉ những ngày tháng ở cuối chặng đường đời…
Có những trường hợp, tư tưởng thẩm mĩ, thông điệp thẩm mĩ của những
tác giả khác nhau lại có những nét tương đồng, gần gũi nhau. Tuy vậy, mỗi tín
hiệu là một sản phẩm riêng, không thể lẫn lộn và không lặp lại của mỗi tác giả.
Ví dụ: Bài thơ Nhớ rừng của Thế Lữ và bài thơ Ông đồ của Vũ Đình
Liên, ta thấy, cả hai bài thơ đều mang chung về mặt ý nghĩa thẩm mĩ: thể hiện sự
hoài niệm, nuối tiếc một thời quá khứ huy hoàng, vàng son. Nhưng hai bài thơ
đã xây dựng một THTM riêng, độc đáo.
- Trong bài thơ Nhớ rừng , tác giả dùng tín hiệu hiệu thẩm mĩ con
hổ thể hiện quá khứ oanh liệt của chúa sơn lâm, nay bị kìm hãm trong vườn thú.
Bài thơ cấu tứ theo những tâm trạng, những suy nghĩ, lời nói của bản thân con
hổ về qua khứ vàng son của mình.
- Còn bài thơ Ông đồ lại dùng tín hiệu Ông đồ thể hiện một quá khứ
gắn liền với nét sinh hoạt văn hóa truyền thống đó là viết câu đối trong ngày tết
đến, xuân sang nhưng những điều tốt đẹp nay chỉ là dĩ vãng. Bài thơ được cấu tứ
theo lời của người kể chuyện – người được chứng kiến sự việc, hiện tượng.

16
THTM là một sản phẩm do nhà nghệ sĩ sáng tạo ra nó luôn mang tính cá
thể, đặc thù. Đó vừa là yêu cầu, vừa là một ưu thế của THTM so với tín hiệu
ngôn ngữ thông thường.
Như vậy, có cái mới trong cách sử dụng THTM của các tác giả có thể
được thể hiện ở việc xây dựng một THTM hoàn toàn mới, nhưng chủ yếu vẫn là
ở sự cách tân các THTM, ở việc đổi mới các THTM có sẵn trong truyền thống,
mang lại cho chúng những ý nghĩa thẩm mĩ mới. Điều này chỉ có được thông
qua sự sáng tạo của người nghệ sĩ.

b. Tính biểu trưng
Tính biểu trưng là đặc tính của THTM khi xem xét trong mối quan hệ
giữa cái biểu hiện và cái được biểu hiện, đây là mối quan hệ có lí do. Liên quan
đến năng lực biểu trưng hóa các yếu tố, các chi tiết, các sự vật, hiện tượng được
đưa vào làm THTM trong tác phẩm.
Ch. S. Pierce cho rằng: “Biểu trưng có quan hệ với đối tượng của nó chỉ
qua một nghĩa có tính chất ước lệ mà người ta gán cho nó trong một hoàn cảnh
nào đó… nghĩa là do con người trong cộng đồng đặt ra mà thôi” [10. tr.186 ].
Biểu trưng, một mặt có tính hình tượng cụ thể, cái biểu hiện nó là một đối tượng
nào đó được quy chiếu từ hiện thực. Mặt khác, đó là những ý nghĩa xã hội nào đó
đươc cả cộng đồng chấp nhận. Tính chất ước lệ chung cho cái biểu hiện này
chính là tính có lí do trong THTM nói chung. Đặc tính này còn cho thấy lối tư
duy, quan niệm xã hội… gắn với một cộng đồng chấp nhận như vừa được nói tới.
Ví dụ: Hình ảnh con cò trong ca dao Việt Nam thường gắn với thân phận
thấp bé:
Con cò mà đi ăn đêm
Đậu phải cành mềm lộn cổ xuống ao.
Hay gắn với đức tính chịu thương, chịu khó:
Cái cò lặn lội bờ sông
Gánh gạo đưa chồng tiếng khóc nỉ non.
Có khi lại được biểu hiện là thân phận người phụ nữ trong xã hội phong
kiến xưa vất vả, lam lũ một nắng hai sương lo cho chồng con
Cũng có tính biểu trưng mà hiệu lực, giá trị của THTM thuộc vào các tri
nhận, cách giải thích theo một thiên hướng nào đấy, một quy ước nào đấy của cả
cộng đồng mà có khi lại trái ngược với cộng đồng khác.

