Tải bản đầy đủ (.docx) (35 trang)

Bài dự án lịch sử chính trị việt nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (254.6 KB, 35 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC

ĐỒ ÁN KẾT THÚC HỌC PHẦN
TÊN ĐỒ ÁN: ĐỀ XUẤT CÁC GIẢI PHÁP CƠ BẢN
NHẰM VẬN DỤNG TƯ TƯỞNG CHÍNH TRỊ
GẦN DÂN, THÂN DÂN CỦA TRIỀU ĐẠI NHÀ
LÝ VÀO XÂY DỰNG HỆ THỐNG CHÍNH TRỊ
CẤP CƠ SỞ TRONG SẠCH, VỮNG MẠNH TRÊN
ĐỊA BÀN NƯỚC TA HIỆN NAY

, tháng 6 năm 2023


BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC

TÊN ĐỒ ÁN: ĐỀ XUẤT CÁC GIẢI PHÁP CƠ BẢN NHẰM
VẬN DỤNG TƯ TƯỞNG CHÍNH TRỊ GẦN DÂN, THÂN DÂN
CỦA TRIỀU ĐẠI NHÀ LÝ VÀO XÂY DỰNG HỆ THỐNG
CHÍNH TRỊ CẤP CƠ SỞ TRONG SẠCH, VỮNG MẠNH
TRÊN ĐỊA BÀN NƯỚC TA HIỆN NAY

Giáo viên hướng dẫn:
Nhóm 1 thực hiện:
Học phần: lịch sử chính trị Việt Nam
Chuyên ngành:

tháng 6 năm 2023



PHẦN A. MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Qua thực tiễn xây dựng Đảng và hệ thống chính trị, nền dân chủ xã hội chủ nghĩa ngày
càng được củng cố; quyền con người, quyền công dân được bảo đảm tốt hơn; tổ chức
bộ máy, cơ chế vận hành của hệ thống chính trị từng bước được đổi mới, hồn thiện,
nâng cao hiệu quả.
Trong quá trình lãnh đạo cách mạng, Đảng Cộng sản Việt Nam luôn quan tâm chăm lo
xây dựng Đảng thật sự trong sạch, vững mạnh. Từ khi giành được chính quyền, Đảng
vừa là một bộ phận cấu thành của hệ thống chính trị, vừa là hạt nhân lãnh đạo hệ thống
ấy. Xây dựng Đảng trong sạch, vững mạnh chi phối tính chất, mục tiêu, nhiệm vụ, hiệu
quả xây dựng hệ thống chính trị. Hiệu lực, hiệu quả hoạt động các tổ chức của hệ
thống chính trị chính là thước đo năng lực lãnh đạo, uy tín, vị thế, địa vị cầm quyền
của Đảng.
Bước vào thời kỳ đổi mới, Đảng Cộng sản Việt Nam xác định xây dựng Đảng là
nhiệm vụ then chốt, có ý nghĩa quyết định bảo đảm sự thành công của công cuộc đổi
mới. Xây dựng Đảng và hệ thống chính trị là nhằm nâng cao năng lực lãnh đạo và cầm
quyền của Đảng, tăng cường hiệu lực và hiệu quả hoạt động của hệ thống chính trị,
phát huy dân chủ xã hội chủ nghĩa, bảo đảm tính đồng bộ, phù hợp giữa đổi mới kinh
tế với đổi mới chính trị.
Trên cơ sở kiên trì các nguyên tắc tổ chức và hoạt động của Đảng Cộng sản, công tác
xây dựng Đảng được tiến hành trên tất cả các mặt chính trị, tư tưởng, tổ chức, đạo đức
và đã có nhiều chuyển biến mạnh mẽ. Xây dựng Đảng về chính trị đã giúp giữ vững,
kiên định mục tiêu, lý tưởng cách mạng; kiên định các nguyên tắc nền tảng; tăng
cường bản lĩnh chính trị; nâng cao chất lượng đường lối, chính sách. Cơng tác tư
tưởng, lý luận được tăng cường đã tạo sự thống nhất trong Đảng và đồng thuận xã hội
trước những vấn đề lớn của đất nước, của công cuộc đổi mới; đấu tranh làm thất bại
mọi âm mưu “diễn biến hịa bình” của các thế lực thù địch; tìm tịi, bổ sung và phát
triển lý luận về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam.
Tổ chức đảng và hệ thống chính trị có bước đổi mới quan trọng, từ thể chế, tổ chức bộ
máy, cơ chế vận hành, đến nâng cao hiệu lực, hiệu quả hoạt động, xây dựng đội ngũ

cán bộ các cấp, nhất là cán bộ cấp chiến lược; chỉnh đốn lề lối, tác phong cơng tác; siết
chặt kỷ luật, kỷ cương, kiểm sốt quyền lực, phịng chống tham nhũng, lãng phí; tăng


cường quan hệ mật thiết giữa Đảng, Nhà nước với nhân dân. Giáo dục, rèn luyện phẩm
chất đạo đức cách mạng được đặc biệt coi trọng, có tác dụng quan trọng trong đấu
tranh ngăn chặn và đẩy lùi tình trạng suy thối tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống,
phát huy vai trò tiền phong gương mẫu của đảng viên. Qua thực tiễn xây dựng Đảng
và hệ thống chính trị, nền dân chủ xã hội chủ nghĩa ngày càng được củng cố; quyền
con người, quyền công dân được bảo đảm tốt hơn; tổ chức bộ máy, cơ chế vận hành
của hệ thống chính trị từng bước được đổi mới, hồn thiện, nâng cao hiệu quả.
Xây dựng Đảng và hệ thống chính trị trong sạch, vững mạnh là nhân tố quyết định tạo
nên những thắng lợi to lớn, có ý nghĩa lịch sử của công cuộc đổi mới ở Việt Nam hơn
30 năm qua. Thông qua xây dựng Đảng và hệ thống chính trị, Đảng Cộng sản Việt
Nam trưởng thành hơn trong lãnh đạo sự nghiệp đổi mới, nâng cao năng lực lãnh đạo
và cầm quyền, tăng cường mối quan hệ gắn bó mật thiết với nhân dân, khơi dậy tiềm
năng sáng tạo, phát huy quyền làm chủ của nhân dân, khuyến khích nhân dân tham gia
xây dựng Đảng và quản lý Nhà nước.
Tuy nhiên, xây dựng Đảng và hệ thống chính trị cũng bộc lộ những yếu kém, khuyết
điểm: năng lực dự báo, định hướng chính sách, thể chế hóa, cụ thể hóa để tổ chức thực
hiện vẫn là khâu yếu, còn khoảng cách với đòi hỏi của thực tiễn. Năng lực và hiệu quả
lãnh đạo của Đảng, hiệu quả quản lý, điều hành của Nhà nước, hiệu quả hoạt động của
các đồn thể chính trị - xã hội chưa nâng lên kịp với địi hỏi của tình hình nhiệm vụ
mới. Bộ máy Đảng, Nhà nước, đoàn thể chậm được sắp xếp lại cho tinh giản và nâng
cao chất lượng, còn nhiều biểu hiện quan liêu, vi phạm quyền dân chủ của nhân dân.
Công tác tuyển chọn, bồi dưỡng, thay thế, trẻ hố, chuẩn bị cán bộ kế cận cịn lúng
túng, chậm trễ. Quản lý, giáo dục Đảng viên chưa được quan tâm đúng mức, hiệu quả
chưa cao. Năng lực và phẩm chất của đội ngũ cán bộ của hệ thống chính trị chưa tương
xứng với yêu cầu của nhiệm vụ. Một bộ phận cán bộ, đảng viên phai nhạt lý tưởng
cách mạng, tha hoá về phẩm chất đạo đức; sức chiến đấu của một số tổ chức cơ sở

