Tải bản đầy đủ (.pdf) (28 trang)

Tiểu luận tài chính quốc tế: Các tổ chức tài chính WTO, WB, IMF

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (428.99 KB, 28 trang )

TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ TP.HCM
KHOA ĐÀO TẠO SAU ĐẠI HỌC



Tiểu luận môn TÀI CHÍNH QUỐC TẾ



ĐỀ TÀI: CÁC TỔ CHỨC TÀI CHÍNH –
WTO, WB, IMF


Giảng viên hướng dẫn : TS Nguyễn Thị Liên Hoa
Lớp : Cao học K16 Đêm 2- Ngân hàng
Nhóm thực hiện : Nhóm6
Thành viên của nhóm:

1. Cao Như Hồng
2. Lê Thị Kim Loan
3. Đỗ Thị Kim Luyến
4. Trương Thị Ngọc Mai
5. Nguyễn Thị Thanh Nga
6. Nguyễn Thị Công Uyên



TP. Hồ Chí Minh 03/2008








MỤC LỤC

A. TỔ CHỨC THƯƠNG MẠI THẾ GIỚI-WTO 3
I. Nguồn gốc và mục ti êu họat động 3
II. Chức năng: 4
1. Đàm phán: 4
2. Giải quyết tranh chấp: 5
III. Cơ cấu tổ chức: 5
3.1 Cấp cao nhất: Hội nghị Bộ trưởng 5
3.2 Cấp thứ hai: Đại Hội đồng 5
3.3 Cấp thứ ba: Các Hội đồng Thương mại 6
3.4 Cấp thứ tư: Các Ủy ban và Cơ quan 6
IV. Các nguyên tắc: 7
V. Các hiệp định: 7
VI. Thành viên 8
VII: Thế giới chào đón Việt Nam gia nhập WTO 11
B. NGÂN HÀNG THẾ GIỚI (WORLD BANK) 13
I. Giới thiệu: 13
II. Chức năng của WB: 13
III. Vị thế của Việt nam tại WB 15
IV. Vai trò của WB đối với sự phát triển kinh tế của Việt Nam và xu hướng OD A của
WB cho Việt Nam. 18
V. Các Tổ chức thành viên của WB tại Việt Nam 19
VI. WB nhận định những thách thức của kinh tế Việt Nam 21
C. QUỸ TIỀN TỆ QUỐC TẾ IMF 23
I. Giới thiệu chung về Quỹ Tiền Tệ Quốc Tế (IMF) 23

II. Cơ cấu tổ chức: 24
III.Các thể thức cho vay của IMF: 25
IV.Quan hệ giữa IMF và Việt Nam: 26














A. TỔ CHỨC THƯƠNG MẠI THẾ GIỚI-WTO
I. Nguồn gốc và mục tiêu họat động
1. Nguồn gốc:
Hội nghị Bretton Woods vào năm 1944 đã đề xuất thành lập Tổ chức Thương mại Quốc
tế (ITO) nhằm thiết lập các quy tắc và luật lệ cho thương mại giữa các nước. Hiến chương ITO
được nhất trí tại Hội nghị của Liên Hiệp Quốc về Thương mại và Việc làm tại Havana tháng 3
năm 1948. Tuy nhiên, Thượng nghị viện Hoa Kỳ đã không phê chuẩn hiến chương này. M ột số
nhà sử học cho rằng sự thất bại đó bắt nguồn từ việc giới doanh nghiệp Hoa Kỳ lo ngại rằng Tổ
chức Thương mại Quốc tế có thể được sử dụng để kiểm soát chứ không phải đem lại tự do hoạt
động cho các doanh nghiệp lớn của Hoa Kỳ (Lisa Wilkins, 1997).
ITO chết yểu, nhưng hiệp định mà ITO định dựa vào đó để điều chỉnh thương mại quốc tế
vẫn tồn tại. Đó là Hiệp định chung về Thuế quan và Thương mại (GATT). GATT đóng vai trò là
khung pháp lý chủ yếu của hệ thống thương mại đa phương trong suốt gần 50 năm sau đó. Các

nước tham gia GATT đã tiến hành 8 vòng đàm phán, ký kết thêm nhiều thỏa ước thương mại
mới. Vòng đàm phán thứ tám, Vòng đàm phán Uruguay, kết thúc vào năm 1994 với sự thành lập
Tổ chức Thương mại Thế giới (WTO) thay thế cho GATT. Các nguyên tắc và các hiệp định của
GATT được WTO kế thừa, quản lý, và mở rộng. Không giống như GATT chỉ có tính chất của
một hiệp ước, WTO là một tổ chức, có cơ cấu tổ chức hoạt động cụ thể. WTO chính thức được
thành lập vào ngày 1 tháng 1 năm 1995.
2. Mục tiêu hoạt động:
WTO với tư cách là một tổ chức thương mại của tất cả các nước trên thế giới, thực hiện
những mục tiêu đã được nêu trong Lời nói đầu của Hiệp định GATT 1947 là nâng cao mức sống
của nhân dân các thành viên, đảm bảo việc làm thúc đẩy tăng trưởng kinh tế và thương mại, sử
dụng có hiệu quả nhất các nguồn lực của thế giới. Cụ thể:
WTO có 3 mục tiêu sau:
- Thúc đẩy tăng trưởng thương mại hàng hoá và dịch vụ trên thế giới phục vụ cho sự phát
triển ổn định, bền vững và bảo vệ môi trường.
- Thúc đẩy sự phát triển các thể chế thị trường, giải quyết các bất đồng và tranh chấp
thương mại giữa các nước thành viên trong khuôn khổ của hệ thống thương mại đa phương, phù
hợp với các nguyên tắc cơ bản của Công pháp quốc tế; bảo đảm cho các nước đang phát triển và
đặc biệt là các nước kém phát triển nhất được thụ hưởng những lợi ích thực sự từ sự tăng trưởng
của thương mại quốc tế, phù hợp với nhu cầu phát triển kinh tế của các nước này và khuyến
khích các nước này ngày càng hội nhập sâu rộng hơn vào nền kinh tế thế giới.
- Nâng cao mức sống, tạo công ăn, việc làm cho người dân các nước thành viên, bảo đảm
các quyền và tiêu chuẩn lao động tối thiểu được tôn trọng.
II. Chức năng:
WTO có các chức năng sau:

Quản lý việc thực hiện các hiệp định của WTO

Diễn đàn đàm phán về thương mại

Giải quyết các tranh chấp về thương mại


Giám sát các chính sách thương mại của các quốc gia

Trợ giúp kỹ thuật và huấn luyện cho các nước đang phát triển

Hợp tác với các tổ chức quốc tế khác
1. Đàm phán:
Phần lớn các quyết định của WTO đều dựa trên cơ sở đàm phán và đồng thuận. M ỗi
thành viên của WTO có một phiếu bầu có giá trị ngang nhau. Nguyên tắc đồng thuận có ưu điểm
là nó khuyến khích nỗ lực tìm ra một quyết định khả dĩ nhất được tất cả các thành viên chấp
nhận. Nhược điểm của nó là tiêu tốn nhiều thời gian và nguồn lực để có được một quyết định
đồng thuận. Đồng thời, nó dẫn đến xu hướng sử dụng những cách diễn đạt chung chung trong
hiệp định đối với những vấn đề có nhiều tranh cãi, khiến cho việc diễn giải các hiệp định gặp
nhiều khó khăn.
Trên thực tế, đàm phán của WTO diễn ra không phải qua sự nhất trí của tất cả các thành
viên, mà qua một quá trình đàm phán không chính thức giữa những nhóm nước. Những cuộc
đàm phán như vậy thường được gọi là "đàm phán trong phòng xanh" (tiếng Anh: "Green Room"
negotiations), lấy theo màu của phòng làm việc của Tổng giám đốc WTO tại Genève, Thụy Sỹ.
Chúng còn được gọi là "Hội nghị Bộ trưởng thu hẹp" (Mini-Ministerials) khi chúng diễn ra ở các
nước khác. Quá trình này thường bị nhiều nước đang phát triển chỉ trích vì họ hoàn toàn phải
đứng ngoài các cuộc đàm phán như vậy.
Richard Steinberg (2002) lập luận rằng mặc dù mô hình đồng thuận của WTO đem lại vị
thế đàm phán ban đầu dựa trên nền tảng luật lệ, các vòng đàm phán thương mại kết thúc thông
qua vị thế đàm phán dựa trên nền tảng sức mạnh có lợi cho Liên minh châu Âu và Hoa Kỳ, và có
thể không đem đến sự cải thiện Pareto. Thất bại nổi tiếng nhất và cũng gần đây nhất trong việc
đạt được một sự đồng thuận là tại các Hội nghị Bộ trưởng diễn ra ở Seattle (1999) và Cancún
(2003) do một số nước đang phát triển không chấp thuận các đề xuất được đưa ra.
WTO bắt đầu tiến hành vòng đàm phán hiện tại, Vòng đàm phán Doha, tại Hội nghị Bộ
trưởng lần thứ 4 diễn ra tại Doha, Qatar vào tháng 11 năm 2001. Các cuộc đàm phán diễn ra
căng thẳng và chưa đạt được sự nhất trí, mặc dù đàm phán vẫn đang tiếp diễn qua suốt Hội nghị

Bộ trưởng lần thứ 5 tại Cancún, Mexico vào năm 2003 và Hội nghị Bộ trưởng lần thứ 6 tại Hồng
Kông từ ngày 13 tháng 12 đến ngày 18 tháng 12 năm 2005.
2. Giải quyết tranh chấp:
Ngoài việc là diễn đàn đàm phán các quy định thương mại, WTO còn hoạt động như một
trọng tài giải quyết các tranh chấp giữa các nước thành viên liên quan đến việc áp dụng quy định
của WTO. Không giống như các tổ chức quốc tế khác, WTO có quyền lực đáng kể trong việc
thực thi các quyết định của mình thông qua việc cho phép áp dụng trừng phạt thương mại đối
với thành viên không tuân thủ theo phán quyết của WTO. Một nước thành viên có thể kiện lên
Cơ quan Giải quyết Tranh chấp của WTO nếu như họ tin rằng một nước thành viên khác đã vi
phạm quy định của WTO.
Hệ thống giải quyết tranh chấp của WTO bao gồm hai cấp: sơ thẩm và phúc thẩm. Ở cấp
sơ thẩm, tranh chấp sẽ được giải quyết bởi một Ban Hội thẩm Giải quyết Tranh chấp. Ban hội
thẩm này thông thường gồm 3 đến 5 chuyên gia trong lĩnh vực thương mại liên quan. Ban hội
thẩm sẽ nghe lập luận của của các bên và soạn thảo một báo cáo trình bày những lập luận này,
kèm theo là phán quyết của ban hội thẩm. Trong trường hợp các bên tranh chấp không đồng ý
với nội dung phán quyết của ban hội thẩm thì họ có thể thực hiện thủ tục khiếu nại lên Cơ quan
phúc thẩm. Cơ quan này sẽ xem xét đơn khiếu nại và có phán quyết liên quan trong một bản báo
cáo giải quyết tranh chấp của mình. Phán quyết của các cơ quan giải quyết tranh chấp nêu trên sẽ
được thông qua bởi Hội đồng Giải quyết Tranh chấp. Báo cáo của cơ quan giải quyết tranh chấp
cấp phúc thẩm sẽ có hiệu lực cuối cùng đối với vấn đề tranh chấp nếu không bị Hội đồng Giải
quyết Tranh chấp phủ quyết tuyệt đối (hơn 3/4 các thành viên Hội đồng giải quyết tranh chấp bỏ
phiếu phủ quyết phán quyết liên quan).
Trong trường hợp thành viên vi phạm quy định của WTO không có các biện pháp sửa
chữa theo như quyết định của Hội đồng Giải quyết Tranh chấp, Hội đồng có thể ủy quyền cho
thành viên đi kiện áp dụng các "biện pháp trả đũa" (trừng phạt thương mại). Những biện pháp
như vậy có ý nghĩa rất lớn khi chúng được áp dụng bởi một thành viên có tiềm lực kinh tế mạnh
như Hoa Kỳ hay Liên minh châu Âu. Ngược lại, ý nghĩa của chúng giảm đi nhiều khi thành viên
đi kiện có tiềm lực kinh tế yếu trong khi thành viên vi phạm có tiềm lực kinh tế mạnh hơn,
chẳng hạn như trong tranh chấp mang mã số DS 267 về trợ cấp bông trái phép của Hoa Kỳ.
III. Cơ cấu tổ chức:

