Tải bản đầy đủ (.pdf) (42 trang)

Bài giảng tài chính công

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (615.99 KB, 42 trang )

1
CHƯƠNG 1:
NGÂN SÁCH NHÀ NƯỚC

I. LỊCH SỬ HÌNH THÀNH NSNN

Qua những cuộc chinh phạt khốc liệt giữa các bộ tộc trong thời kỳ sơ khai của lịch sử, đã xuất
hiện một tầng lớp cai trị bên trên xã hội, đó là Nhà nước. Để có tiền chi tiêu, Nhà nước đã đặt ra
chế độ thuế khóa bắt toàn dân phải cống nạp. Có những loại thuế hết sức bất công đã đè đầu, cưỡi
cổ dân nghèo mà ngày nay chúng ta còn được th
ấy qua các tác phẩm văn học đề cập đến nó.
Từ các khoản thu từ thuế hình thành nên quỹ tiền tệ của Nhà nước. Đầu tiên Nhà nước sử dụng
quỹ tiền tệ này để nuôi dưỡng viên chức và binh lính của Nhà nước. Sau đó phạm vi được mở rộng,
và ngày nay, Nhà nước còn dùng tiền quỹ của mình để chi tiêu cho các khoản phúc lợi và kinh tế.

Trước khi chủ nghĩa tư bản xuất hiện, Nhà nước không hề có một văn bản tài chính nào bao quát
hết tất cả các khoản thu, chi của mình trong từng thời kỳ. Thông thường, mỗi một khoản chi được
bảo đảm bằng một hay một số khoản thu nhất định và được thể hiện trong một bảng dự toán riêng
biệt, thậm chí có những khoản chi không cần dự toán. Lúc bấy giờ quyề
n hành thu, chi đều thuộc
về người đứng đầu Nhà nước, họ không chịu bất kỳ một sự kiểm soát nào của xã hội.
Khi chủ nghĩa tư bản xuất hiện đã tạo ra những tiền đề để hình thành và phát triển một hệ thống
tài chính hoàn chỉnh, nhất là NSNN. Giai cấp tư sản đã lãnh đạo quần chúng chống lại những luật lệ
tài chính vô lý của Nhà nước phong kiến,
đòi hỏi sự hổ trợ về tài chính từ phía Nhà nước, sửa đổi hệ
thống thuế khóa và thiết lập sự kiểm tra của xã hội đối với các khoản thu, chi của Nhà nước. Kết
quả của quá trình đấu tranh này là đã xóa bỏ được sự độc quyền chi tiêu của người đứng đầu Nhà
nước, hình thành một NSNN theo những tiêu chuẩn định mức công khai và được lập cho từng thời
kỳ
nhất định, đó là một hệ thống NSNN tương đối hoàn chỉnh như hiện nay.
II. KHÁI NIỆM VÀ BẢN CHẤT CỦA NSNN



1. Khái niệm về NSNN
- NSNN là dự toán thu - chi bằng tiền của Nhà nước trong một khoảng thời gian nhất định
(thường là một năm).
Như vậy, NSNN là một kế hoạch tài chính cơ bản của quốc gia, trong đó gồm có kế hoạch thu, kế
hoạch chi và được lập theo phương pháp cân đối (thu phải đủ chi, chi không vượt thu).
- Theo Luật ngân sách nhà nước Việt Nam thì: “NSNN là toàn bộ các khoản thu, chi của
Nhà nước đã được cơ quan nhà nước có thẩm quyề
n quyết định và được thực hiện trong một năm
để bảo đảm thực hiện các chức năng , nhiệm vụ của Nhà nước.
2
Năm ngân sách hay còn gọi là năm tài chính, là giai đoạn mà trong đó, dự toán thu - chi tài chính
đã được phê chuẩn của Quốc hội có hiệu lực thi hành. Ở tất cả các nước, năm ngân sách đều có thời
hạn bằng một năm dương lịch, nhưng thời điểm bắt đầu và kết thúc ở mỗi nước có khác nhau. Ở đa
số các nước, năm ngân sách trùng với năm dương lịch (bắt đầu ngày 1/1 và k
ết thúc vào ngày
31/12), như: Pháp, Bỉ, Hà Lan, Trung Quốc, Philippine, Ở các nước khác, thời điểm bắt đầu và
kết thúc năm ngân sách thường rơi vào tháng 3, 4, 6 hoặc 7 hàng năm. Cụ thể là: Anh, Nhật,
Canada, Singapore . . có năm ngân sách bắt đầu vào ngày 1/4 năm trước và kết thúc vào ngày
31/3 năm sau; Ý, Na - Uy, Đài Loan, Uïc có năm ngân sách bắt đầu vào ngày 1/7 năm trước và
kết thúc vào ngày 30/6 năm sau; Mỹ có năm ngân sách bắt đầu vào ngày 1/10 năm trước và kết
thúc vào ngày 30/9 năm sau.
Việc quy định năm ngân sách hoàn toàn là ý định ch
ủ quan của Nhà nước. Tuy nhiên, ý định này
cũng bắt nguồn từ những yếu tố tác động khác nhau, trong đó có hai yếu tố cơ bản là:
- Đặc điểm hoạt động của nền kinh tế có liên quan đến nguồn thu của ngân sách Nhà nước
(chế độ kế toán, thống kê; tính thời vụ của sản xuất nông nghiệp).
- Đặc điểm hoạt động của cơ quan lập pháp (các kỳ họp của Quốc Hội để phê chuẩn NSNN.
Ở nước ta, năm ngân sách bắt đầu từ ngày 1/1 và kết thúc vào ngày 31/12 hàng năm. Điều này
phù hợp với các kỳ họp của Quốc Hội.

2. Bản chất của NSNN
NSNN là hệ thống những mối quan hệ kinh tế giữa Nhà nước và xã hội, phát sinh trong quá trình
nhà nước huy động và sử dụng các nguồn tài chính nhằm đảm bảo yêu cầu thực hiện các chức nă
ng
của Nhà nước.
Các quan hệ kinh tế này bao gồm:
- Quan hệ kinh tế giữa NSNN với các doanh nghiệp sản xuất kinh doanh.
- Quan hệ kinh tế giữa NSNN với các đơn vị hành chính sự nghiệp.
- Quan hệ kinh tế giữa NSNN với các tầng lớp dân cư.
- Quan hệ kinh tê úgiữa NSNN và thị trường tài chính.
- Quan hệ kinh tế giữa NSNN với hoạt động tài chính đối ngoại.
III. VAI TRÒ CỦA NSNN

1. Ngân sách nhà nước - công cụ huy động nguồn tài chính để đảm bảo các nhu cầu
chi tiêu của nhà nước.
3
Đây là vai trò lịch sử của ngân sách nhà nước, mà trong cơ chế nào và trong thời đại nào ngân
sách nhà nước cũng phải thực hiện. Vai trò này của ngân sách nhà nước được xác định trên cơ sở
bản chất kinh tế của ngân sách nhà nước . Sự hoạt động của nhà nước trong các lĩnh vực chính trị ,
kinh tế, xã hội luôn đòi hỏi phải có các nguồn tài chính để chi tiêu cho những mục đích xác định.
Các nhu cầu chi tiêu của nhà nước phải đượ
c thỏa mãn từ các nguồn thu bằng hình thức thuế và
thu ngoài thuế.
Việc huy động nguồn thu vào tay nhà nước để đảm bảo các yêu cầu chi tiêu cần thiết phải chú
ý đến ba vấn đề:
- Mức động viên vào ngân sách nhà nước đối với các thành viên trong xã hội qua thuế và
các khoản thu khác (có liên quan) phải hợp lý. Mức động viên cao hay thấp đều có tác dụng tiêu
cực.
- Tỉ lệ động viên vào ngân sách nhà nước đối với tổng sản phẩm quố
c nội (GDP ) vừa đảm

bảo hợp lý với tốc độ tăng trưởng của nền kinh tế, vừa đảm bảo cho đơn vị cơ sở có điều kiện tích
tụ vốn để tái sả n xuất mở rộng.
- Các công cụ kinh tế được sử dụng tạo nguồn thu cho ngân sách nhà nước và thực hiện
các khoản chi tiêu của ngân sách nhà nước.
2. Ngân sách nhà nước - công cụ điề
u tiết vĩ mô nền kinh tế - xã hội của nhà nước.
Khi đề cập đến các công cụ tài chính trong quản lý và điều tiết vĩ mô nền kinh tế - xã hội , nhà
nước không thể không sử dụng một công cụ rất quan trọng, đó là ngân sách nhà nước. Bởi lẽ ,
phạm vi phát huy vai trò của ngân sách nhà nước rất rộng và trên một mức độ lớn , nó tương đồng
với phạm vi phát huy chức năng và nhiệ m vụ
của nhà nước trên mọi lĩnh vực của đời sống kinh tế -
xã hội . Hay nói cách khác, do cơ chế thị trường cần thiết phải có sự điều chỉnh vĩ mô từ phía nhà
nước. Song, nhà nước cũng chỉ có thể thực hiện đìêu chỉnh thành công khi có nguồn tài chính đảm
bảo, tức là khi sử dụng triệt để và có hiệu quả công cụ ngân sách nhà nước . Vai trò đìêu tiết vĩ mô
nền kinh t
ế - xã hội của ngân sách nhà nước có thể được khái quát hóa trong các lĩnh vực kinh tế,
xã hội và thị trường như sau :
2.1. Về mặt kinh tế:
Ngân sách nhà nước có vai trò rất quan trọng trong việc định hướng hình thành cơ cấu kinh tế
mới , kích thích phát triển sản xuất kinh doanh và chống độc quyền.
- Ngân sách nhà nước cung cấp nguồn kinh phí để nhà nước đầu tư cho cơ sở kết cấu hạ
tầng, hình thành các doanh nghiệp thuộc các ngành then ch
ốt, để trên cơ sở đó tạo môi trường và
điều kiện thuận lợi cho sự ra đời và phát triển của các doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế
khác.
4
- Việc hình thành các doanh nghiệp nhà nước cũng là một trong những biện pháp căn bản
để chống độc quyền và giữ cho thị trường khỏi rơi vào tình trạng cạnh tranh không hoàn hảo.
- Hỗ trợ cho sự phát triển của các doanh nghiệp trong những trường hợp cần thiết đảm bảo
cho sự ổn định về cơ cấu hoặc chuẩn bị chuyển đổi sang cơ cấu mới, cao hơn.