Đảng chưa cao. Chất lượng sinh hoạt Đảng, tính chiến đấu trong tự phê bình và phê
bình cịn yếu, thực hiện trách nhiệm nêu gương của đảng viên nhiều nơi thiếu nền nếp,
chưa trở thành ý thức tự giác. Chưa đạt hiệu quả cao trong đổi mới phương thức lãnh
đạo, cầm quyền của Đảng; chưa phân định rõ vai trò lãnh đạo tập thể và trách nhiệm cá
nhân; thực hiện kiểm soát quyền lực chưa tốt. Cơ chế “Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản
lý, nhân dân làm chủ” chậm được thể chế hóa một cách đồng bộ. Cịn nhiều yếu kém


trong quản lý kinh tế - xã hội, để nhiều vụ việc tồn đọng kéo dài, chậm được xử lý, gây
bức xúc trong nhân dân.
Hệ thống chính trị ở cơ sở hiện nay còn nhiều mặt yếu kém, bất cập trong công tác
lãnh đạo, quản lý, tổ chức thực hiện và vận động quần chúng. Tình trạng tham nhũng,
quan liêu, mất đoàn kết nội bộ, vừa vi phạm quyền làm chủ của dân, vừa không giữ
đúng kỷ cương, phép nước xảy ra ở nhiều nơi, có những nơi nghiêm trọng. Chức năng,
nhiệm vụ của các bộ phận trong hệ thống chính trị chưa được xác định rành mạch,
trách nhiệm khơng rõ; nội dung và phương thức hoạt động chậm đổi mới, còn nhiều
biểu hiện của cơ chế tập trung quan liêu, bao cấp. Đội ngũ cán bộ cơ sở ít được đào
tạo, bồi dưỡng; chính sách đối với cán bộ cơ sở cịn chắp vá. Có thể khẳng định, trước
u cầu mới ngày càng cao của sự nghiệp cách mạng, sự nghiệp cơng nghiệp hố, hiện
đại hóa đất nước, cùng với đổi mới nền kinh tế, từng bước đổi mới kiện tồn hệ thống
chính trị là địi hỏi khách quan, u cầu cấp bách.
Trong khi đó hệ thống chính trị được xây dựng dưới thời Lý trong các thế kỷ XI - XIII,
tuy chưa thật hoàn mỹ như ở các thời kỳ sau, song với thể chế thống nhất và ổn định
ấy cũng đã đủ giúp nhà Lý quản lý được một đất nước có nền kinh tế và quốc phịng
vững mạnh, góp phần đẩy lùi những nạn ngoại xâm lớn đang đe dọa tới vận mệnh của
dân tộc ( quân Tống ở phía Bắc, quân Chiêm ở phía Nam) và tạo tiền đề cho nhà Lý
xây dựng được một nền văn hóa Thăng Long mang đậm dấu ấn lịch sử. Ở đó tư tưởng
chính chị gần dân, thân dân, những tư tưởng, chính sách trị quốc, an dân của các vua
nhà Lý mang đậm tính chất nhân ái, vị tha là chịu ảnh hưởng của lòng từ bi, bác ái của
Đạo Phật kết hợp với tinh thần “thương người như thể thương thân” truyền thống của

dân tộc Việt Nam. Đạo đức và từ bi là nội dung cốt yếu của những tư tưởng, chính
sách triều Lý. Nhưng điều đó khơng làm cho dân nghèo, nước yếu, trái lại, nó là yếu tố
quan trọng tạo nên cảnh phú cường cho đất nước. Vì vậy để xây dựng hệ thống chính
trị cấp cơ sở trong sạch, vững mạnh trên địa bàn hiện nay cần vận dụng và đề xuất
những giải pháp trên cơ sở tư tưởng chính trị gần dân, thân dân của Triều đại nhà Lý
vào xây dựng hệ thống chính trị cấp cơ sở trong sạch, vững mạnh. Thể chế hố và
nâng cao chất lượng các hình thức thực hiện dân chủ trực tiếp và dân chủ đại diện; tiếp
tục thực hiện tốt dân chủ ở cơ sở; hoàn thiện hệ thống pháp luật, tôn trọng, bảo đảm,
bảo vệ quyền con người, quyền và nghĩa vụ của công dân. Từ đó đưa đất nước phát
triển, hưng thịnh. Đây là lí do nhóm tác giả lựa chọn đề tài “Các giải pháp cơ bản


nhằm vận dụng tư tưởng chính trị gần dân, thân dân của Triều đại nhà Lý vào xây
dựng hệ thống chính trị cấp cơ sở trong sạch, vững mạnh trên địa bàn nước ta hiện
nay” làm dự án nghiên cứu của nhóm.
2. Tình hình nghiên cứu có liên quan đến đề tài
Liên quan đến vấn đề đặt ra, đã có nhiều cơng trình khoa học nghiên cứu về xây dựng
hệ thống chính trị nói chung, ở cơ sở nói riêng. Trong đó đáng chú ý là một số cơng
trình nghiên cứu như:
Cách tiếp cận nghiên cứu hệ thống chính trị (2013), của GS.TS. Lưu Văn Sùng. Trong
cơng trình này, tác giả đã nêu 6 cách tiếp cận nghiên cứu hệ thống chính trị, bao gồm:
i) xem xét hệ thống chính trị gắn với sự hình thành và phát triển của các thể chế chính
trị; ii) nghiên cứu hệ thống chính trị dưới bình diện cấu trúc hệ thống; iii) hệ thống
chính trị là tổ chức của các chủ thể quyền lực chính trị, với chức năng, giành, giữ và
thực thi quyền lực chính trị; iv) vận hành của hệ thống chính trị là ban hành và thực thi
chính sách, quyết sách chính trị; v) nghiên cứu hệ thống chính trong mối quan hệ với
những con người hoạt động trong hệ thống ấy, nhất là người đứng đầu. Cơng trình đã
làm rõ những phương pháp luận cơ bản để tiếp cận nghiên cứu hệ thống chính trị một
cách biện chứng, hiện đại.
Đề tài khoa học độc lập cấp nhà nước về Củng cố và tăng cường hệ thống chính trị ở

