Tải bản đầy đủ (.pdf) (79 trang)

một số đồ dùng sinh hoạt, trang phục và nhạc cụ truyền thống của dân tộc Hmông

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.92 MB, 79 trang )

1



1.1. Nghiên cứu tư duy, văn hóa, đời sống của các dân tộc ít người ở miền
núi là việc làm có ý nghĩa chiến lược nhằm phát triển kinh tế nâng cao đời sống
văn hóa Việt Nam. Hơn nữa, bảo tồn văn hóa miền núi chính là thực hiện nhiệm
vụ quan trọng trong công tác văn hóa đặt ra tại đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ
XI: xây dựng nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc: toàn diện,
thống nhất trong đa dạng.
1.2. Bản sắc văn hóa Việt Nam không chỉ được cấu thành bởi riêng văn
hóa tộc người Kinh mà còn có sự góp mặt của nhiều dân tộc khác như Tày, Thái,
Hmông, Nùng, Dao, Tiến hành khảo sát tư liệu, chúng tôi nhận thấy, một số
phương diện của văn hóa dân tộc Hmông đã được các học giả quan tâm nhưng
vẫn có những phạm vi còn bỏ ngỏ, cần được chú ý hơn.
1.3. Với địa bàn cư trú rộng, lại có lịch sử hình thành lâu đời, cộng thêm
bề dày văn hóa, dân tộc Hmông đã đóng góp cho nước nhà những thành tựu
không nhỏ. Như các dân tộc khác, tộc người Hmông có quá trình hình thành,
vận động và phát triển vừa độc lập tương đối, vừa là sản phẩm tổng hòa các yếu
tố nội ngoại sinh. Tìm hiểu về dân tộc Hmông, chúng tôi nhận thấy bộ phận văn
hóa này có những điểm giống như các dân tộc khác nhưng đồng thời cũng có
những giá trị riêng. Những giá trị sáng tạo đó thể hiện mối quan hệ của tộc
người với thiên nhiên thông qua các tri thức sản xuất nông nghiệp; với xã hội
thông qua phong tục tập quán, lễ hội, với nhân sinh quan thông qua các nghi
thức vòng đời; với vũ trụ và thế giới tự nhiên thông qua các loại hình tôn giáo
tín ngưỡng; với lí tưởng thẩm mĩ thông qua các loại hình nghệ thuật
1.4. Trong vốn văn hóa dân tộc Hmông, đồ dùng sinh hoạt hàng ngày và
nhạc cụ là vấn đề còn chưa được quan tâm đúng mức. Đồ dùng sinh hoạt và
nhạc cụ dân tộc Hmông không đơn thuần chỉ mang ý nghĩa vật chất mà còn
mang ý nghĩa tinh thần. Sự phát triển của đồ dùng sinh hoạt và nhạc cụ Hmông
là sự phản ánh một phần về tinh thần phát triển văn hóa tộc người. Đó là quá



2
trình phát triển từ đơn giản đến phức tạp, từ thô sơ đến tinh xảo về kĩ thuật và tư
duy. Chính vì vậy, việc giới thiệu một số đồ dùng sinh hoạt, trang phục và
nhạc cụ truyền thống của dân tộc Hmông không chỉ dừng lại ở việc miêu tả kĩ
thuật, hiện vật một cách đơn thuần, phiến diện tách ra khỏi đời sống tộc người
mà phải đặt nó trong mối quan hệ hữu cơ giữa đối tượng đó với chủ thể sáng
tạo.
1.5. Bản thân nhóm tác giả có quá trình trưởng thành, học tập, giảng dạy
lâu dài trên mảnh đất Tây Bắc, nơi cư trú của số đông cư dân Hmông. Những
yếu tố đó là điều kiện thuận lợi để nhóm tác giả đề tài đi vào khảo sát, nghiên
cứu, giới thiệu đối tượng đã được đề cập. Sự say mê nghiên cứu là cách thức
trả ơn mảnh đất nghĩa tình, đồng thời cung cấp thêm vốn hiểu biết về văn hóa
địa phương.

Tộc người Hmông (cách gọi khác là Mông, Mèo) có nền văn hóa có lịch
sử lâu đời ở khu vực Đông Nam Á. Hiện nay, đã có nhiều công trình trong và
ngoài nước đề cập, nghiên cứu về diện mạo văn hóa của tộc người này. Ở nước
ta, thời kì đầu thế kỉ XX, học giả và quan cai trị địa phương viết về người
Hmông bằng tiếng Pháp như Savina, F.M: Histoire des Miao, Imprimerie de la
société des Missions – Étrangères de Pari, Hong Kong, 1924; Michaud, jean –
culas, Christian: “les Hmong de la péninsule indochinoise: migrations et
histoire” Autrepart, 1997; Evans, Grant chủ biên, nhiều người dịch: 
 , Nxb Văn hóa dân tộc, 2001; Tiếp đến là
các công trình hiện đại của người Việt như Doãn Thanh, Dân ca Mèo, Nxb
Văn học, 1967; Trần Hữu Sơn, hóa Hmông, Nxb Khoa học Xã hội, 1996;
Nguyễn Văn Huyên,  
, T.1, Nxb Khoa học Xã hội, 2003; Hùng Đình
Quý,      . Nxb Khoa học Xã hội,


3
2005; Nguyễn Mạnh Tiến: “Phân tích tâm lí Hmông tộc từ dân ca”, Tạp chí
, số 3 năm 2012;
Đồ dùng sinh hoạt và nhạc cụ thuộc văn hóa dân tộc Hmông là vấn đề
được quan tâm khá sớm. Năm 1967, trong công trình sưu tầm về dân ca Hmông,
Doãn Thanh viết: “Hầu hết nam nữ thanh niên Mèo đều biết hát và biết sử dụng
những nhạc cụ như sáo, đàn môi, khèn” [31, tr.6]. “Nguồn sống chính của đồng
bào là làm nương rẫy. Có một vài nơi làm ruộng bậc thang và làm một số nghề
thủ công khác như đúc lưỡi cày, rèn dao, cuốc và dệt vải, đan lát” [31, tr.10].
Năm 1996, nhà nghiên cứu Trần Hữu Sơn trong mục 
dân gian Mông đã chú ý giới thiệu tới nó tuy chưa cụ thể hóa, ông viết: “Nghệ
thuật tạo hình dân gian Hmông thể hiện ở trang phục, đồ dùng sinh hoạt, tranh
cắt giấy” [27, tr.139]. Trần Hữu Sơn cũng đặc biệt chú ý tới khèn - nhạc cụ
Hmông, “Khèn là loại nhạc cụ đặc trưng của dân tộc Hmông. Trong lễ tang,
ngày hội Gầu Tào, người Hmông luôn sử dụng cây khèn (múa khèn, thổi khèn).
Những người thổi khèn giỏi là những người có uy tín trong bản” [27, tr.176].
Nhưng ngày nay, đây là một trong những yếu tố văn hóa cổ truyền bị mai
một: “Trong xã hội truyền thống, cuộc đời người Hmông luôn gắn liền với âm
nhạc. Tiêu chuẩn một chàng trai Hmông ngoài việc giỏi cày nương phải biết thổi
sáo, múa khèn. Khèn lá, đàn môi luôn là người bạn của các cô gái. Nhưng hiện
nay số thanh niên biết sử dụng nhạc cụ truyền thống dân tộc chiếm tỉ lệ thấp hơn
số thanh niên không biết sử dụng nhạc cụ” [27, tr.175].
Xác minh điều này, nhà nghiên cứu Trần Hữu Sơn (dựa theo nguồn báo
cáo điều tra nhu cầu văn hóa của Sở Văn hóa - Thông tin Hoàng Liên Sơn, nay
là tỉnh Lào Cai) cung cấp cho chúng tôi biểu số 25 [27, tr.176] như sau:



%
ng

%

%

%

Kèn lá
66
9
25
0
Đàn môi
42
4
48
6

4
Sáo ngang
43
5
48
4
Sáo dọc
35
3
58
4
Giữ gìn bản sắc dân tộc là vấn đề được nhiều cấp nhiều ngành quan tâm.
Nhân Đại hội Đại biểu toàn quốc, Hội Văn hóa – Văn nghệ các dân tộc thiểu số