- Thông qua các khoản thuế và chính sách thuế sẽ đảm bảo thực hiện vai trò định hướng
đầu tư, kích thích hoặc hạn chế sản xuất kinh doanh.
- Các nguồn vay nợ từ nước ngoài và trong nước sẽ tạo thêm nguồn vốn cho nền kinh tế.
Tuy nhiên, hiệu quả sử dụng các nguồn vốn vay nợ của nhà nước cũng là một vấn đề cần phải xem
xét thận trọng khi quyết định thực hiệ
n các biện pháp huy động tiền vay.
2.2. Về mặt xã hội
- Đầu tư của ngân sách để thực hiện các chính sách xã hội : chi Giáo dục - đào tạo, y tế, kế
hoạch hóa gia đình, văn hóa, thể thao, truyền thanh, chi bảo đảm xã hội, sắp xếp lao động và việc
làm, trợ giá mặt hàng
- Thông qua thuế thu nhập cá nhân, thuế thu nhập doanh nghiệp nhằm điều tiết thu nhập
để phân phối lại cho các đối tượng có thu nh
ập thấp.
- Thông qua thuế gián thu nhằm hướng dẫn tiêu dùng hợp lý, tiết kiệm. Tuy nhiên, vấn đề
sử dụng công cụ NSNN để điều chỉnh các vấn đề xã hội không đơn giản, đòi hỏi phải được nghiên
cứu đầy đủ và phải có sự thống nhất giữa chính sách và biện pháp. Chẳng hạn : Khi trợ giá điện,
xăng dầu, công tác truyền hình . . . thì những đối tượng được hưở
ng không phải là người nghèo, mà
chính là những người có thu nhập trung bình hoặc cao.
2.3. Về mặt thị truờng:
Ngân sách nhà nước có vai trò quan trọng đối với việc thực hiện các chính sách về ổn định giá
cả, thị trường và chống lạm phát.
Bằng công cụ thuế, phí, lệ phí,vay và chính sách chi ngân sách nhà nước có thể điều chỉnh được
giá cả, thị trường một cách chủ động.
- Một chính sách ngân sách thắt chặt hay nới rộng
đều có thể tác động mạnh mẽ đến cung
- cầu xã hội.
- Việc huy động của ngân sách nhà nước dưới các hình thức thuế, phí, lệ phí,vay và kể cả
bảo hiểm xã hội trên GDP và GNP chiếm tỉ trọng cao thì sự cung ứng vốn đầu tư dài hạn, vốn tiền
tệ ngắn hạn của các nhà đầu tư và đầu tư của dân sẽ giảm, vốn tự đầu tư sẽ khan hiế

m hơn. Mặt
khác, nó sẽ làm cho cầu về hàng hóa, dịch vụ của dân cư giảm xuống, nhưng ngân sách nhà nước
lại có điều kiện để tăng cầu với quy mô lớn và chi cho đầu tư lớn sẽ kích thích tăng cung.
5
- Ngược lại, nếu ngân sách nhà nước huy động trên GDP và GNP chiếm tỉ trọng thấp thì
nguồn tự đầu tư tăng lên, thúc đẩy tăng cung, đồng thời kích thích tăng cầu về hàng hóa, dịch vụ,
nhưng ngân sách lại không có đìêu kiện để tăng cầu và chi cho đầu tư.
- Trên thị trường tài chính, nhà nước vay vốn với lãi suất cao sẽ có tác động tăng cung ứng
vốn từ phía các nhà đầu tư và tiết kiệm tiêu dùng
để dành cho tương lai, đồng thời làm giảm lượng
cầu về vốn đầu tư của doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế.
Ngược lại, khi lãi suất các khoản vay của nhà nước giảm xuống dưới mức lợi tức bình quân toàn
xã hội, các nhà đầu tư sẽ tìm môi trường đầu tư vào sản xuất kinh doanh hàng hóa, dịch vụ mà
không muốn cho nhà nước vay.
Mặt khác , lãi suất các khoản vay của nhà nước có vị trí quan trọng trên th
ị trường chứng
khoán, có thể tham gia điều tiết quan hệ cung cầu trên thị trường chứng khoán.
Ở đây cần nhấn mạnh đến dự trử nhà nước. Trong cơ chế thị trường, nhà nước không thể bắt
buộc các doanh nghiệp bán hàng theo giá cả quy định, mà ngược lại, giá cả là do thị trường quyết
định, phụ thuộc vào quan hệ cung - cầu và các yếu tố khác. Trong quá trình biến đổi của mình , sẽ
có lúc giá c
ả lên cao, gây ra những cơn sốt nhất thời và có lúc giá cả lại xuống quá thấp. Để bảo vệ
quyền lợi của người tiêu dùng và kích thích sản xuất phát triển, nhà nước cần phải theo dõi sự biến
động của giá cả trên thị trường và phải có nguồn dự trữ về hàng hóa và tài chính để điều chỉnh kịp
thời. Ngưồn dự trữ này được hình thành từ kinh phí cấp phát của ngân sách nhà nước. Do đ
ó, sự
thành công của nhà nước trong điều chỉnh giá cả và thị trường thông qua công cụ dự trữ nhà nước
phụ thuộc vào kinh phí cấp phát của ngân sách nhà nước cho mục đích này.
- Chống lạm phát là một nội dung quan trọng trong quá trình đìêu chỉnh thị trường. Nguyên
nhân gây ra và thúc đẩy lạm phát có nhiều và xuất phát từ nhiều lĩnh vực, trong đó có lĩnh vực thu,

chi tài chính của Nhà nước.
- Khi đồng vốn ngân sách được sử dụng h
ợp lý và có hiệu quả thì tác dụng tích cực của nó
rất lớn, ngược lại sẽ gây ra bất ổn định trên thị trường, thúc đẩy lạm phát tăng lên.
- Phát hành thêm tìên để bù đắp thâm hụt ngân sách là nguyên nhân trực tiếp của tình
trạng lạm phát gia tăng.
- Mặt khác, ngân sách nhà nước có cân bằng hay không sẽ tác động sâu sắc đến sự cân
bằng của cán cân thanh toán quốc tế, bởi vì:
- Cân bằng của ngân sách tác động trực tiếp đến sự
cân bằng của cán cân thương mại.
- Cân bằng của ngân sách thực hiện được hay không nói lên khả năng trả nợ đến hạn các
khoản vay nước ngoài có thực hiện được hay không

6
CHƯƠNG 2:
THU NGÂN SÁCH NHÀ NƯỚC
Để thực hiện các chức năng của mình Nhà nước phải huy động một bộ phận nguồn tài chính của
xã hội tập trung vào NSNN. Bộ phận nguồn tài chính này được tập trung vào quỹ tiền tệ của Nhà
nước bằng những phương thức và hình thức khác nhau. Hình thức cổ truyền được sử dụng từ trước
cho đến nay để tạo nguồn thu cho NSNN đó là thuế. Ngoài ra Nhà nước còn có các nguồn thu khác
như: thu từ
các hoạt động kinh tế của Nhà nước, thu từ vay nợ, viện trợ . . . Thu NSNN phản ánh
các quan hệ kinh tế phát sinh trong quá trình Nhà nước sử dụng quyền lực chính trị để thực hiện
việc phân phối các nguồn tài chính dưới hình thức giá trị nhằm hình thành quỹ tiền tệ của Nhà
nước.
Như vậy, thu NSNN bao gồm toàn bộ các khoản tiền được tập trung vào tay Nhà nước để hình
thành quỹ NSNN đáp ứng cho các nhu cầu chi tiêu của Nhà nước.

I. THUẾ
1. Nguồn gốc và lịch sử hình thành

Dưới chế độ công sản nguyên thủy, con người sống chung, làm chung, ăn chung với nhau, mọi
người đều bình đẳng với nhau, không có ai cai trị ai, cho nên mọi thành viên trong xã hội lúc bấy
giờ đều không có trách nhiệm đóng góp cho ai một cái gì cả.