17
Ví dụ: Đối với cộng đồng Ấn Độ giáo, Phật giáo như Nhật Bản, Việt
Nam, biểu trưng hoa sen được hiểu theo ý nghĩa đạo đức trong trắng, tiết độ,
cứng rắn, một hình ảnh đức hạnh, biểu hiện của người hiền. Nhưng với cộng

đồng từ Địa Trung Hải đến Ấn Độ và Trung Hoa thì hoa sen trước hết là bộ
phận sinh dục, là âm hộ mẫu gốc, bảo đảm cho các cuộc sinh thành và tái sinh
truyền lưu mãi mãi.
1.1.2.5. Hằng thể và các biến thể của THTM trong tác phẩm văn chương
THTM có thể tồn tại ở hai dạng thức: hằng thể và biến thể.
a. Hằng thể: Là dạng điển hình nhất, phổ biến nhất, nhưng cũng là dạng đơn
giản nhất về hình thức. Mỗi hằng thể thường tập hợp xung quanh mình hàng loạt
biến thể để tạo nên hệ thống.
Ví dụ: Hằng thể của THTM mắt, có cái biểu đạt là mắt:
Giàu hai con mắt, khó đôi bàn tay.
(tục ngữ)
Trời sanh con mắt là gương
Người ghét ngó ít, người thương ngó nhiều.
(ca dao)
b. Biến thể: Là dạng biểu hiện tuy khác biệt về hình thức biểu đạt với hằng thể
nhưng cùng chung hoặc có mối liên hệ mật thiết về ý nghĩa với hằng thể. Trong
văn chương, có hai loại biến thể:
- Biến thể từ vựng: Là những từ ngữ khác biệt về hình thức âm thanh với
các hằng thể nhưng cùng biểu hiện một ý nghĩa như hằng thể. Đó có thể là các biến
thể ngữ âm, biến thể địa phương hay những từ ngữ gốc ngoại, hoặc từ ngữ phái
sinh.
Ví dụ: Biến thể từ vựng của tín hiệu mắt: nhãn, mục, cửa sổ tâm hồn,
mắt, mũi…
Anh đây mục hạ vô nhân
Nghe em xuân sắc mười phân não nùng.
(Ca dao)
Mắt mũi để đâu mà xô vào người ta thế.
[16. tr. 619]

18

- Biến thể kết hợp: Là tất cả những từ ngữ cùng một trường nghĩa với
hằng thể và có thể kết hợp theo trục ngang với từ ngữ - hằng thể. Về mặt từ loại,
biến thể kết hợp có thể là danh từ, cụm danh từ, động từ, cụm động từ, tính từ,
cụm tính từ,… Về mặt ý nghĩa, các biến thể kết hợp của một hằng thể tuy cùng
trường nghĩa với hằng thể, nhưng có những ý nghĩa cụ thể đa dạng.
Ví dụ: Đối với THTM mắt, biến thể kết hợp có thể là những từ ngữ biểu
hiện:
Hình dáng của mắt: mắt lá răm, mắt phượng, mắt ốc nhồi, mắt bồ câu,
mắt lươn, mắt dài, mắt ti hí…
Những người con mắt là răm,
Lông mày lá liễu đáng trăm quan tiền.
(Ca dao)
Màu sắc của mắt: mắt xanh, mắt huyền, mắt nâu, mắt đen…
Người khôn con mắt đen sì,
Người dại con mặt nửa chì nửa thau.
(Ca dao)
Cô bé nhà bên – (có ai ngờ)
Cũng vào du kích
Hôm gặp tôi vẫn cười khúc khích
Mắt đen tròn (thương thương quá đi thôi).
(Giang Nam)
Trạng thái của mắt: mắt tinh, mắt lòa, mắt mù, mắt đui…
Thà đui mà giữ đạo nhà
Còn hơn có mắt ông cha không thờ.
(Nguyễn Đình Chiểu)
Hoạt động của mắt: nhìn, trông, liếc, ngó, nhòm…
Thiếp danh đưa đến lầu hồng
Hai bên cùng liếc hai lòng cùng ưa.
(Truyện Kiều)