Việt Nam lần thứ II, ngày 19 đến 20 tháng 12 năm 1997, đồng chí Đỗ Mười –
Tổng bí thư Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam tại buổi khai
mạc Đại hội có trích dẫn văn kiện đại hội VIII của Đảng Cộng sản Việt Nam
như sau: “Vấn đề dân tộc có vị trí chiến lược lớn. Thực hiện bình đẳng – đoàn
kết tương trợ giữa các dân tộc trong sự nghiệp đổi mới, công nghiệp hóa, hiện
đại hóa đất nước”. Đảng ta cũng khẳng định: “Văn hóa là nền tảng tinh thần của
xã hội, vừa là mục tiêu, vừa là động lực thúc đẩy sự phát triển kinh tế xã hội”.
Mọi hoạt động văn hóa, văn nghệ phải nhằm xây dựng và phát triển nền văn hóa
tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc, xây dựng con người Việt Nam về tư tưởng,
đạo đức tri thức tâm hồn. Đồng chí nhấn mạnh: “Khai thác và phát triển mọi giá
trị văn hóa, nghệ thuật và sắc thái của các dân tộc trên đất nước, tạo ra sự thống
nhất trong đa dạng và phong phú của nền văn hóa Việt Nam” [26, tr.9].
Hưởng ứng văn kiện này, ngay sau đó, có nhiều công trình nói về văn
hóa các dân tộc thiểu số ra đời. Năm 1998, Quách Thị Oanh, Tạ Đức viết bài
“Sự đổi mới nghề dệt may của người Hmông” trên , số 1-2
khẳng định: “Ở đâu có cây lanh ở đó có người Hmông, hoặc ở đâu có người
Hmông ở đó có nghề dệt lanh, may vải lanh” hay gọi sợi lanh là sợi “Xú
Mống” [17, tr.52 – 56].
Năm 2005, Phạm Côn Sơn khi giới thiệu vẻ đẹp đất nước Việt Nam có
dành nhiều trang giới thiệu về văn hóa dân tộc Hmông. Ông đặc biệt nhấn mạnh:
“Đàn ông Hmông có một tài nghệ đặc biệt: thổi và biểu diễn bằng động tác tay,
chân, thân người với loại khèn (kèn) gọi là . Thổi kềnh là một nhu cầu quan
trọng như cơm ăn, nước uống. Nghe tiếng kềnh, người ta biết được họ đang
khóc hay đang cười. Đàn ông Hmông còn có loại sáo đặc biệt, gọi là Tr.
Sáo người Việt thường bằng ống tre hay ống trúc, có 6 lỗ bấm và thổi ngang.

5
Trà pùn tử của người Hmông có hình thức khác hơn gồm 1 hoặc 2 ống, có hay
không có lưỡi gà, không lỗ bấm, có thể thổi dọc hay thổi ngang. Âm thanh rất lạ,
gồm những âm thô và rè, cạnh những âm trong trẻo, êm ái như tiếng người thủ

thỉ, thấm sâu vào lòng người” [29, tr.230 – 231].
Trong những năm gần đây, mặc dù chưa nhiều, nhưng các công trình
nghiên cứu về văn hóa dân tộc Hmông đã rải rác xuất hiện. Năm 2012, ông
Thào Xuân Sùng cùng hội đồng biên tập chuyên luận “Dân tộc Mông Sơn La
với việc giải quyết vấn đề tín ngưỡng tôn giáo hiện nay” có nhận định: “Dân
tộc Mông có nhiều thành tựu về văn hóa [ ], đặc biệt hát, múa khèn, thổi sáo,
thổi lá là sở thích của người Mông [ ], Văn hóa, văn nghệ luôn là phương thức
thể hiện rất sâu sắc tư tưởng và tình cảm, những giá trị nhân văn cao đẹp và
phản ánh sinh động đến bền bỉ cuộc đấu tranh để bảo vệ bản sắc tộc người của
mình” [30, tr.25 – 26].
Tương tự như vậy, trong dự án công bố, phổ biến tài sản văn hóa, văn
nghệ dân gian Việt Nam, nhà nghiên cứu Nguyễn Mạnh Hùng trong cuốn sách
khảo cứu về  có viết: “Trong các sản
phẩm truyền thống của nghề đan lát của người Hmông như: dần, sàng, rổ, ghế
mây, thì chiếc  (chiếc bề) là sản phẩm quan trọng và là công cụ lớn trong
cuộc sống của đồng bào. Lù cở được đan bằng song mây, có quai đeo làm từ da
bò, bất kể đi nương đi rừng hay mang đồ đi đám cưới, đám tang, đều có mặt
của lù cở. Lù cở với lòng bề sâu, rộng lại có quai đeo về phía sau lưng, do đó nó
rất thuận tiện để mang các dụng cụ đồ dùng. Nghề đan lát chủ yếu do đàn ông
phụ trách còn nghề xe lanh dệt vải, thêu thùa là của nữ giới” [7, tr.19 – 20].
Văn học dân gian dân tộc Hmông luôn gắn liền với các loại nhạc cụ này.
Chính vì vậy, khi tìm hiểu      , nhà nghiên cứu Huỳnh
Công Bá thừa nhận: “Tài năng nghệ thuật của đồng bào Tây Bắc còn thể hiện
một cách nổi bật qua các loại nhạc cụ thuộc bộ hơi phong phú ở nơi đây, cùng
với những lời ca và điệu múa đặc sắc. Dường như có một sở thích âm nhạc
chung cho hầu hết các dân tộc ở Tây Bắc, một sở thích ít thấy ở các vùng khác
trên đất nước ta, là hệ nhạc cụ thuộc bộ hơi có lưỡi gà bằng tre, bằng đồng hoặc

6
bằng bạc rất phong phú và chúng có thể được tìm thấy đến vài chục loại. Trong

đó, tiêu biểu là pí pặp, khèn bè, sáo Hmông, ” [1, tr.225].
Như vậy, khi đề cập đến văn hóa Hmông, tất cả các tác giả đều khẳng
định rằng, các vật dụng như , , khèn bè, sáo, đều là những hình
ảnh quen thuộc gắn liền với văn hóa Hmông nhưng chưa có một công trình nào
đi sâu nghiên cứu về vấn đề này. Vì vậy, xuất phát từ thực tế đó, chúng tôi tiến
hành nghiên cứu về văn hóa dân tộc Hmông ở phương diện đồ dùng sinh hoạt và
nhạc cụ.
3.  và 
3.1. Mục đích nghiên cứu
Đề tài giới thiệu bằng hình ảnh một cách có hệ thống một số đồ dùng và
nhạc cụ mang bản sắc văn hóa của dân tộc Hmông.
3.2. Đối tượng nghiên cứu
Đề tài tập trung giới thiệu hai đối tượng:
Một là, đồ dùng sinh hoạt phổ biến của dân tộc Hmông.
Hai là, nhạc cụ dân tộc Hmông.
Trong quá trình thực hiện đề tài, nếu thấy cần thiết, nhóm nghiên cứu có
thể tham khảo, so sánh với một số đồ dùng sinh hoạt và nhạc cụ của các dân tộc
ít người khác như Thái, Nùng, Sự lựa chọn này xuất phát từ hiện trạng thực tế
các công trình nghiên cứu về vấn đề này còn khuyết thiếu.

4.1. Nhiệm vụ của đề tài
- Giới thiệu tổng thể về đồ dùng sinh hoạt và nhạc cụ dân tộc Hmông.
- Làm rõ những vấn đề thuộc bản sắc văn hóa dân tộc Hmông.
4.2. Giới hạn của đề tài

7
Đề tài chỉ nghiên cứu, giới thiệu đồ dùng sinh hoạt phổ biến và nhạc cụ
dân tộc Hmông chứ không nghiên cứu, giới thiệu toàn bộ đồ dùng sinh hoạt phổ
biến và nhạc cụ của các dân tộc ít người khác.