Cùng với sự phát triển của xã hội, giai cấp hình thành và Nhà nước ra đời. Nhà nước ra đời,
kèm theo nó là bộ máy quản lý để thực hiện quyền lực của mình. Bộ máy quản lý này không tự tạo
ra nguồn vật chất để tự nuôi sống mình mà chúng sống dựa vào sự đóng góp của toàn thể dân
chúng. Bằng quyền lực của mình, Nhà nước bắt buộc dân chúng phải nộp một phần tài sản của
mình cho Nhà nước nh
ư là một nghĩa vụ, đó chính là thuế.
Như vậy đến đây chúng ta có thể khẳng định rằng tiền đề cho sự ra đời của thuế chính là sự ra
đời và tồn tại của Nhà nước, bản chất của Nhà nước quyết định bản chất của thuế.

Trong giai đoạn đầu (từ chế độ chiếm hữu nô lệ đến đầu chế độ tư bản chủ nghĩa), Nhà nước sử
dụng thuế như là công cụ tạo nguồn thu để phục vụ chủ yếu cho các mục đích phi kinh tế như: chi
tiêu cho cuộc sống xa hoa của hoàng tộc, nuôi sống bộ máy quản lý, quân đội, rèn đúc vũ khí Các
sắc thuế trong giai đoạn này thườ
ng đơn giản, chủ yếu đánh vào ruộng đất, con người
Chủ nghĩa tư bản ra đời, đi liền với nó là hàng loạt những biến đổi cơ bản về kinh tế - xã hội,
Nhà nước ngày càng can thiệp sâu rộng vào nền kinh tế bằng các chính sách về thuế, đầu tư vốn để
hình thành nên các doanh nghiệp Nhà nước, đầu tư vào cơ sở hạ tầng . . . Với những hoạt động như
vậy, nếu Nhà nước chỉ dựa vào các sắc thuế
cổ điển như trong giai đoạn trước thì không đủ để chi
7
tiêu và lại kém nhân đạo. Vì vậy trong giai đoạn này Nhà nước đã mở rộng nguồn thu bằng cách
đặt thêm nhiều sắc thuế nhắm vào các hoạt động kinh tế xã hội khác nhau với một hệ thống thuế
suất đa dạng và linh hoạt làm cho thuế trở nên tế nhị và tỉnh xảo hơn, vừa đảm bảo nguồn thu cho
ngân sách nhà nước và đáp ứng yêu cầu tăng trưởng nền kinh tế.

Dưới chế độ xã hội chủ nghĩa, công bằng xã hội được đặt ra như là một nhu cầu cấp thiết đòi

hỏi Nhà nước phải đặc biệt quan tâm. Điều này đòi hỏi Nhà nước phải hướng sự hoạt động của mình
vào sự phát triển toàn diện của dân chúng, quan tâm sấu sắc đến những người có thu nhập thấp . .
. Để thực hiện được điề
u này, bằng các chính sách thuê,ú Nhà nước đã thực hiện việc điều tiết một
phần thu nhập của những người có thu nhập cao thông qua các sắc thuế trực thu như thuế thu
nhập cá nhân, thuế thu nhập doanh nghiệp và một số loại thuế gián thu khác để chi cho một số
mục tiêu xã hội. Ở đây thuế phải đảm bảo không hạn chế ý chí làm giàu của các cá nhân trong xã
hội, đồng thời phải tăng
được nguồn thu cho ngân sách Nhà nước, nhưng vẫn giữ được tính nhân
đạo của thuế.

2. Khái niệm
Thuế là khoản đóng góp mang tính bắt buộc mà nhà nước qui định thành luật để mọi tổ chức
kinh tế và người dân phải nộp cho nhà nước nhằm đáp ứng nhu cầu chi tiêu của nhà nước.

3. Phân loại thuế
 Theo đối tượng đánh thuế, hệ thống thuế bao gồm các loại:
- Thuế đánh vào hàng hóa, dịch vụ (Thuế giá trị gia tăng, thuế tiêu thụ đặc biệt, thuế xuất,
nhập khẩu).

- Thuế đánh vào thu nhập (Thuế thu nhập doanh nghiệp, thuế thu nhập cá nhân).
- Thuế đánh vào tài sản, gồm động sản và bất động sản (Thuế nhà, đất).
- Thuế đánh vào các tài sản thuộc sở hữu công cộng (Thuế tài nguyên, thu về sử dụng vốn
ngân sách nhà nước)

 Theo tính chất, thuế bao gồm hai loại:
- Thuế gián thu:
Thuế gián thu là loại thuế gián tiếp thu vào người tiêu dùng thông qua hoạt động của các tổ
chức, cá nhân sản xuất kinh doanh, hay nói cách khác trong thuế gián thu thì người nộp thuế và
người chịu thuế là hai đối tượng hoàn toàn độc lập với nhau. Ưu điểm của loại thuế này là không tạo

ra cảm giác chịu thuế cho người chịu thuế.

Ví dụ: Thuế giá trị gia tăng, thuế tiêu thụ đặc biệt, thuế xuất nhập khẩu, thuế tài nguyên . . .
8
- Thuế trực thu:
Thuế trực thu là loại thuế trực tiếp thu vào thu nhập của người chịu thuế, hay nói cách khác
người nộp thuế và người chịu thuế trong trường hợp này là một, người nộp thuế không thể chuyển
thuế cho người khác được.

Ví dụ: Thuế thu nhập doanh nghiệp, thuế thu nhập cá nhân . . .
 Thuế đối vật và thuế đối nhân
Thuế đối vật là loại thuế nhắm trước hết vào đối tượng tính thuế, không quan tâm đến hoàn
cảnh kinh tế, xã hội của người chịu thuế.

Ví dụ: căn cứ vào Luật thuế TTĐB, cơ sở sản xuất rượu bán ra rượu hoa quả phải nộp 20% thuế
tiêu thụ đặc biệt. Nếu giá tính thuế là 10.000 đồng/chai, số thuế sẽ là 2.000 đồng. Nếu giá tính
thuế lên đến 50.000 đồng/chai thì số thuế phải nộp lúc này là 10.000 đồng. Số tiền thuế không phụ
thuộc vào nhân thân của người chịu thuế: anh ta có việc làm ổn định hay đang thấ
t nghiệp, có thu
nhập cao hay thu nhập thấp

Thuế đối nhân cũng căn cứ vào đối tượng tính thuế nhưng trước hết nó chú trọng đến các yếu
tố nhân đạo để có mức thuế phù hợp với từng nhóm người. Các yếu tố này là: Thu nhập, số người
phụ thuộc

Mục đích chính của thuế đối nhân là góp phần thực hiện công bằng xã hội, hướng sự phát triển
kinh tế của đất nước vào con người, chăm lo phúc lợi vật chất và tinh thần cho con người.

4. Các yếu tố cấu thành luật thuế.
4.1. Tên gọi

Bất cứ loại thuế nào cũng có tên gọi. Tên gọi của thuế xác định nội dung chính của thuế, nhận
diện nó với các loại thuế khác và bảo vệ dân chúng không phải đóng 2 lần cho một loại thuế.

4.2. Đối tượng nộp thuế
Đối tượng nộp thuế là những pháp nhân, thể nhân được nhà nước công nhận về mặt pháp lý, có
các hoạt động, tài sản hoặc thu nhập thuộc phạm vi điều tiết của thuế.

4.3. Đối tượng tính thuế (căn cứ tính thuế)
Một cách tổng quát, đối tượng tính thuế là nguồn dẫn xuất trực tiếp của thuế. Đối tượng tính
thuế là nguồn vật chất mà người ta tính toán trên đó số tiền thuế phải nộp.

9
4.4. Thuế suất - biểu thuế
Thuế suất là một con số toán học ấn định một số tiền trích ra từ đối tượng tính thuế. Thông
thường, thuế suất là một con số tỷ lệ trên giá trị của vật chịu thuế. Đôi khi, nó lại là một số tuyệt
đối bằng tiền nhất định đối với từng vật chịu thuế.

Có 4 loại thuế suất:
- Thuế suất bằng số tuyệt đối cố định
- Thuế suất bằng số tuyệt đối lũy tiến
- Thuế suất tỷ lệ cố định
- Thuế suất tỷ lệ lũy tiến
 Thuế suất bằng số tuyệt đối cố định
Là loại thuế suất được ấn định bằng một con số tuyệt đối trên đối tượng tính thuế. Ví dụ: Ở
Thụy Điển một phần thuế đặc biệt sử dụng loại thuế suất này, như bia loại 3,6 độ nộp thuế 9,5 cua-
ron/lít; thuốc lá gói 0,39 cua-ron/điếu.

 Thuế suất bằng số tuyệt đối lũy tiến
Là loại thuế suất cũng được ấn định bằng một số tiền tuyệt đối nhưng tăng dần lên theo độ
tăng của đối tượng tính thuế. Ví dụ như thuế môn bài ở Việt Nam.


 Thuế suất tỷ lệ cố định
Là loại thuế suất được ấn định bằng con số tỷ lệ phần trăm trên đối tượng tính thuế và tỷ lệ
này không thay đổi theo đối tượng tính thuế. Ví dụ: Thuế suất thuế giá trị gia tăng, thuế tiêu thụ
đặc biệt

 Thuế suất tỷ lệ lũy tiến
Là loại thuế suất được ấn định bằng con số tỷ lệ phần trăm trên đối tượng tính thuế và tỷ lệ
này tăng dần lên theo độ lớn của đối tượng tính thuế.

Thuế suất tỷ lệ lũy tiến có hai loại chính: Lũy tiến toàn phần và lũy tiến từng phần.
• Lũy tiến toàn phần: Là loại thuế suất tỷ lệ, tăng theo đối tượng tính thuế và sự gia
tăng đó đánh trên toàn bộ đối tượng tính thuế.

