Tải bản đầy đủ (.pdf) (39 trang)

Tiểu luận tài chính quốc tế: Dollar hóa nền kinh tế

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (537.36 KB, 39 trang )

Tài Chính Quốc Tế Nhóm 7

Lớp: Tài chính – Ngân hàng CH9
1
KHOA KINH TẾ ĐẠI HỌC QUỐC GIA TP HCM
TÀI CHÍNH NGÂN HÀNG






ĐỀ TÀI:
DOLLAR HÓA NỀN KINH TẾ







GVHD: LÊ PHAN THỊ DIỆU THẢO


DSHV : 1. DƯƠNG THỊ THÙY DUNG
2. NGUYỄN THỊ HUỆ
3. NGUYỄN VŨ THÂN
4. PHAN TRẦN MINH HƯNG
5. NGUYỄN QUANG TRUNG
6. HOÀNG THỊ HẢI YẾN
7. TRƯƠNG THỊ KIM YẾN














TPHCM tháng 06/2010
Tài Chính Quốc Tế Nhóm 7

Lớp: Tài chính – Ngân hàng CH9
2

MỤC LỤC



PHẦN MỞ ĐẦU 4
PHẦN 1: TỔNG QUAN VỀ HIỆN TƯỢNG ĐÔ-LA HÓA
1.1. Khái niệm 5
1.2. Các hình thức đô la hóa 5
1.3. Nguyên nhân dẫn đến hiện tượng đô la hóa 8
1.4. Tác động của hiện tượng đô la hóa 9
1.4.1. Tác động tích cực 9
1.4.2. Tác động tiêu cực 11

PHẦN 2: KHẢO SÁT THỰC TRẠNG VỀ TÌNH TRẠNG ĐÔ-LA HÓA Ở VIỆT
NAM 14
2.1. Giai đoạn trước khi mở cửa (1988) 14
2.2. Giai đoạn bắt đầu mở cửa đến trước khủng hoảng tài chính - khu vực 14
2.3. Giai đoạn từ khi khủng hoảng tài chính - khu vực đến nay 17
2.4. Đánh giá chung về tính chuyển đổi của VND và mức độ đô-la hóa 21
2.4.1 Tính chuyển đổi của VND 21
2.4.2 Mức độ đô la hóa 21
2.4.3 Nguyên nhân của thực trạng trên 23
2.4.4 Ảnh hưởng của đô la hóa đến nền kinh tế nước ta 31
PHẦN 3: CÁC GIẢI PHÁP KHẮC PHỤC TÌNH TRẠNG ĐÔ LA HÓA 32
3.1. Quan điểm, chủ trương của Đảng, chính phủ và ngân hàng nhà nước trong vấn
đề đô la hóa 32
3.2. Mục tiêu thực hiện đến năm 2010 32
3.3. Các giải pháp 33
3.3.1 Giảm dần thói quen sử dụng tiền mặt bằng ngoại tệ trong dân chúng 33
3.3.2 Tạo môi trường đầu tư trong nước có khả năng hấp thụ được số vốn ngoại
tệ hiện có 34
3.3.3 Các giải pháp trong lĩnh vực tiền tệ - ngân hàng 34
3.3.4 Hạn chế dần đến xóa bỏ tự do sử dụng Đô-la hóa trên lãnh thổ Việt Nam .39









Tài Chính Quốc Tế Nhóm 7


Lớp: Tài chính – Ngân hàng CH9
3

PHẦN MỞ ĐẦU

Tiền tệ phát triển qua các hình thái khác nhau và điểm bắt nguồn của tiền tệ
là hàng hóa nhưng những hàng hóa này phải được ưa chuộng, dễ dàng chuyển đổi;
sau đó, với sự phát triển không ngừng thì hình thái tiền tệ là bạc, vàng lần lượt ra
đời.
Do kinh tế phát triển nhanh vượt ra khỏi quốc gia thì đòi hỏi cần có một
đồng tiền mạnh để làm công cụ thanh toán trong xuất nhập khẩu. Cùng với quá
trình toàn cầu hóa nền kinh tế và cùng với quá trình toàn cầu hóa hệ thống tài chính
quốc tế đã làm cho hiện tượng Đô la hóa xuất hiện ngày càng sâu rộng tại các nước
có nền kinh tế chuyển đổi.
Đô la hóa cũng giống như những hiện tượng khác trong nền kinh tế vẫn có
mặt tích cực như thúc đẩy quá trình hội nhập kinh tế, tài chính quốc tế… và mặt
tiêu cực của nó của nó được thể hiện là trong chủ quyền tiền tệ quốc gia. Còn tại
Việt Nam Đô la hóa bắt đầu xuất hiện vào năm 1988 khi đó với chính sách quản lý
ngoại hối được nới lỏng, cho phép dân chúng gởi ngoại tệ tại hệ thống ngân hàng
đã làm xuất hiện hiện tượng Đô la hóa, ngoài ra trong thời kỳ này thì chính sách
mở cửa của nhà nước và kèm theo đó là chính sách tỷ giá và chính chính sách tỷ
giá được tự do hóa kết hợp với tình hình kinh tế, tài chính thế giới có nhiều biến
động cũng là một phần tất yếu của sự xuất hiện hiện tượng Đô la hóa.
Năm 2007, Việt Nam đã là thành viên chính thức của tổ chức Thương Mại
Thế giới và đây là cơ hội cho Việt Nam hội nhập nhanh và sâu rộng vào nền kinh
tế thế giới, điều này cũng nói lên rằng Việt Nam cũng phải chịu nhiều ảnh hưởng
của tình hình kinh tế thế giới và minh chứng rõ ràng nhất là ảnh hưởng của Việt
Nam trong khủng hoảng tài chính toàn cầu đã nói lên được điều đó.
Như đã đề cập ở trên hiện tượng Đô la hóa có những mặt tiêu cực, tích cực

riêng của nó vì vậy việc nhận định tác động của Đô la hóa đến nền kinh tế là vấn
đề thiết thực và cần tìm ra những phương hướng để phát huy những mặt tiêu cực
và hạn chế những mặt tiêu cực của nó. Vì thế nhóm đã chọn đề tài “Đô la hóa trong
nền kinh tế”










Tài Chính Quốc Tế Nhóm 7

Lớp: Tài chính – Ngân hàng CH9
4

Phần 1
:
TỔNG QUAN VỀ HIỆN TƯỢNG ĐÔ-LA HÓA

1.1. KHÁI NIỆM
Đô-la hóa (dollarization) là việc sử dụng một ngoại tệ để thực hiện một số hay
tất cả các chức năng của tiền tệ, quá trình một nước bỏ hoàn toàn đồng nội tệ và
thay vào đó sử dụng đồng tiền của nước khác ổn định hơn làm phương tiện thanh
toán. Nói cách khác, đô-la hóa xảy ra khi dân chúng trong một nước sử dụng rộng
rãi ngoại tệ, song song hoặc thay thế cho đồng tiền nội tệ của mình. Tuy khái niệm
này được gắn liền với đồng đô-la Mỹ, việc chuyển đổi ra bất kỳ ngoại tệ có tính ổn

định nào khác, ví dụ như đồng Euro Châu Âu, đồng Yên Nhật, đồng Mác Đức -
đều thường được gọi là đô-la hóa
1.2. CÁC HÌNH THỨC ĐÔ-LA HÓA:
Ngày nay, đô-la hóa là hiện tượng khá phổ biến, đặc biệt là ở các nước đang
phát triển. Theo tiêu chí của IMF đưa ra, một nền kinh tế được coi là có tình trạng
đô-la hóa cao khi mà tỷ trọng tiền gửi bằng ngoại tệ chiếm từ 30% trở lên trong
tổng khối tiền tệ mở rộng (M2); bao gồm: tiền mặt trong lưu thông, tiền gửi không
kỳ hạn, tiền gửi có kỳ hạn, và tiền gửi ngoại tệ. Theo đánh giá của IMF năm 1998
trường hợp đô-la hóa cao có 19 nước, trường hợp đô-la hóa cao vừa phải với tỷ lệ
tiền gửi ngoại tệ/M2 khoảng 16,4% có 35 nước; trong số đó có Việt Nam. Tính đến
đầu năm 2000 đã có trên 60 nước thực hiện đô-la hóa (chính thức hoặc không
chính thức) dù mức độ của mỗi nước là có khác nhau.
Tùy theo mục tiêu cách nhìn nhận khác nhau, thông thường các nhà phân tích
thường phân loại đô la hóa theo các tiêu chí sau:
a)Tiêu chí về tính hợp pháp:
Căn cứ vào hình thức và mức độ đô-la hóa, người ta chia ra làm ba loại : đô la
hoá không chính thức (unofficial Dollarization), đô la hoá bán chính thức
(semiofficial dollarization), và đô la hoá chính thức (official dollarization)
1. Đô-la hóa không chính thức (đồng tiền thay thế) :
Đô-la hóa không chính thức xảy ra khi giá trị của đồng nội tệ dao động quá
nhiều vì vậy đồng đô-la được sử dụng để giao dịch mua bán, tiết kiệm cá nhân và
khi vay tiền vì nó đáng tin hơn. Do đó người dân cất trữ phần lớn tài sản của mình
bằng ngoại tệ ngay cả khi ngoại tệ đó không phải là đồng tiền pháp định của nước
mình. Trên thực tế, ở rất nhiều nước, đô-la hóa không chính thức mặc nhiên tồn tại
dưới nhiều hình thức khác nhau bất chấp các quy định của luật pháp. Ở một số
nước thì việc cất trữ tài sản nước ngoài là hợp pháp nhưng một số nước khác thì
không cho phép dân chúng nắm giữ các tài sản nước ngoài, chẳng hạn cấm mở tài
khoản bằng ngoại tệ ở nước ngoài. Thuật ngữ đô-la hóa không chính thức được
dùng bao gồm cho cả hai trường hợp, hợp pháp lẫn bất hợp pháp.
Tài Chính Quốc Tế Nhóm 7