Trong đề tài này, chúng tôi sử dụng các phương pháp sau:
5.1. Phương pháp điền dã
Là phương pháp quan sát phỏng vấn và ghi chép những vấn đề đang diễn
ra hàng ngày trong đời sống dân tộc Mông, sau đó chụp ảnh, ghi hình, khai thác
các nguồn tư liệu đã thống kê.
5.2. Phương pháp thực nghiệm
Phương pháp khoa học dựa trên quan sát, phân loại, nêu giả thuyết và
kiểm nghiệm giả thuyết bằng thí nghiệm.
5.3. Phương pháp hệ thống
Chúng tôi nghiên cứu chi tiết, đặc điểm của từng đồ dùng sinh hoạt và nhạc
cụ, đặt trong hệ thống phân loại, rút ra những nhận xét cụ thể về đặc điểm cấu tạo,
công dụng, cách sử dụng,
5.4. Phương pháp so sánh
 là phương pháp cần thiết để xử lí đề tài. Muốn tìm ra những đặc
điểm về loại đồ dùng sinh hoạt và nhạc cụ giữa dân tộc này với dân tộc kia, chúng
tôi nhất thiết phải sử dụng phương pháp so sánh.
5.5. Phương pháp loại hình
Phương pháp loại hình tìm hiểu một số nguyên tắc và những cơ sở cho
phép nói tới tính cộng đồng nhất định về mặt văn hóa – thẩm mĩ, tới việc một hiện
tượng nhất định thuộc về một kiểu, một loại hình nhất định. Loại hình học văn
hóa đề ra việc khám phá các xu hướng chung và riêng của sự phát triển trong các
nền văn họá ở những dân tộc vốn gần gũi nhau về ngôn ngữ và về số phận lịch sử
cũng như trong các nền văn hóa những dân tộc không có đặc điểm ấy. Trong văn

8
hóa có hiện tượng “cùng họ” do sự gần gũi, sự giống nhau giữa một số đặc điểm
cơ bản của chúng.
Đồ dùng và nhạc cụ vốn không thể thiếu trong sinh hoạt trong đời sống của
tất cả các dân tộc. Vì vậy đề tài có sử dụng phương pháp này để nghiên cứu.


Thực hiện đề tài này, chúng tôi đóng góp 4 vấn đề sau:
- Tổng quan về dân tộc Hmông trên các phương diện lịch sử, văn hóa, kinh
tế, văn hóa
- Đánh giá và khảo sát một cách hệ thống để phác thảo diện mạo đồ dùng
sinh hoạt phổ biến của dân tộc Hmông mang bản sắc văn hóa.
- Đánh giá và khảo sát một cách hệ thống để phác thảo diện mạo nhạc cụ dân
tộc Hmông bản sắc văn hóa.
- Cung cấp một số hình ảnh về đồ dùng và nhạc cụ sinh hoạt mang bản
sắc văn hóa dân tộc Hmông.

Ngoài phần ,  , ,
đề tài được chia làm 2 phần.
* Phần  gồm 3 chương:
  Khái quát về đặc điểm lịch sử, kinh tế, văn hóa dân tộc
Hmông
  Giới thiệu một số đồ dùng sinh hoạt và trang phục truyền
thống của dân tộc Hmông
Giới thiệu một số nhạc cụ truyền thống của dân tộc Hmông
* Phần  gồm:
   Giới thiệu một số hình ảnh đồ dùng sinh hoạt của dân tộc
Hmông
   Giới thiệu một số hình ảnh nhạc cụ sinh hoạt của dân tộc
Hmông.

9



KHÁI QUÁT 
 

1.1. Nguồn gốc và lịch sử dân tộc Hmông
Nền văn hóa của bất cứ quốc gia nào cũng được hình thành trên cơ sở
nguồn gốc và lịch sử tộc người.
Trên thế giới nói chung và ở Việt Nam nói riêng, tộc danh Mông hay
''Hmôngz" (mà người ta quen gọi là Hmông) có nghĩa là “, khẳng định
sự khác biệt giữa con người và động vật mà sử sách Trung Quốc ghi là “Miêu”,
“Miêu dân”, “Miêu tử”, “Miêu tộc”, “Thục Miêu”, “Sinh Miêu”, xuất hiện từ
trước Công Nguyên để chỉ tộc người làm ruộng lúa và sau này, người Pháp gọi
là “Mẹo” hoặc “Mèo”. Người Hmôngz đều tự gọi dân tộc mình theo chữ
Hmôngz, theo đúng nghĩa tộc danh với âm thanh rất nhẹ. Sẽ rất sai nghĩa nếu
nghĩa nếu gọi là "Hơ Mông" hoặc “Mông”. Song, để thuận tiện khi viết và đọc,
có thể viết bằng chữ Latinh là Hmôngz, là Hmool, bằng tiếng Việt là Mông thì
đều khá giống nhau lúc phát âm mà vẫn thể hiện được lối ứng xử văn hóa với
dân tộc Hmông, một tộc người đã sớm xuất hiện và sinh cơ lập nghiệp với khát
vọng phát triển phồn vinh. [27], [30]. Ở đề tài này chúng tôi thống nhất dùng
cách gọi tộc người này là “Hmông”.
Dân tộc Hmông có lịch sử lâu đời. Hầu hết các văn bản chính thống
nghiên cứu về người Hmông trên thế giới đều cho rằng, người Hmông đã từng
sinh sống nguyên thủy ở khu vực lưu sông Hoàng Hà và là một trong những chủ
nhân của nhà nước Tam Miêu, nền văn hóa phát triển khá rực rỡ với nền văn
minh lúa nước, có chữ viết và vương quốc riêng. Truyền thuyết của người Hán
cho rằng, người Hmông xuất hiện sớm nhất ở lưu vực sông Hoàng Hà và người

10
Hmông theo Suy Vưu chống lại Hoàng đế, nhưng Suy Vưu đã bị Huy Viên là
người Hán đánh bại và xưng vua, nên người Hmông buộc phải di cư về hồ Động
Đình và hồ Bành Lãi, xây dựng nên nước Tam Miêu và đóng đô ở Trường Sa.
Sách Chiến Quốc ghi rõ địa vực cư trú của người Hmông thời Hạ Vũ và
theo lời của Ngô Khởi thì nước Tam Miêu xưa ở phía tả có hồ Động Đình, phía
hữu có hồ Bành Lãi, phía nam là núi Hành Sơn, tức thuộc các vùng Giang Tây,

An Tây, Hồ Nam ngày nay. Theo 
của Nguyễn Tôn Nhan, người Hmông xuất hiện ở khu vực trung và hạ lưu sông
Trường Giang, ngày nay là vùng Hồ Bắc, Hồ Nam và Giang Tây với vương
quốc Cửu Lê do vua Suy Vưu đứng đầu bao gồm 9 bộ lạc, mỗi bộ lạc có 9 thị
tộc, có khả năng dùng đồng chế tạo vũ khí. Bị liên minh bộ lạc Hoàng đế - Viêm
đế đánh bại sau mấy chục trận chiến ở cánh đồng Trác Lộc, một bộ phận Cửu Lê
không chịu khuất phục, đã rút lui về lưu vực Giang Hán Phương Nam và lập nên
bộ lạc liên minh Tam Miêu. Ở thời kì của vua Nghiêu, Thuấn, Vũ, vương quốc
Tam Miêu của người Mông đã được xây dựng khá hùng mạnh. Sau khi Sở
Trang Vương xưng Vương, đã dời đô từ lưu vực Giang Hán Phương Nam về
vùng Hồ Bắc, phần lớn người dân Tam Miêu cùng các tộc người ở miền trung
lưu vực sông Trường Giang thuộc vương quốc Kinh Sở. Nước Kinh Sở thời
Chiến Quốc và Miêu tộc ngày nay là hậu duệ của Cửu Lê, Tam Miêu. Đến thời
nhà Hán, việc mở rộng lãnh thổ và chính sách đàn áp khốc liệt đã đẩy người
Hmông lui dần xuống phía Nam sông Hoàng Hà và rút về lưu vực sông Dương
Tử, rồi vượt sông Dương Tử đi về phía Nam và Tây Nam. Vào khoảng thế kỉ IV
sau Công Nguyên, lợi dụng sự suy yếu của triều đình nhà Hán, người Hmông đã
kiểm soát vùng Hồ Bắc, Hồ Nam và lập ra vương quốc Hmông. Đến thế kỉ IX,
vương quốc Hmông bị nhà Hán đánh bại, người Hmông lại bị truy diệt và phải
di cư xuống vùng Quý Châu, Tứ Xuyên, Quảng Tây, Vân Nam, để tránh các
cuộc tàn sát liên tục của triều đại nhà Hán. Từ cuối thế kỉ XVIII đến giữa thế kỉ
XIX, các cuộc khởi nghĩa chống chế độ chia rẽ và áp bức dân tộc vẫn liên tiếp
nổ ra. Từ năm 1840 đến năm 1869, người Hmông ở Quý Châu, Vân Nam,