cơ sở trong sự nghiệp đổi mới và phát triển của nước ta hiện nay (2002) do GS.TS.
Hồng Chí Bảo làm chủ nhiệm Đề tài. Cơng trình tập trung làm rõ quan điểm, lý luận
và phương pháp nghiên cứu hệ thống chính trị ở cơ sở; trình bày lịch sử và lý luận về
vấn đề cơ sở và hệ thống chính trị ở cơ sở nông thôn Việt Nam; đánh giá tổ chức hoạt
động của hệ thống chính trị ở cơ sở nông thôn nước ta hiện nay. Trên cơ sở đó, cơng
trình nêu những phương hướng cơ bản, các quan điểm và giải pháp tiếp tục đổi mới và
nâng cao chất lượng hệ thống chính trị ở cơ sở nơng thơn.
Chính trị học những vấn đề lý luận và thực tiễn (2007 - 2012) của tập thể tác giả do
GS.TS. Nguyễn Văn Hun (chủ biên). Cơng trình là tập hợp các bài viết của các nhà
nghiên cứu lý luận khoa học chính trị Việt Nam, bao gồm các phần: lịch sử tư tưởng
và các học thuyết chính trị; lý luận chung về chính trị học; chính trị học so sánh;
những vấn đề chính trị Việt Nam hiện đại; khoa học lãnh đạo và quản lý.
Mơ hình tổ chức và hoạt động của hệ thống chính trị một số nước trên thế giới do
PGS.TS Tơ Huy Rứa (chủ biên). Cơng trình phân tích đặc điểm của hệ thống chính trị


một số nước và trên cơ sở đó nêu lên một số bài học tham khảo đối việc xây dựng và
hồn thiện hệ thống chính trị của Việt Nam.
Q trình đổi mới hệ thống chính trị ở Việt Nam (1986-2011) của TS Phạm Ngọc
Trâm (2011), Nhà xuất bản chính trị quốc gia. Trong cơng trình này, tác giả đã khái
qt q trình hình thành và phát triển hệ thống chính trị ở Việt Nam từ năm 1945 2011. Trong đó tác giả phân kỳ ra từng giai đoạn, chỉ rõ đặc điểm, yêu cầu, giải pháp
đổi mới hệ thống chính trị ở nước ta; phân định rõ quá trình đổi mới hệ thống chính trị
trong thời kỳ chiến tranh, trong thời kỳ bao cấp và trong thời kỳ đổi mới.
Tập bài giảng Chính trị học (lưu hành nội bộ) (1999) Nhà xuất bản Chính trị quốc gia
do GS. Hồ Văn Thơng (chủ biên). Đây là cơng trình tập hợp những bài giảng với
những nguyên lý cơ bản nhất về chính trị học dùng cho các đối tượng học tập, nghiên
cứu tại Học viện Chính trị- Hành chính quốc gia Hồ Chí Minh.
Xác định cơ cấu và tiêu chuẩn cán bộ lãnh đạo chủ chốt trong hệ thống chính trị đổi
mới do PGS.TS Trần Xuân Sầm (chủ biên).
Thống chính trị nước ta trong thời kỳ đổi mới do GS.VS. Nguyễn Văn Uý (chủ biên).

Đổi mới và tăng cường hệ thống chính trị nước ta trong giai đoạn mới của tập thể tác
giả Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh đồng chủ biên (1999). Cơng trình này là
kết quả nghiên cứu của chương trình khoa học và cơng nghệ cấp nhà nước. Nội dung
cơ bản của cơng trình nghiên cứu là những vấn đề lý luận và phương pháp luận nghiên
cứu hệ thống chính trị nước ta trong giai đoạn mới; những đặc trưng, quan điểm và
nguyên tắc cơ bản xây dựng hệ thống chính trị nước ta trong thời kỳ quá độ lên chủ
nghĩa xã hội; thực trạng hệ thống chính trị nước ta trong giai đoạn chuyển sang nền
kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và hội nhập quốc tế; đồng thời cơng 9
trình nêu lên một số vấn đề cần tiếp tục đẩy mạnh và tăng cường hệ thống chính trị,
đưa sự nghiệp đổi mới đất nước tiến lên từng bước vững chắc.
3. Mục đích nghiên cứu
Nhằm xây dựng hệ thống chính trị vững mạnh, một trong những mục tiêu quan trọng
của các quốc gia, đặc biệt là đối với những nước đang phát triển, trong đó có Việt
Nam. Việc xây dựng hệ thống chính trị trong sạch, vững mạnh giúp đảm bảo quyền lợi
cho các công dân, khôi phục và tăng cường sự ổn định chính trị, giúp tăng cường niềm
tin của người dân vào hệ thống chính trị và giúp thúc đẩy sự phát triển kinh tế, xã hội
của đất nước.


4. Nhiệm vụ nghiên cứu
Luận giải, đánh giá về những nội dung cơ bản của tư tưởng chính trị gần dân, thân dân
của Triều đại nhà Lý trong xây dựng hệ thống chính trị. Hệ thống chính trị thời nhà
Lý. Từ đó đề xuất các giải pháp Đề xuất các giải pháp cơ bản nhằm vận dụng tư tưởng
chính trị gần dân, thân dân của Triều đại nhà Lý vào xây dựng hệ thống chính trị cấp
cơ sở trong sạch, vững mạnh trên địa bàn nước ta hiện nay.
5. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
* Đối tượng nghiên cứu
Hệ thống chính trị thời nhà Lý và Hệ thống chính trị trên địa bàn nước ta hiện nay.
* Phạm vi nghiên cứu
Đề tài giới hạn ở những nội dung liên quan đề xuất các giải pháp xây dựng hệ thống