Lớp: Tài chính – Ngân hàng CH9
5
Hình thức đơn giản nhất của đô-la hóa không chính thức là việc dân chúng có
thể gửi tiền ở ngân hàng bằng ngoại tệ hoặc cất trữ đô-la tiền mặt nhưng vẫn tiếp
tục dùng đồng tiền nội tệ trong hoạt động mua bán hàng ngày. Giai đoạn này
thường được gọi là “thay thế tài sản” bởi vì hành động này của dân chúng là
nhắm đến việc bảo đảm an toàn tài sản của mình khi có lạm phát xảy ra với đồng
tiền trong nước. Ở giai đoạn cao hơn, thường được gọi là “thay thế tiền tệ” đó là
lúc người ta dùng đô-la trong các giao dịch có giá trị lớn như mua xe, mua nhà và
sử dụng đô-la mặt như một phương tiện thanh toán và phương tiện cất trữ. Chỉ
những giao dịch thông dụng, có giá trị nhỏ như tiền điện, nước, mua sắm các vật
dụng hàng ngày hoặc những giao dịch mà chính phủ bắt buộc như nộp thuế, chi trả
tiền lương mới sử dụng bằng nội tệ. Giai đoạn cuối của tiến trình đô-la hóa không
chính thức là lúc dân chúng thường suy nghĩ và tính toán theo đô-la, giá của đồng
tiền trong nước luôn được quy ra theo đô-la.
Như vậy, nhìn chung đô-la hóa không chính thức là việc dân chúng cất giữ
các tài sản dưới những hình thức sau :
 Chứng khóan nước ngoài hoặc bất kỳ tài sản nào khác (không phải là tiền tệ)
của nước ngoài.
 Tiền gửi bằng ngoại tệ ở nước ngoài.
 Tiền gửi bằng ngoại tệ ở ngân hàng trong nước.
 Ngoại tệ mặt.
Việc đo lường mức độ đô-la hóa không chính thức rất khó khăn vì người ta
không thể thống kê chính xác được lượng đô-la mặt mà dân chúng nắm giữ, số dư
tiền gửi bằng ngoại tệ ở trong nước và nước ngoài, giá trị của các tài sản nước
ngoài do dân chúng nắm giữ do đó người ta chỉ có thể ước đoán mức độ lưu hành
của đồng đô-la Mỹ và một số tiền tệ khác để đưa ra hình ảnh sơ bộ về sự phổ biến
của việc đô-la hóa không chính thức. Theo tính toán của Cục dự trữ liên bang Mỹ
thì người nước ngoài hiện đang nắm giữ khoảng 300 tỉ đô-la mặt tức là chiếm

khoảng 55%-70% trong tổng số hơn 480 tỉ đô-la giấy đang được lưu hành.
Hầu hết các nghiên cứu về đô-la hóa được tập trung vào đô-la hóa không
chính thức bởi vì lợi ích và thiệt hại từ việc đô-la hóa không chính thức là không rõ
ràng, rất khó tính toán và rất khác nhau tùy thuộc vào đặc thù của từng nước.
Về ưu điểm, đô-la hóa không chính thức sẽ giúp chống được hiện tượng lạm
phát đối với đồng nội tệ đồng thời góp phần làm cho hệ thống ngân hàng hoạt động
bền vững hơn. Khi chính phủ cho phép ngân hàng trong nước nhận tiền gửi bằng
ngoại tệ sẽ góp phần hạn chế được hiện tượng dân chúng đem tiền gửi ở nước
ngoài và do vậy sẽ ít có nguy cơ dân chúng đổ xô đến ngân hàng rút tiền khi đồng
nội tệ mất giá.
Tuy nhiên, điều này sẽ dẫn đến bất lợi là rất dễ tạo nên tình trạng đồng nội tệ
mất giá đột ngột khi dân chúng đồng loạt quay sang dùng ngoại tệ và điều này
cũng sẽ gây khó khăn cho ngân hàng trung ương trong việc điều hành chính sách
tiền tệ của mình.
Tài Chính Quốc Tế Nhóm 7

Lớp: Tài chính – Ngân hàng CH9
6
2. Đô-la hóa bán chính thức
Đô-la hóa bán chính thức xảy ra khi một nước sử dụng đồng ngoại tệ như là
đồng tiền pháp định nhưng đóng vai trò thứ hai sau đồng nội tệ trong việc chi trả
tiền lương, thuế và các chi tiêu hàng ngày như tiền đi chợ, tiền điện, nước .v.v.v.
Không giống như các nước thực hiện đô-la hóa chính thức, những nước có đô-la
hóa bán chính thức vẫn giữ một ngân hàng trung ương trong nước hoặc một hệ
thống tiền tệ khác và có một khu vực riêng để thực hiện chính sách tiền tệ của
mình. Có hơn 12 quốc gia có hiện tượng này, tiêu biểu như: Brunei, Tajikistan,
Liberia, Lào, Campuchia
3. Đô-la hóa chính thức:
Đô-la hóa chính thức (hay còn gọi là đô-la hóa hoàn toàn) xảy ra khi đồng
ngoại tệ là đồng tiền hợp pháp duy nhất được lưu hành Quá trình này diễn ra khi

chính phủ của một nước không phát hành nội tệ mà thay vào đó sử dụng đô-la Mỹ
hoặc một ngoại tệ khác như một tiền tệ chính thức (một số ít các nước đô-la hóa
chính thức có phát hành tiền xu nhưng vì tiền xu có mệnh giá thấp và thường là
một phần phụ trong cung tiền tệ nên có không ảnh hưởng đến đô-la hóa). Như vậy,
ở những nước này, ngoại tệ không chỉ sử dụng trong trao đổi mua bán giữa các cá
nhân mà còn là phương tiện thanh toán của chính phủ. Thông thường các nước chỉ
áp dụng đô-la hóa chính thức sau khi đã thất bại trong việc thực thi các chương
trình ổn định kinh tế.
Khi một nước thực hiện đô-la hóa chính thức thì mặc nhiên nó sẽ trở thành một
bộ phận trong khu vực tiền tệ thống nhất cùng với nước có đồng tiền mà nó đang
sử dụng. Và như vậy, nước đô-la hóa chính thức sẽ từ bỏ chính sách tiền tệ độc lập
của mình và áp dụng những chính sách tiền tệ của nước mà nó đang sử dụng đồng
tiền. Vì vậy, nước thực hiện đô-la hóa chính thức sẽ không thể phản ứng lại những
cú sốc kinh tế bằng cách thay đổi chính sách tỉ giá hối đoái của nước mình. Tuy
nhiên, nước này vẫn có thể sử dụng những phương cách khác như điều chỉnh dòng
vốn vào/ra, thay đổi chính sách giá, chính sách kinh tế
Các quốc gia bị đô-la hóa đồng tiền đều không phát hành đồng nội tệ, trong
khi đó cũng có một số nước, chẳng hạn như Panama, phát hành đồng nội tệ như là
sự lựa chọn thứ 2 của mình.
Các nước bị đô-la hóa không hoàn toàn và bán đô-la hóa, năm 2002
Đô-la hóa không chính thức (đồng đô-la Mỹ): hầu hết các nước Mỹ Latin và
Caribe, trong đó có : Argentina, Bolivia, Mexico, Peru, and Trung Mỹ; các nước
thuộc Liên Xô cũ, như : Armenia, Azerbaijan, Georgia, Russia, and Ukraine; 1 vài
nước khác, bao gồm : Mongolia, Mozambique, Romania, Turkey, and Vietnam.
Bán đô-la hóa (đồng đô-la Mỹ): Bahamas, Cambodia, Haiti, Laos (cũng có đồng
Thai baht), Liberia.
Đô-la hóa không chính thức (các đồng tiền khác) : franc Pháp – vài thuộc địa cũ
của Pháp ở châu Phi; mark Đức – các nước vùng Balkan; đô-la Hong Kong -
Macau và miền Nam Trung Quốc; rúp Nga - Belarus.
Tài Chính Quốc Tế Nhóm 7


Lớp: Tài chính – Ngân hàng CH9
7
Bán đô-la hóa (các đồng tiền khác) : Bhutan (rupee Ấn Độ); Bosnia (German
mark, Croatian kuna, Yugoslav dinar); Brunei (dollar Singapore); Channel Islands,
Isle of Man (bảng Anh); Lesotho (đồng rand Nam Phi); Luxembourg (franc Bỉ);
Montenegro (German mark, Yugoslav dinar); Namibia (rand Nam Phi); Tajikistan
(ruble Nga).
b)Tiêu chí về qui mô sử dụng ngoại tệ:
Đô la hóa toàn phần (đô la hóa chính thức), đô la hóa một phần và không
chính thức thường phản ánh mong ước của người dân muốn đa dạng hóa tài sản để
đảm bảo tài sản của họ không bị mất giá khi có ảnh hưởng của nền kinh tế bất ổn
định, trì trệ, lạm phát cao.
c)Dựa vào chức năng tiền tệ:
Đô la hóa thay thế tài sản là hình thức đồng đô la thay thế đồng ngoại tệ thực
hiện một trong những chức năng cơ bản của tiền tệ là chức năng dự trữ giá trị, khi
đó không chỉ người dân mà còn cả doanh nghiệp cũng thực hiện chức năng này
bằng cách mở tài khoản bằng ngoại tệ tại hệ thống ngân hàng.
Khi một đồng tiền được dùng làm chức năng cất trữ thì yêu cầu đầu tiên thì
đồng tiền đó phải ổn định về giá trị, ít có sự biến động các yếu tố bên ngoài. Khi
đó thì tài sản tài chính bằng ngoại tệ được đảm bảo . Do vậy các chủ thể trong nền
kinh tế thường qui đổi tài sản của mình theo đô la hóa khi có sự bất ổn kinh tế,
biến động về kinh tế thì đồng nội tệ mất giá trị và sẽ ảnh hưởng đến giá trị của chủ
thể nắm giữ đồng nội tệ.
Ngoài ra khi thực hiện đô la hóa thay thế tài sản thì các chủ thể này tín tưởng
vào chính sách tiền tệ, chính sách phát triển kinh tế, ngân hàng trung ương, chính
phủ của nước in tiền.
Đô la hóa thay thế thanh toán:
Điều dễ thấy là Đô la hóa thay thế thanh toán có nguồn gốc từ đô la hóa thay
thế tài sản, căn cứ vào điều kiện tiên quyết trong thời đại hiện đại ngày nay thì

muốn thanh toán thông thường thì các chủ thể mở tài khoản thanh toán bằng ngoại
tệ và lúc này đây thì ngoại tệ đang thay thế đồng nội tệ thực hiện chức năng của
tiền tệ.
Điều kiện để đồng ngoại tệ thực hiện chức năng thay thế đồng ngoại tệ trong
chức năng thanh toán thì đồng này thuộc quốc gia sản xuất nhiều hàng hóa có giá
trị được người dân quốc gia đó ưa chuộng và nhiều quốc gia ưu dùng. Ngoài ra còn
có những trường hợp đồng tiền của quốc gia không phải mạnh, lãi suất không cao
nhưng lại được các chủ thể trong nền kinh tế nắm giữ vì một lý do duy nhất là họ
có thể thanh toán hàng hóa mà họ cần như khi thanh toán hàng hóa bằng đồng
ngoại tệ tại các biên giới với các nước như Lào, Thái thì được gọi là Bath hóa; khi
thanh toán hàng hóa bằng ngoại tệ tại biên giới trung quốc gọi là Nhân dân tệ hóa.
1.3 NGUYÊN NHÂN DẪN ĐẾN HIỆN TƯỢNG ĐÔ-LA HÓA:
Thứ nhất, một số quốc gia quyết định đô-la hóa một phần là do đất nước
đang phải đối đầu với tỉ lệ lạm phát không thể kiểm soát nổi và phá giá đồng nội tệ
Tài Chính Quốc Tế Nhóm 7