Tất cả các thành viên WTO đều có thể tham gia vào các hội đồng, ủy ban của WTO,
ngoại trừ Cơ quan Phúc thẩm, các Ban Hội thẩm Giải quyết Tranh chấp và các ủy ban đặc thù.
3.1 Cấp cao nhất: Hội nghị Bộ trưởng
Cơ quan quyền lực cao nhất của WTO là Hội nghị Bộ trưởng diễn ra ít nhất hai năm một
lần. Hội nghị có sự tham gia của tất cả các thành viên WTO. Các thành viên này có thể là một
nước hoặc một liên minh thuế quan (chẳng hạn như Cộng đồng châu Âu). Hội nghị Bộ trưởng có
thể ra quyết định đối với bất kỳ vấn đề trong các thỏa ước thương mại đa phương của WTO.
3.2 Cấp thứ hai: Đại Hội đồng
Công việc hàng ngày của WTO được đảm nhiệm bởi 3 cơ quan: Đại Hội đồng, Hội đồng
Giải quyết Tranh chấp và Hội đồng Rà soát Chính sách Thương mại. Tuy tên gọi khác nhau,
nhưng thực tế thành phần của 3 cơ quan đều giống nhau, đều bao gồm đại diện (thường là cấp
đại sứ hoặc tương đương) của tất cả các nước thành viên. Điểm khác nhau giữa chúng là chúng
được nhóm họp để thực hiện các chức năng khác nhau của WTO.
1. Đại Hội đồng là cơ quan ra quyết định cao nhất của WTO tại Geneva, được nhóm họp
thường xuyên. Đại Hội đồng bao gồm đại diện (thường là cấp đại sứ hoặc tương đương) của tất
cả các nước thành viên và có thẩm quyền quyết định nhân danh hội nghị bộ trưởng (vốn chỉ
nhóm họp hai năm một lần) đối với tất cả các công việc của WTO.
2. Hội đồng Giải quyết Tranh chấp được nhóm họp để xem xét và phê chuẩn các phán
quyết về giải quyết tranh chấp do Ban Hội thẩm hoặc Cơ quan Phúc thẩm đệ trình. Hội đồng bao
gồm đại diện của tất cả các nước thành viên (cấp đại sứ hoặc tương đương).
3. Hội đồng Rà soát Chính sách Thương mại được nhóm họp để thực hiện việc rà soát
chính sách thương mại của các nước thành viên theo cơ chế rà soát chính sách thương mại. Đối
với những thành viên có tiềm lực kinh tế lớn, việc rà soát diễn ra khoảng hai đến ba năm một
lần. Đối với những thành viên khác, việc rà soát có thể được tiến hành cách quãng hơn.
3.3 Cấp thứ ba: Các Hội đồng Thương mại
Các Hội đồng Thương mại hoạt động dưới quyền của Đại Hội đồng. Có ba Hội đồng
Thương mại là: Hội đồng Thương mại Hàng hóa, Hội đồng Thương mại Dịch vụ và Hội đồng
Các khía cạnh của Quyền Sở hữu Trí tuệ liên quan đến Thương mại. Một hội đồng đảm trách
một lĩnh vực riêng. Cũng tương tự như Đại Hội đồng, các hội đồng bao gồm đại diện của tất cả
các nước thành viên WTO. Bên cạnh ba hội đồng này còn có sáu ủy ban và cơ quan độc lập khác

chịu trách nhiệm báo cáo lên Đại Hội đồng các vấn đề riêng rẽ như thương mại và phát triển,
môi trường, các thỏa thuận thương mại khu vực, và các vấn đề quản lý khác. Đáng chú ý là trong
số này có Nhóm Công tác về việc Gia nhập chịu trách nhiệm làm việc với các nước xin gia nhập
WTO.
1. Hội đồng Thương mại Hàng hóa chịu trách nhiệm đối với các hoạt động thuộc phạm vi
của Hiệp định chung về Thuế quan và Thương mại (GATT), tức là các hoạt động liên quan đến
thương mại quốc tế về hàng hóa.
2. Hội đồng Thương mại Dịch vụ chịu trách nhiệm đối với các hoạt động thuộc phạm vi
của Hiệp định chung về Thương mại Dịch vụ (GATS), tức là các hoạt động liên quan đến
thương mại quốc tế về dịch vụ.
3. Hội đồng Các khía cạnh của Quyền Sở hữu Trí tuệ liên quan đến Thương mại chịu
trách nhiệm đối với các hoạt động thuộc phạm vi của Hiệp định về Các khía cạnh của Quyền Sở
hữu Trí tuệ liên quan đến Thương mại (TRIPS), cũng như việc phối hợp với các tổ chức quốc tế
khác trong lĩnh vực quyền sở hữu trí tuệ.
3.4 Cấp thứ tư: Các Ủy ban và Cơ quan
Dưới các hội đồng trên là các ủy ban và cơ quan phụ trách các lĩnh vực chuyên môn riêng biệt.
1. Dưới Hội đồng Thương mại Hàng hóa là 11 ủy ban, 1 nhóm công tác, và 1 ủy ban đặc
thù.
2. Dưới Hội đồng Thương mại Dịch vụ là 2 ủy ban, 2 nhóm công tác, và 2 ủy ban đặc thù.
3. Dưới Hội đồng Giải quyết Tranh chấp (cấp thứ 2) là Ban Hội thẩm và Cơ quan Phúc
thẩm.
Ngoài ra, do yêu cầu đàm phán của Vòng đàm phán Doha, WTO đã thành lập Ủy ban
Đàm phán Thương mại trực thuộc Đại Hội đồng để thức đẩy và tạo điều kiện thuận lợi cho đàm
phán. Ủy ban này bao gồm nhiều nhóm làm việc liên quan đến các lĩnh vực chuyên môn khác
nhau.
IV. Các nguyên tắc:

Không phân biệt đối xử:
1. Đãi ngộ quốc gia: Không được đối xử với hàng hóa và dịch vụ nước ngoài cũng
như những người kinh doanh các hàng hóa và dịch vụ đó kém hơn mức độ đãi ngộ dành cho các

đối tượng tương tự trong nước.
2. Đãi ngộ tối huệ quốc: Các ưu đãi thương mại của một thành viên dành cho một
thành viên khác cũng phải được áp dụng cho tất cả các thành viên trong WTO.

Tự do mậu dịch hơn nữa: dần dần thông qua đàm phán

Tính Dự đoán thông qua Liên kết và Minh bạch: Các quy định và quy chế thương mại
phải được công bố công khai và thực hiện một cách ổn định.

Ưu đãi hơn cho các nước đang phát triển: Giành những thuận lợi và ưu đãi hơn cho các
thành viên là các quốc gia đang phát triển trong khuôn khổ các chỉ định của WTO.

Thiết lập môi trường cạnh tranh bình đẳng cho thương mại giữa các nước thành viên
V. Các hiệp định:
Các thành viên WTO đã ký kết khoảng 30 hiệp định khác nhau điều chỉnh các vấn đề về
thương mại quốc tế. Tất cả các hiệp định này nằm trong 4 phụ lục của Hiệp định về việc Thành
lập Tổ chức Thương mại Thế giới được ký kết tại Marrakesh, M aroc vào ngày 15 tháng 4 năm
1994. Bốn phụ lục đó bao gồm các hiệp định quy định các quy tắc luật lệ trong thương mại quốc
tế, cơ chế giải quyết tranh chấp, cơ chế rà soát chính sách thương mại của các nước thành viên,
các thỏa thuận tự nguyện của một số thành viên về một số vấn đề không đạt được đồng thuận tại
diễn đàn chung. Các nước muốn trở thành thành viên của WTO phải ký kết và phê chuẩn hầu hết
những hiệp định này, ngoại trừ các thỏa thuận tự nguyện. Sau đây sẽ là một số hiệp định của
WTO:

Hiệp định chung về Thuế quan và Thương mại 1994 (GATT 1994)

Hiệp định chung về Thương mại Dịch vụ (GATS)

Hiệp định về Các khía cạnh liên quan đến Thương mại của Quyền Sở hữu Trí tuệ
(TRIPS)


Hiệp định về các Biện pháp Đầu tư liên quan đến Thương mại (TRIMS)

Hiệp định về Nông nghiệp (AoA)

Hiệp định về Hàng Dệt may (ATC)

Hiệp định về Chống bán Phá giá

Hiệp định về Trợ cấp và các Biện pháp đối kháng

Hiệp định về Tự vệ

Hiệp định về Thủ tục Cấp phép Nhập khẩu

Hiệp định về các Biện pháp Vệ sinh và Kiểm dịch (SPS)

Hiệp định về các Rào cản Kỹ thuật đối với Thương mại (TBT)

Hiệp định về Định giá Hải quan

Hiệp định về Kiểm định Hàng trước khi Vận chuyển

Hiệp định về Xuất xứ Hàng hóa (ROO)

Thỏa thuận về Cơ chế Giải quyết Tranh chấp
VI. Thành viên
Đến ngày 27 tháng 07 năm 2007, WTO có 151 thành viên. Thành viên mới gia nhập là Tonga.