10
Ví dụ: Ở nước ta, theo pháp lệnh ngày 26/1/1983, thuế lợi tức doanh nghiệp áp dụng đối với
các hộ kinh doanh công thương nghiệp, sử dụng thuế suất tỷ lệ lũy tiến toàn phần như sau:


Thuế suất (%) Bậc Lợi tức chịu
thuế 1 tháng
(đồng)

Ngành SX, V-Tải Ngành dịch vụ Ngành thương
nghiệp, ăn uống

1
2
3
4

5
6
Đến 500
Đến 1.000
Đến 1.500
Đến 2.000
Đến 2.500
Đến 3.000
12
15
18
22
26
30
16
20
24
29
34
40
24
30
38
46
54
60
Trong tất cả các loại thuế suất lũy tiến, thuế suất lũy tiến toàn phần có sức điều tiết mạnh hơn
cả. Nhược điểm của loại thuế suất này là nó hạn chế ý muốn làm giàu của cá nhân.

• Lũy tiến từng phần: Là loại thuế suất tỷ lệ, tăng theo đối tượng tính thuế và sự gia

tăng đó đánh trên từng phần tăng thêm của đối tượng tính thuế.

Ví dụ: Pháp lệnh thuế thu nhập đối với người có thu nhập cao ở Việt Nam.
đvt: 1000 đ
Bậc
Thu nhập bình quân
tháng/người
Thuế suất (%)
1 Đến 5.000 0
2 Trên 5.000 đến 15.000 10
3 Trên 15.000 đến 25.000 20
4 Trên 25.000 đến 40.000 30
5 Trên 40.000 40
Biểu thuế là một bảng tập hợp các thuế suất cùng một số yếu tố kèm theo. Ví dụ: Biểu thuế
tiêu thụ đặc biệt, thuế xuất nhập khẩu . . .

4.5. Chế độ miễn, giảm
Để chiếu cố đến hoàn cảnh khách quan mang lại khó khăn, làm giảm thu nhập của đối tượng
nộp thuế hoặc có chiếu cố riêng đối với một số ngành nghề cần khuyến khích, thường trong một sắc
11
thuế có qui định chế độ miễn, giảm thuế, điều kiện và thủ tục được xét, mức độ được xét, thẩm
quyền của từng cấp về việc xét miễn, giảm thuế.

4.6. Thủ tục thu nộp
Thủ tục thu nộp thuế là căn cứ pháp lý để thực hiện đúng đắn việc nộp thuế đúng, đủ, kịp thời
và là cơ sở pháp lý để xử lý đối với các trường hợp nộp chậm, dây dưa tiền thuế.

5. Vai trò của thuế trong nền kinh tế - xã hội
5.1. Thuế là khoản thu chủ yếu của ngân sách nhà nước
Cho dù người ta còn bàn cãi nhiều về khái niệm thuế, song bất cứ ai cũng đều phải công nhận

rằng thuế bao giờ cũng là khoản thu chủ yếu của ngân sách Nhà nước. Điều này có thể được lý giải
bởi những lý do sau đây:

- Thuế là khoản đóng góp mang tính chất pháp lệnh của Nhà nước đối với các thể nhân và
pháp nhân trong xã hội.

- Là khoản thu mang tính ổn định tương đối.
- Hình thức thu bao quát được hầu hết các hoạt động sản xuất kinh doanh, các nguồn thu
nhập và mọi tiêu dùng xã hội.

- Đảm bảo được tính tự chủ trong cân đối ngân sách.
- Thể hiện một nền tài chính quốc gia lành mạnh.
Theo khảo sát của World Bank tại 85 nước trên thế giới, có đến 60 quốc gia mà khoản thu từ
thuế chiếm 80% tổng thu ngân sách Nhà nước.

5.2. Thuế là công cụ quản lý và điều tiết vĩ mô nền kinh tế
Ngoài việc huy động nguồn thu cho ngân sách Nhà nước, thuế còn có vai trò quan trọng trong
việc điều chỉnh nền kinh tế. Chính sách thuế có ảnh hưởng trực tiếp đến giá cả, đến quan hệ cung
cầu, đến cơ cấu đầu tư và sự phát triển hay suy thoái của nền kinh tế.

Căn cứ vào từng tình huống cụ thể, Nhà nước có thể chủ động điều tiết nền kinh tế bằng thuế.
Khi nền kinh tế ở vào giai đoạn cực thịnh Nhà nước có thể tăng thuế để tăng nguồn thu cho ngân
sách. Trong giai đoạn này việc tăng thuế thường không gây ra phản ứng ở người nộp thuế bởi vì ở
giai đoạn này thu nhập củ
a người dân rất cao và ổn định nên việc tăng thuế sẽ không ảnh hưởng
đến đời sống của họ. Số bội thu ngân sách sẽ được lập thành quỹ dự trữ để đề phòng khi nền kinh
tế chuyển sang giai đoạn suy thoái.Việc tăng thuế trong giai đoạn này sẽ có tác dụng ức chế sự
tăng trưởng của tổng cầu, làm giảm bớt sự tăng tr
ưởng của nền kinh tế. Ngược lại, khi nền kinh tế
12

bước sang giai đoạn suy thoái, việc giảm thuế sẽ có tác dụng nâng cao tổng cầu, từ đó mà xúc tiến
việc phục hưng nền kinh tế.

Thuế có tác dụng trực tiếp đến giá cả, đến thu nhập, vì vậy dựa vào công cụ thuế Nhà nước có
thể thúc đẩy hoặc hạn chế việc tích lũy và đầu tư . Khi ban hành một sắc thuế do những yêu cầu về
mặt kinh tế, chính trị, xã hội, Nhà nước đã có những quy định về đối tượng, phạm vi đánh thuế,
thuế suất, chế độ miễn giảm. Các quy đị
nh này xét về bề ngoài là một sự cưỡng chế, nhưng bên
trong là nhằm mục đích điều chỉnh những quan hệ kinh tế - xã hội nhất định.

5.3. Thuế góp phần điều hòa thu nhập, thực hiện công bằng xã hội trong phân phối.
Trong nền kinh tế hàng hóa nói chung, đặc biệt là kinh tế thị trường, nếu không có sự can thiệp
của Nhà nước, để thị trường tự điều chỉnh thì việc phân phối của cải và thu nhập sẽ càng tập trung,
tạo ra hai cực đối lập nhau, một thiểu số người sẽ giàu lên nhanh chóng và đa số người nghèo cuộc
sống sẽ không được cải thiện. Tình trạng trên chẳng những liên quan đến vấ
n đề đạo đức, công
bằng mà còn tạo nên sự đối lập giai cấp làm mất đi ý nghĩa cao cả của sự phát triển kinh tế của
một đất nước. Sự phát triển kinh tế của một quốc gia là kết quả nổ lực cộng đồng của toàn dân,
mỗi thành viên trong xã hội đều có những đóng góp nhất định của họ. Thành quả của sự phát kinh
tế nếu không chia s
ẻ cho mọi người cùng hưởng thì rõ ràng mất đi sự công bằng. Bởi vậy cần phải
có sự can thiệp của Nhà nước trong sự phân phối thu nhập trong xã hội, đặc biệt thông qua công cụ
thuế.

Vai trò là công cụ điều hòa thu nhập, thực hiện công bằng xã hội của thuế thể rõ trong thuế
trực thu. Ví dụ như thuế thu nhập cá nhân chỉ đánh vào những người có thu nhập cao. Như vậy
ngoài việc tạo nguồn thu cho ngân sách Nhà nước, thuế còn đóng vai trò quan trọng trong thực
hiện công bằng xã hội. Vai trò này còn thể hiện rõ rệt khi sử dụng thuế suất lũy tiến.

Việc điều hoa thu nhập xã hội còn được thể hiện một phần thông qua các sắc thuế gián thu

như: Thuế GTGT, thuế tiêu thụ đặc biệt. . . Các loại thuế này thường đánh rất cao vào những mặt
hàng, dịch vụ cao cấp nhằm điều tiết bớt thu nhập của các cá nhân có thu nhập tương đối cao so
với mức bình quân xã hội.

6. Hệ thống thuế hiện hành ở Việt Nam
- Thuế GTGT
- Thuế tiêu thụ đặc biệt
- Thuế xuất, nhập khẩu
- Thuế thu nhập doanh nghiệp
- Thuế thu nhập cá nhân
13
- Thuế tài nguyên
- Thuế chuyển quyền sử dụng đất
- Thuế sử dụng đất nông nghiệp
- Thuế nhà đất
- Thuế môn bài
- Thu về sử dụng vốn NSNN
II. PHÍ VÀ LỆ PHÍ
1. Lệ phí
Lệ phí là khoản thu của NSNN, vừa mang tính chất phục vụ cho người nộp lệ phí về việc thực hiện
một số thủ tục hành chính, vừa mang tính chất động viên đóng góp cho NSNN. Ví dụ: Lệ phí trước
bạ, lệ phí chứng thư.

2. Phí
Phí là một khoản thu mang tính chất bù đắp hay là một khoản nộp có tính chất bắt buộc đối với các
thể nhân và pháp nhân do được hưởng một lợi ích hoặc được sử dụng một dịch vụ nào đó do Nhà
nước cung cấp. Nó có tính hoàn trả trực tiếp và do cơ quan hành pháp ban hành. Ví dụ: Phí giao
thông, viện phí, thủy lợi phí . . .