19
Có thể nói, hằng thể và biến thể của THTM trong tác phẩm văn chương
có mối quan hệ thống nhất và góp phần làm nên chỉnh thể là tác phẩm
1.2. Một vài nét về nhà thơ Hàn Mặc Tử
Hàn Mặc Tử tên thật là Nguyễn Trọng Trí, sinh ở làng Lệ Mỹ, Đồng
Hới, Quảng Bình; lớn lên ở Quy Nhơn, tỉnh Bình Định trong một gia đình theo
đạo Công giáo.
Tổ tiên vốn họ Phạm, gốc ở Thanh Hoá. Ông cố tên là Phạm Chương, do
có liên quan về quốc sự, gia đình bị truy nã nên người con là Phạm Bồi phải trốn
vào Thừa Thiên rồi đổi họ Nguyễn và lập nghiệp tại làng Thanh Tân, huyện
Phong Điền, cách Huế chừng 30 cây số về phía Bắc. Ông Nguyễn Văn Toản,
thân sinh Hàn Mặc Tử là con trưởng của cụ Phạm Bồi. Lúc sinh Hàn Mặc Tử
ông Nguyễn Văn Toản đang làm Chủ sự Sở Thương Chánh Nhật Lệ - Đồng Hới.
Lớn lên, Hàn Mặc Tử theo cụ thân sinh đi nhiều nơi và theo học ở các trường
Tiểu học Sa Kỳ (1920), Quy Nhơn, Bồng Sơn (1921-1923), Sa Kỳ (1924) đến
năm 1926, cụ thân sinh của Hàn Mặc Tử bị bệnh và mất ở Huế, Hàn Mặc Tử
được mẹ cho học tiếp ở trường Pellevin - Huế. Năm 1930, Hàn Mặc Tử mới thôi
học theo mẹ vào Quy Nhơn.
Hàn Mặc Tử có tất cả 6 anh chị em, trong đó người anh cả tên là Nguyễn
Bá Nhân, hiệu Mộng Châu là một nhà thơ Đường luật. Cũng chính nhờ người
anh cả mà đường học vấn của Hàn Mặc Tử không bị dở dang sau khi cha anh
qua đời và cũng chính người anh đã dìu dắt Hàn Mặc Tử bước vào làng thơ.
Năm 15 tuổi đã làm thơ và bắt đầu nổi tiếng trên thi đàn, Hàn Mặc Tử đã
họa lại thơ của Mộng Châu. Lúc họa thơ, ký là Minh Duệ Thị, sau đổi là Phong
Trần, rồi đổi là Lệ Thanh (Lệ là chữ đầu của sinh quán làng Lệ Mỹ - Đồng Hới,
còn Thanh là chữ đầu của chánh quán Thanh Tân - Phong Điền - Huế). Sau đó
lại đổi là Hàn Mạc Tử và cuối cùng mới lấy hiệu là Hàn Mặc Tử.
Từ năm 1934, Hàn Mặc Tử làm báo ở Sài Gòn. Năm 1936, Hàn Mặc Tử cho
xuất bản tập “Gái quê’’ lừng danh và đây cũng chính là lúc anh phát hiện mình bị
bệnh hủi. Một “fan’’ nữ mới 22 tuổi tên là Mai Đình do quá hâm mộ thi sĩ đã bỏ

hết nhà cửa tự nguyện vào Quy Nhơn chăm sóc cho Hàn Mặc Tử. Hàn Mặc Tử
chết ở nhà thương Quy Hoà vào ngày 11-11-1940, khi ấy anh mới 28 tuổi.
Hàn Mặc Tử, một con người có tài văn thơ từ rất sớm. Có những bài thơ
như “Cửa sổ đêm khuya’’ sáng tác lúc mới 17-18 tuổi; điều độc đáo của bài thơ
này là có đến 6 cách đọc (đọc xuôi, đọc ngược, cắt bỏ hai chữ đầu, cắt bỏ hai
chữ cuối). Cụ Phan Bội Châu cũng đã ca ngợi Hàn Mặc Tử và đã có lần họa thơ