Albania – 8 tháng 9 năm 2000


Angola – 23 tháng 11 năm 1996

Antigua và Barbuda – 1 tháng 1 năm 1995


Argentina – 1 tháng 1 năm 1995

Armenia – 5 tháng 2 năm 2003

Úc – 1 tháng 1 năm 1995

Áo – 1 tháng 1 năm 1995

Bahrain – 1 tháng 1 năm 1995

Bangladesh – 1 tháng 1 năm 1995

Barbados – 1 tháng 1 năm 1995

Bỉ – 1 tháng 1 năm 1995

Kuwait – 1 tháng 1 năm 1995

Kyrgyzstan – 20 tháng 12 năm 1998


Latvia – 10 tháng 2 năm 1999

Lesotho – 31 tháng 5 năm 1995


Liechtenstein – 1 tháng 9 năm 1995


Litva – 31 tháng 5 năm 2001

Luxembourg – 1 tháng 1 năm 1995

Macao – 1 tháng 1 năm 1995

Madagascar – 17 tháng 11 năm 1995

Malawi – 31 tháng 5 năm 1995

Malaysia – 1 tháng 1 năm 1995

Belize – 1 tháng 1 năm 1995

Bénin – 22 tháng 2 năm 1996

Bolivia – 12 tháng 9 năm 1995

Botswana – 31 tháng 5 năm 1995

Brasil – 1 tháng 1 năm 1995

Brunei – 1 tháng 1 năm 1995

Bulgaria – 1 tháng 12 năm 1996


Burkina Faso – 3 tháng 6 năm 1995

Burundi – 23 tháng 7 năm 1995

Kampuchia – 13 tháng 10 năm 2004

Cameroon – 13 tháng 12 năm 1995

Canada – 1 tháng 1 năm 1995

Cộng hoà Trung Phi – 31 tháng 5
năm
1995

Tchad – 19 tháng 10 năm 1996

Chile – 1 tháng 1 năm 1995

Trung Quốc – 11 tháng 12 năm 2001

Colombia – 30 tháng 4 năm 1995

Cộng hoà Congo – 27 tháng 3 năm 1997

Costa Rica – 1 tháng 1 năm 1995

Côte d'Ivoire – 1 tháng 1 năm 1995

Croatia – 30 tháng 11 năm 2000


Cuba – 20 tháng 4 năm 1995

Kypros – 30 tháng 7 năm 1995

Cộng hoà Séc – 1 tháng 1 năm 1995

Cộng hoà Dân chủ Congo – 1 tháng 1

năm 1997

Đan Mạch – 1 tháng 1 năm 1995

Maldives – 31 tháng 5 năm 1995

Mali – 31 tháng 5 năm 1995

Malta – 1 tháng 1 năm 1995

Mauritania – 31 tháng 5 năm 1995

Mauritius – 1 tháng 1 năm 1995

Mexico – 1 tháng 1 năm 1995

Moldova – 26 tháng 7 năm 2001

Mông Cổ – 29 tháng 1 năm 1997

Maroc – 1 tháng 1 năm 1995


Mozambique – 26 tháng 8 năm 1995


Myanma – 1 tháng 1 năm 1995

Namibia – 1 tháng 1 năm 1995

Nepal – 23 tháng 4 năm 2004

Hà Lan (và Antilles thuộc Hà Lan) –

1 tháng 1 năm 1995

New Zealand – 1 tháng 1 năm 1995


Nicaragua – 3 tháng 9 năm 1995

Niger – 13 tháng 12 năm 1996

Nigeria – 1 tháng 1 năm 1995

Na Uy – 1 tháng 1 năm 1995

Oman – 9 tháng 11 năm 2000

Pakistan – 1 tháng 1 năm 1995

Panama – 6 tháng 9 năm 1997


Papua New Guinea – 9 tháng 6
năm
1996

Paraguay – 1 tháng 1 năm 1995

Peru – 1 tháng 1 năm 1995

Philippines – 1 tháng 1 năm 1995

Djibouti – 31 tháng 5 năm 1995

Dominica – 1 tháng 1 năm 1995

Cộng hoà Dominicana – 9 tháng 3
năm
1995

Ecuador – 21 tháng 1 năm 1996

Ai Cập – 30 tháng 6 năm 1995

El Salvador – 7 tháng 5 năm 1995

Estonia – 13 tháng 11 năm 1999

Cộng đồng châu Âu – 1 tháng 1 năm 1995


Fiji – 14 tháng 1 năm 1996


Phần Lan – 1 tháng 1 năm 1995

M acedonia – 4 tháng 4 năm 2003

Pháp – 1 tháng 1 năm 1995

Gabon – 1 tháng 1 năm 1995

Gambia – 23 tháng 10 năm 1996

Gruzia – 14 tháng 6 năm 2000

Đức – 1 tháng 1 năm 1995

Ghana – 1 tháng 1 năm 1995

Hy Lạp – 1 tháng 1 năm 1995

Grenada – 22 tháng 2 năm 1996

Guatemala – 21 tháng 7 năm 1995

Guinée – 25 tháng 10 năm 1995

Guiné-Bissau – 31 tháng 5 năm 1995

Guyana – 1 tháng 1 năm 1995

Haiti – 30 tháng 1 năm 1996


Honduras – 1 tháng 1 năm 1995

Hồng Kông – 1 tháng 1 năm 1995

Hungary – 1 tháng 1 năm 1995

Ba Lan – 1 tháng 7 năm 1995

Bồ Đào Nha – 1 tháng 1 năm 1995

Qatar – 13 tháng 1 năm 1996

Romania – 1 tháng 1 năm 1995

Rwanda – 22 tháng 5 năm 1996

Saint Kitts và Nevis – 21 tháng 2

năm 1996

Saint Lucia – 1 tháng 1 năm 1995

Saint Vincent và Grenadines –
1
tháng 1 năm 1995

Ả Rập Saudi – 11 tháng 12
năm
2005


Sénégal – 1 tháng 1 năm 1995

Sierra Leone – 23 tháng 7 năm 1995


Singapore – 1 tháng 1 năm 1995

Slovakia – 1 tháng 1 năm 1995

Slovenia – 30 tháng 7 năm 1995

Quần đảo Solomon – 26 tháng 7
năm
1996

Cộng hoà Nam Phi – 1 tháng 1
năm
1995

Tây Ban Nha – 1 tháng 1 năm 1995


Sri Lanka – 1 tháng 1 năm 1995

Suriname – 1 tháng 1 năm 1995

Swaziland – 1 tháng 1 năm 1995

Thụy Điển – 1 tháng 1 năm 1995


Thụy Sĩ – 1 tháng 7 năm 1995

Trung Hoa Đài Bắc – 1 tháng 1
năm
2002

Iceland – 1 tháng 1 năm 1995

Ấn Độ – 1 tháng 1 năm 1995

Indonesia – 1 tháng 1 năm 1995

Ireland – 1 tháng 1 năm 1995

Israel – 21 tháng 4 năm 1995

Ý – 1 tháng 1 năm 1995

Jamaica – 9 tháng 3 năm 1995

Nhật Bản – 1 tháng 1 năm 1995

Jordan – 11 tháng 4 năm 2000

Kenya – 1 tháng 1 năm 1995

Hàn Quốc – 1 tháng 1 năm 1995

Việt Nam – 11 tháng 1 năm 2007


Zambia – 1 tháng 1 năm 1995

Zimbabwe – 5 tháng 3 năm 1995

Tonga – 27 tháng 7 năm 2007

Tanzania – 1 tháng 1 năm 1995

Thái Lan – 1 tháng 1 năm 1995

Togo – 31 tháng 5 năm 1995

Trinidad và Tobago – 1 tháng 3
năm
1995

Tunisia – 29 tháng 3 năm 1995

Thổ Nhĩ Kỳ – 26 tháng 3 năm 1995


Uganda – 1 tháng 1 năm 1995

Các Tiểu Vương qu
ốc Ả Rập Thống
nhất – 10 tháng 4 năm 1996

Vương quốc Liên hiệp Anh và B
ắc

Ireland – 1 tháng 1 năm 1995

Hoa Kỳ – 1 tháng 1 năm 1995

Uruguay – 1 tháng 1 năm 1995

Venezuela – 1 tháng 1 năm 1995
VII: Thế giới chào đón Việt Nam gia nhập WTO
“Việt Nam sẽ là một thành viên tin cậy và trách nhiệm của WTO”
Ngày 11/1/2007, Việt Nam chính thức trở thành thành viên thứ 150 của Tổ chức Thương
mại Thế giới (WTO), bắt đầu quá trình thực thi các nghĩa vụ và quyền lợi với tư cách một thành
viên đầy đủ của Tổ chức Thương mại quy mô toàn cầu này. Việc gia nhập WTO là sự kiện có ý
nghĩa quan trọng đối với Việt Nam, là cột mốc đánh dấu sự hội nhập sâu rộng của đất nước
chúng ta vào nền kinh tế toàn cầu. Đồng thời, việc gia nhập WTO cũng thể hiện sự tín nhiệm và
đánh giá cao của cộng đồng quốc tế đối với những thành qủa của công cuộc đổi mới, phát triển
kinh tế - xã hội trong nước và mở cửa, hội nhập với bên ngoài của Việt Nam trong hai thập kỷ
qua.
Đồng thời với việc tiếp tục tiến trình cải cách kinh tế - xã hội trong nước, Việt Nam cũng
bắt đầu tham gia tích cực vào các hoạt động tại WTO và trong khuôn khổ Vòng đàm phán Doha.
Với tư cách một thành viên mới, Việt Nam đã và sẽ nỗ lực đóng góp sức mình cùng các nước đi
đến một thỏa thuận chung với phương châm “tất cả cùng thắng”, trong đó mọi thành viên WTO
đều tìm thấy cho mình các cơ hội để tận dụng nhằm thực hiện mục tiêu tăng trưởng và phát tiển
bền vững.
Nhìn về phía trước, chúng ta tin tưởng mạnh mẽ rằng với nỗ lực của bân thân và sự hỗ
trợ, ủng hộ nhiệt tình của các thành viên WTO, Việt Nam sẽ tiếp tục là một thành viên tin cậy và
trách nhiệm của WTO, đóng góp tích cực vào việc xây dựng một hệ thống thương mại đa
phương công bằng, bình đẳng và cùng có lợi.(Báo Điện tử ĐCSVN)
*** Một số nhận định về việc gia nhập WTO của Việt Nam***
Ông Thomas Tobin - Chủ tịch và CEO HSBC Việt Nam: “Xứng đáng là “con hổ
mới” của châu Á”

Việt Nam đang có được niềm tin tốt nhất từ các nhà đầu tư nước ngoài với triển vọng đầu
tư rất cao. Thời gian qua, chúng ta đã nhìn thấy nhiều thay đổi lớn trong chính sách của Chính
phủ, kết quả của quá trình tự do hóa thị trường ở Việt Nam. Chúng tôi trông đợi năm 2008 và
những năm kế tiếp sẽ là một năm bùng nổ cho ngành tài chính ngân hàng với những cải cách
không ngừng của Chính phủ.
Song song với những triển vọng tốt đẹp đối với Việt Nam nói chung và khu vực ngân
hàng tài chính nói riêng, vẫn còn không ít những thách thức mà một trong số đó là sự khan hiếm
nguồn nhân lực có chuyên môn cao. Cơ sở hạ tầng vẫn còn là một trở ngại không nhỏ khi hệ
thống đường sá, cảng biển, cơ sở vật chất và các dự án xây dựng… đang chịu một áp lực không
nhỏ để theo kịp đà phát triển nhanh chóng cũng như tăng trưởng kinh tế cao trong giai đoạn sắp
tới.
Ông Henry Birr - Phó Chủ tịch Tập đoàn Metro: “Nhấn mạnh vai trò của một quốc
gia thương mại”
Việc gia nhập WTO đã nhấn mạnh vai trò quan trọng của Việt Nam như một quốc gia
thương mại. Trong thời gian qua, Chính phủ Việt Nam đã chứng minh được chính sách kinh tế
vững mạnh và đáng tin cậy. Metro hoàn toàn tin tưởng đường lối này sẽ được tiếp tục và sẽ tạo
nền tảng vững chắc cho đầu tư và cho thành công trong tương lai. (Thương mại)

B. NGÂN HÀNG THẾ GIỚI (WORLD BANK)
I. Giới thiệu:
1. Tổng quan:
World Bank Group, thường được gọi tắt là Ngân hàng Thế giới và được viết tắt là WB là
một tổ chức tài chính đa phương có mục đích trung tâm là thúc đẩy phát triển kinh tế và xã hội ở
các nước đang phát triển bằng cách nâng cao năng suất lao động ở các nước này. Nhóm Ngân
hàng Thế giới bao gồm năm tổ chức tài chính thành viên, đó là Ngân hàng Quốc tế Tái thiết và
Phát triển, Hội Phát triển Quốc tế, Công ty Tài chính Quốc tế, Trung tâm Quốc tế Giải quyết
Mâu thuẫn Đầu tư, và Cơ quan Đảm bảo Đa phương.