III. THU TỪ CÁC HOẠT ĐỘNG KINH TẾ CỦA NHÀ NƯỚC, TIỀN THU TỪ BÁN, CHO THUÊ TÀI SẢN

THUỘC QUYỀN SỞ HỮU CỦA NHÀ NƯỚC.

Trong nền kinh tế thị trường Nhà nước tham gia vào các hoạt động kinh tế bằng việc đầu tư
vốn vào sản xuất kinh doanh dưới hình thức: thành lập doanh nghiệp Nhà nước, góp vốn vào các xí
nghiệp, công ty liên doanh, mua cổ phiếu của các công ty cổ phần. Tùy theo từng ngành, từng lĩnh
vực hoạt động mà số vốn góp vào liên doanh hoặc mua cổ phần của Nhà nước sẽ chiếm một tỷ lệ
nhất định trong số v
ốn pháp định, vốn điều lệ của các công ty đó. Số vốn đầu tư của Nhà nước vào
các hoạt động kinh doanh đòi hỏi phải sinh lợi và lợi nhuận thu được sẽ phụ thuộc vào tỷ lệ góp vốn
của Nhà nước, hiệu quả hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp.

Tiền thu hồi vốn của Nhà nước tại các cơ sở kinh tế cũng là một nguồn thu của NSNN trong
điều kiện của cơ chế thị trường. Khoản thu này phản ánh sự hoạt động kinh tế đa dạng của Nhà
nước và biểu hiện dưới nhiều hình thức phong phú như:

- Thu từ bán tài sản của Nhà nước trong quá trình thực hiện cổ phần hóa doanh nghiệp Nhà
nước.

- Thu từ bán tài sản của Nhà nước đã cho các chủ thể trong xã hội thuê trước đây.
14
- Thu từ sử dụng vốn thuộc nguồn vốn của NSNN

XI. PHÂN ĐỊNH NGUỒN THU GIỮA CÁC CẤP NGÂN SÁCH
1. Nguồn thu của ngân sách trung ương
 Các khoản thu 100%
- Thuế giá trị gia tăng hàng hoá nhập khẩu;
- Thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu;
- Thuế tiêu thụ đặc biệt hàng hoá nhập khẩu;
- Thuế thu nhập doanh nghiệp của các đơn vị hạch toán toàn ngành (Bộ trưởng Bộ Tài
chính công bố cụ thể các đơn vị hạch toán toàn ngành);


- Các khoản thuế và thu khác từ các hoạt động thăm dò, khai thác dầu khí, tiền thuê mặt
đất, mặt nước;

- Tiền thu hồi vốn của ngân sách trung ương tại các cơ sở kinh tế, thu hồi tiền cho vay của
ngân sách trung ương (cả gốc và lãi), thu từ Quỹ dự trữ tài chính của Trung ương, thu nhập từ vốn
góp của ngân sách trung ương;
- Viện trợ không hoàn lại của Chính phủ các nước, các tổ chức khác, các cá nhân ở nước
ngoài cho Chính phủ Việt Nam;

- Phần nộp ngân sách nhà nước theo quy định của pháp luật từ các khoản phí và lệ phí do
các cơ quan, đơn vị thuộc trung ương tổ chức thu, không kể phí xăng, dầu và lệ phí trước bạ;

- Phần nộp ngân sách theo quy định của pháp luật từ các khoản thu sự nghiệp của các đơn
vị do các cơ quan trung ương trực tiếp quản lý;

- Chênh lệch thu lớn hơn chi của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam;
- Thu kết dư ngân sách trung ương;
- Thu chuyển nguồn ngân sách từ ngân sách trung ương năm trước chuyển sang;
- Các khoản phạt, tịch thu và thu khác của ngân sách trung ương theo quy định của pháp
luật.

 Các khoản thu được phân chia theo tỷ lệ phần trăm (%) giữa ngân sách trung ương và
ngân sách địa phương

- Thuế giá trị gia tăng, không kể thuế giá trị gia tăng hàng hoá nhập khẩu và thuế giá trị gia
tăng thu từ hoạt động xổ số kiến thiết;

15
- Thuế thu nhập doanh nghiệp, không kể thuế thu nhập doanh nghiệp của các đơn vị hạch

toán toàn ngành và thuế thu nhập doanh nghiệp thu từ hoạt động xổ số kiến thiết;

- Thuế thu nhập đối với người có thu nhập cao;
- Thuế tiêu thụ đặc biệt thu từ hàng hoá, dịch vụ trong nước không kể thuế tiêu thụ đặc
biệt thu từ hoạt động xổ số kiến thiết;

- Phí xăng, dầu.
2. Nguồn thu của ngân sách địa phương
 Các khoản thu 100%
- Thuế nhà, đất;
- Thuế tài nguyên; không kể thuế tài nguyên thu từ hoạt động dầu, khí;
- Thuế môn bài;
- Thuế chuyển quyền sử dụng đất;
- Thuế sử dụng đất nông nghiệp;
- Tiền sử dụng đất;
- Tiền cho thuê đất, thuê mặt nước không kể tiền thuê mặt nước thu từ hoạt động dầu khí;
- Tiền đền bù thiệt hại đất;
- Tiền cho thuê và bán nhà ở thuộc sở hữu nhà nước;
- Lệ phí trước bạ;
- Thu từ hoạt động xổ số kiến thiết;
- Thu nhập từ vốn góp của ngân sách địa phương, tiền thu hồi vốn của ngân sách địa
phương tại các cơ sở kinh tế, thu từ Quỹ dự trữ tài chính của cấp tỉnh;

- Viện trợ không hoàn lại của các tổ chức, cá nhân ở nước ngoài trực tiếp cho địa phương
theo quy định của pháp luật;

- Phần nộp ngân sách theo quy định của pháp luật từ các khoản phí, lệ phí do các cơ quan,
đơn vị thuộc địa phương tổ chức thu, không kể phí xăng, dầu và lệ phí trước bạ;

- Thu từ quỹ đất công ích và thu hoa lợi công sản khác;

- Phần nộp ngân sách theo quy định của pháp luật từ các khoản thu sự nghiệp của các đơn
vị do địa phương quản lý;

- Huy động từ các tổ chức, cá nhân theo quy định của pháp luật;
- Đóng góp tự nguyện của các tổ chức, cá nhân ở trong và ngoài nước;
16
- Thu từ huy động đầu tư xây dựng các công trình kết cấu hạ tầng thuộc tỉnh quản lý;
- Thu kết dư ngân sách địa phương;
- Các khoản phạt, tịch thu và thu khác của ngân sách địa phương theo quy định của pháp
luật;

- Thu bổ sung từ ngân sách cấp trên;
- Thu chuyển nguồn từ ngân sách địa phương năm trước sang ngân sách địa phương năm
sau.

 Các khoản thu được phân chia theo tỷ lệ phần trăm (%) giữa ngân sách trung ương và
ngân sách địa phương

- Thuế giá trị gia tăng, không kể thuế giá trị gia tăng hàng hoá nhập khẩu và thuế giá trị gia
tăng thu từ hoạt động xổ số kiến thiết;

- Thuế thu nhập doanh nghiệp, không kể thuế thu nhập doanh nghiệp của các đơn vị hạch
toán toàn ngành và thuế thu nhập doanh nghiệp thu từ hoạt động xổ số kiến thiết;

- Thuế thu nhập đối với người có thu nhập cao;
- Thuế tiêu thụ đặc biệt thu từ hàng hoá, dịch vụ trong nước không kể thuế tiêu thụ đặc
biệt thu từ hoạt động xổ số kiến thiết;

- Phí xăng, dầu.
Hội đồng nhân dân cấp tỉnh quyết định phân cấp nguồn thu c ho ngân sách các

cấp chính quyền địa phương theo các nguyên tắc phân cấp quản lý ngân sách, đồng thời phải bảo
đảm các yêu cầu sau:

- Gắn với nhiệm vụ và khả năng quản lý của từng cấp, hạn chế việc bổ sung từ ngân sách
cấp trên cho ngân sách cấp dưới; khuyến khích các cấp tăng cường quản lý thu, chống thất thu;
hạn chế phân chia các nguồn thu có quy mô nhỏ cho nhiều cấp.

- Ngân sách xã, thị trấn được hưởng tối thiểu 70% đối với các khoản thu sau:
• Thuế chuyển quyền sử dụng đất;
• Thuế nhà, đất;
• Thuế môn bài thu từ cá nhân, hộ kinh doanh;
• Thuế sử dụng đất nông nghiệp thu từ hộ gia đình;
• Lệ phí trước bạ nhà, đất.
17
- Ngân sách thị xã, thành phố thuộc tỉnh được hưởng tối thiểu 50% khoản thu lệ phí trước
bạ, không kể lệ phí trước bạ nhà, đất.

3. Tỷ lệ phân chia các nguồn thu giữa các cấp ngân sách
- Căn cứ vào nghị quyết của Quốc hội về dự toán ngân sách nhà nước năm đầu thời kỳ ổn
định ngân sách, Uỷ ban Thường vụ Quốc hội quyết định cụ thể tỷ lệ phần trăm (%) phân chia các
khoản thu giữa ngân sách trung ương với ngân sách từng tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương.