20
cùng. Cụ đã viết đại ý rằng: “Từ khi về nước đến nay, được xem nhiều thơ văn
quốc âm song chưa được bài nào hay đến thế. Hồng nam nhạn bắc, ước ao có
ngày gặp gỡ bắt tay cười to một tiếng cho thoả hồn thơ đó’’. Hàn Mặc Tử ra
Huế thăm cụ Phan Bội Châu bị mật thám theo dõi và do thế bị gạch tên trong
danh sách những người đi Pháp học. Rồi những cái tên như Mai Đình, Hoàng
Cúc, Mộng Cầm, Thương Thương, Ngọc đó là những người con gái đi qua đời
Tử có những mốt tình chỉ thoáng qua, có những mối tình sâu đậm nhưng đều
trong vô vọng, đều trong sự tiếc nuối. Vì vậy, họ đã đi vào thơ Hàn Mặc Tử như
một lẽ dĩ nhiên, như một nỗi niềm được gửi gắm thông qua hình ánh trăng với
nhiều cung bậc cảm xúc mới lạ, độc đáo.
Con người Hàn Mặc Tử phải trải qua nhiều khổ đau. Trước hết là nói đến
nỗi khổ chung của dân tộc cũng giống như các nhà thơ mới thời đó vì yêu dân
tộc có tân hồn yêu đất nước ngay từ thuở còn thiếu niên nhưng rơi vào bế tắc vì
vậy nên luôn tìm vào thơ để giãi bày tâm sự. Nhưng điều đáng chú ý là cái đau
khổ của riêng nhà thơ: thi sĩ mắc phải một trong “ tứ chứng nan y”- bệnh hủi.
Bệnh này làm cho người bệnh không sống được trong cuộc sống bình thường.
Là một thanh niên đang độ đắm say cuộc sống, đang độ căng tràn nhiệt huyết,
yêu gia đình, yêu mẹ, tha thiết yêu đương nhưng vì bệnh tật mà Tử phải cách li
xã hội, với gia đình, với cả người yêu.
Ban đầu gia đình giấu Tử trong gác xép trong nhà (20 đường Khải Định),
sau phải đưa đi sống riêng trong một túp lều tranh ở trong động cát ngoài bãi
biển, sau phải đưa thi sĩ vào bệnh viện Quy Nhơn, cuối cùng phải đưa vào nhà

thương Quy Hòa. Ở thời gian này, bệnh Hàn Mặc Tử ngày càng nặng, phát triển
nhanh. Thi sĩ nhận thấy mình sắp chết, thấy được xác thịt đang tan rữa ra từng
ngày nhưng Hàn Mặc Tử vẫn cố sống, một sức sống phi thường:
Không xác thịt, chỉ có linh hồn đang sống.
Thật sự nghiệt ngã cho nhà thơ đang bệnh nặng mà cảnh Quy Hòa đẹp
lắm, những bãi cát dài, những hàng phi lao cao vút…Vì vậy, nhà thơ càng khao
khát muốn ra thế giới bên ngoài nhưng không thể. Và rồi, Hàn Mặc Tử lấy tri kỉ
là trăng, tâm sự với trăng, say trăng, rượt trăng, ngủ với trăng, chơi trên
trăng…Trăng trở thành nỗi ám ảnh, trở thành bạn đồng hành cùng đau khổ với
thi sĩ. Cái đau khổ riêng ấy, vượt qua tất cả cái mức đau khổ của con người, Hàn
Mặc Tử vẫn ra sức phấn đấu để sống, sống mãnh liệt. Càng cảm thấy mình chết
thì thi sĩ càng ra sức để sống nồng cháy, nóng bỏng hơn. Với hồn thơ của mình,
có thể nói Hàn Mặc Tử sống gấp bội lên trong tâm hồn trên cái thể xác đang

21
chết dần chết mòn của thi sĩ. Trong cái cảnh đó – cảnh con người biết mình sắp
chết, sắp trút linh hồn, Tử cố sống bằng thơ:
Một mai kia ở bên khe nước ngọc
Với sao sương anh nằm chết như trăng.
Hàn Mặc Tử đi vào cõi thơ để thể hiện một sức sống phi thường, thể hiện
một ước mơ được sống khi ý thức được rằng mình sắp chết, đang chết.
Hàn Mặc Tử - con người tài hoa nhưng bạc mệnh. Thi nhân ra đi khi còn
quá trẻ và sự nghiệp văn thơ cũng vừa mới bắt đầu. Tuy nhiên, dù chỉ có hơn 10
năm từ khi chập chững bước vào làng thơ cho đến khi rời xa cõi đời, Hàn Mặc
Tử cũng đã kịp cho xuất bản hơn 10 tập thơ với hàng chục bài thơ đặc sắc;
không chỉ có vậy, thi nhân để lại trong lòng hàng triệu người hâm mộ trên khắp
mọi miền tình cảm mến thương và tiếc nuối khôn nguôi.
Tiểu kết
Như vậy, chương một chúng tôi đã đi giới thiệu những có sở lí thuyết về
tín hiệu ngôn ngữ, THTM, và những yếu tố tác động đến THTM trăng trong thơ

Hàn Mặc Tử. Đây chính là cơ sở lí thuyết khoa học là tiền đề, nền móng vững
chắc để ta soi chiếu vào trong các thi phẩm của tác giả nhằm có cái nhìn và
phương pháp khoa học để phân tích và hiểu rõ hơn THTM trăng trong thơ ông.