Lớp: Tài chính – Ngân hàng CH9
8
sẽ đe doạ toàn bộ nền kinh tế. Những người đang có trong tay đồng nội tệ sẽ đòi
một lãi suất rất cao để bù vào khoản trượt giá. Ngân hàng trung ương sẽ tăng lãi
suất để bảo vệ đồng nội tệ khỏi bị trượt giá quá nhanh. Trong hoàn cảnh nghiêm
trọng như vậy, rất nhiều nhà kinh doanh sẽ vay bằng ngoại tệ để được lãi suất thấp.
Việc người dân mất niềm tin vào đồng nội tệ và đổ xô mua đô-la sẽ làm cho đồng
nội tệ càng mất giá hơn. Bất chấp lãi suất cao, người dân vẫn giảm gửi tiền tiết
kiệm bằng nội tệ và nhiều nhà kinh doanh sẽ chuyển vốn của họ ra nước ngoài.
Thứ hai, trong điều kiện của thế giới ngày nay, hầu hết các nước đều thực thi
cơ chế kinh tế thị trường mở cửa; quá trình quốc tế hóa giao lưu thương mại, đầu
tư và hợp tác kinh tế ngày càng tác động trực tiếp vào nền kinh tế và tiền tệ của
mỗi nước, nên trong từng nước xuất hiện nhu cầu khách quan sử dụng đơn vị tiền
tệ thế giới để thực hiện một số chức năng của tiền tệ. Đô-la hóa ở đây có khi là nhu

cầu, trở thành thói quen thông lệ ở các nước.
Thứ ba, mức độ đô-la hóa ở mỗi nước khác nhau phụ thuộc vào trình độ phát
triển nền kinh tế, trình độ dân trí và tâm lý người dân, trình độ phát triển của hệ
thống ngân hàng, chính sách tiền tệ và cơ chế quản lý ngoại hối, khả năng chuyển
đổi của đồng tiền quốc gia. Những yếu tố nói trên ở mức độ càng thấp thì quốc gia
đó sẽ có mức độ đô-la hóa càng cao.
Ngoài ra, nguyên nhân gây gia tăng hiện tượng đô la hóa còn do các yếu tố
chủ quan như: Điều hành chính sách tiền tệ thiếu đồng bộ; Chính sách quản lý
ngoại hối kém ; Điều hành chính sách kinh tế kém của chính phủ; Hệ thống thanh
toán yếu kém…
Nhìn chung, nguyên nhân chủ yếu của hiện tượng đô-la hóa là do ngân hàng
trung ương đã không hoạt động có hiệu quả, do đó đô-la hóa dường như là phương
cách hiệu quả để giữ cho tiền tệ ổn định. Thực tế cho thấy, ở những nước có đô-la
hóa hay đô-la hóa ở mức độ cao thì nhìn chung là ngân hàng trung ương hoạt động
kém hiệu quả hơn so với ngân hàng trung ương ở những nước không có đô-la hóa
hoặc đô-la hóa mức thấp: lạm phát cao hơn, quản lý ngoại hối chặt chẽ hơn, phá
giá đồng tiền hơn và quốc hữu hóa tài sản của dân chúng nhiều hơn. Có thể nói
rằng, bất kỳ một nước nào có đồng tiền ít nhất là không hoạt động mạnh bằng đô-la
Mỹ thì có khả năng xảy ra đô-la hóa và đô-la hóa càng dễ dàng xuất hiện ở một
nước khi lạm phát ở nước đó cao liên tục trong nhiều năm hoặc thực hiện chính
sách quản lý ngoại hối quá chặt chẽ.
1.4 TÁC ĐỘNG CỦA HIỆN TƯỢNG ĐÔ-LA HÓA
1.4.1 Tác động tích cực
- Tạo một cái van giảm áp lực đối với nền kinh tế trong những thời kỳ lạm
phát cao, bị mất cân đối và các điều kiện kinh tế vĩ mô không ổn định. Do có một
lượng lớn đô-la Mỹ trong hệ thống ngân hàng, sẽ là một công cụ tự bảo vệ chống
lại lạm phát và là phương tiện để mua hàng hóa ở thị trường phi chính thức.
Ở các nước đô-la hóa chính thức, bằng việc sử dụng đồng ngoại tệ, sẽ giúp duy
trì được tỷ lệ lạm phát gần với mức lạm phát thấp, làm tăng sự an toàn đối với tài
Tài Chính Quốc Tế Nhóm 7


Lớp: Tài chính – Ngân hàng CH9
9
sản tư nhân, khuyến khích tiết kiệm và cho vay dài hạn. Hơn nữa, ở những nước
này ngân hàng trung ương sẽ không còn khả năng phát hành nhiều tiền và gây ra
lạm phát, đồng thời ngân sách nhà nước sẽ không thể trông chờ vào nguồn phát
hành này để trang trải thâm hụt ngân sách, kỷ luật về tiền tệ và ngân sách được thắt
chặt. Do vậy, các chương trình ngân sách sẽ mang tính tích cực hơn.
Lợi ích thứ hai đến từ việc hạ thấp lạm phát hiện hành và hạ thấp rủi ro của lạm
phát trong tương lai. Bằng việc sử dụng ngoại tệ, một nước đô-la hóa chính thức
bảo đảm tỷ lệ lạm phát của nó gần hơn tỷ lệ lạm phát của nước phát hành. Sử dụng
đô-la, euro, yên sẽ giảm lạm phát xuống một con số từ hai con số, mức mà những
nước đang phát triển hiện đang gặp phải. Lạm phát ở mức thấp gia tăng sự an toàn
của sở hữu tư nhân. Tiền là loại sở hữu phổ biến nhất. Lạm phát là một loại thuế
đánh vào tiền, lạm phát càng thấp và càng ít thay đổi, quyền sở hữu tiền càng bảo
đảm hơn. Bởi vì những tài sản thuộc về tài chính khác được gọi bằng tiền (đơn vị
tiền tệ), lạm phát ở mức thấp cũng gia tăng sự an toàn của chúng,khuyến khích tiết
kiệm và cho vay dài hạn. Panama là quốc gia Mỹ Latin độc lập duy nhất hiện có tỷ
lệ thế chấp cho vay cố định trong 30 năm mà không có trợ cấp chính phủ bởi vì đó
là quốc gia duy nhất không chịu lạm phát cao và sự mất giá tiền tệ trong 15 năm
cuối. Lạm phát ỏ mức thấp cũng giúp những người nghỉ hưu, người có thu nhập cố
định,và những người quá nghèo có tài khoản ngân hàng bằng việc bảo đảm rằng
tiền tiết kiệm của họ giữ được giá trị.
- Tăng cường khả năng cho vay của ngân hàng và khả năng hội nhập quốc
tế. Với một lượng lớn ngoại tệ thu được từ tiền gửi tại ngân hàng, các ngân hàng sẽ
có điều kiện cho vay nền kinh tế bằng ngoại tệ, qua đó hạn chế việc phải vay nợ
nước ngoài, và tăng cường khả năng kiểm soát của ngân hàng trung ương đối với
luồng ngoại tệ. Đồng thời, các ngân hàng sẽ có điều kiện mở rộng các hoạt động
đối ngoại, thúc đẩy quá trình hội nhập của thị trường trong nước với thị trường
quốc tế. Đô-la hóa sẽ giúp cho một nước có lạm phát thấp và ít biến động và từ đó

sẽ giúp giảm được lãi suất thực do vậy sẽ góp phần thúc đẩy phát triển tín dụng
trung và dài hạn.
- Hạ thấp chi phí giao dịch. Ở những nước đô-la hóa chính thức, các chi phí
như chênh lệch giữa tỷ giá mua và bán khi chuyển từ đồng tiền này sang đồng tiền
khác được xoá bỏ. Các chi phí dự phòng cho rủi ro tỷ giá cũng không cần thiết, các
ngân hàng có thể hạ thấp lượng dự trữ, vì thế giảm được chi phí kinh doanh. Một
nghiên cứu chỉ ra rằng ở Panama, đô-la hóa chính thức cho phép dự trữ ngân hàng
là 5% GDP,thấp hơn lượng dự trữ nếu Panama có nội tệ riêng.
Đô-la hóa sẽ có thể giúp tạo ra đồng tiền có thể chuyển đổi hoàn toàn ở
những nước mà tiền tệ chưa có khả năng chuyển đổi. Khi đô-la hóa kết hợp với
một hệ thống ngân hàng quốc tế hóa tức là hoà nhập vào thị trường tài chính thế
giới thì đô-la hóa sẽ giúp các nước chỉ cần dự trữ ngoại tệ thấp hơn các hệ thống
tiền tệ khác. Không có rủi ro ngoại hối cũng sẽ giúp cho các ngân hàng hiện đang
thiếu dự trữ có thể vay quỹ của thế giới với cùng một mức phí hoặc thấp hơn.
Tài Chính Quốc Tế Nhóm 7

Lớp: Tài chính – Ngân hàng CH9
10
- Thúc đẩy thương mại và đầu tư. Các nước thực hiện đô-la hóa chính thức
có thể loại bỏ rủi ro cán cân thanh toán và những kiểm soát mua ngoại tệ, khuyến
khích tự do thương mại và đầu tư quốc tế. Các nền kinh tế đô-la hóa có thể được,
chênh lệch lãi suất đối với vay nợ nước ngoài thấp hơn, chi ngân sách giảm xuống
và thúc đẩy tăng trưởng và đầu tư. Đô-la hóa sẽ giúp thu hút đầu tư nước ngoài,
một khi họ biết là giá trị tài sản quy ra tiền của họ sẽ không thay đổi, những điều
này sẽ đưa đến tốc độ phát triển nhanh và đầu tư tăng. Về mặt tâm lý, đô-la hóa sẽ
làm giảm các nỗi lo về nền kinh tế
- Thu hẹp chênh lệch tỷ giá trên hai thị trường chính thức và phi chính
thức. Tỷ giá chính thức càng sát với thị trường phi chính thức, tạo ra động cơ để
chuyển các hoạt động từ thị trường phi chính thức (bất hợp pháp) sang thị trường
chính thức (thị trường hợp pháp).