11
Quảng Tây đã kiên cường nổi dậy, tham gia phong trào Thái Bình Thiên Quốc
chống nhà Thanh, điển hình là cuộc khởi nghĩa Hàm Đông năm 1853 dưới sự
lãnh đạo của Trương Tú Mi bắt đầu từ Đông Nam Quý Châu lan sang các tỉnh
Hồ Nam và Vân Nam, kéo dài suốt 18 năm. Khi đó, riêng vùng Quý Châu có
trên 60 vạn người Hmông, sau khởi nghĩa chỉ còn sót lại vài vạn người. Các

vùng đất và vương quốc cuối cùng của người Hmông ở vùng Hồ Nam, Hồ Bắc,
Quảng Tây, Hải Nam, Tứ Xuyên, Quý Châu và Vân Nam bị nhà Thanh thôn
tính vào thế kỉ XVIII và đầu thế kỉ XIX [27].
Sự bành trướng của các triều đại nhà Hán và nhà Thanh từ vùng Trung
Nguyên xuống phía nam đã thôn tính nhiều vương quốc, khiến nhiều dân tộc
mất đất, mất quê cha đất tổ, mất tổ quốc, buộc dân tộc Hmông cùng nhiều dân
tộc khác phải liên tục nổi dậy chống lại sự xâm lược và đàn áp đó. Để trốn chạy
các cuộc tàn sát đẫm máu của nhà Hán và nhà Thanh, tránh họa diệt vong, dân
tộc Hmông cùng nhiều dân tộc phải thiên di về phía Nam, rời bỏ quê cha đất tổ
và lên các vùng núi cao để sinh sống. Sau nhiều thế kỉ luôn luôn bị các thế lực
phong kiến cầm quyền tàn sát, truy diệt, xua đuổi, người Hmông đã bị xé lẻ, li
tán khắp nơi thuộc các vùng miền núi dọc biên giới hiện nay của năm nước:
Trung Quốc, Việt Nam, Lào, Mianma, Thái Lan. Lịch sử của người Hmông là
lịch sử của những cuộc thiên di trải dài suốt hàng nghìn năm với đầy máu và
nước mắt của các dòng họ Hmông. Một số nhà nghiên cứu về người Hmông đã
coi Đông Nam Á lục địa là vùng đất tổ thứ ba bởi hầu hết người Hmông sinh
sống và ở khắp nơi trên thế giới hiện nay (trừ Trung Quốc) đều coi Việt Nam,
Lào và Thái Lan là vùng đất cội nguồn của dân tộc và luôn tìm cách giữ quan hệ
với quê hương. Theo công trình nghiên cứu 
(các tỉnh phía Bắc) của Viện Dân tộc học do Nhà xuất bản Khoa học Xã hội xuất
bản năm 1978, bộ phận người Hmông đầu tiên di cư từ Quý Châu xuống Vân
Nam (Trung Quốc) và Mèo Vạc, Đồng Văn (Việt Nam) được bắt đầu cách đây
khoảng 350 năm và đợt thiên di rất lớn là sau sự kiện Hiệp ước Thiên Tân (Pháp
– Mãn Thanh) năm 1984 về việc xác định biên giới giữa Việt Nam và Trung

12
Quốc. Từ Đồng Văn, Mèo Vạc, Lào Cai, một bộ phận lớn người Mông đã di cư
đến Tây Bắc Việt Nam và di cư tiếp đến nước Lào. Người Hmông vào đất nước
Lào phần lớn đã qua sinh sống ở miền núi phía Bắc Việt Nam. Theo cụ Chư Xa
ở Jao Xanh Đông, Noọng Hét, từ năm 1868, người Hmông đã phải chạy trốn

chiến tranh theo các triền núi cao về phía Tây Bắc Việt Nam qua các con sông
Xanh, sông Đỏ, sông Vàng rồi đến Xầm Nưa, Sầm Tớ, đến Noọng Hét với
khoảng 20 hộ gia đình cùng họ Giàng và sau đó đón thêm những nhà thông gia
gồm 80 hộ gia đình là các dòng họ Lầu, Ly, Mùa, Vàng, về ở cùng. Sau cuộc
khởi nghĩa Pa Chay (1918 – 1922), người Hmông bị thực dân Pháp đàn áp nên
một bộ phận di tản sang Nghệ An, Việt Nam. Vùng Noọng Hét là nơi sinh sống
của cộng đồng cư dân Hmông cổ nhất ở Lào, là nơi tập trung nhiều tù trưởng,
tộc trưởng Hmông lớn nhất như BLia Dao Lầu, Nhìa Vư Lầu, Thào Tu Giàng,
Tông Páo Thào, Phụng Ly, Các nhà khoa học và công trình nghiên cứu đều
thấy người Hmông di cư từ phía Bắc vào Việt Nam muộn hơn so với nhiều dân
tộc khác. Các nhóm Hmông trắng (HmôngzĐơưz), Hmông hoa (HmôngzLênhx),
Hmông đen (HmôngĐuz), Hmông xanh (HmôngzNjuôz) và các dòng họ người
Hmông đến Việt Nam khi các vùng thấp đã có người cư trú nên họ phải định cư
định canh trên vùng núi cao. Những người già là trưởng họ và bà cô Hmông ai
cũng nhớ rằng, sau khi rời Quý Châu, tổ tiên của họ đã từng sinh sống rất lâu ở
Pàng Tàu Làng, một địa danh nay là Phủ Khai Hoa của Châu Vân Sơn thuộc
tỉnh Vân Nam, Trung Quốc. Các dòng họ Hmông ở Việt Nam cũng như ở Lào
ngày nay đều nhớ địa danh Tê Tô Lông, Pàng Tàu Làng và bài cúng “chỉ
đường” cho người chết trong lễ thức tang ma. Bài cúng “chỉ đường” do thầy
cúng xướng ca đều cúng đua vong hồn người chết của dòng họ qua các miền đất
mà họ đã sinh sống như Tê Tô Lông, Quý Châu, Pàng Tàu Làng, Đồng Văn,
Mèo Vạc, Yên Minh, Quản Bạ, rồi từ đó vong hồn người chết sẽ lên trời về với
tổ tiên. Cho nên, cao nguyên Đồng Văn thuộc tỉnh Hà Giang luôn được coi là
quê hương của phần lớn người Hmông ở Việt Nam, là nơi lưu giữ được nhiều