chính trị cấp cơ sở trong sạch, vững mạnh trên địa bàn nước ta hiện nay.
6. Các phương pháp nghiên cứu cơ bản
Nhóm tác giả đề tài dựa trên hệ thống quan điểm phương pháp luận của chủ
nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, đường lối và chủ trương của Đảng, chính
sách và luật pháp của Nhà nước, Lịch sử chính trị Việt Nam, các hế thống chính trị tư
tưởng của Đảng, nhà nước trong giai đoạn hiện nay. Đồng thời, nhóm tác giả đề tài
cịn sử dụng các phương pháp cụ thể như: Phương pháp nghiên cứu lý luận; Phương
pháp quan sát - điều tra; Phương pháp tổng kết kinh nghiệm; Phương pháp tổng hợp;
Phương pháp so sánh; Phương pháp nghiên cứu lịch sử; Phương pháp phỏng vấn;
Phương pháp xin ý kiến của chuyên gia; Phương pháp toán thống kê.
7. Đóng góp của đề tài
Đề xuất các giải pháp Đề xuất các giải pháp cơ bản nhằm vận dụng tư tưởng chính trị
gần dân, thân dân của Triều đại nhà Lý vào xây dựng hệ thống chính trị cấp cơ sở
trong sạch, vững mạnh trên địa bàn nước ta hiện nay.
Dự án có thể dùng làm tài liệu tham khảo phục vụ công tác nghiên cứu, giảng
dạy, giáo dục, cải cách hệ thống chính trị cơ sở trên địa bàn và những người quan tâm
về vấn đề này.
8. Kết cấu của đề tài
Đề tài gồm: Phần mở đầu, 3 chương, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo và
phụ lục.


MỤC LỤC
Chương 1. NHỮNG NỘI DUNG CƠ BẢN CỦA TƯ TƯỞNG CHÍNH TRỊ GẦN
DÂN, THÂN DÂN CỦA TRIỀU ĐẠI NHÀ LÝ.
1.1. Tính tất yếu hình thành tư tưởng chính trị thời Lý
1.2. Nội dung cơ bản của tư tưởng chính trị gần dân, thân dân của triều đại
nhà lý.
1.3. Đặc điểm trong triết lý về tư tưởng yêu nước thân dân và tư tưởng xây
dựng pháp luật thời Lý

1.4. Ý nghĩa lịch sử của tư tưởng yêu nước thân dân và tư tưởng xây dựng
pháp luật thời Lý
CHƯƠNG 2 THỰC TRẠNG HỆ THỐNG CHÍNH TRỊ NƯỚC TA HIỆN
NAY
2.1. Hệ thống chính trị Việt Nam
2.2. Thực trạng của hệ thống chính trị cơ sở
CHƯƠNG 3: BIỆN PHÁP CƠ BẢN NHẰM VẬN DỤNG TƯ TƯỞNG CHÍNH
TRỊ GẦN DÂN, THÂN DÂN CỦA TRIỀU ĐẠI NHÀ LÝ VÀO XÂY DỰNG HỆ
THỐNG CHÍNH TRỊ CẤP CƠ SỞ TRONG SẠCH, VỮNG MẠNH TRÊN ĐỊA
BÀN……….
3.1. Bài học “nước lấy dân làm gốc”.
3.2. Trong công cuộc bảo vệ Tổ quốc, cần phải dựa vào dân, thực hiện
chiến lược chiến tranh nhân dân, thực hiện chiến lược chiến tranh nhân dân để
bảo vệ vững chắc chế độ chính trị hiện nay.
3.3. Tiếp tục xây dựng và hoàn thiện hệ thống chính trị, trong đó, mỗi
thành tố của hệ thống chính trị đều phải quán triệt quan điểm “dân là gốc”.


PHẦN B. NỘI DUNG
Chương 1. NHỮNG NỘI DUNG CƠ BẢN CỦA TƯ TƯỞNG CHÍNH TRỊ GẦN
DÂN, THÂN DÂN CỦA TRIỀU ĐẠI NHÀ LÝ.
1.1. Tính tất yếu hình thành tư tưởng chính trị thời Lý
Tư tưởng nói chung và tư tưởng chính trị nói riêng đều thuộc kiến trúc thượng tầng.
Theo nguyên lý của chủ nghĩa Mác – Lênin thì bất cứ kiến trúc thượng tầng nào cũng
đều được quy định và chi phối bởi cơ sở hạ tầng sinh ra nó. Q trình hình thành tư
tưởng chính trị nhà Lý cũng khơng nằm ngồi quy luật này, cùng với những điều kiện
lịch sử, kinh tế, chính trị cịn có những yêu cầu của xã hội như sau:
Thứ nhất, yêu cầu thống nhất và ổn định chính trị – xã hội. Khi vừa thiết lập chính
quyền, vương triều Lý đã phải thực hiện nhiều chính sách để thống nhất và ổn định xã
hội. Từ khi Ngô Quyền đánh tan quân Nam Hán trên sông Bạch Đằng, đến triều Đinh

và Tiền Lê, trong khoảng thời gian hơn 70 năm, với ba vương triều khác nhau lần lượt
thay thế nhau, ở mỗi triều đại đều chỉ mới bắt đầu thiết lập bộ máy “hành chính” của
mình, khi bộ máy đó chưa “vận hành” trơn tru thì đã bị vương triều khác thay thế,
bằng việc nhường ngơi có tính tự nguyện hoặc do suy tôn. Sự thay thế quá sớm của
các vương triều cho thấy: thứ nhất, do vương triều trước chưa củng cố được sức mạnh
cho mình, hệ thống chính quyền từ trung ương xuống cơ sở còn lỏng lẻo; thứ hai, là sự
sa đọa, bỏ bê triều chính của các vua nối tiếp hoặc do các vua nối tiếp đó cịn nhỏ
khơng thể đảm đương gánh vác công việc của quốc gia, hoặc do giặc ngoại xâm đang
lăm le ngoài bờ cõi muốn xâm lược vì vậy việc nhường ngơi là mang tính tất yếu để
thống nhất các lực lượng trong nước nhằm chống giặc ngoại xâm. Khi nhà Lý xác lập
vương triều của mình đã ban hành nhiều chính sách hữu ích cho dân, cho nước như:
vua Lý Thái Tổ sau khi lên ngôi được một năm đã miễn thuế cho dân trong ba năm
liền, bãi ngục tụng ở các địa phương, xuất quân đánh một số thủ lĩnh đang cát cứ ở các
vùng trong nước để củng cố chính quyền trung ương tập quyền “Mùa đông, tháng 10
(năm 1013), châu Vị Long làm phản, phụ theo người Man. Vua thân đi đánh; thủ lĩnh
là Hà Trắc Tuấn sợ đem cả đồ đảng trốn vào rừng”, năm 1024 “xuống chiếu cho
Khai Thiên Vương đánh Châu Phong, Khai Quốc Vương đánh Châu Đô Kim”; để bảo
vệ quốc thổ, vua Lý Thái Tổ sai Dực Thánh Vương cầm quân đánh dẹp bọn tướng của
người Man đã quy phụ vào nhà Tống là Đoàn Chí Kính và Dương Trường Huệ vào
năm 1014, hoặc năm 1022 “Xuống chiếu cho Dực Thánh Vương đi đánh bộ lạc Đại