- Căn cứ vào tỷ lệ phần trăm (%) phân chia các khoản thu do Uỷ ban Thường vụ Quốc hội
quyết định cho từng tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương và các nguồn thu phân chia giữa ngân
sách các cấp chính quyền địa phương, Hội đồng nhân dân cấp tỉnh quyết định tỷ lệ phần trăm (%)
phân chia các khoản thu giữa ngân sách cấp tỉnh với ngân sách cấp huyện và ngân sách cấp xã,
giữa ngân sách cấp huyện vớ
i ngân sách cấp xã, bảo đảm nguyên tắc:
• Đối với các khoản thu phân chia giữa ngân sách trung ương và ngân sách địa phương, khi
phân chia lại cho ngân sách các cấp chính quyền địa phương thì tỷ lệ phần trăm (%) phân chia các

khoản thu không được vượt quá tỷ lệ do Uỷ ban Thường vụ Quốc hội quyết định cho từng tỉnh,
thành phố trực thuộc Trung ương;

• Bảo đảm tỷ lệ phần trăm (%) phân chia tối thiểu đối với một số khoản thu cho ngân sách
xã, thị trấn và ngân sách thị xã, thành phố thuộc tỉnh theo các quy định ở trên.

- Tỷ lệ phần trăm (%) phân chia các khoản thu được áp dụng chung đối với tất cả các khoản
thu phân chia giữa ngân sách trung ương và ngân sách địa phương. Đối với các khoản thu phân
chia giữa các cấp chính quyền địa phương do Hội đồng nhân dân cấp tỉnh quyết định cụ thể.

- Tỷ lệ phần trăm (%) phân chia đối với các khoản thu phân chia và số bổ sung cân đối ngân
sách được xác định theo nguyên tắc sau:

• Tỷ lệ phần trăm (%) phân chia đối với các khoản thu phân chia và số bổ sung cân đối
được xác định trên cơ sở tính toán các nguồn thu, nhiệm vụ chi của ngân sách từng cấp theo các
tiêu chí về dân số, điều kiện tự nhiên, điều kiện kinh tế - xã hội của từng vùng; chú ý tới vùng sâu,
vùng xa, vùng căn cứ cách mạng, vùng dân tộc thiểu số và vùng có khó khăn khác;

• Tỷ lệ phần trăm (%) phân chia nguồn thu giữa ngân sách trung ương và ngân sách địa
phương được xác định nhằm bảo đảm nguồn thu cho ngân sách địa phương cân đối với nhu cầu chi
theo nhiệm vụ được giao. Đối với các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương sau khi đã thực hiện để
lại 100% các khoản thu phân chia giữa ngân sách trung ương và ngân sách địa phương cho địa
phương mà nhiệm vụ chi vẫn lớn hơn ngu
ồn thu ngân sách địa phương được hưởng, thì ngân sách
trung ương sẽ thực hiện bổ sung cân đối cho ngân sách địa phương tương ứng với số chêch lệch
giữa nguồn thu và nhiệm vụ chi.

18
XII. BỔ SUNG NGÂN SÁCH
1. Chính phủ trình Quốc hội quyết định mức bổ sung từ ngân sách trung ương

cho ngân sách từng tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương. Uỷ ban nhân dân trình Hội đồng nhân
dân quyết định mức bổ sung từ ngân sách cấp mình cho ngân sách cấp dưới trực tiếp.
2. Bổ sung từ ngân sách cấp trên cho ngân sách cấp dưới gồm:
- Bổ sung cân đối thu, chi ngân sách nhằm bảo đảm cho chính quyền cấp dưới cân đối
nguồn ngân sách để thực hiện nhiệm vụ kinh tế - xã hội, quốc phòng, an ninh được giao;

- Bổ sung có mục tiêu nhằm hỗ trợ ngân sách cấp dưới thực hiện các nhiệm vụ sau:
• Hỗ trợ thực hiện các chính sách, chế độ mới do cấp trên ban hành chưa được bố trí trong dự
toán ngân sách của năm đầu thời kỳ ổn định ngân sách, mức hỗ trợ cụ thể được xác định trên cơ sở khả
năng cân đối của ngân sách các cấp có liên quan;
• Hỗ trợ thực hiện các chương trình, dự án quốc gia giao các cơ quan địa phương thực hiện;
mức hỗ trợ cụ thể thực hiện theo dự toán chi được cấp có thẩm quyền giao;

• Hỗ trợ thực hiện các mục tiêu, công trình, dự án có ý nghĩa lớn đối với yêu cầu phát triển kinh
tế - xã hội của địa phương, nằm trong quy hoạch và đã được cấp có thẩm quyền phê duyệt theo đúng
quy định của pháp luật về quản lý đầu tư và xây dựng, ngân sách cấp dưới đã bố trí chi nhưng không
đủ nguồn hoặc cần tập trung nguồn lực để thực hi
ện nhanh trong một thời gian nhất định; mức hỗ trợ
theo phương án được cấp thẩm quyền phê duyệt;

• Hỗ trợ một phần để xử lý khó khăn đột xuất: khắc phục thiên tai, hoả hoạn, tai nạn trên diện
rộng với mức độ nghiêm trọng, sau khi ngân sách cấp dưới đã sử dụng dự phòng, một phần Quỹ dự trữ
tài chính của địa phương nhưng chưa đáp ứng được nhu cầu;
• Hỗ trợ thực hiện một số nhiệm vụ cần thiết, cấp bách khác; mức bổ sung theo quyết định của
cấp có thẩm quyền.


CHƯƠNG 3:
CHI NGÂN SÁCH NHÀ NƯỚC




I. KHÁI NIỆM
Về mặt pháp lý, chi ngân sách Nhà nước là những khoản chi tiêu do chính phủ hay các pháp
nhân hành chính thực hiện để đạt được các mục tiêu công ích.

Về mặt bản chất, chi ngân sách Nhà nước là hệ thống những quan hệ phân phối lại các khoản
thu nhập phát sinh trong quá trình sử dụng có kế hoạch quỹ tiền tệ tập trung của Nhà nước nhằm
19
thực hiện tăng trưởng kinh tế, từng bước mở mang các sự nghiệp văn hóa - xã hội, duy trì hoạt
động của bộ máy quản lý Nhà nước và bảo đảm an ninh Quốc phòng.

II. PHÂN LOẠI CHI NGÂN SÁCH NHÀ NƯỚC
Phân loại chi NSNN là sự sắp xếp các khoản chi vào các nhóm theo những tiêu thức nhất định
nhằm đáp ứng yêu cầu của công tác quản lý và định hướng chi NSNN. Thông thường phân loại chi
NSNN được dựa trên các tiêu thức chủ yếu sau:

1. Căn cứ vào lĩnh vực hoạt động, chi NSNN phân thành:
- Chi đầu tư kinh tế: Là những khoản chi nhằm hoàn thiện và mở rộng nền sản xuất xã hội.
Khoản chi này có vai trò điều tiết quan trọng, được thực hiện qua nhiều kênh khác nhau, tạo ra sự
tác động tổng hợp kích thích sự phát triển của khu vực kinh tế tư nhân, tạo thế cân bằng cho nền
kinh tế.

- Chi cho y tế : bao gồm các khoản chi để duy trì và mở rộng hoạt động y tế.
- Chi cho giáo dục: bao gồm các khoản chi cho việc duy trì và phát triển hoạt động giáo dục
đào tạo.

- Chi cho phúc lợi xã hội: là những khoản chi mà xã hội cần chính phủ quan tâm, giúp đỡ. Đó
là các khoản trợ cấp cho người già, người tàn tật, trẻ mồ côi, người lao động chưa có việc làm, nhân
dân các vùng thiên tai, địch họa, cho thương binh, gia đình liệt sĩ

- Chi cho quản lý hành chính : là những khoản chi nhằm duy trì hoạt động của các cơ quan
quản lý thuộc chính quyền các cấp, Quốc hội, Hội đồng nhân dân, viện kiểm sát nhân dân, tòa án
nhân dân, chi về ngoại giao . . .

- Chi cho an ninh và quốc phòng: là những khoản chi dành cho các lực lượng vũ trang và
công tác bảo vệ trị an trong nước.

2. Căn cứ vào mục đích kinh tế - xã hội, chi ngân sách nhà nước được phân thành:
- Chi tích lũy: bao gồm các khoản chi đầu tư xây dựng cơ bản, chi cấp vốn lưu động cho các
doanh nghiệp nhà nước, chi dự trữ . . .

- Chi tiêu dùng: chi tiêu dùng đa dạng và phức tạp hơn nhiều so với chi tích lũy bao gồm, chi
quản lý hành chính, chi sự nghiệp, chi bù giá và chi khác.

3. Căn cứ vào yếu tố thời hạn tác động của các khoản chi, chi ngân sách nhà nước được
phân thành 3 nhóm:

- Chi thường xuyên: là những khoản chi có thời hạn tác động ngắn, bao gồm : chi lương và
các khoản có tính chất tìên lương, chi bổ sung quỹ hưu trí, chi công vụ phí, chi mua sắm hàng hóa
20
và dịch vụ cho nghiệp vụ và cho sửa chữa thường xuyên, chi trợ cấp, bù giá, chi trả lãi tìên vay
trong và ngoài nước, chi cho quỹ dự trữ thường xuyên, dự bị phí . . .