Ngân hàng Quốc tế Tái thiết và Phát triển (IBRD: International Bank for Reconstruction
and Development): được chính thức thành lập ngày 27/12/1945 với trách nhiệm chính là cấp tài

chính cho các nước Tây Âu để họ tái thiết kinh tế sau Chiến tranh thế giới II và sau này là cho
phát triển kinh tế ở các nước nghèo. Sau khi các nước này khôi phục được nền kinh tế, IBRD
cấp tài chính cho các nước đang phát triển không nghèo.

Hội Phát triển Quốc tế (IDA: International Development Association): được thành lập
năm 1960 chuyên cấp tài chính cho các nước nghèo.

Công ty Tài chính Quốc tế (IFC: International Financial Corporation): thành lập năm
1956 chuyên thúc đẩy đầu tư tư nhân ở các nước nghèo.

Trung tâm Quốc tế Giải quyết Mâu thuẫn Đầu tư (ICSID: International Centre for
Settlement of Investment Disputes): thành lập năm 1966 như một diễn đàn phân xử hoặc trung
gian hòa giải các mâu thuẫn giữa nhà đầu tư nước ngoài với nước nhận đầu tư.

Cơ quan Bảo lãnh Đầu tư Đa phương (MIGA: Multilateral Investment Guarantee
Agency): thành lập năm 1988 nhằm thúc đẩy FDI vào các nước đang phát triển.
2. Mục tiêu hoạt động của WB
- Tăng trưởng kinh tế và Xóa đói giảm nghèo của quốc gia thành viên
- Hỗ trợ sự phát triển và nâng cao mức sống của người dân tại các quốc gia thành viên.

II. Chức năng của WB:
Chức năng của WB được phân công cho các tổ chức thành viên thực hiện.

1. IBRD và IDA:
IBRD và IDA đi vay (phát hành trái phiếu) và cho các nước thành viên vay lại (hiện WB
có 184 nước thành viên). Không phải nước thành viên nào cũng được vay WB. Cá nhân và công
ty không được WB cho vay. Chính phủ của những nước đang phát triển nhưng có thu nhập quốc
dân trên đầu người trên 1305 USD/năm được vay của IBRD. Các khoản vay này có lãi suất chỉ
cao hơn lãi suất mà WB đã đi vay một chút. Chính phủ của các nước nghèo, có thu nhập quốc
dân trên đầu người dưới 1305 USD/năm (trong thực tế là dưới 805USD/năm) được vay của

IDA. Các khoản vay sẽ không đòi lãi suất và có thời hạn lên tới 35-40 năm.
Trong hai thập kỳ đầu kể từ khi được thành lập, IBRD đã dành hơn 2/3 tổng giá trị các
khoản cho vay của mình cho các dự án phát triển năng lượng và giao thông vận tải.
Trong hai thập niên 1960 và 1970, các dự án phát triển cơ sở hạ tầng vẫn quan trọng nhất,
song hoạt động của IBRD và IDA đã rất đa dạng, từ hỗ trợ giáo dục, y tế, dinh dưỡng, kế hoạch
hóa gia đình, đến hỗ trợ phát triển nông thôn và hỗ trợ doanh nghiệp nhỏ. Các hoạt động của
IBRD và IDA đều trực tiếp liên quan đến giúp đỡ người nghèo và mang hình thức hỗ trợ tài
chính lẫn kỹ thuật.
Từ thập niên 1980, ngoài đầu tư vào vốn vật chất và vốn con người, IBRD và IDA bắt
đầu cho vay để cải cách cơ cấu kinh tế và điều chỉnh chính sách ở các nước đang phát triển.
Phản ứng nhạy bén và chú trọng xóa nghèo là các mục tiêu hiện nay của IBRD và IDA.

2. IFC:
IFC cho các dự án tư nhân ở các nước đang phát triển vay theo giá thị trường nhưng là
vay dài hạn hoặc cấp vốn cho họ. Sự tham gia của IFC như một sự bảo đảm đối với các nhà đầu
tư khác quan tâm tới dự án và khuyến khích họ đầu tư vào dự án. Nhiệm vụ của IFC là thúc đẩy
đầu tư vào khu vực tư nhân tại các nước đang phát triển nhằm xoá đói giảm nghèo và cải thiện
đời sống nhân dân. IFC cấp vốn cho các dự án đầu tư bằng tiền của mình và qua huy động vốn
trên thị trường tài chính quốc tế. IFC cũng cung cấp trợ giúp kỹ thuật và tư vấn cho chính phủ và
doanh nghiệp.

IFC là tổ chức đa phương cung cấp vốn cổ phần và vốn vay lớn nhất cho các doanh
nghiệp tư nhân tại các nước đang phát triển. Nguồn vốn của IFC là dài hạn và theo điều kiện thị
trường.

Vốn điều lệ của IFC do 175 nước thành viên cung cấp, và họ cùng quyết định chính sách
và phê duyệt các khoản đầu tư của IFC.

Trong năm 2001 IFC phê duyệt 240 dự án, cung cấp 3.7 tỷ USD vốn của IFC và 1.6 t ỷ
USD từ các ngân hàng tư nhân qua các chương trình cho vay hợp vốn.


IFC chia sẻ rủi ro dự án cùng với chủ đầu tư và các đối tác tài chính khác nhưng không
tham gia vào việc quản lý dự án.

IFC chỉ cấp vốn cho một phần tổng chi phí dự án. Cứ 1 USD vốn của IFC, các nhà đầu tư
và cho vay khác cung cấp 5 USD.

Điều lệ của IFC yêu cầu công ty hoạt động có lãi và công ty luôn có lãi kể từ khi ra đời.

IFC không chấp nhận bảo lãnh của chính phủ.

IFC có khoảng 2000 nhân viên làm việc tại Washington D.C. và trên 70 văn phòng đại
diện.
Sự tham gia của IFC và các dự án giúp đảm bảo và cân bằng như cầu của các bên trong
một giao dịch: Nhà đầu tư nước ngoài, đối tác trong nước, các tổ chức tín dụng khác và chính
quyền.
3.MIGA:
MIGA cung cấp những bảo đảm trước các rủi ro chính trị (rủi ro phi thương mại) để các
nhà đầu tư nước ngoài yên tâm đầu tư trực tiếp vào các nước đang phát triển.
Cùng vói các liên minh thành lập giữa các năm 1956 và 1988, IBRD là một phần của
nhóm Ngân hàng thế giới. Trụ sở đặt tại Washington, D.C. Nó là một tổ chức quốc tế do các
chính phủ thành viên nắm giữ. Mặc dù nó đem lại lợi nhuận nhưng lợi nhuận của nó được tái sử
dụng để góp phần vào nỗ lực xóa đói giảm nghèo.
Về mặt kỹ thuật mà nói thì WB là một phần của hệ thống Liên Hợp Quốc, nhưng cơ cấu
về nước thành viên thì lại khác, mỗi chi nhánh của Nhóm ngân hàng thế giới nằm dưới sự quản
lý của chính phủ đó được đại diện bởi phần góp vốn và tỷ lệ phiếu bầu tương ứng. Thành viên có
quyền bỏ phiếu như các quốc gia khác nhưng có thể có thêm số phiếu tùy thuộc vào đóng góp
tài chính vào tổ chức
Kết quả là, Ngân hàng thế giới được hoạt động chủ yếu bởi các quốc gia phát triển, trong
khi khách hàng hầu hết là các quốc gia đang phát triển. Một vài ý kiến ghi nhận rằng cơ cấu

chính phủ ấy đã làm lợi phần lớn cho các quốc gia phát triển. Ví dụ vào 1/11/2006 M ỹ giữ
16,4% tổng số phiếu; Nhật:7,9%; Đức:4,5% và Anh, Pháp mỗi bên giữ 4,3%. Và kết quả chỉ
được thông qua khi đạt được 85% trên tổng số phiếu.
Như thế chứng tỏ M ỹ có thể khống chế được hầu hết chính sách hay thay đổi của WB.

III. Vị thế của Việt nam tại WB
1. Vị thế:
- Gia nhập WB: Ngày 18/8/1956, chính quyền Sài gòn Nam Việt Nam gia nhập WB. Ngày
21/9/1976, nước CHXHCN Việt Nam tiếp quản tư cách hội viên tại WB của Chính quyền Sài
gòn cũ.
- Cổ phần của Việt nam tại
+ IBRD là 968 cổ phần. Tổng số phiếu bầu là 1218, chiếm 0,08%
+ IDA là 14.778 cổ phần. Tổng số phiếu bầu là 19.203, chiếm 0,14%
+ IFC là 446 cổ phần. Tổng số phiếu bầu là 696, chiếm 0,03%
+ M IGA là 388 cổ phần. Tổng số phiếu bầu là 565, chiếm 0,29%
2. Các hoạt động của WB tại Việt Nam
2.1. Quan hệ VN - WB giai đoạn 1978-1993
- Năm 1978, WB đã cho Việt Nam vay một khoản tín dụng trị giá 60 triệu USD để thực hiện dự
án Thuỷ lợi Dầu tiếng. Tháng 1/1985, IMF và WB đình chỉ quyền vay vốn của Việt nam do
Việt nam mắc nợ quá hạn.
2.2. Quan hệ VN-WB giai đoạn 93 đến nay
Sau một thời gian bị gián đoạn, đến tháng 10/1993, với nỗ lực to lớn và quyết tâm thực
hiện cải cách của Chính phủ Việt Nam cùng với sự vận động dàn xếp tài chính thiện chí của các
nhà tài trợ thuộc Câu lạc bộ Paris, quan hệ tín dụng giữa WB và Việt Nam đã chính thức được
nối lại.
Văn phòng Đại diện của WB tại Việt Nam: Ngày 14/09/1994, WB chính thức mở Văn
phòng tại Hà nội. Từ năm 1993 đến nay, WB đã bổ nhiệm 03 cán bộ giữ chức vụ Giám đốc Văn
phòng WB tại Việt nam: ông Bradley Babson (1993-1997), ông Andrew Steer (1997-2002) và
hiện này Ajay Chhibber
Trong số các tổ chức cho vay thuộc nhóm WB, hỗ trợ tài chính dưới hình thức cho vay ưu