Nguyên Lịch, quân ta đi sâu vào trại Như Hồng đất Tống, đốt kho vựa rồi về”; để thỏa
lịng kính tín của dân đối với đạo Phật vua Lý Thái Tổ cũng cho xây dựng và sửa chữa
nhiều chùa trong phạm vi cả nước, hơn nữa chính các chùa đó đã được vua “giao trách
nhiệm” phải đào tạo cho đất nước ngày càng nhiều người biết chữ. Để dứt bỏ hồn
tồn lịng tưởng nhớ của một bộ phận quan lại và dân chúng đối với nhà Tiền Lê vua
Lý Thái Tổ đã dời đô từ Hoa Lư ra Đại La, cơng cuộc thiên đơ này cịn có ý nghĩa
quan trọng nữa là đưa nước ta vào thế phát triển ổn định và mưu nghiệp cho con cháu
muôn đời “... dân cư khơng khổ vì ngập lụt, mn vật rất thịnh mà phồn vinh...thực là

chỗ hội họp của bốn phương, là nơi thượng đô của kinh sư muôn đời...”, các đời vua
kế tiếp đã kế thừa và phát huy tích cực các chính sách của vua Lý Thái Tổ, như tha
hoặc miễn giảm thuế cho dân để “nuôi dân giàu” làm cho nước “cường thịnh”, sẵn
sàng đối phó với mọi khó khăn về thiên tai, quyết tâm bảo vệ đến cùng nền độc lập tự
chủ của nước nhà trước các thế lực ngoại xâm.
Thứ hai, yêu cầu về củng cố vương quyền và lợi ích của giai cấp. Có thể thấy trước khi
nhà Lý lên nắm chính quyền, tồn thể nhân dân dưới triều Tiền Lê bị đẩy vào tình
cảnh đói khổ, lao tù do vua Lê Long Đĩnh “làm việc càn dỡ, giết vua cướp ngơi, thích
dâm đãng tàn bạo”. Chính vì thế mà một trong những u cầu cấp bách ngay lúc đó là
phải nhanh chóng ổn định nền chính trị, khơi phục lịng tin của dân vào chính quyền,
củng cố trật tự xã hội. Việc đầu tiên là củng cố chế độ phong kiến trung ương tập
quyền, thiết lập triều đình với các chức vụ chủ chốt do những người trong tơn thất và
những người có cơng phù tá nắm giữ “phong Cam Mộc là Nghĩa Tín hầu..., Đỗ Giản
làm Hữu vũ vệ”. Xây dựng hệ thống cơ quan từ trung ương xuống địa phương có tính
chun trách, “ở thời Lý đã có cơ quan chuyên trách xử án, giám sát hình ngục. Đó là
cơ quan bộ Hình và thẩm hình viện, thườn g là các á tướng kiêm nhiệm”. Để cho bộ
máy nhà nước hoạt động hiệu quả và có căn cứ chính xác trong việc khen thưởng hoặc
xử phạt, vua Lý Thái Tông đã cho ban hành bộ Hình thư – bộ văn bản pháp luật đầu
tiên của nước ta, hiện đã mất, thì có thể thấy rõ tính chất của pháp luật thời Lý. Các vị
vua kế tiếp cịn bổ sung thêm nhiều chính sách mới mà các đời vua trước đã làm, hoặc
đang làm như: vua Lý Thái Tông củng cố lực lượng quân đội, chú trọng rèn luyện và
tổ chức thành các phiên hiệu rõ ràng, vua Lý Thái Tông chia quân làm 8 hiệu: “Ngự
Long, Vũ Thắng, Bổng Thánh, Bảo Thắng, Hùng Lược, Long Dực, Thần Điện và Vạn
Tiệp. Mỗi quân hiệu đều chia ra làm Tả, Hữu”, việc huấn luyện kỹ chiến thuật, binh


pháp cho tướng sĩ cũng được chú trọng. Năm 1070, vua Lý Thánh Tông cho xây Văn
Miếu nhằm đề cao đạo học. Bên cạnh việc củng cố vương quyền, xây dựng và từng
bước hòan thiện bộ máy nhà nước với những cơ quan chuyên trách, các chính sách
khuyến học, tổ chức rèn luyện quân đội thì nhà Lý cũng chú trọng phát triển nông

nghiệp bởi nông nghiệp là nguồn thu chủ yếu của triều đình cùng với nguồn thu từ
những nguồn lợi khác.
Thứ ba, yêu cầu về chống giặc ngoại xâm bảo vệ đất nước. Nước ta có vị trí địa lý vô
cùng đặc biệt là ngã ba của con đường Đơng Bắc Á xuống Đơng Nam Á, có thể ví như
cửa ngõ của Đơng Nam Á, do vậy các triều đình phong kiến Trung Quốc muốn bành
trướng lãnh thổ xuống phương Nam thì đều phải “đi qua”, phải xâm chiếm Việt Nam,
và có chiếm được Việt Nam thì lấy Việt Nam làm “bàn đạp” để tiếp tục tiến xuống
phương Nam. Chính vì nước Việt Nam ta vừa có vị trí địa lý thuận lợi, vừa có nguồn
tài ngun phong phú nên ln là “đối tượng” để các triều đình phong kiến Trung
Quốc nhịm ngó. Nhìn lại trong suốt tiến trình lịch sử của nước ta, gần như ở thời kỳ
nào cũng đều bị giặc phương Bắc đe dọa xâm luợc và xâm lược. Đến thời Lý, Lý Công
Uẩn – vị vua khai sáng triều Lý – được các quan lại của nhà Tiền Lê suy tôn chứ
không phải là sốn đoạt. Khi thiết lập vương triều của mình, các vua nhà Lý vừa ra sức
củng cố địa vị thống trị của dịng họ đối với tồn xã hội vừa từng bước tổ chức lại
quân đội nhằm đáp ứng nhiệm vụ bảo vệ quyền lợi của mình và bảo vệ đất nước.
1.2. Nội dung cơ bản của tư tưởng chính trị gần dân, thân dân của triều đại
nhà lý.
Nhà Lý đôi khi gọi là nhà Hậu Lý (để phân biệt với triều đại Tiền Lý do Lý Bí thành
lập) là một triều đại trong nền quân chủ Việt Nam. Triều đại này bắt đầu khi Lý Công
Uẩn lên ngôi vào tháng 10 âm lịch năm 1009 sau khi giành được quyền lực từ tay nhà
Tiền Lê. Triều đại này trải qua 9 vị hoàng đế và chấm dứt khi Lý Chiêu Hồng, lúc đó
mới có 7 tuổi năm 1225 – tổng cộng là 216 năm.
Trong thời đại này, lần đầu tiên nhà Lý đã giữ vững được chính quyền một cách lâu
dài đến hơn 200 năm, khác với các vương triều cũ trước đó chỉ tồn tại hơn vài chục
năm. Vào năm 1054, Lý Thánh Tông đã đổi quốc hiệu từ Đại Cồ Việt thành Đại Việt
mở ra kỷ nguyên Đại Việt rực rỡ nhất trong lịch sử Việt Nam.
Trong nước, mặc dù các vị Hoàng đế đều sùng bái Phật Giáo nhưng ảnh hưởng của
Nho giáo cũng rất cao với việc mở các trường đại học đầu tiên là Văn Miếu 1070