13
những yếu tố văn hóa cổ truyền nhất của người Hmông ở Đông Nam Á cũng
như người Hmông đang cư trú ở trên thế giới, là nơi thử thách bản lĩnh sinh tồn
và đặc tính tâm lí của người Hmông.
Đất nước Việt Nam là “mảnh đất lành”, thiên thời, địa lợi, nhân hòa mà

dân tộc Kinh là trung tâm đoàn kết tất cả các dân tộc anh em trong đó có dân tộc
Hmông để đấu tranh chống ngoại xâm, xây dựng Tổ quốc. Dân tộc Hmông cùng
các dân tộc thiểu số ở miền núi được thừa nhận là một bộ phận trong cộng đồng
54 dân tộc Việt Nam và có những đóng góp xứng đáng vào quá trình phát triển
của đất nước. Dân tộc Hmông đã, đang và sẽ mãi mãi gắn bó với vận mệnh,
tương lai của mình với Tổ quốc Việt Nam.
Lịch sử và hiện tại luôn để lại trong tâm thức người Hmông lòng tự hào
dân tộc và phong cách sống kiên cường, bất khuất, ý thức tự lực cánh sinh cao
và cần cù, sáng tạo, mong muốn có người lãnh đạo tài giỏi và công tâm để dẫn
dắt dân tộc Hmông cùng các dân tộc anh em phát triển tới phồn vinh. Ước ao đó
của dân tộc Hmông đã được đáp ứng khi có Bác Hồ và Đảng Cộng sản Việt
Nam lãnh đạo. Đồng bào Hmông một lòng tin tưởng và đi theo Đảng, đoàn kết
thống nhất với cộng đồng dân tộc Việt Nam và tích cực thực hiện chính sách dân
tộc của Đảng, vì độc lập, tự do, hạnh phúc của cả cộng đồng dân tộc Việt Nam.
Tinh thần khao khát, truyền thống đoàn kết đó và ý thức “Nước Việt Nam
là một, dân tộc Việt Nam là một” được các dân tộc trong đó có đồng bào Hmông
vun đắp theo chính sách “các dân tộc trong nước bình đẳng, đoàn kết, tương trợ,
giúp đỡ nhau cùng tiến bộ” của Đảng và Nhà Nước. Trong cách mạng dân tộc
dân chủ và bảo vệ Tổ quốc, trải qua các thời kì từ thời kì tiền khởi nghĩa đến
kháng chiến chống thực dân Pháp, người Hmông đều có những đóng góp xứng
đáng, hi sinh to lớn. Nhiều vùng đồng bào Hmông là căn cứ kháng chiến với
những tập thể anh hùng và cá nhân anh hùng rất đáng tự hào. Đảng, Bác Hồ và
cách mạng xã hội chủ nghĩa đã giải phóng đồng bào Hmông khỏi ách thực dân
và áp bức dân tộc. Chỉ trong một thời gian ngắn, đồng bào Hmông đã đạt được
nguyện vọng, được sống yên ổn trên mảnh đất cư trú của mình, được đầu tư hỗ

14
trợ phát triển kinh tế – xã hội, không còn bị áp bức, đe dọa thường xuyên của
các thế lực phong kiến, thống trị ngoại tộc – khao khát mà trải qua hàng chục thế
kỉ đấu tranh đầy máu và nước mắt, người Hmông vẫn chưa có được.

1.2. Dân số và địa bàn cư trú
Cũng như dân tộc Kinh, dân tộc Thái, dân tộc Hmông có mặt ở nhiều
nước trên thế giới như tại Trung Quốc có trên 9.000.000 người, tại Lào có
khoảng 250.000 người, tại Thái Lan có khoảng 130.000 người, tại Pháp có
khoảng 30.000 người, tại Mianma có khoảng 15.000 người, tại Ôxtrâylia có
khoảng 1.600 người, tại Canada có khoảng 1.500 người, tại Guyana có khoảng
1.500 người, tại Áchentina có gần 1000 người, tại Nam Phi có gần 500 người










 
Hiện nay, người Hmông ở Việt Nam có 858.518 người, chiếm 1,03% dân
số cả nước và xếp thứ 8 về tỉ trọng số dân trong 54 dân tộc của cộng đồng dân
tộc Việt Nam. Dân tộc Hmông có mặt ở 20 tỉnh (nếu tính dân số từ 100 người
trở lên) cư trú tập trung ở các tỉnh miền núi phía Bắc nước ta, một bộ phận ở
Tây Thanh Hóa, Tây Nghệ An, Tây Nguyên, và tập trung ở 10 tỉnh (nếu tính dân
số từ 10 nghìn trở lên), trên các triền núi cao biên giới có độ cao trên dưới
1.000m, thích ở cạnh núi đá vôi, thích nghi với vùng ôn đới, có vị trí chiến lược
quan trọng về nhiều mặt và có tiềm năng phát triển kinh tế. Đồng bào Hmông cư

15
trú tương đối tập trung theo đồng tộc, dòng họ để nương tựa vào nhau, đồng thời
ngày càng có xu hướng cư trú xen ghép với các dân tộc khác do yêu cầu của

cuộc sống.
Chỉ tính riêng tỉnh Sơn La, tổng dân số toàn tỉnh có trên 1 triệu người với
12 dân tộc cùng chung sống (dân tộc Thái 54,76%, Kinh 18,42%, Hmông 13%,
Mường 8,15%, Dao 1,82%, Khơ Mú 1,13%, Xinh Mun 1,9%, La Ha 0,55%,
Kháng 0,74%, Lào 1,13%, Tày 0,09%, Hoa 0,02%). Trong đó, dân tộc Hmông
có 24.931 hộ với trên 132.220 người, chiếm 13% và xếp thứ ba về tỉ trọng số
dân của tỉnh, có mặt trên 600 bản và trên 122 xã của 11 huyện, thành phố của
tỉnh Sơn La. Phần lớn đồng bào Hmông cư trú ở những vùng núi cao, độ cao so
với mực nước biển từ 800 đến trên 1.000m, theo các bản quy mô nhỏ và chưa có
đủ điều kiện định cư định canh bền vững [30].
Quy mô bản làng của người Hmông nhỏ, số hộ, số dân không đông,
thường chỉ từ 20 đến 50 hộ ở trên một quả đồi nhỏ, một triền núi cao và thung
lũng, lưng có núi vây quanh và hướng nhìn phía trước với một không gian
thoáng mát rộng dài. Người Hmông phổ biến ở nhà đất, diện tích không rộng, về
cơ bản bố trí các gian nhà, buồng ngủ, giường khách, bàn thờ tổ tiên giống với
dân tộc Kinh, dân tộc Dao và nhiều dân tộc khác ở Việt Nam.
1.3. Kinh tế và đời sống
Trong điều kiện địa lí tự nhiên toàn núi non hiểm trở, đất canh tác dốc,
giao thông đi lại khó khăn và khí hậu đa dạng, đồng bào Hmông phổ biến lối
canh tác nông nghiệp nương rẫy. Nền tảng kinh tế vô cùng quan trọng để bảo
đảm nguồn cung cấp lương thực chủ yếu nhất là gieo trồng ngô, sắn. Kinh tế
nương rẫy cung cấp nguồn lương thực chính, vừa đáp ứng nhu cầu về thực
phẩm. Đặc biệt người Hmông thường trồng cây lanh để phục vụ dệt vải, may
mặc. Công cụ sản xuất chủ yếu trên nương của đồng bào Hmông là cái lưỡi cày,
con dao phát, chiếc cuốc xới, con trâu, bò và ngựa thồ. Phương tiện vận chuyển
hàng hóa chủ yếu dùng ngựa và cái lù cở. Các giống cây, giống con được đồng
bào Hmông lựa chọn kĩ để bảo tồn giống từ năm này qua năm khác, bảo đảm tự