1.4.2. Tác động tiêu cực
Đô-la hóa có thể gây ra hàng loạt các bất lợi và những hệ lụy phức tạp mà
các nước có đô-la hóa sẽ phải đối mặt. Đô-la hóa dù là không chính thức sẽ làm
suy giảm nghiêm trọng chủ quyền quốc gia về tiền tệ, gây khó khăn cho ngân hàng
trung ương trong việc điều hành và thực thi chính sách tiền tệ của mình thông qua
việc hạn chế và có thể “vô hiệu hóa” vai trò của lãi suất đồng nội tệ, tỉ giá hối đoái,
đặc quyền phát hành tiền của ngân hàng trung ương đồng thời cũng sẽ khiến cho
ngân hàng trung ương “đánh mất” vai trò là người cho vay sau cùng. Ở phương
diện này có thể coi đô-la hóa là một cuộc tấn công tiền tệ
- Đô-la hóa ảnh hưởng đến việc hoạch định các chính sách kinh tế vĩ mô.
Trong một nền kinh tế có tỷ trọng ngoại tệ lớn, việc hoạch định các chính sách
kinh tế vĩ mô, đặc biệt là chính sách tiền tệ sẽ bị mất tính độc lập mà chịu nhiều
ảnh hưởng bởi diễn biến kinh tế quốc tế, nhất là khi xẩy ra các cuộc khủng hoảng
kinh tế.
- Làm giảm hiệu quả điều hành của chính sách tiền tệ :
 Gây khó khăn trong việc dự đoán diễn biến tổng phương tiện thanh toán,
do đó dẫn đến việc đưa ra các quyết định về việc tăng hoặc giảm lượng tiền trong
lưu thông kém chính xác và kịp thời.
 Làm cho đồng nội tệ nhậy cảm hơn đối với các thay đổi từ bên ngoài, do
đó những cố gắng của chính sách tiền tệ nhằm tác động đến tổng cầu nền kinh tế
thông qua việc điều chỉnh lãi suất cho vay trở nên kém hiệu quả.
 Tác động đến việc hoạch định và thực thi chính sách tỷ giá. Đô-la hóa có
thể thực thi chính sách tỷ giá. Đô-la hóa có thể làm cho cầu tiền trong nước không
ổn định, do người dân có xu hướng chuyển từ đồng nội tệ sang đô-la Mỹ, làm cho
cầu của đồng đô-la Mỹ tăng mạnh gây sức ép đến tỷ giá. Khi các đối thủ cạnh
tranh trên thị trường thế giới thực hiện phá giá đồng tiền, thì quốc gia bị đô la hóa
sẽ không còn khả năng để bảo vệ sức cạnh tranh của khu vực xuất khẩu thông qua
việc điều chỉnh lại tỷ giá hối đoái.
Tài Chính Quốc Tế Nhóm 7


Lớp: Tài chính – Ngân hàng CH9
11
 Ở trong các nước đô-la hóa không chính thức, nhu cầu về nội tệ không
ổn định. Trong trường hợp có biến động, mọi người bất ngờ chuyển sang ngoại tệ
có thể làm cho đồng nội tệ mất giá và bắt đầu một chu kỳ lạm phát. Khi người dân
giữ một khối lượng lớn tiền gửi bằng ngoại tệ, những thay đổi về lãi suất trong
nước hay nước ngoài có thể gây ra sự chuyển dịch lớn từ đồng tiền này sang đồng
tiền khác (hoạt động đầu cơ tỷ giá). Những thay đổi này sẽ gây khó khăn cho ngân
hàng trung ương trong việc đặt mục tiêu cung tiền trong nước và có thể gây ra
những bất ổn định trong hệ thống ngân hàng.
 Trường hợp tiền gửi của dân cư bằng ngoại tệ cao, nếu khi có biến động
làm cho người dân đổ xô đi rút ngoại tệ, trong khi số ngoại tệ này đã được ngân
hàng cho vay, đặc biệt là cho vay dài hạn, khi đó ngân hàng nhà nước của nước bị
đô-la hóa cũng không thể hỗ trợ được vì không có chức năng phát hành đô-la Mỹ.
- Chính sách tiền tệ bị phụ thuộc nặng nề vào nước Mỹ. Trong trường hợp
đô-la hóa chính thức, chính sách tiền tệ và chính sách lãi suất của đồng tiền khi đó
sẽ do nước Mỹ quyết định. Trong khi các nước đang phát triển và một nước phát
triển như Mỹ không có chu kỳ tăng trưởng kinh tế giống nhau, sự khác biệt về chu
kỳ tăng trưởng kinh tế tại hai khu vực kinh tế khác nhau đòi hỏi phải có những
chính sách tiền tệ khác nhau. Khi và nếu đồng đô-la dao động so với các đồng tiền
khác trên thế giới đôi lúc khá mạnh, thì sẽ không có cách nào để đối phó với những
cuộc khủng hoảng. Vì nước thực hiện đô-la hóa hoàn toàn trao quyền kiểm soát và
quyền đưa ra một chính sách tiền tệ tập trung và độc lập cho ngân hàng trung ương
của nước phát hành tiền. Cục Dự trữ Liên bang Mỹ sẽ chỉ đưa ra những quyết định
có lợi cho Mỹ và không quan tâm mấy đến tình hình ở các nước thực hiện đô-la
hóa. Cũng từ nguyên nhân trên, nước thực hiện đô-la hóa sẽ không thể đối phó với
các cú sốc kinh tế; ví dụ như dao động của giá dầu trên thị trường thế giới, bằng
cách thay đổi tỉ giá hối đoái. Đô-la hóa sẽ vô hiệu hóa phương thức sử dụng chính
sách tỉ giá hối đoái. Các cú sốc ngoại biên, dao động của đồng đô-la chỉ là một
trong số đó, sẽ không thể được đồng nội tệ hấp thụ bớt mà sẽ được truyền thẳng

vào các hoạt động kinh tế.
- Đô-la hóa chính thức sẽ làm mất đi chức năng của ngân hàng trung ương
là người cho vay cuối cùng của các ngân hàng. Trong các nước đang phát triển
chưa bị đô-la hóa hoàn toàn, mặc dù các ngân hàng có vốn tự có thấp, song người
dân vẫn tin tưởng vào sự an toàn đối với các khoản tiền gửi của họ tại các ngân
hàng. Nguyên nhân là do có sự bảo lãnh ngầm của Nhà nước đối với các khoản
tiền này. Điều này chỉ có thể làm được đối với đồng tiền nội tệ, chứ không thể áp
dụng được đối với đô-la Mỹ. Đối với vác nước đô-la hóa hoàn toàn, khu vực ngân
hàng sẽ trở nên bất ổn hơn trong trường hợp ngân hàng thương mại bị phá sản và
sẽ phải đóng cửa khi chức năng người cho vay cuối cùng của ngân hàng trung
ương đã bị mất.
Bên cạnh đó, xét về khía cạnh chi phí thì khi xảy ra đô-la hóa, chính phủ sẽ
mất đi chênh lệch giá phí tức là khoản chênh lệch giữa chi phí khi đưa đồng tiền
Tài Chính Quốc Tế Nhóm 7

Lớp: Tài chính – Ngân hàng CH9
12
vào lưu thông và giá trị hàng hóa mà đồng tiền đó mua được (ở đây, khái niệm
chênh lệch giá phí áp dụng cho toàn bộ cơ số tiền đang lưu hành cộng với dự trữ
ngân hàng). Nghiên cứu của Stanley Fischer, Phó giám đốc điều hành của IMF vào
năm 1982 đã chia chênh lệch giá phí từ đô-la hóa ra làm hai phần là “stock cost” và
“flow cost”. Theo Fischer, “stock cost” là chi phí một lần ban đầu khi đưa một
lượng tiền giấy, tiền xu đô-la cần thiết để thay cho đồng nội tệ đang lưu hành và
Fischer ước tính chi phí này chiếm khoảng 8% GNP với nhận định rằng càng nhiều
người thích sử dụng tiền giấy và tiền xu nhiều hơn séc và thẻ tín dụng thì “stock
cost” càng cao. Còn “flow cost” là chi phí liên tục mất đi do tiền giấy và tiền xu
không sinh lãi và tỉ lệ lạm phát càng cao thì “flow cost” càng cao với ước tính
khoảng 0,75% đến 1% GNP mỗi năm. Ngoài ra, nước thực hiện đô-la hóa còn phải
chịu các chi phí khác như chi phí cho một lần chuyển đổi giá cả, thay đổi chương
trình máy tính, thay thế hệ thống máy bán hàng tự động, máy rút tiền và cả những

chi phí do đánh mất sự độc lập và linh động trong chính sách tiền tệ khi phải bó
buộc với chính sách tiền tệ của nước có đồng tiền sử dụng trong thời kỳ giá cả tăng
vọt.
Ngoài việc đánh mất khả năng in tiền, là một trong những biện pháp tài chính
cực kỳ quan trọng, nước thực hiện đô-la hóa sẽ mất ưu quyền tiền tệ. Về cơ bản ưu
quyền tiền tệ là lợi nhuận thu được từ việc phát hành tiền. Đây là một hình thức
kinh doanh rất có lãi, vì giá in tiền và phát hành tiền (thật ra chỉ là một mảnh giấy
không có giá trị) thấp hơn rất nhiều so với giá trị những mặt hàng mà mảnh giấy
này sẽ mua được. Chính phủ Mỹ thu được khoảng 25 tỉ USD/năm từ ưu quyền tiền
tệ, và khi người dân các nước khác giữ tờ đô-la Mỹ trong tay- họ đã góp phần làm
giàu cho Bộ Tài chính Mỹ.
Một nhược điểm nữa của đô-la hóa là lo sợ tiền giả. Rủi ro về chính trị cũng
có thể xảy ra. Khi El Salvador tiến hành đô-la hóa, Đảng đối lập gọi đó là hành
động bán mình cho đế quốc. Thuyết phục người dân bản xứ sử dụng một loại tiền
không quen thuộc cũng không phải dễ. Một trong những khó khăn Argentina gặp
phải khi quyết định đô-la hóa sẽ là văn hóa: đô-la hóa có thể được coi là thua chủ
nghĩa thực dân, là dâng nộp biểu tượng niềm tự hào của đất nước.