- Chi đầu tư phát triển: Là những khoản chi có thời hạn tác động dài, bao gồm : Chi đầu tư
các dự án phát triển, chi chuyển giao vốn đầu tư cho các doanh nghiệp Nhà nước hoặc các địa
phương, chi dự trữ cho mục đích đầu tư, chi viện trợ, đầu tư cho nước ngoài. . .

- Chi trả khác: bao gồm, chi cho vay (cho vay các tổ chức nhà nước, cho vay nước ngoài )
và trả nợ gốc (trả nợ trong nước, trả nợ ngoài nước).


Ở nước ta, trong cơ chế kế hoạch hóa tập trung, chi ngân sách nhà nước được phân loại dựa
vào tiêu thức mục đích kinh tế - xã hội của các khoản chi, phân thành hai nhóm lớn, là chi tích lũy
và chi tiêu dùng. Việc phân loại này đã tạo điều kiện thuận lợi cho công tác phân tích, đánh giá kết
quả chi tiêu ngân sách nhà nước gắn với quá trình phân phối thu nhập quốc dân và phù hợp với cơ
chế hiện hành. Kể từ khi nền kinh tế nước ta chuyể
n mình sang cơ chế mới, vận hành theo cơ chế
thị trường, cách phân loại này bắt đầu bộc lộ một số nhược điểm đó là:

- Thứ nhất, nó không thể hiện được mối quan hệ giữa chi tiêu tài chính của nhà nước và việc
thực hiện các chức năng quản lý nhà nước. Từ đó gây khó khăn cho cuộc tìm kiếm phương án phân
phối phù hợp trong từng thời kỳ . . .

- Thứ hai, không phù hợp với cơ chế mới và thông lệ quốc tế.
- Thứ ba, thuật ngữ "tích lũy" cũng rất trừu tượng, dễ dẫn đến tranh cãi trong việc sắp đặt
một số khoản chi, chẳng hạn như: các khoản chi dự trử, chi bù lỗ, bù giá . . . có tài liệu đưa vào
phần chi tích lũy, lại có tài liệu để ở phần chi tiêu dùng. Xuất phát từ đó, việc tìm kiếm một phương
thức phân loại mới vừa phù hợp với thông lệ quốc t
ế, vừa phù hợp với tình hình thực tế, yêu cầu đổi
mới chung của nền kinh tế - xã hội, đồng thời thừa hưởng được những kinh nghiệm đã tích lũy lâu
nay ở nước ta bắt đầu được đặt ra.

Trong thời gian này, ở nước ta có rất nhiều quan điểm khác nhau, song phần lớn ý kiến đề xuất
nên áp dụng tiêu thức yếu tố thời hạn tác động để tiến hành phân loại chi tiết về chi ngân sách nhà
nước, bên cạnh việc kết hợp tiêu thức phân loại theo lĩnh vực cụ thể và theo chủ thể quản lý.

Sau một thời gian dài nghiên cứu, học tập kinh nghiệm, thảo luận đã đi đến thống nhất phân
loại chi ngân sách nhà sách hiện hành như sau:

- Chi thường xuyên.
- Chi đầu tư phát triền.

- Chi trả nợ và chi khác.
21
III. CHI NGÂN SÁCH NHÀ NƯỚC
1. Chi thường xuyên.
Các khoản chi thường xuyên mang tính chất là các khoản chi cho tiêu dùng xã hội và gắn liền
với chức năng quản lý xã hội của nhà nước. Hằng năm, ngân sách nhà nước phải chi một số lượng
khá lớn các nguồn tài chính cho lĩnh vực này.

Vốn chi cho mục đích tiêu dùng xã hội có thể huy động từ nhiều nguồn vốn khác nhau: cấp
phát của ngân sách nhà nước, nguồn tự tạo của các đơn vị thông qua hoạt động sự nghiệp, nguồn
tài chính của các tổ chức kinh tế, các doanh nghiệp, của các tổ chức xã hội, nguồn huy động từ sự
đóng góp của dân cư theo chính sách hoặc tự nguyện, biếu tặng và nguồn từ nước ngoài thông qua
hợ
p tác trong hoạt động sự nghiệp trong đó cấp phát tài chính của ngân sách nhà nước cho tiêu
dùng xã hội là nguồn chính và chiếm tỷ trọng lớn trong toàn bộ số chi về tiêu dùng xã hội.

1.1. Chi sự nghiệp
Chi sự nghiệp là những khoản chi cho các dịch vụ và hoạt động xã hội phục vụ nhu cầu phát
triển kinh tế xã hội và nâng cao dân trí của dân cư. Theo tính chất hoạt động của các ngành, chi sự
nghiệp bao gồm các khoản: chi sự nghiệp kinh tế, chi nghiên cứu khoa học, sự nghiệp giáo dục đào
tạo, sự nghiệp y tế, sự nghiệp văn hóa nghệ thuật, thể thao và sự nghiệp xã hội. Như vậ
y về mặt
nội dung, chi sự nghiệp gồm chi bảo đảm các hoạt động sự nghiệp và chi có tính chất trợ cấp cho
các đối tượng xã hội nhất định. Đây là khoản chi quan trọng, nhu cầu chi rất lớn.Các khoản chi này
cần thiết để bảo đảm quá trình tái sản xuất được kết hợp với sức lao động có chất lượng cao. Sự
phát triển của sản xuất và khoa học k
ỹ thuật luôn đòi hỏi ở người lao động phải có một trình độ văn
hóa, chuyên môn nhất định. Do đó, sự tham gia của Nhà nước trong cấp phát tài chính cho hoạt
động sự nghiệp mang ý nghĩa kinh tế và xã hội. Ý nghĩa kinh tế xã hội của khoản chi chi này thể
hiện ở chỗ nó tác động đến quá trình tái sản xuất mở rộng và quá trình tạo ra thu nhập quốc dân.

Thực hiện các khoản chi sự nghiệp sẽ t
ạo ra các điều kiện để nâng cao trình độ văn hóa, kỹ thuật
và sức khỏe của người lao động, phát triển sức sản xuất và đó là cơ sở nâng cao năng suất lao động
và hiệu suất công tác. Như vậy mặc dù chi sự nghiệp không mang tính chất sản xuất nhưng lại có
mối quan hệ chặt chẽ với nền sản xuất xã hội và phát huy tác dụng lâu dài đối với sản xu
ất. Xét về
ý nghĩa xã hội, khoản chi sự nghiệp từ NSNN cho những mục đích nhất định góp phần nâng cao
mức sống và thu nhập thực tế của các tầng lớp dân cư.

1.2. Chi quán lý nhà nước
Chi quản lý nhà nước bắt nguồn từ sự tồn tại của nhà nước và phù hợp với đặc điểm chức năng
của nhà nước. Đây là các khoản chi nhằm đảm bảo sự hoạt động của hệ thống các cơ quan quản lý
nhà nước từ trung ương đến địa phương và cơ sở, hoạt động của Đảng Cộng sản Việt nam và hoạt
22
động của các tổ chức chính trị - xã hội. Các khoản chi về quản lý nhà nước được cấp phát từ ngân
sách nhà nước bao gồm:

- Chi về hoạt động của các cơ quan quyền lực nhà nước như Quốc hội, Hội đồng Nhân dân
các cấp.

- Chi về hoạt động của hệ thống các cơ quan pháp luật như ngành tư pháp, hệ thống tòa án
nhân dân và viện kiểm sát nhân dân.

- Chi về hoạt động quản lý vĩ mô nền kinh tế xã hội cho hệ thống các cơ quan quản lý kinh tế
xã hội như chính phủ, các bộ, ngành thuộc Chính phủ và chính quyền các cấp.

- Chi về hoạt động của các cơ quan thuộc Đảng Cộng sản Việt Nam ở các cấp.
- Hỗ trợ cho các tổ chức chính trị xã hội - nghề nghiệp, tổ chức xã hội, tổ chức xã hội - nghề
nghiệp;


Chi quản lý nhà nước là khoản chi cho tiêu dùng nhưng có ảnh hưởng nhất định đến sự hoạt
động của các cơ quan quản lý nhà nước về kinh tế, xã hội và có tác dụng tham gia kiểm tra các
hoạt động trong toàn bộ xã hội. Thực hiện yêu cầu hiệu quả, tiết kiệm trong chi quản lý nhà nước
đòi hỏi phải tiến hành đồng bộ các biện pháp:

- Hoàn thiện mạng lưới bộ máy quản lý Nhà nước .
- Nâng cao chất lượng cán bộ quản lý.
- Hợp lý hóa tổ chức lao động và sử dụng hệ thống cơ giới hóa, tự động hóa trong quản lý
các công việc hành chính.

1.3. Chi quốc phòng, an ninh và trật tự an toàn xã hội.
Chi cho Quốc phòng và an ninh thuộc vào lĩnh vực chi cho tiêu dùng xã hội. Đây là những hoạt
động bảo đảm sự tồn tại của nhà nước và cần thiết phải cấp phát tài chính cho các nhu cầu về quốc
phòng, an ninh và trật tự an toàn xã hội từ ngân sách nhà nước. Căn cứ theo mục đích sử dụng,
khoản chi tài chính này được phân thành hai bộ phận cơ bản. Bộ phận thứ nhất gồm các khoản chi
cho quốc phòng để phòng thủ
và bảo vệ nhà nước, chống sự xâm lược, tấn công và đe dọa từ nước
ngoài. Bộ phận thứ hai gồm các khỏan chi được hướng vào bảo vệ và giữ gìn chế độ xã hội, an
ninh của dân cư trong nước. Xét về nội dung, chi quốc phòng, an ninh và trật tự an toàn xã hội
được hợp thành bởi:

- Chi đảm bảo đời sống vật chất tinh thần, chính sách cho toàn quân và lực lượng công an
nhân dân.