16
cung tự cấp tại chỗ. Mặc dù điều kiện tự nhiên không thuận lợi, nhưng với bản

lĩnh kiên cường, bất khuất, tự lực cánh sinh, lao động siêng năng, có kế hoạch,
có kĩ thuật và cần cù, sáng tạo, đồng bào Hmông đã tạo dựng được một cuộc
sống tự lập và bảo đảm được nhu cầu kinh tế tối thiểu để tồn tại. Không chỉ có
vậy, họ còn hi vọng có cuộc sống ổn định, đầy đủ, hạnh phúc và đang cố gắng
với quyết tâm cao nhất để phát triển nền kinh tế định canh định cư. Việc di cư
người Hmông được đoán định gồm nhiều lí do, do nguyên nhân bất khả kháng
để tìm cuộc sống ổn định, phòng chống thiên tai và dịch họa và một phần có
nguyên do từ văn hóa cổ.
Địa hình sinh sống hiểm trở đã chi phối nền kinh tế tự cung tự cấp và biến
mỗi gia đình Hmông trở thành một đơn vị kinh tế độc lập. Trừ dầu hỏa và muối
ăn phải trao đổi, mua bán, mỗi gia đình Hmông đã nổi tiếng từ lâu với nhiều
nghề thủ công như: xe lanh dệt vải, in hoa văn trên váy áo bằng sáp ong, rèn đúc
mang đậm tính nghệ thuật và bản sắc văn hóa độc đáo. Người Hmông có kĩ
thuật rèn dao, búa, cuốc, cào cỏ rất sắc bén và kĩ thuật khoan nòng súng kíp rất
khéo léo, dùng được lâu và được nhiều người ưa thích. Do nhu cầu của đời sống
kinh tế cũng như tín ngưỡng, tôn giáo, chăn nuôi gia súc là một ngành rất phát
triển ở dân tộc này, nhất là kinh nghiệm lựa chọn chăn nuôi trâu, bò, lợn, gà.
Người Hmông ăn nhiều thịt mỡ lợn và rau cải, nấu rượu ngon từ ngô và thường
dùng rượu để cưới xin, tang ma và thể hiện tình cảm với độ say dịu ngọt, tạo nên
đặc trưng riêng. Sự kết hợp hài hòa giữa hoạt động kinh tế và văn hóa được thể
hiện rất sinh động ở chợ phiên, nhất là Tết độc lập (ngay 2 – 9 hằng năm) được
đồng bào Hmông rất mong đợi và yêu thích.
Ngày nay, nền kinh tế ở dân tộc Hmông cũng như nhiều dân tộc thiểu số
dần dần chuyển từ tự cấp tự túc sang sản xuất hàng hóa và xuất hiện những mô
hình tốt. Tình hình kinh tế – xã hội có những tiến bộ quan trọng và thu được
nhiều thành tựu về các lĩnh vực ăn, mặc, ở, học tập, chữa bệnh, giao thông, nước
sinh hoạt, điện thắp sáng, ứng dụng khoa học – công nghệ mới vào sản xuất,
chuyển đổi tập quán sản xuất tự cung tự cấp sang sản xuất hàng hóa, xóa đói,

17

giảm nghèo, cải biến tín ngưỡng cổ hủ lạc hậu, tiếp thu các yếu tố văn hóa tiên
tiến, Tuy vậy, đời sống kinh tế – xã hội của họ còn gặp nhiều khó khăn như:
trình độ sản xuất và dân trí còn thấp; cơ sở hạ tầng còn mỏng và thiếu; tỉ lệ hộ
đói nghèo so với nơi khác còn ở mức cao. Các tổ chức chính trị ở cơ sở còn
thiếu và yếu, số thôn bản người Hmông chưa có chi bộ và đảng viên còn chiếm
tỉ lệ khá cao, số lượng và trình độ cán bộ Hmông ở các cấp chiếm tỉ lệ rất thấp.
Nhưng từ thực tế điền dã, có thể khẳng định rằng, đời sống của dân tộc Hmông
đã có những tiến bộ nhất định so với trước. Những thành quả đó đã tạo ra nền
tảng vật chất và lợi ích thực tế để người Hmông gắn bó với Đảng và Nhà Nước,
củng cố và tăng cường khối đoàn kết các dân tộc ở nước ta [30].
1.4. Văn hóa, xã hội
Dân tộc Hmông có một nền văn hóa tinh thần phong phú và đặc sắc. Trong
quá trình lịch sử, dân tộc Hmông hình thành nên những đặc điểm văn hóa có tính
bền vững và riêng biệt. Sinh hoạt văn hóa truyền thống của người Hmông thường
gắn với nội dung tín ngưỡng và góp phần củng cố quan hệ cộng đồng.
Ở Việt Nam, dân tộc Hmông có bốn nhóm: Hmông trắng, Hmông đen,
Hmông hoa, Hmông xanh, nhưng có một ngôn ngữ chung là phương tiện sinh
hoạt văn hóa tinh thần và văn học, nghệ thuật.
Trong quan hệ xã hội, các nhóm Hmông, các dòng họ và mỗi người đều
có chung một ý thức đồng tộc mạnh mẽ trong việc bảo tồn các giá trị văn hóa
tinh thần, truyền thống tốt đẹp của dân tộc mình, luôn đặt niềm tin vào các đồng
tộc một cách tự nhiên và cố kết chặt chẽ theo xu hướng cư trú quây quần với
những người đồng tộc để nương tựa vào nhau. Truyền thống đoàn kết nhất trí và
tinh thần dân tộc cao của người Hmông thường gắn với nội dung tín ngưỡng và
góp phần củng cố quan hệ cộng đồng ở dân tộc Hmông. Việc giữ gìn và phát
huy những tinh hoa, bản sắc văn hóa truyền thống rất được người Hmông quan
tâm bảo tồn với ý thức tự tôn dân tộc, tự tôn dòng họ và coi văn hóa truyền
thống là bất biến. Chính vì vậy, trong các mối quan hệ giao lưu sâu rộng của đời
sống thường ngày giữa nội bộ dân tộc cũng như giữa người Hmông với người


18
dân tộc khác, họ luôn giải quyết bằng tín chấp lời hứa danh dự như: bắt tay, lạy
nhau, cụng bát rượu, cắt tiết gà ăn thề, Họ coi những cử chỉ đó là biên bản
thống nhất đã được kí kết và các bên liên quan sẽ thực hiện. Dân tộc Hmông
cũng như một số dân tộc thiểu số khác ở nước ta có một đặc tính văn hóa, tập
quán, tâm lí là rất cả tin nhưng cũng rất dễ hoài nghi: họ đã tin ai thì tin đến
cùng, tin một cách vô tư, họ đã mất lòng tin với ai thì sự hoài nghi thành kiến lại
càng sâu sắc, khó gỡ. Vì thế, người Hmông tin cả những lời nói, cử chỉ xã giao
của người dân tộc khác và sẽ bị coi là lừa dối nếu không làm đúng vậy, sẽ được
tin tuyệt đối và ủng hộ giúp đỡ hoặc mất niềm tin và không thể lấy lại được.
Thực tế, các tù trưởng, tộc trưởng Hmông trong chế độ cũ sẵn sàng nghe theo,
phục tùng, kể cả khi cần thiết phải hi sinh quyền lợi của mình. Người Hmông
luôn có tinh thần độc lập tự chủ và tự lực cánh sinh cao nên khi gặp khó khăn ít
khi kêu ca, ỷ lại, đòi hỏi, trông chờ vào sự giúp đỡ của người khác mà luôn chủ
động tự mình giải quyết.
Trong dân tộc Hmông, dòng họ và quan hệ dòng họ với vai trò quan trọng
nổi bật của trưởng họ là một đặc điểm văn hóa hiếm thấy ở các dân tộc khác.
Người Hmông có quan hệ dòng họ xa và dòng họ gần, tức cùng họ nhưng khác
ma, nhưng vẫn coi là anh em cùng một tổ tiên. Khi có cùng chung kí hiệu về
tang ma (lễ tang người chết) và các lễ thức “ma bò” (cúng giỗ tổ tiên), “ma lợn”
(cúng thần nhà), “ma cửa” (cúng thần cửa), thì đồng bào Hmông coi là anh em
“cùng ma” và đây là bốn lễ thức cơ bản nhất thể hiện “kí hiệu” họ hàng riêng
của mỗi dòng họ Hmông. Khi “cùng ma” thì người Hmông coi nhau như anh em
ruột thịt “có phúc cùng hưởng, có họa cùng chịu”, được ăn ở chung một mái
nhà, được tin yêu giúp đỡ và được chết ở nhà nhau. Khi “cùng ma”, cùng dòng
họ thì không được yêu nhau và kết duyên thành vợ chồng. Dòng họ “cùng ma”
là một đơn vị xã hội thể hiện đầy đủ quyền lợi và nghĩa vụ một cách tự nhiên
của các thành viên kể cả khi vui, khi buồn. “Cùng ma” là một đặc trưng vô cùng
quan trọng của dòng họ và là nền tảng văn hóa tinh thần rất đặc sắc, tạo nên sự
cố kết hợp chặt chẽ cho sự tồn tại của cộng đồng dòng họ. Theo quan niệm của