Tài Chính Quốc Tế Nhóm 7


Lớp: Tài chính – Ngân hàng CH9
13
Phần 2
KHẢO SÁT THỰC TRẠNG VỀ TÌNH TRẠNG ĐÔ-LA
HÓA Ở VIỆT NAM

Do đặc thù của cơ chế quản lý và biến động của kinh tế thế giới có ảnh hưởng
đến Việt Nam, việc đánh giá tính chuyển đổi của VND và mức độ Đô-la hóa sẽ
chia thành ba giai đoạn.
2.1. GIAI ĐOẠN TRƯỚC KHI MỞ CỬA (1988)
Việt Nam thực hiện cơ chế quản lý tập trung bao cấp. Nhà nước nắm độc quyền
về ngoại thương, ngoại hối. Quy mô nền kinh tế nhỏ, khả năng cạnh tranh của hàng
hóa, dịch vụ rất thấp, kinh tế đối ngoại kém phát triển, hệ thống ngân hàng còn sơ
khai. Điều lệ quản lý ngoại hối ban hành kèm theo Nghị định số 102/CP ngày 06
tháng 7 năm 1963 của Chính phủ nghiêm cấm các tổ chức, cá nhân sở hữu, sử
dụng ngoại tệ trong nước (kể cả việc cất trữ, mang theo người), mọi giao dịch
trong nước phải thực hiện bằng VND. Việc chuyển đổi VND sang ngoại tệ được
thực hiện theo kế hoạch với cơ chế đa tỷ giá (tỷ giá mậu dịch, tỷ giá phi mậu dịch)
do Nhà nước công bố. Xuất nhập khẩu và thanh toán quốc tế chủ yếu theo các Hiệp
định song biên - đa biên, đồng tiền sử dụng trong quan hệ thanh toán đối ngoại
thường là đồng Rúp chuyển nhượng và đồng Nhân dân tệ mậu dịch. Vì vậy, khả
năng chuyển đổi của VND rất hạn chế. Về cuối giai đoạn xuất hiện dấu hiệu của
khủng hoảng kinh tế, VND suy yếu mạnh sau thất bại của chính sách giá - lương -
tiền, lạm phát tới 3 con số và liên tục có các đợt tăng giá vàng. Trong dân cư xuất
hiện việc mua vàng, ngoại tệ để tích trữ, đầu cơ giá và sử dụng làm phương tiện
thanh toán. Tuy nhiên mức độ ĐLH là không đáng kể do độ mở của nền kinh tế
còn rất nhỏ.
2.2 . GIAI ĐOẠN BẮT ĐẦU MỞ CỬA ĐẾN TRƯỚC KHỦNG HOÀNG TÀI
CHÍNH - TIỀN TỆ KHU VỰC (1988 - 1997)
2.2.1. Tính chuyển đổi của VND

Tính chuyển đổi của VND đã được nâng cao đáng kể so với giai đoạn trước do
vị thế của VND được phục hồi, chính sách quản lý ngoại hối có sự nới lỏng hơn và
khả năng đáp ứng ngoại tệ được cải thiện một bước.
Việt Nam chuyển sang xây dựng nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ
nghĩa. Nhà nước dần xoá bỏ chế độ độc quyền ngoại thương, đồng thời ban hành
nhiều chính sách để thúc đẩy kinh tế phát triển và mở rộng quan hệ kinh tế quốc tế.
Kinh tế tăng trưởng cao và khá ổn định, trung bình gần 8%/năm, lạm phát được
kiểm soát ở mức trên dưới 10%, kinh tế đối ngoại phát triển mạnh ở cả xuất nhập
khẩu, đầu tư và vay nợ nước ngoài. Cùng với thắng lợi trong việc kiềm chế lạm
phát, sự phát triển của hệ thống ngân hàng hai cấp đã khôi phục dần vị thế của
VND. Hình thành Trung tâm giao dịch ngoại tệ và sau đó là Thị trường ngoại tệ
Tài Chính Quốc Tế Nhóm 7

Lớp: Tài chính – Ngân hàng CH9
14
liên ngân hàng. Hệ thống thanh toán bắt đầu phát triển, VND được hỗ trợ bởi các
ngân phiếu thanh toán có mệnh giá lớn làm cho việc sử dụng thuận tiện hơn. Trong
điều kiện tỷ giá tương đối ổn định, lạm phát đã được kiềm chế nên mức lãi suất cao
làm cho VND trở nên khá hấp dẫn.
Trong giai đoạn này, Nghị định số 161-HĐBT ngày 18 tháng 10 năm 1988 của
Hội đồng Bộ trưởng ban hành Điều lệ quản lý ngoại hối của nước Cộng hòa xã hội
chủ nghĩa Việt Nam được ban hành thay thế Nghị định số 102/CP ngày 06 tháng
07 năm 1963 của Chính phủ về Điều lệ quản lý ngoại hối với nội dung mọi hoạt
động liên quan đến ngoại hối phải được quản lý bởi NHNN và Ngân hàng Ngoại
thương Việt Nam là ngân hàng được phép kinh doanh ngoại hối; những Ngân hàng
chuyên doanh, liên doanh với nước ngoài, chi nhánh ngân hàng nước ngoài, và tất
cả các tổ chức kinh tế khác muốn kinh doanh ngoại hối và thực hiện thu đổi ngoại
tệ phải được phép của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam. Ngày 14/01/1991 NHNN
ban hành quyết định số 08/NH/QĐ cho phép mọi thành phần trong nền kinh tế có
thể gửi tiết kiệm tại bất cứ các tổ chức tín dụng nào được phép kinh doanh ngoại tệ

mà không cần biết nguồn gốc của ngoại tệ. Ngày 16/08/1991 NHNN ra quyết định
số 107/NH/QĐ về việc ban hành quy chế tổ chức cách thức hoạt động của trung
tâm giao dịch ngoại tệ, NHNN đã ra quyết định này nhằm mục đích thể hiện được
vai trò của thị trường ngoại hối trong nền kinh tế, sự quản lý của Ngân hàng Nhà
nước trong quản lý ngoại hối và từng bước hình thành thị trường ngoại tệ liên ngân
hàng và quyết định số 48/QĐ-NH7 cho phép mọi thành phần kinh tế được gửi tiết
kiệm bằng ngoại tệ và có thể rút ra bằng ngoại tệ hoặc VND.
- Giao dịch vãng lai: tổ chức được mua ngoại tệ để thanh toán nhập khẩu, trả lãi
khoản vay nước ngoài hoặc chuyển lợi nhuận về nước của Nhà đầu tư nước ngoài
theo tỷ giá giao dịch của Ngân hàng. Kiều hối được khuyến khích chuyển ngoại tệ
về, được gửi vào ngân hàng và được rút ra bằng ngoại tệ. Công dân Việt Nam khi
có nhu cầu về ngoại tệ để đi công tác, học tập, lao động, du lịch chữa bệnh ở nước
ngoài được Ngân hàng Nhà nước (NHNN) xem xét cấp phép cho mua số ngoại tệ
cần thiết.
- Giao dịch vốn: tổ chức kinh tế được vay nước ngoài và mua ngoại tệ để trả nợ
nước ngoài. Nhà đầu tư nước ngoài được phép mua ngoại tệ trong một số trường
hợp đặc biệt (xây dựng hạ tầng hoặc sản xuất hàng thay thế nhập khẩu). Tuy nhiên,
còn nhiều hạn chế như: nhà đầu tư nước ngoài phải thực hiện chế độ tự cân đối
ngoại tệ, việc tiếp cận ngoại tệ phải có giấy phép của NHNN, vay nợ nước ngoài
phải được sự chấp thuận của NHNN, đầu tư trực tiếp ra nước ngoài không được
vay ngoại tệ của ngân hàng.
- Khả năng đáp ứng ngoại tệ: khả năng đáp ứng ngoại tệ của Hệ thống Ngân
hàng được cải thiện hơn do xuất khẩu tăng và nguồn vốn dài hạn nước ngoài vào
nhiều qua vay nợ và đầu tư trực tiếp. Thị trường ngoại tệ liên ngân hàng bắt đầu
phát huy tác dụng. Tỷ giá chính thức vẫn do NHNN công bố nhưng linh hoạt hơn
do đã áp dụng biên độ tỷ giá. Về cuối giai đoạn, khi khu vực bị khủng hoảng, vay
Tài Chính Quốc Tế Nhóm 7

Lớp: Tài chính – Ngân hàng CH9
15

nợ và đầu tư nước ngoài giảm mạnh thì cung - cầu ngoại tệ mất cân đối nghiêm
trọng. Mặt khác, do cơ chế tỷ giá còn thiếu linh hoạt, thị trường ngoại tệ kém phát
triển, công cụ thị trường còn hạn chế làm chu chuyển ngoại tệ trong nền kinh tế bị
ách tắc, khó mua được ngoại tệ nên các tổ chức kinh tế và ngân hàng cũng có xu
hướng đầu cơ, găm giữ ngoại tệ.
2.2.2 Mức độ đô-la hóa
Nhìn chung mức độ ĐLH có xu hướng giảm mạnh. Năm 1991, tỷ lệ FCD/M2
lên đến 41,2%, việc thanh toán bằng ngoại tệ hợp pháp và bất hợp pháp tương đối
nhiều, việc định giá bằng ngoại tệ và vàng (kể cả đối với các giao dịch nhỏ) trong
dân cư khá phổ biến. Nguyên nhân do ảnh hưởng của lạm phát phi mã giai đoạn
trước (đến năm 1991 lạm phát vẫn còn tới 67,5 %). Người dân ưa thích sử dụng
ngoại tệ còn do lợi ích thực tế của việc sử dụng trong cất trữ, vận chuyển, thanh
toán vì mệnh giá VND quá nhỏ, hệ thống thanh toán lại kém phát triển. Đến giai
đoạn 1993 -1996, khi lạm phát chỉ ở mức trên dưới 10%, tỷ giá biến động ít, việc
nắm giữ VND đã tỏ ra có lợi hơn nên mức độ ĐLH giảm mạnh, tỷ lệ FCD/M2 năm
1997 còn 22,9%. Đồng thời, Chính phủ cũng bắt đầu hạn chế việc thanh toán bằng
ngoại tệ, xoá bỏ các điểm bán hàng thu ngoại tệ, tăng cường các bàn đổi ngoại tệ.
Tuy nhiên, thị trường ngoại tệ tự do, yết giá và thanh toán ngoại tệ trong dân cư
vẫn chưa kiểm soát được do thói quen và các hoạt động kinh tế ngầm, do sự bất
tiện khi sử dụng VND vẫn chưa được giải quyết cơ bản. Các hoạt động ngoại hối
trái phép tồn tại chủ yếu bởi chưa được xử lý một cách kiên quyết do thiếu chế tài,
thiếu sự phối hợp của các cơ quan quản lý.
Bảng 2.2.2.1 : Tỷ lệ tiền gửi ngoại tệ trên tổng lượng tiền gửi vào các ngân
hàng Việt Nam trong giai đoạn 1989-1997
Đơn vị tính : %
Năm 1989 1990 1991 1992 1993 1994 1995 1996 1997
Tỷ lệ
FCD/M2