và Quốc Tử Giám 1076 và tổ chức các khoa thi để chọn người hiền tài khơng có nguồn
gốc xuất thân là quý tộc ra giúp nước. Khoa thi đầu tiên được mở vào năm 1075,
và Trạng nguyên đầu tiên là Lê Văn Thịnh. Về thể chế chính trị, đã có sự phân cấp
quản lý rõ ràng hơn và sự cai trị đã dựa nhiều vào pháp luật hơn là sự chuyên quyền
độc đoán của cá nhân. Sự kiện nhà Lý chọn thành Đại La làm kinh đô, đổi tên
thành Thăng Long đã đánh dấu sự cai trị dựa vào sức mạnh kinh tế và lòng dân hơn là
sức mạnh quân sự để phòng thủ như các triều đại trước, đã góp sức lớn về văn trị
và chính trị, tạo nên một nền văn hiến rực rỡ của triều đại nhà Lý.
Mùa đông, tháng 10 năm Kỷ Dậu (1009), tại Kinh đơ Hoa Lư (Ninh Bình), Lý Cơng
Uẩn được lập làm vua, sáng lập Vương triều Lý (1009 - 1225), miếu hiệu là Thái Tổ.
Sau khi nhà Lý được thành lập, nhiều vấn đề quốc gia, đại sự được đặt ra một cách cấp
bách đối với những người đứng đầu vương triều thời bấy giờ, như: phải gấp rút củng
cố bộ máy Nhà nước trung ương tập quyền, trấn áp các cuộc nổi dậy ở miền núi, xóa
bỏ tình trạng cát cứ, cải tổ chính trị mới hồn chỉnh, định lại quan chế, ban bố luật
pháp, tổ chức quân đội, khuyến khích sản xuất nơng nghiệp, phát triển văn hóa, v.v...
Năm 1010, Lý Thái Tổ chia lại khu vực hành chính, đổi 10 đạo thời Đinh, Tiền Lê
thành 24 lộ. Sách Đại Việt sử ký toàn thư (gọi tắt là Toàn thư) chỉ chép tên 12 lộ:
Thiên Trường lộ, Quốc Oai lộ, Hải Đơng lộ, Kiến Xương lộ, Khối lộ, Hoàng Giang
lộ, Long Hưng lộ, Bắc Giang lộ, Trường Yên bộ, Hồng lộ, Thanh Hóa lộ và Diễn Châu
lộ. Ở các vùng miền núi thì có châu, trại. Á Châu và Hoan Châu cũng đổi là trại. Đổi
châu Cổ Pháp thành phủ Thiên Đức, đổi Hoa Lư thành phủ Trường Yên. Năm 1014,
lại đổi phủ ứng Thiên thành Nam Kinh. Năm 1023, đổi trấn Triều Dương thành châu
Vĩnh An. Năm 1036, đổi Hoan Châu thành châu Nghệ An. Tuy có những sự thay đổi
như thế, các đơn vị hành chính bấy giờ vẫn chưa thật hoàn toàn thống nhất. Chẳng
hạn, như đã đổi Hoan, Ái thành trại, nhưng về sau lại gọi là châu Nghệ An và phủ
Thanh Hóa. Có lẽ có một số lộ ở trung châu cũng gọi là phủ như phủ Trường Yên, phủ
Thiên Đức, phủ Phú Lương... Vùng núi cũng có đơn vị "đạo" như đạo Lâm Tây (vùng
dọc sơng Đà). Đơn vị hành chính dưới phủ, châu thì có hương, giáp, thơn. Ở Kinh đơ,
cịn có phường, chia làm 61 phường. Bộ máy Nhà nước thời Lý là một hệ thống chính
quyền từ trung ương đến tận địa phương và tập trung quyền hành vào tay triều đình

đứng đầu là Vua. Năm 1028, Lý Thái Tông vừa lên ngôi, đã phong các quan tước,
thiết lập một bộ máy Nhà nước tương đối đầy đủ. Thời vua Lý Thái Tông rất thương


dân, hễ năm nào đói kém hay là đi đánh giặc về thì lại giảm thuế cho hàng hai ba năm.
Ngài sửa luật phép định các bậc hình phạt, các cách tra hỏi và đặt lệ cho những người
già trẻ, trừ khi phạm tội thật ác, thì được lấy tiền mà chuộc tội. Năm Quý Mùi 1043
Thái Tông hạ chiếu cấm không cho ai được mua người từ 18 tuổi trở lên để làm nô.
Năm 1089, Lý Nhân Tông định lại các chức văn, võ, tòng quan, tạp lưu.
Sử gia thế kỷ XIX là Phan Huy Chú cho biết: "Quan chế triều Lý đại lược văn võ đều
có 9 phẩm. Lấy 3 chức Thái (tức Thái sư, Thái phó, Thái bảo), Tam thiếu (tức Thiếu
sư, Thiếu phó, Thiếu bảo), cũng Thái úy, Thiếu úy và nội ngoại Hành điện Đô tri sự,
Kiểm hiệu Bình chương sự, đều làm chức trọng yếu văn võ đại thần. Ban Văn thì có
bộ Thượng thư, Tả hữu Tham tri, Tả hữu Gián nghị và Trung thư Thị lang thuộc quan
thì có các chức Trung thư thừa, Trung thư xá nhân), bộ Thị lang, Tả hữu ty Lang
trung, Thượng thư sản Viên ngoại lang, Đông Tây Cáp môn sứ, Tả hữu phúc tâm, Nội
thường thị, Phủ sĩ sư, Điện học sĩ, Hàn lâm học sĩ, Vệ đại phu, Thư gia các hỏa, Thừa
trực lang, Thừa tín lang. Các chức kể trên đều là các chức quan trọng làm việc ở trong
(triều). Các chức làm việc bên ngồi thì có những chức: Tri phủ, Phán phủ và Tri châu.
Võ ban thì có Đơ thống, Ngun sối, Tổng quản, Khu mật sứ, Khu mật tả hữu sứ, Tả
hữu Kim ngô, Thượng tướng, Dại tướng, Đô tướng, Tướng quân các vệ (có các Hiệu
úy vệ, Kiêu vệ, Định thắng), Chỉ huy sứ, Vũ vệ Hỏa đầu, cùng là sáu binh tào Vũ tiệp,
Vũ tâm. Các chức kể trên đều là tướng hiệu, tinh binh chức ở trong. Còn ở ngồi thì
các lộ, trấn, trại đều đặt quan và binh đóng giữ….”
Đời Lý, cịn có chức Hành khiển, do Trung quan (tức Hoạn quan) sung vào như Nhập
nội Hành khiển đồng Trung thư Mơn hạ Bình chương sự. Nói chung, thì bộ máy tổ
chức đó có nhiều điểm phỏng theo quan chế nhà Tống, nhưng giản lược hơn. Chính
quyền thời Lý căn bản là một chính quyền tập trung, yếu tố phân tán yếu ớt, những yếu
tố đó chỉ phát triển vào lúc chính quyền trung ương suy yếu như giai đoạn cuối thời
Lý.