19
người Hmông, dòng họ là cộng đồng những người cùng một ông tổ sinh ra và
mỗi dòng họ có đặc trưng riêng về lễ nghi tín ngưỡng, tôn giáo với luật tục
nghiêm khắc. Sự cố kết đó ở người Hmông vượt lên sự phân tán về địa bàn cư
trú và sự chia cắt bởi danh giới hành chính. Nhờ đó, họ vượt qua những thử
thách khắc nghiệt và bi thảm trong lịch sử. Song, điều rất đáng lưu ý là đặc điểm
quan hệ đó có mặt tiêu cực và dễ bị lợi dụng, kích động, gây biến thành mâu
thuẫn bởi tính khép kín, cục bộ, hẹp hòi bộ tộc, dòng họ theo tư tưởng phong
kiến bảo thủ và tranh chấp về lợi ích, địa vị xã hội. Do đặc điểm cư trú theo
dòng họ, sinh sống biệt lập và quan hệ tiếp xúc hạn chế, trong các dòng họ
Hmông luôn phải tự đấu tranh chống lại mầm mống tạo ra lối suy nghĩ không
đúng đắn và hẹp hòi, chỉ nhìn nhận mọi vật theo trực giác cụ thể, dễ biến một sự
vật nhỏ bé như gia súc phá nương rẫy, xâm lấn đất đai, tranh giành bạn gái, cưới
xin, ma chay, rồi cố tình lôi kéo cả dòng họ chống lại nhau. Có nơi, có lúc mâu
thuẫn cá nhân giữa những người thuộc các dòng họ khác nhau cũng lôi kéo cả
dòng họ vào cuộc tranh chấp gây xô xát, thậm chí đổ máu, tạo ra mâu thuẫn và
hận thù có khi kéo dài nhiều thế hệ. Đồng bào Hmông luôn đi tìm khát khao có
một lãnh tụ tài giỏi và anh minh của dân tộc mình, nhưng mâu thuẫn giữa các
dòng họ lại làm cho họ bị phân hóa, chia rẽ từ bên trong. Sống trong một đất
nước có nhiều thành phần dân tộc, dưới chế độ phong kiến, thực dân đế quốc,
vấn đề bất bình đẳng dân tộc càng khoét sâu tâm lí dân tộc hẹp hòi nên đây là
một nhược điểm dễ bị các thế lực xấu lợi dụng gây chia rẽ giữa các dòng họ,
giữa các dân tộc, phục vụ cho âm mưu chính trị của chúng. Những mâu thuẫn đó
là điểm yếu, là yếu tố nội sinh tiềm tàng đe dọa sự thống nhất nội bộ, trở thành
trở ngại lớn cho việc xây dựng khối đoàn kết của Đảng và Nhà nước. Lịch sử
cho thấy, khi mâu thuẫn xảy ra, sự mất đoàn kết sẽ bị các thế lực xấu bên ngoài
lợi dụng thì nguy cơ chia rẽ càng lớn. Chính sách “dĩ di công di” của các hoàng
đế Trung Quốc, chính sách “chia để trị” của chủ nghĩa thực dân Pháp và đế quốc
Mĩ đã chứng minh điều đó. Thực dân Pháp và đế quốc Mĩ khi tiến hành xâm

lược các nước Đông Dương, đã triệt để khai thác những đặc tính tâm lý nêu trên
để dẫn dắt một bộ phận người dân tộc Hmông cũng như các dân tộc thiểu số

20
khác làm những chuyện liều lĩnh, nguy hiểm mà không biết kẻ thù chính là kẻ
xâm lược mình. Có nhiều ví dụ ở Việt Nam và ở Lào về tình trạng mâu thuẫn
giữa các dòng họ Hmông khi có bàn tay can thiệp của các thế lực xấu.
Có thể nói, chính sách “chia để trị” thâm độc của chủ nghĩa đế quốc trong
việc lợi dụng người Hmông đã gây chia rẽ rất sâu sắc giữa một số dòng họ
Hmông, dẫn đến xé lẻ và li tán cộng đồng dân tộc Hmông mà cho tới nay vẫn
tồn tại những vấn đề chưa được giải quyết. Bọn đế quốc xâm lược đã khai thác
triệt để những ưu điểm và nhược điểm của họ để phục vụ cho âm mưu xâm
chiếm các nước Đông Dương.
Mặc dù vậy, do những mối quan hệ về tín ngưỡng, thần quyền, kinh tế, xã
hội và nguồn gốc lịch sử, cộng đồng dân tộc Hmông (quan hệ giữa quần chúng
và tộc trưởng, tù trưởng, trưởng dòng họ, thầy thần quyền, bà cô) luôn gắn bó
chặt chẽ với nhau để đấu tranh, để bảo vệ nhóm dòng họ, dòng họ, dòng tộc và
do đó, cần có người đứng đầu. Họ không thể tách rời tổ chức vì sẽ dẫn đến tai
họa, nhất là trong xã hội phong kiến, thực dân đế quốc, có áp bức dân tộc.
1.5. Tín ngưỡng, tôn giáo
Tín ngưỡng, tôn giáo là một trong những thành tố quan trọng nhất của văn
hóa tinh thần, nó tác động mạnh mẽ đến tư tưởng và đời sống sinh hoạt. Tín
ngưỡng, tôn giáo của người Hmông có những nét tương đồng với các tín
ngưỡng, tôn giáo ở các tộc người khác. Sự khác biệt thường bộc lộ ở sự phát
triển của một số loại hình hoặc ít chịu ảnh hưởng của tam giáo như một số tộc
láng giềng như Dao, Tày, Nùng, Trong các hình thức tôn giáo truyền thống
của người Hmông, việc thờ cúng tổ tiên, đặc biệt là Sa man giáo tương đối phát
triển. Nhưng những hình thức tôn giáo sơ khai như vật linh, tô tem giáo, các loại
ma thuật vấn tồn tại ở dạng tàn dư và đóng vai trò quan trọng. Tôn giáo, tín
ngưỡng đã hòa quyện với các lễ thức hội hè tạo nên những sắc thái, sự phong

phú trong đời sống văn hóa tinh thần dân tộc Hmông.
Người Hmông chú trọng thờ cúng tổ tiên, ma nhà và cộng đồng “giao”.
Thờ cúng tổ tiên là hình thức tôn giáo quan trọng của người Hmông. Sự thờ

21
cúng tổ tiên thể hiện trong quan niệm, nghi lễ các điều kiêng kị, huyền thoại về
tổ tiên. Người Hmông thường thờ cúng ông bà, cha mẹ và những người đồng tộc
đã chết và trước hết là các hình thức gia đình. Họ tin rằng, tổ tiên đã chết che
chở cho con cháu đang sống và các nghi lễ cầu xin cho các thành viên trong thị
tộc hay gia đình tiến hành để nhằm thờ phụng tổ tiên. Họ quan niệm tổ tiên là
những người đã chết trong 3 đời trở lên (cha, ông, cụ). Quan niệm này được thể
hiện trong bài khấn tổ tiên, chủ nhà hoặc thấy cúng thường gọi tên tuổi của 3 thế
hệ đã khuất trở về ăn Tết, phù hộ cho các cháu. Trong lễ cúng, ông trưởng họ
thường kể về sự nghiệp tổ tiên, các quy ước kiêng kị của dòng họ. Bàn thờ tổ
tiên của người Hmông thường đặt ở vị trí gian giữa.
Bên cạnh việc thờ cúng tổ tiên, người Hmông còn thờ cúng hệ thống
ma nhà với nhiều nghi thức riêng biệt như:  (gắn liền với ý niệm giàu có
và tiền bạc); ma  (ma lợn); ma  (ma cửa bảo vệ gia đình);
ma  (ma buồng, chăm sóc bảo vệ sức khỏe con người); ma 
(ma bếp),
Với cộng đồng “giao”, người Hmông thờ cúng các thần thổ địa “thủ ti”.
Các vị thần này được thờ ở gốc cây to hoặc hòn đá lớn trong những vùng cấm
săn lùng. Đây là nét văn hóa khá giống với dân tộc Kinh và nhiều tộc người trên
lãnh thổ Đông Nam Á.
Người Hmông cũng có tục thờ vật linh giáo, coi con người và súc vật và
những cây con quen thuộc thì có linh hồn. Nếu người Thái quan niệm con người
có 80 hồn thì người Hmông quan niệm con người có 3 hồn: một hồn ở trong
đầu, một hồn ở rốn cai quản thân thể và một hồn ở ngực luôn thường trực. Cả ba
hồn đều liên quan đến sức khỏe và sinh mệnh con người. Khi ba hồn cùng bỏ đi
tức là con người sẽ chết.