22
CHƯƠNG 2
ĐẶC ĐIỂM CẤU TẠO TÍN HIỆU THẨM MĨ TRĂNG TRONG THƠ
HÀN MẶC TỬ
2.1. Kết quả khảo sát, phân loại, thống kê
Việc thống kê tín hiệu trăng của chúng tôi dựa vào bản Thơ Hàn Mặc Tử -
phê bình và tưởng niệm do GS. Phan Cự Đệ biên soạn, đây là bản tập hợp đầy
đủ và tương đối hệ thống các sáng tác của Hàn Mặc Tử. Dựa vào kết quả thống
kê này, chúng tôi xem xét quá trình biến thái cũng như những đặc điểm cấu tạo
của tín hiệu trăng qua ngôn ngữ thơ Hàn Mặc Tử. Sau đây là khảo sát những câu
thơ và tiêu đề bài thơ có xuất hiện THTM trăng cũng như các biến thể của nó
trong thơ Hàn Mặc Tử:
2.1.1. THTM trăng xuất hiện trong những câu thơ
STT
THTM trăng
Số lần xuất hiện
Tỉ lệ
(%)
1

Ánh trăng
9
3,33
2
Bán trăng
1
0,37
3
Bọc trăng
1
0,37
4
Bóng hằng
1
0,37
5
Bóng nguyệt
3
1,1
6
Bóng trăng
6
2,22
7
Bông trăng
3
1,1
8
Cao trăng
1

0,37
9
Con trăng
1
0,37
10
Cầm nguyệt
1
0,37
11
Cầm trăng
1
0,37
12
Cung cầm nguyệt
1
0,37

23
13
Cung hằng
1
0,37
14
Cung thiềm
2
0,74
15
Cung Quế
1

0,37
16
Cung trăng
1
0,37
17
Chén nguyệt
1
0,37
18
Chị hằng
1
0,37
19
Chim ngàn trăng
1
0,37
20
Dì nguyệt
1
0,37
21
Đài trăng
1
0,37
22
Đấng Hằng
1
0,37
23

Đêm trăng
3
1,1
24
Đường trăng
2
0,74
25
Đuổi trăng
1
0,37
26
Giọt mật trăng
1
0,37
27
Hằng nga
1
0,37
28
Hằng ngự trị
1
0,37
29
Hoa nguyệt
1
0,37
30
Hòn trăng
1

0,37
31
Hoa trăng
1
0,37
32
Hơi trăng
1
0,37
33
Hương trăng
2
0.74
34
Lá trăng
1
0,37

24
35
Lầu trăng
1
0,37
36
Màu trăng
2
0,74
37
Mảnh trăng
1

0,37
38
Mơ trăng
1
0,37
39
Mua trăng
1
0,37
40
Mùi trăng
1
0,37
41
Một nửa trăng
2
0,74
42
Nàng trăng
3
1,1
43
Niềm trăng
1
0,37
44
Nường hằng
1
0,37
45

Nường nguyệt
1
0,37
46
Nường trăng
1
0,37
47
Ngậm ngùi trăng
1
0,37
48
Nhìn trăng
1
0,37
49
Người trăng
1
0,37
50
Nguyệt
6
2,22
51
Nguyệt bạch
1
0,37
52
Nguyệt cầu
2

0,74
53
Nguyệt gẫm
1
0,37
54
Nguyệt hoa
1
0,37
55
Nguyệt thiềm
1
0,37
56
Quảng Hằng
1
0,37

25
57
Say trăng
1
0,37
58
Sông Hằng
1
0,37
59
Sông trăng
1

0,37
60
Suối trăng
1
0,37
61
Tia yến nguyệt
1
0,37
62
Tơ trăng
7
2,6
63
Tuế nguyệt
1
0,37
64
Trái trăng
1
0,37
65
Trăng
66
24,4
66
Trăng ân tình
1
0,37
67

Trăng bay lả tả
1
0,37
68
Trăng cổ độ
2
0,74
69
Trăng của rạng ngời
1
0,37
70
Trăng chạy
1
0,37
71
Trăng choáng váng
1
0,37
72
Trăng dồn
1
0,37
73
Trăng đầu hạ
1
0,37
74
Trăng đọng
1

0,37
75
Trăng đêm
1
0,37
76
Trăng đúng tuổi
1
0,37
77
Trăng gắm ghé
1
0.37
78
Trăng ghen
1
0,37

×