đãi và hỗ trợ kỹ thuật của IDA cho Việt nam chiếm vai trò chủ đạo trong mối quan hệ giữa Việt
nam với nhóm WB (thời hạn vay 40 năm, phí dịch vụ 0,75%/năm, phí cam kết 0- 0,5%/năm,
không lãi suất, 10 năm ân hạn). Ngoài ra, IFC cũng cho vay các dự án thuộc khu vực tư nhân của
Việt Nam với lãi suất thị trường. M IGA đã ký kết một số hiệp định bảo lãnh cho các dự án đầu
tư vào Việt nam.
2.3. Tài trợ của WB dối với Việt nam
Tính đến tháng 31/12/2003, WB đã cam kết tài trợ 41 dự án và chương trình cho Việt
Nam với tổng số vốn cam kết đạt hơn 4,38 tỷ USD (kể cả dự án Thuỷ lợi Dầu tiếng vay vốn WB
tháng 8/1978 và khoản bảo lãnh dự án điện BOT Phú Mỹ 2-2). Tổng số vốn giải ngân tính đến
tháng 31/12/2003 đạt hơn 2,18 tỷ USD, chiếm khoảng 50% tổng số vốn cam kết. Các dự án mà
WB tài trợ cho Việt Nam tập trung chủ yếu vào các lĩnh vực ưu tiên cao của Nhà nước như:
nông nghiệp, thuỷ lợi, năng lượng, cơ sở hạ tầng đô thị và nông thôn, giao thông, y tế, giáo dục,
tài chính ngân hàng. Các dự án này đã đóng góp tích cực và có hiệu quả vào việc nâng cấp cơ sở
hạ tầng kinh tế, phát triển các dịch vụ xã hội, tăng cường thể chế và phát triển nguồn nhân lực,
quản lý nguồn tài nguyên thiên nhiên và xoá đói giảm nghèo. Hiện nay, Việt nam là nước vay
IDA lớn nhất
Ngoài việc cho vay các dự án và chương trình, WB cũng cung cấp các khoản Hỗ trợ Kỹ
thuật (HTKT) cho Việt Nam, kể cả các khoản HTKT uỷ thác của các nước. Tổng số HTKT của
WB tính đến tháng 31/12/2003 là hơn 135 khoản với trị giá khoảng 322 triệu USD; trong đó bao
gồm 19 khoản đồng tài trợ trị giá 210,6 triệu USD.
2.4. Các hoạt động khác của WB tại Việt nam
Được sự chấp thuận của Thủ tướng Chính phủ, Trung tâm Thông tin Phát triển Việt nam
(VDIC) trực thuộc Văn phòng WB tại Hà nội đã chính thức đi vào hoạt động từ ngày 4/1/2001.
Mục tiêu của Trung tâm này là mở rộng quan hệ hợp tác, tăng cường chất lượng hoạt động, nâng
cao hiệu quả hỗ trợ của Nhóm WB cho Việt nam cũng như tăng cường sự hợp tác với các cơ
quan hỗ trợ phát triển đang hoạt động tại Việt nam. Trung tâm này hỗ trợ Việt nam tiếp cận tri
thức và thông tin phát triển mới nhất cũng như chia sẻ kinh nghiệm với các nước khác trên thế
giới; đồng thời góp phần giúp cho thế giới bên ngoài hiểu rõ hơn về Việt nam. Trong thời gian
hoạt động vừa qua, Trung tâm đã tổ chức một số khoá học liên quan tới các lĩnh vực ưu tiên
phát triển.

Hiện nay, WB đang dự kiến việc mở thêm một Trung tâm Đào tạo Từ xa tại TP. Hồ Chí
Minh và mở rộng mạng kết nối đào tạo phát triển toàn cầu (GDLN) .

3. Chiến lược hỗ trợ của WB tại Việt Nam
Chiến lược hỗ trợ quốc gia của Ngân hàng Thế giới là “kế hoạch kinh doanh” được trực
tiếp thông tin cũng như hướng dẫn của Chiến lược tăng trưởng và giảm nghèo toàn diện của
Chính phủ Việt Nam (CPRGS), chiến lược này đặt mục tiêu giảm nghèo và tăng trưởng ở trung
tâm của các chiến lược phát triển của Chính phủ.
Chiến lược tăng trưởng và giảm nghèo toàn diện được Thủ tướng chính phủ thông qua
tháng 5 năm 2002, được xây dựng trên cơ sở tham vấn rộng rãi với các bộ, ngành, các nhà tài trợ
và các cộng đồng trong xã hội, đóng vai trò là một kế hoạch hành động cho Chính phủ và thông
qua Chiến lược hỗ trợ quốc gia mới cho Việt Nam, là khuôn khổ cho chương trình hỗ trợ của
Ngân hàng Thế giới cho Việt Nam trong tương lai. Chiến lược tăng trưởng và giảm nghèo toàn
diện đặt ra ba mục tiêu lớn và ba mục tiêu này lại được coi là các nguyên tắc tổ chức chính của
Chiến lược hỗ trợ quốc gia của Ngân hàng Thế giới cho Việt Nam.
Mục tiêu thứ nhất là hỗ trợ Việt Nam chuyển đổi sang nền kinh tế thị trường, sẽ vẫn tiếp
tục là mục tiêu trung tâm của các hoạt động của Ngân hàng Thế giới, với sự chuyển hướng từ
“thiết kế” sang hỗ trợ Chính phủ “thực hiện” chương trình cải cách chính sách.
Các chương trình kế hoạch được thiết kế trong Chiến lược hỗ trợ quốc gia tập trung vào
phát triển ngành tài chính; cải cách các doanh nghiệp nhà nước; hỗ trợ cho khu vực kinh tế tư
nhân đang nổi lên; quản trị doanh nghiệp và sự tham gia của khu vực tư nhân vào cơ sở hạ tầng.
Công ty tài chính quốc tế IFC, Chương trình Phát triển Dự án Mê kông MPDF và Tổ chức bảo
lãnh đầu tư đa phương M IGA sẽ mở rộng chương trình hoạt động để cải thiện môi trường đầu tư
trong nước cũng như nước ngoài.
Chiến lược tăng trưởng và giảm nghèo toàn diện đưa ra một chương trình 6 bước nêu bật
các thách thức trong tương lai để đạt được mục tiêu lớn thứ hai của chiến lược này là củng cố
phát triển công bằng, hội nhập và bền vững. Mục tiêu này được Ngân hàng Thế giới hỗ trợ tích
cực thông qua toàn bộ giai đoạn thực hiện của Chiến lược hỗ trợ quốc gia CAS. Các ưu tiên
chính được đưa ra ở mục tiêu này gồm phối hợp với Chính phủ thu hẹp các khoảng cách phát
triển của các vùng khó khăn và tụt hậu; nâng cao mức sống của các cộng đồng dân tộc thiểu số;

nhận thức rõ công bằng giới và tiến bộ của phụ nữ; người nghèo có thể tiếp cận và trả tiền được
các dịch vụ xã hội cơ bản; giảm nhẹ ảnh hưởng của thiên tai và các chấn động khác; và củng cố
phát triển môi trường bền vũng. Những vấn đề này được nhấn mạnh trong toàn bộ chương trình
hỗ trợ của Ngân hàng Thế giới.
Nằm trong khuôn khổ mục tiêu lớn thứ ba thúc đẩy quản trị tốt, Ngân hàng Thế giới sẽ
tập trung hỗ trợ giúp Chính phủ cải thiện quản lý tài chính công, thông tin và tính minh bạch và
cũng củng cố phát triển luật pháp. Các hỗ trợ kỹ thuật chủ yếu sẽ được cung cấp cho từng lĩnh
vực và các dự án sẽ được xây dựng là Quản lý tài chính công, Chính phủ điện tử và có thể cả
phát triển luật pháp. Chiến lược hỗ trợ quốc gia cũng nêu rõ quan hệ đối tác là chìa khoá để đạt
được tiến bộ trong lĩnh vực quản trị. Nhóm Ngân hàng Thế giới sẽ tiếp tục cố gắng hỗ trợ Việt
Nam giải quyết nạn tham nhũng, trực tiếp qua chương trình hỗ trợ của Ngân hàng và thông qua
việc hỗ trợ Chính phủ giải quyết vấn đề này một cách có hệ thống.
Để hỗ trợ ba mục tiêu chính yếu này, Chiến lược hỗ trợ quốc gia đưa ra một chương trình
hỗ trợ theo kế hoạch trong ba năm tới bao gồm các hoạt động nghiên cứu và tư vấn, dự án hỗ trợ
thông qua chương trình cho vay của Ngân hàng Thế giới và các hoạt động hỗ trợ của Công ty tài
chính quốc tế IFC, Chương trình Phát triển Dự án Mê kông M PDF và Tổ chức bảo lãnh đầu tư
đa phương MIGA để hỗ trợ khu vực tư nhân và đầu tư, và một loạt các tín dụng giảm nghèo
hàng năm (PRSCs) hỗ trợ giai đoạn chuyển đổi của Việt Nam, quan hệ đối tác và điều phối
chương trình ODA.
Trong từng lĩnh vực mà Ngân hàng Thế giới đặt kế hoạch hỗ trợ đều đã được Chính phủ
và các nhà tài trợ nhất trí nhằm đảm bảo việc sử dụng vốn ODA được hiệu quả cao nhất. Chiến
lược hỗ trợ quốc gia đưa ra các chương trình cho vay dự kiến từ 300 đến 760 triệu đô la M ỹ mỗi
năm, trực tiếp hỗ trợ các mục tiêu giảm nghèo của Việt Nam được đặt ra trong Chiến lược tăng
trưởng và giảm nghèo toàn diện (CPRGS), tập trung cho bốn ngành chính: phát triển nông thôn;
phát triển đô thị; cơ sở hạ tầng và phát triển con người.