28,2 32,4 41,2 30,6 22,9 22,1 21 20,3 22,9

‘Nguồn : IMF : Staff Country Report No.00/116’

Bảng 2.2.2.2: Cơ cấu tiền gửi trong tổng huy động vốn của hệ thống ngân
hàng từ 1991-1997
Đơn vị tính: %
Năm 1991

1992

1993

1994

1995

1996

1997

Ngoại
tệ
61,8 50,3 41,1 38,9 33 31,4 33,1
VND 38,2 49,7 58,9 61,1 67 68,6 66,9
‘Nguồn : IMF : Staff Country Report No.00/116’

Tài Chính Quốc Tế Nhóm 7

Lớp: Tài chính – Ngân hàng CH9
16
2.3. GIAI ĐOẠN TỪ KHỦNG HOẢNG TÀI CHÍNH - TIỀN TỆ KHU VỰC

ĐẾN NAY
Việc đánh giá khả năng chuyển đổi của VND và mức độ ĐLH trong giai đoạn
này được chia thành 2 giai đoạn nhỏ hơn, đó là thời gian nền kinh tế chịu ảnh
hưởng của khủng hoảng và thời gian phục hồi, lấy lại đà tăng trưởng.
2.3.1. Từ 1998 đến 2001
a) Tính chuyển đổi của VND
Vị thế của VND tiếp tục được cải thiện tuy có bị ảnh hưởng của khủng hoảng
khu vực. Xét theo quy định về quản lý ngoại hối và cơ chế tỷ giá thì khả năng
chuyển đổi của VND có bước nâng cao so với giai đoạn trước. Tuy nhiên, khả
năng đáp ứng ngoại tệ trên thực tế có những hạn chế nhất định do cơ chế tỷ giá vẫn
còn thiếu linh hoạt, khó dự đoán, do chu chuyển ngoại tệ trong nền kinh tế còn bị
ách tắc.
Do khủng hoảng tài chính - tiền tệ khu vực, mức tăng GDP của Việt Nam giảm
mạnh, trung bình chỉ còn 6%/năm. Năm 1998, lạm phát lên đến 9,2% (so với mức
3,6% năm 1997), sau đó rơi vào giảm phát mà thấp nhất vào năm 2000 (-0,6%).
Trong giai đoạn này, tăng trưởng xuất nhập khẩu cũng biến động với mức độ lớn,
đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) suy giảm mạnh và vay nợ nước ngoài gặp khó
khăn.
Nhà nước đã áp dụng một số biện pháp tích cực như đẩy mạnh tự do hóa thương
mại, cải tổ chính sách thuế, ban hành các Luật quan trọng như Luật Doanh nghiệp,
Luật Thương mại. Chính phủ đẩy mạnh cải cách hành chính nhằm tạo mọi điều
kiện thuận lợi cho các doanh nghiệp phát triển, đồng thời thực hiện việc đổi mới,
cổ phần hóa các doanh nghiệp nhà nước, hình thành các tập đoàn kinh tế mạnh để
nâng cao năng lực cạnh tranh sau khi ký Hiệp định Thương mại Việt - Mỹ. Hệ
thống ngân hàng tiếp tục được củng cố sau khi ban hành Luật Ngân hàng Nhà nước
và Luật Các Tổ chức tín dụng. Tiến hành việc sắp xếp, cơ cấu lại các NHTM cổ
phần và chuẩn bị các phương án củng cố NHTM Nhà nước. Hình thành thị trường
chứng khóan với quy định cho các nhà đầu tư nước ngoài tham gia thị trường.
Để hạn chế tác động tiêu cực của khủng hoảng và tiếp tục mở rộng hội nhập
kinh tế quốc tế, ngày 17 tháng 8 năm 1998, Chính phủ đã ban hành Nghị định số

63/1998/NĐ-CP về quản lý ngoại hối cùng với một loạt các văn bản quy phạm
pháp luật khác có liên quan đến quản lý ngoại hối. Các chính sách mới được ban
hành là một tiến bộ về cơ chế quản lý ngoại hối theo hướng chuyên nghiệp và phù
hợp hơn với thông lệ quốc tế.
- Giao dịch vãng lai: hình thành cơ bản xu hướng tự do hóa các giao dịch vãng
lai so với quy định của IMF. Chỉ còn một số hạn chế liên quan đến thuế chuyển lợi
nhuận ra nước ngoài của doanh nghiệp FDI, hạn chế chuyển ngoại tệ ra nước ngoài
của các cá nhân.
Tài Chính Quốc Tế Nhóm 7

Lớp: Tài chính – Ngân hàng CH9
17
- Giao dịch vốn: có một số nới lỏng hơn về kiểm soát vay ngắn hạn nước ngoài
và điều kiện vay nợ nước ngoài, các doanh nghiệp được quyền tự chủ trong việc
thoả thuận, ký kết hợp đồng vay vốn nước ngoài, sau đó phải thực hiện đăng ký
khoản vay với NHNN (trừ trường hợp là doanh nghiệp nhà nước). Xoá bỏ chế độ
tự cân đối ngoại tệ đối với doanh nghiệp FDI.
- Khả năng đáp ứng ngoại tệ: do ảnh hưởng của khủng hoảng và tình trạng đầu
cơ, găm giữ ngoại tệ nên khả năng đáp ứng ngoại tệ của hệ thống ngân hàng gặp
khó khăn. Để điều hoà cung - cầu, Chính phủ đã phải áp dụng chế độ kết hối ngoại
tệ với tỷ lệ rất cao, đồng thời phải áp dụng một số hình thức ưu tiên bán ngoại tệ,
giấy phép mua ngoại tệ đối với doanh nghiệp FDI. Trong thời gian này, tỷ giá hối
đoái của VND có biến động do ảnh hưởng của khủng hoảng.
b) Mức độ Đô-la hóa
Sau một thời gian giữ ổn định ở mức tương đối thấp khoảng trên 20%, tỷ lệ
FCD/M2 lại có dấu hiệu tăng lên trong giai đoạn này và đến năm 2000 - 2001 đã
tăng cao trở lại đến gần 30%. Nguyên nhân là trong suốt một thời gian dài, kinh tế
Mỹ tăng trưởng cao và ổn định làm cho đồng USD hấp dẫn hơn các ngoại tệ khác.
Mặt khác, các chính sách mới ban hành đã tạo sự tin tưởng của người dân, thu hút
được một lượng lớn ngoại tệ từ thị trường tự do vào hệ thống ngân hàng. Tâm lý

ĐLH trong giai đoạn này cũng một phần do tác động của khủng hoảng và kỳ vọng
của thị trường vào sự phá giá của VND.
2.3.2. Từ 2002 đến nay :
a) Tính chuyển đổi của VND
Vị thế của VND được cải thiện mạnh mẽ qua sự đổi mới về mệnh giá, hình
thức của đồng tiền, sự phát triển của hệ thống Tổ chức tín dụng (TCTD) với nhiều
tiện ích và hệ thống thanh toán hiện đại. Điều hành Chính sách tiền tệ đã có sự thay
đổi về chất và quy định quản lý ngoại hối tiếp tục được nới lỏng. Về cơ bản, các
giao dịch vãng lai và một phần giao dịch vốn đã tự do hóa. Khả năng đáp ứng
ngoại tệ tiếp tục được cải thiện, nhìn chung đã đáp ứng tương đối đầy đủ các giao
dịch được phép.
Kinh tế phục hồi và bắt đầu lấy lại đà tăng trưởng với tốc độ trên 7%/năm,
kim ngạch xuất nhập khẩu lần đầu tiên đạt gần 60 tỷ USD vào năm 2004. Đầu tư
và vay nợ nước ngoài cũng tăng mạnh do sự nỗ lực của Chính phủ trong việc cải
thiện môi trường đầu tư. Tuy nhiên, lạm phát đột ngột tăng cao trở lại với mức
9,5% năm 2004 do nhiều nguyên nhân, đặc biệt là thiên tai, dịch cúm gia cầm và
giá nguyên, nhiên liệu trên thế giới tăng.
Đây là thời kỳ Nhà nước đẩy mạnh công nghiệp hóa - hiện đại hóa và thực
hiện lộ trình hội nhập quốc tế, ban hành nhiều văn bản quy phạm pháp luật quan
trọng như Luật Đầu tư nước ngoài sửa đổi, Luật Cạnh tranh, xây dựng Luật Đầu tư
chung để chuẩn bị cho việc gia nhập WTO.
Tài Chính Quốc Tế Nhóm 7

Lớp: Tài chính – Ngân hàng CH9
18
Với sự biến đổi nhanh của nền kinh tế, Nghị định số 63/1998/NĐ-CP cũng
như các văn bản khác liên quan đến quản lý ngoại hối đã tỏ ra bất cập cần phải bổ
sung, sửa đổi. Đồng thời, để tiếp tục hoàn thiện chính sách quản lý ngoại hối theo
một định hướng dài hạn hơn, Quốc hội đã chỉ đạo xây dựng và ban hành Pháp lệnh
ngoại hối. Bên cạnh đó một số văn bản điều chỉnh chính sách quản lý ngoại hối đã