Đồng thời với việc tổ chức lại bộ máy Nhà nước, nhà Lý cũng rất chú trọng đến việc
củng cố quân đội. Nhà Lý có một tổ chức quân đội chặt chẽ. Năm 1011, Lý Thái Tổ đã
đặt các quân Tả hữu túc xạ. Mỗi quân đều có 500 người. Năm 1028, Lý Thái Tơng lại
tăng cường lực lượng Cấm quân bảo vệ Kinh đô. Cấm quân bấy giờ đặt làm 10 vệ, gọi
là Điện tiền Cấm quân, gồm có vệ Quảng Thánh, vệ Quảng Vũ, vệ Ngự Long, vệ
Phủng Nhật, vệ Trừng Hải. Năm vệ đó lại chia ra các vệ Tả, Hữu, nên gọi là 10 vệ.


Năm 1059, Lý Thánh Tông định lại quân hiệu, gồm có các vệ: Ngự Long, Vũ Thắng,
Long Dục, Thần Điện, Phủng Thánh, Bảo Thắng, Hùng Lược, Vạn Tiệp, các vệ cũng
chia ra làm Tả, Hữu, tất cả thành 16 vệ. Cấm quân trên trán thích ba chữ " Thiên tử
quân". Trong Đại Việt sử ký tiền biên, sử gia Ngô Thì Sĩ cho rằng: "Chế độ binh bị
của buổi đầu triều Lý, đại lược phỏng theo quân phủ vệ nhà Đường, quân Cấm sương
của nhà Tống...
Lực lượng chính của quân đội đời Lý chủ yếu là nông dân các làng xã, tức là các nông
dân thần thuộc Nhà nước. Dân đinh, lên 18 tuổi phải đăng ký tên vào sổ. Theo Ngơ
Thì Sĩ thì sổ đóng bìa màu vàng, gọi là "hoàng sách", nên hạng đinh này gọi là Hoàng
nam. Đinh trên 20 tuổi, gọi là Đại hoàng nam. Hoàng nam có nhiệm vụ sung vào quân
đội.
Nhà Lý là triều đại có cơng ban hành bộ Hình thư đầu tiên trong lịch sử pháp quyền
Việt Nam. Pháp luật là một trong những công cụ của Nhà nước để bảo vệ cho quyền
lợi của giai cấp thống trị. Song song với bước phát triển của Nhà nước quân chủ
chuyên chế tập quyền, pháp luật ngày càng được quy định chặt chẽ. Các triều Ngô,
Đinh, Tiền Lê, pháp luật chưa được quy định thành văn, đến năm 1042, Lý Thái Tông
sai quan Trung thư "san định luật lệnh, châm chước, những điều thời thế thông dụng,
xếp thành môn loại, biên rõ điều mục, làm thành riêng quyển Hình thư một triều đại,
để cho người xem dễ biết. Sách làm xong, chiếu ban ra cho thi hành. Dân đều tay làm
tiện".
Hình thư nhà Lý có thể coi là một cái mốc trong lịch sử pháp quyền Việt Nam, nó
chứng tỏ rằng bộ máy chính quyền trung ương tập quyền đã có đủ các thiết chế hoàn

bị. Phan Huy Chú trong Lịch triều hiến chương loại chí cho biết: Hình thư đời Lý Thái
Tơng gồm có 3 quyển, bấy giờ đã thất truyền. Tuy ngày nay chúng ta khơng được đọc
sách Hình thư đời Lý, nhưng qua những, pháp lệnh được chép lại trong sử cũ, chúng ta
cũng có thể thấy rõ tính chất của pháp luật thời Lý.
Pháp luật nhà Lý nhằm bảo vệ nguồn thu nhập của Nhà nước quân chủ, đặc biệt là bảo
đảm dân đinh là sức lao động chủ yếu. Năm 1146, Vua Lý Anh Tông đã ra lệnh cho
các quan, quản giáp và chủ đô, phàm sung bổ làm cấm quân phải chọn những hộ nhiều
người, không được lấy người cơ độc, làm trái thì có tội". pháp luật nhà Lý củng cố chế
độ đẳng cấp. Đẳng cấp quý tộc quan liêu được hưởng nhiều đặc quyền, ngay cả trang
phục, nhà cửa cũng phân biệt với nhân dân. Nhân dân khơng được làm nhà ngói. Pháp


luật thời Lý là pháp luật bảo vệ quyền lợi của Nhà nước quân chủ tập trung của tầng
lớp quý tộc quan liêu, nó củng cố chế độ đẳng cấp, bảo vệ tư hữu. Nhưng để tập trung
toàn bộ quyền lực vào tay Nhà nước, đại biểu là Vua, pháp luật nhà Lý cũng đã có
phần nào hạn chế sự bành trướng thế lực của quan liêu quý tộc nói chung và cũng đã
có những biện pháp tốt trong việc bảo đảm sản xuất nông nghiệp.
Một trong những biện pháp hàng đầu để làm cho nước trị, dân yên dưới thời quân chủ,
là nhà cầm quyền phải quan tâm tới sản xuất nông nghiệp. Kinh tế nông nghiệp là cơ
sở của chế độ quân chủ, cho nên trong giai đoạn đầu của các triều đại, Nhà nước quân
chủ thường đặc biệt chăm sóc đến nơng nghiệp. "Dĩ nơng vi bản" (Lấy nông nghiệp
làm gốc) là nội dung căn bản các chính sách kinh tế của Nhà nước qn chủ, nó bắt
nguồn từ quyền lợi bóc lột nơng dân. Tuy nhiên, trong những triều đại mà giai cấp
phong kiến cịn có vai trị của nó, chính sách "trọng nơng" vẫn có tác dụng tích cực đối
với sự phát triển của sản xuất nơng nghiệp. Chính sách trọng nơng vào thời các vua
đầu triều Lý cũng đã có những tác dụng tích cực đáng kể.
Cày “tịch điền" là một nghi lễ cổ truyền, ít nhiều biểu hiện chính sách trọng nơng đó.
Lễ nghi này được sử chép từ đời Lê Đại Hành, vào năm 987, và nó đã được thực hiện
dưới thời Lý. Các vua Lý có tịch điền ở nhiều nơi: ứng Phong (Nghĩa Hưng, Nam
Định), Đỗ Động giang Hà Tây cũ), Bố Hải Khẩu thành phố Thái Bình), Lý Nhân (Hà