- Chi về đào tạo huấn luyện, nghiên cứu khoa học.
23
- Chi mua sắm trang thiết bị, vũ khí và các phương tiện quân sự cho toàn quân và lực lượng
công an nhân dân.

- Xây dựng mới, sửa chữa các công trình đặc biệt, các công trình chiến đấu, doanh trại, trụ

sở làm việc, kho tàng của cơ quan quân sự từ cấp huyện trở lên.

- Xây dựng mới, sửa chữa các công trình đặc biệt, doanh trại , trụ sở làm việc, kho tàng của
lực lượng công an nhân dân, sửa chữa trại giam trại cải tạo phạm nhân từ cấp huyện trở lên.

- Xây dựng phương án phòng thủ khu vực.
- Huấn luyện dân quân tư vệ.
- Phòng cháy chữa cháy.
- Quản lí cải tạo phạm nhân.
- Các khoản chi khác theo qui định của pháp luật.
Chi quốc phòng, an ninh và trật tự an toàn xã hội phải căn cứ vào tình hình thực tế của đất
nước. Hàng năm Nhà nước phải dành ra một phần kinh phí đáng kể của ngân sách Nhà nước để duy
trì, củng cố lực lượng quốc phòng, an ninh. Tuy nhiên, nếu khoản chi quốc phòng, an ninh mà quá
lớn trong khi nền kinh tế chậm phát triển thì sẽ dẫn đến hạn chế phát triển sản xuất, tốc độ tăng
trưởng kinh tế ch
ậm, đời sống của nhân dân gặp nhiều khó khăn. Do đó, bố trí ngân sách quốc
phòng, an ninh một mặt phải đám bảo những chi phí cần thiết cho phòng thủ và giữ gìn an ninh của
đất nước và trên cơ sở đó ổn định được về kinh tế, xã hội; mặt khác, phải thực hiện yêu cầu tiết
kiệm, hiệu quả trong chi tiêu.

Số lượng chi quốc phòng và an ninh phụ thuộc vào hàng loạt các nhân tố mà trước hết phụ
thuộc vào tình hình chính trị quốc tế, độ lớn bộ máy quân sự và an ninh, tốc độ hoàn thiện kỹ thuật
cũng như mức độ trang bị kỹ thuật trong lĩnh vực quân sự và an ninh. Ngoài ra cũng phải nhận thấy
rằng mức độ phân phối lại thu nhập quốc dân qua ngân sách Nhà nước cho kinh tế và tiêu dùng xã
hội cũng tác
động đến độ lớn khoản chi cho quốc phòng và an ninh.
1.4. Trợ giá theo chính sách của Nhà nước
1.5. Các khoản chi thường xuyên khác theo quy định của pháp luật
2. Chi đầu tư phát triển.
Một trong các chức năng quan trọng của nhà nước là chức năng tổ chức kinh tế. Chức năng này

trong cơ chế kinh tế thị trường hiện nay ở nước ta được thể hiện bằng vai trò của nhà nước trong
quản lý điều tiết vĩ mô nền kinh tế thông qua hệ thống luật kinh tế, chính sách kinh tế, kế hoạch,
các công cụ kinh tế và cơ chế. Để thực hiện chứ
c năng và vai trò nêu trên, nhà nước sử dụng công
cụ tài chính vĩ mô quan trọng là ngân sách nhà nước để phân phối các nguồn tài chính cho sự phát
triển của lĩnh vực sản xuất và các ngành kinh tế quốc dân. Chi đầu tư phát triển được cấp phát chủ
24
yếu từ ngân sách trung ương và một bộ phận đáng kể từ ngân sách địa phương. Khoản chi này
mang tính chất tích lũy, có ảnh hưởng trực tiếp đến tăng năng suất xã hội và đối với các quan hệ
cân đối lớn trong nền kinh tế quốc dân.

Tổng số chi của tài chính nhà nước cho đầu tư phát triển phụ thuộc vào mức tăng thu nhập
quốc dân, mục tiêu của chính sách kinh tế, hệ thống quản lý và các nhân tố khác, trong đó hệ
thống quản lý và sứ dụng phương thức cấp phát cho nhu cầu đầu tư phát triển là những nhân tố
quan trọng. Trong điều kiện nền kinh tế hỗn hợp, bên cạnh nguồn vốn đầu tư phát triể
n kinh tế
được chi ra từ ngân sách nhà nước còn có các nguồn vốn khác như vốn đầu tư của các đoanh
nghiệp thuộc mọi thành phần kinh tế, vốn đầu tư của các cá nhân và hộ gia đình, vốn đầu tư trực
tiếp của nhà đầu tư nước ngoài, vốn vay hoặc viện trợ. Trong số các nguồn vốn đó thì vốn đầu tư
của ngân sách nhà nước vẫn đóng vai trò chủ yế
u và quan trọng đối với thực hiện chiến lược đầu tư
của nền kinh tế.

Chi đầu tư phát triển bao gồm những khoản chi cơ bản sau đây:
2.1. Chi đầu tư xây dựng các công trình kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội.
2.2. Chi đầu tư và hỗ trợ vốn cho các doanh nghiệp, các tổ chức kinh tế, các tổ chức
tài chính của nhà nước.

2.3. Chi góp vốn cổ phần, góp vốn liên doanh vào các doanh nghiệp thnộc lĩnh vực cần
thiết có sự tham gia của nhà nước.


2.4. Chi cho qũy hỗ trợ đầu tư quốc gia.
2.5. Chi bổ sung dự trữ nhà nước.
3. Chi trả nợ gốc và lãi các khoản tiền do Chính phủ vay
- Trả nợ trong nước: đây là những khoản nợ mà nhà nước vay của các tầng lớp dân cư, các
tổ chức đoàn thể xã hội, các tổ chức kinh tế bằng phát hành các loại chứng khoán của Nhà nước
như phát hành công trái quốc gia, tín phiếu kho bạc Nhà nước.
- Trả nợ nước ngoài: Các khoản nợ nước ngoài Nhà nước vay của chính phủ các nước, các
doanh nghiệp và các tổ chức tài chính tiền tệ quốc tế.

4. Chi viện trợ của ngân sách trung ương cho các Chính phủ và tổ chức ngoài nước.
5. Chi cho vay của ngân sách trung ương.
6. Chi trả gốc và lãi các khoản huy động đầu tư xây dựng kết cấu hạ tầng thuộc ngân
sách cấp tỉnh.

25
7. Chi bổ sung Quỹ dự trữ tài chính.
8. Chi bổ sung ngân sách cấp trên cho ngân sách cấp dưới.
9. Chi chuyển nguồn ngân sách từ ngân sách năm trước sang ngân sách năm sau.
IV. PHÂN ĐỊNH CHI GIỮA CÁC CẤP NGÂN SÁCH.
1. Ngân sách trung ương
 Chi thường xuyên về:
- Các hoạt động sự nghiệp giáo dục, đào tạo, dạy nghề, y tế, xã hội, văn hóa thông tin văn
học nghệ thuật, thể dục thể thao, khoa học và công nghệ, môi trường, các sự nghiệp khác do các
cơ quan trung ương quản lý:

• Các trường phổ thông dân tộc nội trú;
• Đào tạo sau đại học, đại học, cao đẳng, trung học chuyên nghiệp, đào tạo nghề và các
hình thức đào tạo, bồi dưỡng khác;


• Phòng bệnh, chữa bệnh và các hoạt động sự nghiệp y tế khác;
• Các cơ sở thương binh, người có công với cách mạng, trại xã hội, phòng chống các tệ nạn xã
hội và các hoạt động xã hội khác;

• Bảo tồn, bảo tàng, thư viện, trùng tu di tích lịch sử đã được xếp hạng, các hoạt động
sáng tạo văn học, nghệ thuật và các hoạt động văn hóa khác;

• Phát thanh, truyền hình và các hoạt động thông tin khác;
• Bồi dưỡng, huấn luyện huấn luyện viên, vận động viên các đội tuyển quốc gia; các giải
thi đấu quốc gia và quốc tế; quản lý các cơ sở thi đấu thể dục, thể thao và các hoạt động thể dục,
thể thao khác;

• Nghiên cứu khoa học và phát triển công nghệ;
• Các sự nghiệp khác.
- Các hoạt động sự nghiệp kinh tế do các cơ quan trung ương quản lý:
• Sự nghiệp giao thông: duy tu, bảo dưỡng, sửa chữa cầu đường, các công trình giao
thông khác, lập biển báo và các biện pháp bảo đảm an toàn giao thông trên các tuyến đường;

• Sự nghiệp nông nghiệp, thủy lợi, ngư nghiệp và lâm nghiệp: bảo dưỡng, sửa chữa các tuyến
đê, các công trình thủy lợi, các trạm trại nông nghiệp, ngư nghiệp, lâm nghiệp; công tác khuyến lâm,
khuyến nông, khuyến ngư; công tác khoanh nuôi, bảo vệ, phòng chống cháy rừng, bảo vệ nguồn lợi
thủy sản;

Tài liệu bạn tìm kiếm đã sẵn sàng tải về

Tải bản đầy đủ ngay
×