4. Đánh giá chung
Về quan hệ VN - WB: Kể từ khi nối lại quan hệ với tín dụng với Việt Nam đến nay, WB
đã có những đóng góp và hỗ trợ tích cực vào công cuộc đổi mới và cải cách kinh tế, đặc biệt là
công cuộc xoá đói giảm nghèo ở Việt nam. Quan hệ giữa Việt Nam và WB ngày càng được củng

cố và phát triển. Điều này được thể hiện thông qua các chuyến thăm và làm việc chính thức tại
Việt Nam của Chủ tịch WB - Ngài James D. Wolfensohn năm 1996 và 2000 và các chuyến thăm
của các Tổng Giám đốc, các Phó Chủ tịch. Phía WB đã đánh giá cao những kết quả đạt được và
nỗ lực to lớn của Chính phủ Việt Nam trong công cuộc cải cách kinh tế, xoá đói giảm nghèo và
thực hiện công bằng xã hội
Quan hệ với IFC: Kể từ năm 1993, IFC đã thông qua 30 dự án với tổng số vốn đầu tư là
605 triệu USD dưới hình thức tài trợ trực tiếp và hợp vốn, hỗ trợ cho các dự án có tổng số vốn
đầu tư khoảng 1,6 tỷ USD. Hoạt động của IFC chủ yếu đầu tư vào khu vực ngoài quốc doanh
của nền kinh tế như sản xuất xi măng, thép, khách sạn, may mặc, chế biến nông sản Ngoài ra,
IFC còn thành lập Chương trình Phát triển Dự án Mê kông (MPDF). Trong thời gian vừa qua,
MPDF đã hỗ trợ tiếp cận tài chính cho 72 dự án của các doanh nghiệp vừa và nhỏ (SM E) trị giá
50 triệu USD và thực hiện 15 khoản HTKT. M PDF đã tích cực giúp đánh giá môi trường kinh
doanh cho các doanh nghiệp tư nhân ở Việt nam, trong lĩnh vực đào tạo cho các ngân hàng và
các nhà quản lý trong nước, và xây dựng năng lực cho tư vấn trong nước
Quan hệ với MIGA: với mục tiêu hoạt động của mình, MIGA đã phát hành 7 Hiệp định
bảo lãnh ở Việt nam với tổng trị giá 451 triệu USD trong lĩnh vực xây dựng khách sạn, chế biến
xuất khẩu cà phê, xây dựng nhà máy sản xuất kính và dự án điện BOT Phú Mỹ 3.

IV. Vai trò của WB đối với sự phát triển kinh tế của Việt Nam và xu hướng ODA của WB
cho Việt Nam.
Kể từ khi nối lại quan hệ tín dụng với WB vào 10/1993, WB cung cấp 3 loại dịch vụ chủ
yếu là: (1) thiết kế và tài trợ cho các dự án phát triển; (2) hỗ trợ kỹ thuật (TA), tư vấn về chính
sách và các báo cáo phân tích; và (3) điều phối viện trợ
(1) Tài trợ của WB cho Việt nam thường tập trung vào các dự án trong các lĩnh vực phát
triển cơ sở hạ tầng, phát triển thể chế và nguồn nhân lực nay hướng trọng tâm vào xoá đói
giảm nghèo, các khoản vay chương trình điều chỉnh cơ cấu kinh tế và các khoản vay chương
trình theo ngành trong thời gian tới. Điều này cho thấy Việt nam đã dần dần nâng cao năng lực
tiếp nhận và sử dụng nguồn vốn ODA trong thời gian qua
Chương trình Tín dụng Điều chỉnh Cơ cấu (SAC I) và Chương trình Tín dụng Hỗ trợ
Giảm nghèo (PRSC) I và II tập trung vào 5 lĩnh vực cải cách trọng tâm của nền kinh tế bao gồm

: (i) cải cách ngân hàng; (ii) cải cách khu vực doanh nghiệp nhà nước; (iii) cải cách chi tiêu
công; (iv) tự do hoá thương mại; và (v) phát triển khu vực tư nhân. Ngoài ra, chương trình PRSC
II còn được mở rộng sang một số lĩnh vực khác như giáo dục, y tế, bảo vệ môi trường. Việt nam
sẽ chuẩn bị tiếp nhận các PRSC trong những năm tiếp theo.
(2) HTKT và tư vấn về chính sách và các báo cáo phân tích
Các HTKT của WB tập trung vào các lĩnh vực như: hỗ trợ chuẩn bị các dự án do WB tài
trợ tín dụng, phát triển thể chế nhằm xây dựng và nâng cao năng lực quản lý điều hành của một
số ngành và cơ quan liên quan đến dự án, xây dựng và phát triển chính sách nhằm nâng cao
khuôn khổ chính sách, pháp lý cho các dự án hạ tầng cơ sở thuộc ngành điện, vệ sinh môi
trường, cấp thoát nước, tài chính, ngân hàng v.v. và đã phát huy được hiệu quả trong quá trình
thực hiện
Ngoài ra, hàng năm WB còn cử các đoàn vào Việt nam phối hợp với các bộ ngành soạn
thảo và phát hành các báo cáo kinh tế, báo cáo ngành, xây dựng Chiến lược Hỗ trợ Quốc gia
(CAS) cho Việt Nam
(3) Điều phối viện trợ: hàng năm Hội nghị tư vấn giữa các nhà tài cho Việt nam (CG) -
do WB làm đồng chủ tọa - được tổ chức nhằm vận động các nhà tài trợ cung cấp hỗ trợ tài chính,
kỹ thuật và điều phối viện trợ giữa các nhà tài trợ . Nhờ đó, vốn viện trợ được sử dụng hiệu quả
hơn phục vụ cho công cuộc cải cách kinh tế của Việt Nam. WB đã tái khẳng định cam kết tiếp
tục hỗ trợ Việt nam theo Chiến lược Hỗ trợ Quốc gia (CAS) cho Việt nam trong thời kỳ 2 năm
tới, từ 2004 - 2006.
Tóm lại, các hỗ trợ dưới hình thức cho vay ưu đãi, hỗ trợ kỹ thuật và tư vấn của IDA cho
Việt nam chiếm vai trò chủ đạo trong mối quan hệ giữa Việt nam với nhóm WB. Đặc biệt, bên
cạnh hỗ trợ về tài chính, Chính phủ Việt nam đánh giá cao vai trò tư vấn về chính sách để thực
hiện thành công Chương trình Tín dụng Điều chỉnh Cơ cấu (SAC I) và các Chương trình Tín
dụng Hỗ trợ Giảm nghèo (PRSC ) I và II. Với vai trò đồng chủ tọa Hội nghị CG hàng năm, WB
đã làm tốt vai trò điều phối và kêu gọi tài trợ trực tiếp để hỗ trợ Việt nam phát triển kinh tế, qua
đó tăng uy tín của Việt nam trong cộng đồng tài chính quốc tế, góp phần thu hút đầu tư trực tiếp
nước ngoài vào Việt nam. Điều này thể hiện qua việc đồng tổ chức thành công Hội nghị CG năm
2003 với mức cam kết 2,8 tỷ USD cho Việt nam trong năm 2004.


V. Các Tổ chức thành viên của WB tại Việt Nam
1. IFC tại Việt Nam
Từ năm 1994, cho đến tháng 10 năm 2001, IFC đã cam kết cấp vốn cho 15 dự án tại Việt
Nam.
Đối với các dự án này IFC đã cung cấp 383 triệu USD trong đó 180 triệu USD do bản
thân IFC và 203 triệu USD cho các ngân hàng tham gia.

IFC hỗ trợ sự phát triển của khu vực tư nhân tại Việt Nam qua đầu tư và tư vấn. Ưu tiên
chiến lược của IFC tại Viêt Nam là tiếp tục tập trung vào:

Xây dựng tổ chức và thị trường tài chính trong nước.

Phát triển cơ sở hạ tầng qua tư nhân hoá và đầu tư.

Cải cách Doanh nghiệp nhà nước.

Hỗ trợ các doanh nghiệp vừa và nhỏ (SMEs).

Cải thiện môi trường đầu tư.
Ngoài ra, IFC quản lý Chưong Trình Phát Triển Dự Án Mekong (MPDF), một hoạt động
do nhiều tổ chức tài trợ nhằm đẩy mạnh việc thành lập và phát triển của các SMEs tại Việt Nam,
Lào, Cambodia.
Từ khi thành lập vào năm 1997, MPDF đã cung cấp hỗ trợ cho 80 công ty và thu xếp tài
chính trị giá khoảng 40 triệu USD.
IFC, cùng với Ngân Hàng Thế Giới, hiện đang tích cực đẩy mạnh Diễn Đàn Doanh
Nghiệp. Mục tiêu của diễn đàn nhằm cải thiện môi trường kinh doanh tại Việt Nam và tổ chức 2
lần một năm hội nghị giữa các nhà hoạch định chính sách, đại diện doanh nghiệp và các nhà tài
trợ.
Các Dự án IFC tại Việt Nam
Tài Chính: vào năm tài chính 1997 IFC giúp thành lập Công ty Cho Thuê Quốc Tế Việt Nam

(Vietnam International Leasing Company Limited (VILC), công ty thuê tài chính đầu tiên tại
Việt Nam).
VILC đóng vai trò là quan trọng trong, cung cấp nguồn tài chính trung hạn cho các SM Es
tại Việt Nam. Từ khi thành lập, VILC đã cung cấp 35 triệu USD vốn thuê mua tài chính cho gần
250 công ty. Nguồn vốn của công ty đã tạo điều kiện cho các doanh nghiệp trong nước mua sắm
nhiều tài sản cố định bao gồm máy móc, thiết bị văn phòng và cho nhà máy.
VILC phát triển từ chương trình hỗ trợ của IFC vào năm 1991: IFC tư vấn cho chính phủ
Việt Nam về thuê mua và xây dựng khuôn khổ pháp lý phù hợp cho việc cấp phép, quản lý và
thực hiện hoạt động cho thuê tài chính.
Doanh nghiệp vừa và nhỏ: IFC cung cấp khoản vay trị giá 300,000 USD cho công ty Vinh Phat
(Vinh Phat), một cơ sở sản xuất và xuất khẩu sản phẩm may mặc trong nước. Khoản đầu tư này
tạo điều kiện cho Vĩnh Phát mở rộng sản xuất và trang thiết bị và mua dây chuyền thiết bị mới.
Dự án giúp công ty tăng kim ngạch xuất khẩu và tạo công ăn việc làm.
Giáo dục: Vào năm tài chính 2001 IFC phê duyệt khoản vay trị giá 7.25 triệu USD để thành lập
Trường Đại Học Tổng Hợp RMIT (RM IT). Đóng tại Thành Phố Hồ Chính Minh, RMIT là
trường đại học nước ngoài đầu tiên tại Việt Nam. Do thiếu trường đại học và trung cấp, chỉ có 1
trong 6 sinh viên có thể vào học tại các trường đại học tại Việt Nam.
Dự án sẽ tạo điều kiện hàng nghìn học sinh có thể có được giáo dục đại học hiện đại chất
lượng cao mà không phải đi ra nước ngoài. Trường đại học sẽ cung cấp các chương trình đào tạo
có bằng, dạy ngoại ngữ và đào tạo chuyên môn xây dựng theo nhu cầu thị trường.


2. Tổ chức bảo lãnh đầu tư đa phương (MIGA) tại Việt Nam
Tổ chức bảo lãnh đầu tư đa phương (M IGA) hỗ trợ Việt Nam trong các lĩnh vực có sự
tham gia và có vai trò lớn của khu vực tư nhân trong ngành điện và các lĩnh vực truyền
tải, và hỗ trợ phát triển cho khả năng thúc đẩy đầu tư.
Tổ chức bảo lãnh đầu tư đa phương (MIGA) cũng đã tiến hành nghiên cứu tổng quan
về các kinh nghiệm tốt nhất của thúc đẩy đầu tư cho Chính phủ. Tổ chức cũng thiết kế và tiến
hành các chương trình hỗ trợ kỹ thuật cho thúc đẩy đầu tư của Việt Nam, bao gồm cả xây dựng
và cho ra đời trang thông tin để thúc đẩy đầu tư nước ngoài tại Việt Nam.