được bổ sung nhằm phát triển thị trường ngoại hối qua việc hoàn thiện các công cụ
phái sinh để tạo điều kiện tiến đến một cơ chế tỷ giá hối đoái linh hoạt hơn.
- Giao dịch vãng lai: để thực hiện kế hoạch gia nhập WTO, Việt Nam đã thực
hiện tự do hóa giao dịch vãng lai và điều này đã được IMF công nhận.
- Giao dịch vốn: đã bỏ quy định về thời hạn chuyển ngoại tệ sau 01 năm đối với
đầu tư chứng khóan. Giao dịch vốn còn những hạn chế sau:
+ Doanh nghiệp nhà nước vay nước ngoài phải có ý kiến của NHNN trước khi
ký Hợp đồng vay.
+ Doanh nghiệp FDI vẫn còn danh mục ưu tiên cân đối ngoại tệ.
+ Còn hạn chế tỷ lệ góp vốn trong các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài.
+ Chưa có quy định về đầu tư gián tiếp ra nước ngoài.
+ Đầu tư của nước ngoài vào thị trường chứng khóan còn bị hạn chế về tỷ lệ
mua và tỷ lệ nắm giữ.
+ Góp vốn mua cổ phần của Nhà đầu tư nước ngoài còn bị hạn chế.
+ Còn hạn chế các hình thức vay nước ngoài.
- Khả năng đáp ứng ngoại tệ: quan hệ cung cầu ngoại tệ có sự cải thiện đáng kể
do cơ chế tỷ giá đã có sự thay đổi cơ bản. Tuy NHNN vẫn công bố tỷ giá bình
quân thị trường ngoại tệ liên ngân hàng nhưng biên độ đã nới rộng ra +/- 0,5%.
Đồng thời đã mở rộng thời gian của giao dịch kỳ hạn (từ 3 ngày đến 365 ngày), bỏ
các trần kỳ hạn cố định để xác định tỷ giá kỳ hạn theo mức chênh lệch lãi suất giữa
hai đồng tiền. Đặc biệt, NHNN đã cho áp dụng thí điểm giao dịch quyền chọn với
mức phí theo thoả thuận. Với những quy định hiện hành, tỷ giá đã phản ánh tương
đối sát với quan hệ cung - cầu ngoại tệ trên thị trường cũng như kỳ vọng về giá trị
đối ngoại của VND. Tuy đến nay chưa có một khiếu nại nào đối với việc không
mua được ngoại tệ để đáp ứng các giao dịch vãng lai và giao dịch vốn theo quy
định nhưng thực tế khả năng đáp ứng ngoại tệ của các NHTM không cao qua việc
nhiều Dự án FDI vẫn yêu cầu được Chính phủ đảm bảo cân đối ngoại tệ, vẫn tồn
tại chế độ ưu tiên bán ngoại tệ để nhập khẩu xăng dầu. Hơn nữa, lạm phát cao và
nhập siêu gia tăng trong khi Dự trữ ngoại hối Nhà nước còn hạn chế là những vấn
đề đang và tiếp tục ảnh hưởng tiêu cực đến tính chuyển đổi của VND.

b) Mức độ Đô la hóa
Tỷ lệ FCD/M2 liên tục giảm trong những năm gần đây, đến năm 2003 còn
23,6%. Thanh toán và kinh doanh ngoại tệ vẫn tiếp tục phát triển. Theo kết quả
khảo sát năm 2002 của Đề tài nghiên cứu khoa học ngành Ngân hàng, hoạt động
của thị trường ngoại tệ tự do có quy mô từ 4 - 6 tỷ USD/năm, tương đương 1/3 kim
ngạch nhập khẩu năm đó; theo nguyên Tổng Bí thư Lê Khả Phiêu, số ngoại tệ trôi
Tài Chính Quốc Tế Nhóm 7

Lớp: Tài chính – Ngân hàng CH9
19
nổi ngoài thị trường tự do ước khoảng 5 tỷ USD. Đô-la hóa trong niêm yết, định
giá bằng ngoại tệ còn phổ biến. Đến năm 2004 khi lạm phát ở mức 9,5% và lãi suất
USD trên thế giới tăng, chênh lệch lãi suất giữa VND và ngoại tệ trong nước giảm
thì tỷ lệ FCD/M2 đang có biểu hiện gia tăng trở lại, đạt gần 24%.

Bảng 2 Các nước giao thương chính của Việt Nam



Biểu đồ 1 Tỉ lệ lạm phát hàng năm của VN

Tài Chính Quốc Tế Nhóm 7

Lớp: Tài chính – Ngân hàng CH9
20
2.4. ĐÁNH GIÁ CHUNG VỀ TÍNH CHUYỂN ĐỔI CỦA VND VÀ MỨC ĐỘ
ĐÔ-LA HÓA
2.4.1. Tính chuyển đổi của VND
So sánh với các giai đoạn trước, tính chuyển đổi trong nước của VND đã tăng
rất nhiều do vị thế của VND liên tục được nâng lên, chính sách quản lý ngoại hối

đã thực hiện tự do hóa các giao dịch vãng lai và tiếp tục tự do hóa có chọn lọc các
giao dịch vốn. Khả năng đáp ứng ngoại tệ của hệ thống ngân hàng cũng liên tục
được cải thiện qua việc đổi mới cơ chế tỷ giá và sự phát triển, hoàn thiện các công
cụ phái sinh trên thị trường ngoại tệ. Tuy nhiên, căn cứ vào trình độ phát triển của
nền kinh tế, mức độ ĐLH, trình độ của Hệ thống Ngân hàng, dịch vụ thanh toán,
quy mô và hiệu quả hoạt động của các thị trường tài chính, sự bất tiện trong sử
dụng, và đặc biệt sự gia tăng của chỉ số lạm phát thì có thể nói rằng, vị thế của
VND chưa cao, chưa được thị trường thực sự tin tưởng và ưa thích; về tính chuyển
đổi quốc tế thì VND hầu như vẫn chưa có khả năng chuyển đổi ở nước ngoài. Bên
cạnh đó, chính sách quản lý ngoại hối vẫn còn nhiều hạn chế, cơ chế tỷ giá còn
thiếu linh hoạt, thị trường ngoại tệ (nhất là thị trường ngoại tệ liên ngân hàng) còn
kém phát triển, chu chuyển ngoại tệ chưa thông suốt làm giảm khả năng đáp ứng
ngoại tệ. Các yếu tố trên đã hạn chế tính chuyển đổi của VND.


Biểu đồ 2 Tỉ giá giữa VND và USD
2.4.2. Mức độ ĐLH
Căn cứ mức độ sử dụng ngoại tệ để thay thế các chức năng của VND thì mức
độ ĐLH trong nền kinh tế khá trầm trọng. Tỷ lệ FCD/M2 lúc lên cao, lúc hạ thấp,
tuy nhiên, do tiết kiệm ngoại tệ được rút ra bằng ngoại tệ tiền mặt nên không phản
ánh được mức độ ĐLH thực sự. Vấn đề gây hậu quả nhiều nhất là khối lượng ngoại
tệ trôi nổi trong dân cư, không kiểm soát được, gây ra hiện tượng thanh toán, định
Tài Chính Quốc Tế Nhóm 7

Lớp: Tài chính – Ngân hàng CH9
21
giá và kinh doanh ngoại tệ trái phép. Nếu lấy lượng kiều hối chuyển về Việt Nam
trong thời gian qua trừ đi số ngoại tệ các ngân hàng huy động được của dân cư thì
ước tính số ngoại tệ trôi nổi ngoài thị trường bằng khoảng 1/3 kim ngạch nhập
khẩu năm 2004.



Biểu đồ 3 Đô-la hóa trong lượng tiền gửi ngân hàng


Biểu đồ 4 Tỉ lệ M2 trong nền kinh tế VN
Tài Chính Quốc Tế Nhóm 7

Lớp: Tài chính – Ngân hàng CH9
22

Biểu đồ 5 Lãi suất tiền gửi bằng VND và USD

2.4.3. Nguyên nhân của thực trạng trên
Nguyên nhân mang tính lịch sử, đó là sự mất lòng tin vào đồng nội tệ của
người dân do những cuộc khủng hoảng tiền tệ sau năm 1985 và những năm 1997-
1998. Thêm vào đó là hiện tượng lạm phát phi mã trong những năm cuối thập niên
80, đầu thập niên 90 càng làm làm cho đồng nội tệ mất giá nhanh và tạo cho những
người giữ tiền cảm thấy quá rủi ro khi giữ một khối lượng đồng nội tệ lớn. Hơn thế
nữa, sau một thời gian ổn định, chỉ số giá đang ngày càng gia tăng khiến mọi người
thêm ngần ngại hơn trong việc chuyển từ ngoại tệ sang VNĐ. Người ta thích dùng
USD không chỉ vì tính ổn định mà còn vì sự gọn nhẹ và tiện dụng của nó.
Việc phá giá VND vào năm 1985 và những năm 1997 – 1998 đã làm cho
người giữ tiền đồng cảm thấy bị thiệt hại hơn so với giữ ngoại tệ. Do nền kinh tế
còn nằm trong tình trạng nghèo nàn lạc hậu gặp phải những sai lầm trong cải tạo
các thành phần kinh tế nhất là cải tạo giới công thương nghiệp miền Nam để áp
dụng cơ chế bao cấp giống như ở miền Bắc nên lạm phát tiếp tục gia tăng, từ chỗ
giá trị đồng tiền (đồng NHNN VN được đổi ngày 2/5/1978) sát với sức mua của đô
la Mỹ (1,25đ/1USD) đã nhanh chóng bị dãn ra, đồng tiền NHNN VN mất giá mạnh
so với đồng USD, tháng 9/1985 tỷ giá giữa tiền đồng và USD là 150đ/USD.