Do không có tôn giáo chính thống nên có thể nói, người Hmông theo Sa
man giáo. Đây là hình thức tôn giáo chuyên biệt bởi họ có hệ thống thầy cúng
(gọi là ) chuyên nghiệp. Họ có mặt ở khắp các bản người Hmông. Để
hành nghề, họ có bàn thờ riêng, không có trang phục thầy cúng riêng như các
dân tộc khác. Người Hmông cần đến thầy cúng khi chữa bệnh, gọi hồn cho trẻ

22
nhỏ, làm ma cho người chết, Qua các bài cúng của , với thế giới chia
làm 3 cõi và con đường lên trời, có thể thấy được khát vọng thay đổi cuộc sống,
hướng tới sự ấm no, hạnh phúc.
* t: Dân tộc Hmông là một trong 54 dân tộc anh em trên lãnh thổ
Việt Nam có tiếng nói riêng trên nhiều phương diện. Họ có nền văn hóa tinh
thần phong phú và đặc sắc. Trong tiến trình lịch sử, môi trường sống, điều kiện
tự nhiên, tộc người Hmông hình thành nên những đặc điểm văn hóa, xã hội có
tính bền vững và riêng biệt. Sinh hoạt văn hóa của người Hmông thể hiện bản
sắc riêng. Vẻ đẹp văn hóa đó được biểu tượng hóa bằng các tín hiệu thẩm mĩ
thông qua đồ dùng sinh hoạt và nhạc cụ dân tộc mà chúng tôi sẽ trình bày ở
.




















23

 


2.1.1. Khái quát về đồ dùng sinh hoạt của dân tộc Hmông và sự phân loại
2.1.1.1 
“Đồ dùng” hay còn được dân gian quen gọi là “đồ đạc”. Danh từ “đồ
dùng” được hiểu là: “Vật do con người tạo ra để dùng trong sinh hoạt, trong hoạt
động hằng ngày (nói khái quát)” [20, tr.322]. Danh từ “sinh hoạt” dùng để chỉ
những hoạt động thuộc về đời sống hằng ngày của một người hay một cộng
đồng người” [20, tr.828].
Con người có hai loại sinh hoạt chủ yếu: sinh hoạt vật chất và sinh hoạt
tinh thần. Có thể xếp đồ dùng sinh hoạt và nhạc cụ của dân tộc Hmông thuộc cả
hai loại này, giá trị vật chất và giá trị tinh thần khó tách bạch.
Con người trong sinh hoạt không thể thiếu đồ dùng. Mỗi dân tộc, mỗi
quốc gia tự sáng tạo ra đồ dùng cho chính mình. Có đồ dùng sử dụng trong sinh
hoạt hằng ngày và có đồ dùng sử dụng trong nghi lễ.
Đồ dùng không đơn thuần chỉ có ý nghĩa phục vụ các nhu cầu khác nhau
của con người mà nó còn thể hiện tư duy văn hóa hay trình độ phát triển kinh tế,
chính trị, quan niệm tôn giáo tín ngưỡng của tộc người.
Dân tộc Hmông có nhiều đồ dùng, bao gồm: lù cở, địu củi, thạp đựng ngũ
cốc, chậu gỗ, bát, muôi canh, cày cuốc, trang sức, vải thổ cẩm (váy, áo,

khăn, )
2.1.1.
Nếu chia theo chất liệu sử dụng, người Hmông trong nếp sống sinh hoạt
thường sử dụng một số đồ dùng sau:
- Nhóm đồ dùng bằng tre: Lù cở (gùi).
- Nhóm đồ dùng chế tác kim loại: dao, cuốc, thuổng, đồ làm nương rẫy
(cày, cuốc, lưỡi cày, ).

24
- Nhóm đồ dùng may mặc từ cây lanh.
- Nhóm đồ trang sức.
Nếu chia theo thời điểm sử dụng, có thể thấy, người Hmông có các loại
đồ dùng theo 2 loại:
- Đồ dùng sinh hoạt của dân tộc Hmông trong sinh hoạt hằng ngày.
- Đồ dùng sinh hoạt của dân tộc Hmông trong sinh hoạt lễ hội.
Chúng tôi dựa trên cách phân chia thứ nhất để khảo sát đồ dùng sinh hoạt
dân tộc Hmông.
2.1.2. Đồ dùng sinh hoạt của dân tộc Hmông trong sinh hoạt
2.1.
2.1.
Lù cở là đồ dùng đặc trưng riêng của người Mông, không có ở các dân tộc
khác. Nhìn thấy lù cở sau vai, sau đầu, có thể nhận biết người đang dùng nó là
người dân tộc Hmông. Tất nhiên lù cở của người Hmông có những kết cấu khác
với các dân tộc khác cùng sử dụng địu tre ở sau lưng.











Tác dụng của lù cở trong cuộc sống hằng ngày: Lù cở không chỉ là vật
dụng thiết yếu của người Hmông, mà còn chứa đựng cả nét văn hóa. Người
Hmông đã "thổi hồn" vào tre, nứa, tạo nên một sản phẩm giản dị, nhưng đầy tiện
ích, mang ý nghĩa lớn trong cuộc sống thường nhật của miền sơn cước.

25
Đối với họ, lù cở không chỉ là đồ đựng thuần túy mà còn là vật trang trí,
thể hiện óc thẩm mĩ và bàn tay khéo léo, tài hoa của đàn ông người Hmông đã
biến những sợi tre, nứa thành những chiếc lù cở tinh xảo,…










Trong cuộc sống của đồng bào vùng cao, người Hmông quen dùng ngựa
thồ và chiếc lù cở có hai quai đeo vai. Cùng với đan lù cở, người Hmông còn
phát triển đa dạng các nghề thủ công như: làm yên cương ngựa, đẽo thân cày từ
gỗ, đan lát nong nia và một số vật dụng khác từ tre, nứa. Gùi lù cở trên lưng là
một trong những cách thức vận chuyển từ xa xưa, nhưng đến nay vẫn theo từng
bước chân của người vùng cao. Mỗi dịp lên vùng cao Bắc Hà, Mường Khương,
Si Ma Cai,… hình ảnh thân quen dễ bắt gặp nhất là chiếc lù cở trên lưng mọi

người khi đi làm nương hoặc xuống chợ. Thú vị nhất là hình ảnh khi người phụ
nữ lên nương, có con nhỏ thường mang theo lù cở để cho con ngồi vào trong đó,
chỉ cần xòe một chiếc ô, là em bé có ngay một chỗ ngủ ngon lành. Trên những
nẻo đường xuống chợ, là những lù cở đầy rau xanh, có khi là con gà thò mỏ ra,
hay một can rượu ngô vừa nấu, Khi phiên chợ tan thì chiếc lù cở lại làm nhiệm
vụ chuyên chở bao nhiêu vật dụng thiết yếu, là cân muối, là cân thịt lợn, là
những cuộn chỉ thêu,… theo chân người về bản. Với chiếc lù cở trĩu nặng trên
vai, đôi chân của đồng bào Hmông sống trên vùng cao mỗi ngày không biết đi
bao nhiêu cây số đường núi để lên nương, xuống chợ. Bất cứ lúc nào, trên

×