Tổ chức bảo lãnh đầu tư đa phương (MIGA) hiện đang tìm kiếm khả năng hợp tác với
khối ASEAN để hỗ trợ cho các chương trình xây dựng năng lực thúc đẩy đầu tư được chỉnh sửa
cho các nước thành viên mới nhất của ASEAN( trong đó có Việt Nam) nhằm làm giảm bớt
khoảng cách phát triển giữa những nước này và các thành viên khác của ASEAN.
Tính đến ngày 28 tháng 02 năm 2003, tổng hỗ trợ của M IGA cho Việt Nam là 10 triệu đô
la M ỹ. Số tiền này bao gồm cả một dự án viễn thông được bảo lãnh vào năm 2001. MIGA hiện
cũng đang xem xét hỗ trợ cho một dự án năng lượng ( lên đến khoảng 100 triệu đô la M ỹ).
Chương trình Việt Nam - MIGA, năm tài chính 1999-2002
1999 2000 2001 2002 ước tính

Công cụ đầu tư (%)
Khoản cho vay 0 100 100 30
Góp vốn 14
Những khoản đóng góp t
ương đương
với vốn
56
Các công cụ khác
Tổng cộng 0 100 100 100

Các tín dụng bảo lãnh MIGA (US$m) 36.00 36.00 20.00 20.00
3. Chương trình Phát triển Dự án Mê Kông (MPDF)
Chương trình Phát triển Dự án Mê Kông (MPDF) là chương trình
do nhiều bên tài trợ được điều hành bởi Công ty Tài chính Quốc
tế (IFC), bộ phận kinh tế tư nhân thuộc Tập đoàn Ngân hàng Thế
giới.
Các nhà tài trợ khác của MPDF bao gồm: Ngân hàng Phát triển Châu A, Canada,
Australia, IFC, Na Uy, Nhật Bản, Phần Lan, Thuỵ Sỹ, Thuỵ Điển, và Vương quốc Anh. Sứ mện
của MPDF là thúc đẩy sự hình thành và phát triển của các doanh nghiệp tư nhân nhỏ và vừa
(DNNVV) sở tại ở Việt nam, Căm pu chia và Lào.

Với văn phòng tại Hà Nội, Tp. Hồ Chí Minh, Phnôm Pênh, và Viên Chăn, MPDF thưc
hiện ba hoạt động chính sau:
Dịch vụ Hỗ trợ Tư vấn Doanh nghiệp: MPDF cung cấp hỗ trợ tư vấn doanh nghiệp cho các
DNNVV có mong muốn cải tiến hoạc mở rộng hoạt động hiện có, hoặc cần giúp đỡ thiết lập
hoạt động mới. Với mức độ phát triển và nhu cầu của doanh nghiệp thay đổi, MPDF có thể cung
cấp các dịch vụ khác nhau như:
- Đánh giá hoạt động doanh nghiệp: dịch vụ này được tiến hành nhằm xác định vấn đề và
khuyến cáo các biện pháp giải quyết
- Kết nối doanh nghiệp với các nhà tư vấn và các nhà cung cấp dịch vụ doanh nghiệp sở tại
- Phát triển các dự án đầu tư và thu xếp nguồn tài chính
Chương trình Phát triển Doanh nghiệp: M PDF cung cấp trợ giúp để tăng cường năng lực của
các cơ quan sở tại có cung cấp dịch vụ thiết yếu cho doanh nghiệp nhỏ và vừa
- Đào tạo quản lý và học tập linh hoạt
- Trung tâm Đào tạo Ngân hàng
- Phát triển các hiệp hội doanh nghiệp
- Xúc tiến xuất khẩu
Môi trường Hỗ trợ Doanh nghiệp: MPDF hợp tác với các đối tác tiến hành nghiên cứu và đối
thoại về chính sách nhằm cải thiện môi trường kinh doanh cho doanh nghiệp nhỏ và vừa
Các nghiên cứu, điều tra về khu vực tư nhân
- Cinema, hội thảo về các vấn đề phát triển doanh nghiệp nhỏ và vừa
- Đem đến Việt Nam các kinh nghiệm quốc tế

VI. WB nhận định những thách thức của kinh tế Việt Nam
Báo cáo được ông bố ngày 7/12 đã dành một phần khá lớn để nói về những mặt được của
kinh tế Việt Nam trong năm qua như mức tăng GDP, xuất khẩu, vốn đầu tư nước ngoài, đầu tư
trong nước hay thành công trong xoá đói giảm nghèo Tuy nhiên, điều mà nhiều người muốn
biết là những nhận định của WB về các thách thức của nền kinh tế vì chúng có thể giúp chúng ta
có một cái nhìn khách quan hơn, nhằm xác định hướng phát triển cho những năm tới.
Những quan ngại về tỷ lệ lạm phát
Một trong những vấn đề nóng hiện nay là tình hình lạm phát gia tăng. Tính đến tháng 11,

chỉ số giá tiêu dùng (CPI) tăng 10% so với cùng kỳ năm ngoái, tức là đã tăng 9,5% kể từ đầu
năm, vượt xa mục tiêu của Chính phủ giữ tỉ lệ này thấp hơn tỷ lệ tăng trưởng GDP. Nguyên
nhân chính, theo WB, là do chính sách tỷ giá của Việt Nam gắn chặt với đồng USD nên việc
tăng giá một số mặt hàng trao đổi được trên thị trường thế giới đã có ảnh hưởng rất lớn đến một
nền kinh tế mở như Việt Nam.
Thêm vào đó, những biến động do cung đẩy lạm phát tăng nhanh vẫn chưa lắng xuống.
Trong đó phải kể đến những cú sốc như các đợt dịch bệnh gia súc gia cầm, lũ lụt ở miền Trung,
và giá các mặt hàng nhập khẩu chủ yếu như sắt thép, xi măng và các sản phẩm xăng dầu
Báo cáo của WB cho biết: Chính phủ Việt Nam đã dành một khoản ngân sách khoảng
500 triệu USD để trợ giá xăng dầu, trong đó khoảng 140 triệu USD được chi tính đến cuối tháng
10/2007. Tuy nhiên, giá bán lẻ xăng dầu đã tăng 15% (từ 11.300 đồng lên 13.000 đồng/lít) vào
ngày 22/11, khi giá dầu thế giới đạt ngưỡng gần 100 USD/thùng. Giá bán lẻ dầu diesel cũng tăng
từ 8.600 đồng lên 14.500 đồng/lít.
Về mặt tín dụng, báo cáo cho rằng quan ngại chủ yếu là mức tăng trưởng tín dụng quá
nhanh sẽ không đảm bảo chất lượng tín dụng. M ặc dù mức tăng trưởng tín dụng đã được kiềm
chế và giảm xuống còn 25% trong năm 2006 nhưng đã lại tăng quá nhanh lên đến 40% tính tới
tháng 8/2007. Những tháng gần đây, Ngân hàng Nhà nước đã tỏ ra lo ngại về những rủi ro liên
quan tới kế hoạch tăng vốn của các ngân hàng thương mại.
Với sự sôi động của thị trường chứng khoán, nhiều ngân hàng đã lợi dụng cơ hội này để
tăng vốn mà thiếu những kế hoạch kinh doanh thích hợp. Do vậy, một quy định mới ra gần đây
đã yêu cầu các ngân hàng muốn tăng vốn thì phải cung cấp kế hoạch kinh doanh chi tiết, trong
đó nêu rõ mức lợi nhuận trên vốn cổ phần và tỷ lệ cổ tức dự kiến sau khi tăng vốn.
Thất vọng về cổ phần hóa các ngân hàng thương mại Nhà nước
WB cũng nhắc đến sự thất vọng của các nhà đầu tư nước ngoài muốn tham gia vào quá
trình cổ phần hoá một số ngân hàng thương mại Nhà nước. Các nhà đầu tư chiến lược nước
ngoài mong đợi mức trần quy định sẽ tăng từ 10% lên 20%, song cuối cùng lại được chốt lại ở
mức 15%. Trong một số trường hợp cụ thể, Thủ tướng có thể cho phép áp dụng mức 20%.
C. QUỸ TIỀN TỆ QUỐC TẾ- IMF
I. Giới thiệu chung về Q uỹ Tiền Tệ Quốc Tế (IMF)
1.1. Mục tiêu hoạt động:

 Tăng cường hợp tác tiền tệ quốc tế thông qua một tổ chức thường trực, tổ chức này thiết
lập cơ chế cho công tác tư vấn và hợp tác về các vấn đề tiền tệ quốc tế.
 Tạo điều kiện thực hiện những mục tiêu cơ bản của chính sách kinh tế như mở rộng và
tăng trưởng cân bằng thương mại quốc tế, và từ đó góp phần củng cố và duy trì tỉ lệ công ăn việc
làm và thu nhập thực tế cao và góp phần vào sự phát triển của các nguồn lực hữu ích của tất cả
các nước hội viên.
 Tăng cường ổn định ngoại hối, duy trì các giao dịch ngoại hối có trật tự giữa các nước hội
viên, và tránh việc giảm giá hối đoái có tính cạnh tranh.
 Hỗ trợ xây dựng hệ thống thanh toán đa biên đối với các giao dịch vãng lai giữa các nước
hội viên và hỗ trợ cho việc loại bỏ các hạn chế ngoại hối làm cản trở tăng trưởng thương mại thế
giới.
 Tạo lòng tin cho các nước hội viên bằng cách cho các nước hội viên được sử dụng tạm
thời Nguồn Vốn chung của Quỹ với những đảm bảo thích hợp, từ đó tạo cho họ những cơ hội
điều chỉnh những sai lệch trong cán cân thanh toán mà không phải sử dụng những biện pháp có
phương hại đến tiềm năng của quốc gia cũng như quốc tế.
 Rút ngắn thời gian và giảm nhẹ mức độ mất cân đối trong cán cân thanh toán quốc tế của
các nước hội viên.
1.2. Vai trò chủ yếu:
 Cung cấp hỗ trợ tài chính
 Hỗ trợ kỹ thuật
 Đào tạo
1.3. Ngân sách hoạt động
Dựa vào Nguồn vốn chung của Quỹ. chủ yếu là vốn cổ phần của các nước thành viên và
tích luỹ của IMF. Ban đầu, mức cổ phần đóng góp phụ thuộc vào tỷ trọng kim ngạch xuất nhập
khẩu của nước đó so với kim ngạch xuất nhập khẩu của thế giới. Ngoài ra, trong trường hợp cần
thiết, IMF cũng có thể vay vốn trên thị trường tài chính quốc tế để phục vụ cho các hoạt động
của mình. Đến ngày 31/8/2004, tổng vốn cổ phần của IMF là 311 tỷ USD, trong đó cổ phần các
nước thành viên là: Mỹ (17,46%) – chiếm vị trí lớn nhất, Đức (6,11%), Nhật bản (6,26%), Anh
(5,05%) và Pháp (5,05%).
1.4. Các hình thức hỗ trợ:

 IMF không cam kết cho vay vốn theo tài khoá.
 IMF xem xét cho các nước thành viên vay tín dụng khi thâm hụt cán cân thanh toán quốc
tế (do nhập siêu hoặc trả nợ), đồng thời các nước này không có nợ quá hạn đối với các tổ chức tài
chính quốc tế (IMF, WB, ADB )
 Để được vay IMF, nước xin vay phải lập và thực hiện chương trình cải cách cơ cấu trung
hạn (3-5 năm) với sự thoả thuận và giám sát thực hiện của IM F (gồm khung khổ chính sách về
cải cách kinh tế vĩ mô và các biện pháp thực hiện các cải cách).
 Tín dụng IMF được cung cấp và hoàn trả dưới dạng tiền mặt (quy đổi về SDR tại thời
điểm rút vốn hoặc trả nợ). Tiền rút về cho Ngân sách chủ yếu để hỗ trợ cán cân thanh toán quốc
tế hoặc đưa vào dự trữ ngoại lệ, trả nợ. Ngân sách có điều kiện bù đắp cho các khoản chi khác
của Chính phủ.
 Trong thời gian thực hiện khoản vay, nếu nước vay nợ không thực hiện đầy đủ các cam
kết (khung chính sách và các biện pháp) sẽ bị ngừng cấp tín dụng. Khi đã bị IMF tuyên bố
ngừng cấp tín dụng thì các tổ chức tài chính quốc tế khác cũng ngừng cấp tín dụng đối với các
khoản vay đang thực hiện. Do vậy, khi đã vay IMF, các quốc gia vay nợ phải thực hiện đầy đủ
các cam kết và không được cam kết những gì ngoài khả năng

II. Cơ cấu tổ chức:
Cơ cấu hiện hành của IM F gồm có Hội đồng Thống đốc, Ban Giám đốc Điều hành, Tổng
Giám đốc, các Phó Tổng Giám đốc và các cán bộ Quỹ.
 Hội đồng Thống đốc: Bộ phận ra quyết định cao nhất tại IMF. Hội đồng Thống đốc bao
gồm các Thống đốc (thường là Thống đốc Ngân hàng Trung ương hoặc Bộ trưởng Tài chính) và
một Thống đốc phụ khuyết do từng nước hội viên IM F bổ nhiệm. Hội đồng thống đốc có một số
các quyền hạn cụ thể, chẳng hạn như kết nạp hội viên mới, quyết định cổ phần, và phân bổ đồng
SDR cũng như các quyền hạn khác không phân cấp cho Ban Giám đốc Điều hành hoặc Tổng
Giám đốc. Hội đồng Thống đốc IMF họp Hội nghị thường niên kết hợp với Hội nghị thường
niên của Hội đồng Thống đốc Ngân hàng Thế giới.
 Ủy ban Tài chính Tiền tệ Q uốc tế: Trước đây gọi là Ủy ban Lâm thời, do Hội đồng Thống
đốc IMF thành lập vào tháng 10/1974 với chức năng là để tư vấn cho các Thống đốc về các vấn
đề tiền tệ quốc tế. M ỗi thành viên trong số 24 thành viên của Ủy ban Tài chính Tiền tệ Quốc tế

cũng là Thống đốc tại IM F, một Bộ trưởng hay một quan chức có chức vụ tương đương.
 Ban Giám đốc Điều hành: gồm 1 Tổng Giám đốc điều hành và 24 Giám đốc điều hành,
trong đó 5 Giám đốc điều hành đại diện cho 5 nước có cổ phần lớn nhất tại Quỹ (Mỹ, Nhật, Đức,
Anh, Pháp) và 19 Giám đốc điều hành đại diện cho các nhóm nước có đặc điểm giống nhau về
kinh tế địa lý, văn hóa, trừ Nga và Trung quốc có Giám đốc điều hành riêng.
 Tổng Giám đốc: do Ban Giám đốc Điều hành lựa chọn, với nhiệm kỳ đầu tiên là 5 năm.
Tổng Giám đốc tham gia vào các buổi họp của Hội đồng Thống đốc, Ủy ban Tài chính Tiền tệ
Quốc tế và Ủy ban Phát triển. Ngoài ra, Tổng Giám đốc còn phụ trách các cán bộ IMF. Mỗi Phó
Tổng Giám đốc, phụ trách một bộ phận dưới sự chỉ đạo của Tổng Giám đốc, có nhiệm vụ chủ trì
các buổi họp của Ban Giám đốc Điều hành và duy trì các mối liên hệ với các quan chức chính
phủ của nước hội viên, với các Giám đốc Điều hành, với các cơ quan thông tin và các tổ chức
khác.
 Cán bộ Quỹ: có khoảng 2700 cán bộ từ hơn 191 nước, được tổ chức thành 5 Vụ khu vực
(Vụ Châu Phi, Vụ Châu Âu, Vụ Trung đông và Trung Á, Vụ Châu Á Thái Bình Dương và Vụ
Tây Bán cầu); 9 Vụ chức năng và nghiệp vụ đặc biệt (Vụ Tài chính, Vụ Các vấn đề ngân sách,
Học viện IMF (bao gồm các học viện tại Washington D.C, học viện Viên, học viện Châu Phi và
học viện Singapore), Vụ Các Thị trường vốn quốc tế, Vụ Pháp luật, Vụ các Hệ thống Tài chính
Tiền tệ, Vụ Xây dựng và Kiểm điểm Chính sách, Vụ Nghiên cứu, Vụ Thống kê); 3 Vụ về
thông tin liên lạc (Vụ Đối ngoại, Văn phòng thông tin liên lạc khu vực Châu Á Thái Bình
Dương, Văn phòng Quỹ tại Liên Hợp Quốc); 3 Bộ phận giúp việc (Vụ thư ký, Vụ Nguồn nhân
lực, và Vụ Dịch vụ Tổng hợp và Công nghệ). Ngoài ra, IMF có hơn 60 Văn phòng đại diện tại
nhiều nước thế giới có trách nhiệm báo cáo cho các Vụ khu vực tương ứng.
Tổng số nước hội viên của IMF cho tới nay là 184 nước, Cộng hòa Đông Timor là nước
mới được chấp nhận là thành viên của IMF.
Việt Nam là thành viên của IMF từ 21/9/1956.

III.Các thể thức cho vay của IMF:
1.Các thể thức cho vay thông thường:
 Cho vay dự phòng (SBA): Được khởi xướng từ năm 1952 nhằm hỗ trợ cho các quốc gia gặp
khó khăn tạm thời về cán cân thanh toán và là thể thức được sử dụng nhiều nhất. Thông

thường thì thời hạn của thể thức này là 12-18 tháng. Việc trả nợ được thực hiện từ 2
1/4
– 4
năm tính từ sau đợt rút vốn, trừ khi được gia hạn và trả nợ theo quý.
 Cho vay mở rộng (EFF): Được khởi xướng từ năm 1974 nhằm hỗ trợ các quốc gia xử lý
những khó khăn dài hạn trong cán cân thanh toán bắt nguồn từ cơ cấu nền kinh tế. Thời hạn
trả nợ của khoản vay này khá dài, từ 4,5 - 7 năm, đủ để các hành động cải cách được thực thi
và phát huy hiệu quả. Các quốc gia vay EFF cần áp dụng một chương trình 3 năm có lịch
trình điều chỉnh cơ cấu và dự kiến các chính sách chi tiết hàng năm cho năm tiếp theo. Việc
trả nợ được thực hiện theo bán niên.
 Cho vay bổ sung dự trữ (SRF): Được khởi xướng từ năm 1997 nhằm hỗ trợ tài chính cho
những khó khăn đặc biệt về cán cân thanh toán bắt nguồn từ sự khủng hoảng và đổ vỡ lòng
tin của thị trường dẫn đến những nhu cầu vốn ngắn hạn quy mô lớn. Để được vay theo thể
thức này đòi hỏi quốc gia đi vay phải có các chính sách điều chỉnh mạnh mẽ. Thể thức này
không có hạn mức mà dựa trên nhu cầu tài trợ, khả năng trả nợ và mức độ mạnh mẽ của
chương trình điều chỉnh của nước đi vay. Thời hạn hoàn trả là 2-2,5 năm và việc trả nợ được
thực hiện theo bán niên.
 Cho vay bù đắp thất thu xuất khẩu (CFF): Được khởi xướng vào những năm 1960 để hỗ trợ
các nước hội viên bị thất thu xuất khẩu tạm thời hoặc phải tăng chi phí nhập khẩu lương thực
quá mức do biến động giá hàng hoá trên thế giới. Trả nợ được thực hiện từ 3
1
/4 đến 5 năm
theo quý.
2.Các thể thức cho vay ưu đãi và các thể thức đặc biệt:
 Thể thức tăng trưởng và xoá đói giảm nghèo (PRGF): Đây là thể thức được xây dựng năm
1999 thay thế cho thể thức ESAF trước đây. Thể thức cho vay ưu đãi này dành cho các nước
nghèo và hướng nhiều hơn tới người nghèo và tăng trưởng. Các chương trình được hỗ trợ bởi
thể thức PRGF phải xuất phát từ Văn bản Chiến lược giảm nghèo (PRSP) của bản thân quốc
gia đó. Do các chỉ tiêu và điều kiện chính sách của chương trình này đều xuất phát từ PRSP
nên so với các thể thức khác, PRGF có sự tham gia rộng rãi hơn của người dân và tăng cường

quyền làm chủ của nước hội viên và chương trình được hỗ trợ bởi PRGF phản ánh những ưu
tiên về tăng trưởng và giảm nghèo của quốc gia, đồng thời quan tâm nhiều hơn đến các tác
động của chính sách kinh tế vĩ mô chủ chốt đối với xã hội và đối với nghèo đói. Hạn mức
cho vay là 140% so với cổ phần của nước hội viên tại Quỹ, một số trường hợp ngoại lệ là
185%. Lãi suất là 0,5%/năm. Thời hạn hoàn trả là 5,5 – 10 năm và trả nợ theo bán niên.
 Trợ giúp khẩn cấp (EA): IMF thực hiện trợ giúp khẩn cấp cho các nước hội viên gặp khó
khăn về cán cân thanh toán phát sinh do thiên tai bất ngờ hoặc do xung đột vũ trang. Hình
thức trợ giúp này được thực hiện dưới hình thức giải ngân nhanh và thường không quá 25%
cổ phần và với một mức phí nhất định. Trợ giúp như vậy không đòi hỏi các chỉ tiêu thực hiện
hoặc phân chia giai đoạn giải ngân, nhưng đòi hỏi nước hội viên phải phối hợp với IMF để
tìm giải pháp xử lý các khó khăn về cán cân thanh toán. Riêng đối với các nước được nhận
trợ giúp khẩn cấp để tài trợ khó khăn về cán cân thanh toán do xung đột vũ trang, chính phủ
cần nêu rõ dự định sớm chuyển sang một trong những thể thức khác của IMF như cho vay dự

×