Trước tình hình đó, 14/9/1985 Nhà nước tiến hành đổi tiền lần 4 theo tỷ lệ 10đ tiền
NHNN cũ ăn 1đ tiền NHNN mới. Đây là cuộc cách mạng tiền tệ theo trật tự ngược
Tiền – Lương – Giá. Sau đổi tiền tình trạng lạm phát càng tăng cao, 1986 lạm phát
đạt 774%. Tháng 3 năm 1989 Việt Nam duy trì một hệ thống tỷ giá hối đoái có
nhiều mức khác nhau đều có lợi cho nhập khẩu. Để hỗ trợ hoạt động xuất khẩu
(năm 1989 Việt Nam đẩy mạnh đổi mới nền kinh tế nhằm mở rộng tự do hóa nền
kinh tế và thay đổi sản xuất công nghiệp từ thay thế nhập khẩu sang định hướng
Tài Chính Quốc Tế Nhóm 7

Lớp: Tài chính – Ngân hàng CH9
23
xuất khẩu), tỷ giá VND so với USD được phá giá cho các giao dịch thương mại
trong khuôn khổ các kế hoạch Trung ương. Biến động tỷ giá được thể hiện qua
bảng sau:

Đvt: Đồng/USD

Năm Tỷ giá cũ Tỷ giá mới
Tháng 9/1988 225 900
1989 4.000
1992 11.500
1993 10.750
1994 10.800
1995 11.000

Ngay cả các Ngân hàng thương mại cũng có hiện tượng này. Hiện các Ngân
hàng đang có cơ cấu dự trữ ngoại tệ bất hợp lý, trong khi thừa USD nhưng lại thiếu
trầm trọng các ngoại tệ khác như Euro, Nhân dân tệ, Yên Nhật. Châu Âu, Trung
Quốc, Nhật Bản là những đối tác thương mại ngày càng chiếm tỷ trọng lớn trong
cán cân xuất nhập khẩu của Việt Nam, nhưng khi doanh nghiệp có nhu cầu các

ngoại tệ ngoài USD thì Ngân hàng lại hầu như không đáp ứng được. Hơn thế nữa,
để tạo ra lợi nhuận, các ngân hàng trong nước đã đem phần lớn nguồn USD gửi ra
các ngân hàng nước ngoài, nhất là Singapore và Hong Kong, để kiếm lãi suất cao.
Điều này chỉ làm tình hình thêm xấu hơn vì những đồng USD đã không được đầu
tư trong nước đồng thời phải gánh chịu rủi ro từ bên ngoài. Sau đó họ đã cho các
doanh nghiệp trong nước vay. Mức tăng tín dụng ngoại tệ đạt mức cao điểm 41%
vào năm 2003. Tính đến cuối năm 2003, khoản tiền được các ngân hàng cho vay
bằng đô-la đã chiếm đến 28%. Điều này làm cho doanh nghiệp đi vay USD sẽ gặp
rất nhiều khó khăn khi VND bị giảm giá. Các doanh nghiệp này chủ yếu có doanh
thu bằng VND nhưng phải trả nợ bằng USD. Họ phải đứng trước các rủi ro về thay
đổi tỉ giá giữa USD và VND mà không có những công cụ để phòng tránh rủi ro.
Ngoài ra, do chênh lệch giữa tỷ giá ấn định của NHNN với tỷ giá thị trường
tự do khá lớn. Trong khi tỷ giá công bố của NHNN chỉ dao động ở mức trên
16.000 VND/USD thì trên thị trường tự do, giá USD lên đến mức 18.000
VND/USD. Sự chênh lệch này đã góp phần làm xuất hiện nạn đầu cơ USD, làm
cho thị trường tiền tệ và tỷ giá hối đoái càng thêm phức tạp.
Mặt khác, đồng đô-la ở nước ta được sử dụng khá tự do. Mặc dù chính sách
quản lý ngoại hối hiện hành không cho phép USD được sử dụng ngoài hệ thống
Tài Chính Quốc Tế Nhóm 7

Lớp: Tài chính – Ngân hàng CH9
24
ngân hàng, nhưng lại cho phép người dân được nhận kiều hối bằng ngoại tệ, được
gửi ngoại tệ không kể nguồn gốc tại các ngân hàng và được rút cả gốc và lãi bằng
ngoại tệ. Chính việc cho phép sử dụng gần như hợp pháp hóa đồng USD tại Việt
Nam để mua các loại hàng hóa như bất động sản, mặt hàng điện tử, xe cộ, phí
khách sạn đã làm tăng quá trình đô-la hóa.
Ngoài ra một nguyên nhân khác cũng rất quan trọng, nền kinh tế Việt Nam
là nền kinh tế tiền mặt, rất dễ dàng cho hoạt động mua bán sử dụng ngoại tệ công
khai. Hiện tượng niêm yết, quảng cáo sản phẩm bằng ngoại tệ vẫn còn phổ biến

công khai tuy NHNN đã có quy định cấm niêm yết quảng cáo bằng ngoại tệ đối
với các doanh nghiệp không có thu bằng ngoại tệ (Số 985/NHNN-QLNH). Trong
thời gian gần đây hoạt động niêm yết mua bán ngoại tệ tự do không còn công khai
nhưng hoạt động mua bán ngọai tệ ngầm vẫn tiếp diễn. Các quầy thu đổi chính
thức không kiếm chác được bao nhiêu nếu theo đúng nghĩa vụ với ngân hàng,do đó
họ làm theo kiểu thỏa thuận với nhau, họ đổi ngoại tệ cho cả những người lý ra
không được đổi, bán cho những người lẽ ra không được bán. Bên cạnh đó, tâm lý
người dân và các doanh nghiệp thích vẫn thích mua bán trên thị trường chợ đen, đã
làm cho một số lớn ngoại tệ chui vào túi tư nhân. Ngân hàng muốn thu mua ngoại
tệ mà không được vì ba lý do:
- Thứ nhất: Tỷ giá hối đoái của VND/USD cố định và biên độ giao động thấp
khoảng 0.25%, điều này tạo một khoảng cách giữa thị trường ngoại tệ tự do và tỷ
giá công bố của ngân hàng thương mại nên người dân có đôla thường đi đổi tại các
nơi đổi tiền của tư nhân có lợi hơn là ra ngân hàng.
- Thứ hai: đổi tiền tại các địa điểm tư thường dễ dàng và nhanh chóng hơn và
không bị các thủ tục hành chánh rườm rà chi phối. Theo quy định hiện nay của
NHNN, ở các ngân hàng cánhân doanh nghiệp khi mua ngoại tệ phải có mục đích
rõ ràng và có các chứng từ chứng minh cho mục đích hợp pháp.
- Thứ ba: Ngân hàng nhà nước hay những ngân hàng được phép kinh doanh
ngoại tệ thường không đủ đôla để cấp cho các doanh nghiệp có nhu cầu nhập cảng
hàng hóa hay dịch vụ nên các cơ sở này phải mua đôla của tư nhân. Bên cạnh đó,
ta phải nhận thức ra tâm lý thích sử dụng, cất trữ ngoại tệ đã ngấm sâu vào tư
tưởng của một bộ phận tầng lớp dân cư. Có thể sử dụng ngoại tệ tiện lợi, gọn gàng
hơn so với VND. Thực tế, nếu trong một chuyến công cán, một người cần chi tiêu
khoảng 30 triệu đồng , thì người đó cần phải mang theo 60 tờ 500.000 hoặc 300 tờ
100.000. Nhưng nếu mang bằng USD chỉ cần khoảng 20 tờ 100 đô, nếu bằng EUR
chỉ cần 3 tờ 500 EUR. Rất là tiện lợi, ở đâu cũng chấp nhận, cũng có thể đổi được.
Tình trạng tham nhũng cũng góp phần tạo nên hiện tượng đôla hóa xã hội
nhất là khi đi phong bì bằng ngoại tệ vừa gọn vừa lịch sự. Đây chính là những nỗi
nhức nhối bức xúc là vấn đề nan giải đối với nhà nước nếu muốn hạn chế “đôla

hóa” xã hội.

Tài Chính Quốc Tế Nhóm 7

Lớp: Tài chính – Ngân hàng CH9
25
Thêm vào đó, nguồn ngoại tệ tiền mặt ở nước ta không ngừng tăng nhanh,
đặc biệt là USĐ bởi vì nước ta có rất nhiều kênh để huy động ngoại tệ:
 Nguồn kiều hối của Việt Nam có xu hướng tăng dần qua các năm với tốc độ
tăng trưởng rất nhanh lớn hơn 10% nhưng lại sụt giảm trong năm 2009; số liệu
năm 1991 lượng kiều hối của Việt Nam là 35 triệu USD, năm 1992 đạt 136,6 triệu
USD và đến năm 2008 đạt mức kỷ lục với 7.200 triệu USD. Lượng kiều hối của
Việt Nam tăng dần từ năm 1991 đến năm 2008 do các yếu tố sau: i) Số lượng
người Việt Nam sống và làm việc tại nước ngòai có xu hướng gia tăng qua các
năm và tính đến năm 2008 thì số lượng này đạt khoảng 3 triệu người và sống tập
trung chủ yếu trên 40 quốc gia và vùng lãnh thổ khác nhau; ii) Với điều kiện làm
ăn, sinh sống tốt tại các quốc gia mà cư dân Việt Nam sinh sống đó là điều kiện vô
cùng tốt cho cư dân Việt Nam tạo ra thu nhập và gửi về Việt Nam; iii) Ngoài ra với
nhiều chính sách tạo điều kiện vô cùng tốt của chính phủ các nước và chính phủ
Việt Nam đã làm cho lượng kiều hối gia tăng mạnh từ năm 1991 đến 2008. Trong
năm 2009 lượng kiều hối của Việt Nam giảm sút trong khi đó số lượng người Việt
Nam sinh sống và làm việc tại nước ngoài có xu hướng gia tăng điều này được giải
thích là do ảnh hưởng của khủng hoảng tài chính toàn cầu đã ảnh hưởng không nhỏ
đến các quốc gia mà cư dân Việt Nam sinh sống và điều này làm cho lượng thất
nghiệp gia tăng, hoạt động kinh doanh của người dân trì trệ dẫn tới lượng kiều hối
giảm sút mạnh trong năm 2009; ngoài ra thì lượng kiều hối trong năm 2009 chuyển
về nước qua các kênh không phải ngân hàng gia tăng theo số liệu không chính thức
đã làm cho lương kiều hối trong năm 2009 giảm sút so với năm 2008. Theo các
chuyên gia tài chính tại Việt Nam dự đoán trong năm 2010 lượng kiều hối khoảng
hơn sáu tỷ đô la sau khi loại bỏ các yếu tố rủi ro và tính đến tháng 04 năm 2010 thì

kiều hối về thông qua các ngân hàng trên địa bàn Tp.HCM là khoảng 1.700 triệu
đô la.
Đơn vị tính: Triệu USD
N
ăm



ng ki

u
hối
Năm



ng ki

u
hối
1991 35 2001 1.820
1992 136,6 2002 2.150
1993 140,98 2003 2.580
1994 249,47 2004 3.800
1995 284,96 2005 4.400
1996 468,99 2006 5.200
1997 400 2007 6.700
1998 950 2008 7.200
1999 1.200 2009 6.283
2000 1.757

×