Nam), Diễn hộ (hoặc Ơ Lơ, Hưng n), Cửa bể Khả Lãm (?)...
Sách Toàn thư chép vào năm 1038, Lý Thái Tông ngự ra Bố Hải Khẩu cày ruộng tịch
điền, sai quan ty lấy đất xây đàn, vua thân cúng Thần Nơng xong, cầm cày toan tự
mình cày, tả hữu có người can rằng: "Đấy là việc của nơng phu, bệ hạ cần gì làm
thế?". Vua nói: "Trẫm khơng tự cày thì lấy gì mà làm xơi cúng, lấy gì để xướng suất
thiên hạ? Thế rồi, đẩy cày ba đường rồi thôi.
Năm 1056, Vua Lý Thánh Tông ban chiếu khuyến nơng trên tồn quốc. Bên cạnh
những nghi lễ tượng trưng trên đây, triều Lý vẫn có những biện pháp tích cực hơn.
Nhà nước đã chú trọng đến việc bảo vệ sức sản xuất. Khi Lý Thái Tổ mới lên ngôi
năm 1010, đã xuống chiếu bắt tất cả những người đào vong phải trở về quê hương bản
quán, như vậy cốt là để nhân số lao động nông nghiệp được đảm bảo. Chính sách "ngụ
binh ư nơng" (gửi binh ở nơng thơn) cũng có tác dụng phát triển sản xuất nơng nghiệp,
sức lao động khơng bị thiếu. Năm 1128 triều đình "cho sáu quân thay phiên nhau về
làm ruộng, theo chế độ xưa".


Chu Khứ Phi trong sách Lĩnh Ngoại đại đáp cũng chép rằng binh sĩ thay nhau nghỉ
một tháng một lần để cày ruộng tự cấp. Nhà Lý còn rất chú ý bảo vệ trâu bò, nguồn
sức kéo chủ yếu, quan trọng dùng vào việc canh tác ở nước ta. Triều đình đã ban hành
nhiều luật lệnh để bảo vệ trâu bò. Ăn trộm trâu, hay giết trâu bị tội rất nặng. Năm
1118, Vua Lý Nhân Tông xuống chiếu rằng kẻ nào mổ trộm trâu thì xử 80 trượng đồ
làm khảo giáp, vợ xử 80 trượng đồ làm tang thất phu (phục dịch ở nhà nuôi tằm) và
đầu trâu.
Nhà láng giềng khơng tố cáo thì xử 80 trượng. Năm 1123, vua lại xuống chiếu: "Trâu
là vật cần thiết cho cày cấy", lợi cho người khơng ít. Từ nay về sau, 3 nhà làm thành
một bảo, không được giết trộm trâu. Nếu có việc tế tự thì phải tâu xin, được chỉ mới
cho, ai vi phạm khép trọng tội. Nhà hàng xóm khơng báo cũng bị tội như vậy".
Ngồi ra, Nhà nước còn chú trọng đến việc bồi đắp đê điều, đào mới hoặc khơi sâu
một số con kênh, con sông như: đào kênh Dẫn Nài, khai kênh Lẫm ở Thanh Hóa, khơi
sâu sông Lãnh Kinh ở Thái Nguyên, khơi sâu sông Tơ Lịch ở Thăng Long... Bên cạnh

đó, việc xá tơ thuế cho nhân dân cũng chứng tỏ chính sách khuyến khích sản xuất nơng
nghiệp. Năm 1010, Lý Thái Tổ xá thuế 3 năm. Năm 1016, được mùa lớn, Thái Tổ lại
xuống chiếu xá tô thuế 3 năm. Năm 1017, lại tha tô ruộng. Thời Lý Thái Tông, năm
1040, xá một nửa số thuế, năm 1044, vua lại tha một nửa thuế... Những chính sách
khuyến nơng của nhà Lý trên đây đã làm cho sức sản xuất nông nghiệp phát triển. Đầu
thời Lý, đã có nhiều năm được mùa lớn. Năm 1016, được mùa lớn, 30 bó lúa chỉ giá
có 70 tiền. Sử cũ ghi chép các năm 1079, 1092, 1124, đều là những năm được mùa
lớn. Chính nhờ thế mà đời sống nơng dân tương đối được ổn định, chính quyền quân
chủ tập trung được củng cố, đấy cũng là một điều kiện quan trọng cho cuộc kháng
chiến chống Tống thắng lợi.
Vương triều Lý cũng là triều đại mở đầu cho sự nghiệp phục hưng văn hóa dân tộc.
Trong bước đầu xây dựng nền văn hóa, nhà Lý đặc biệt chăm lo việc giáo dục, học tập
và tổ chức thi cử. Sơn hơn 100 năm giành được quyền độc lập, tự chủ, vào tháng 8,
mùa thu năm Canh Tuất (1070), dưới triều Vua Lý Thánh Tông, Nhà nước quân chủ
Việt Nam mới cho lập Văn Miếu – một hành động có tính biểu tượng cho sự thừa nhận
Nho giáo của những người cầm quyền đương thời. Văn Miếu dựng xong, Lý Thánh
Tông cho đắp tượng Khổng Tử, Chu Công và Tứ phối: Phục Thánh Nhan Tử (Nhan
Uyên), Tông Thánh Tăng Tử (Tăng Sâm), Thuật Thánh Tử Tư (Khổng Cấp), Á Thánh


Mạnh Tử (Mạnh Khả), vẽ tranh Thất thập nhị hiền (72 học trò giỏi của Khổng Tử) để
bốn mùa cúng tế.
Năm 1075, Vua Lý Nhân Tông mở khoa thi Nho học tam trường và tuyển chọn "Minh
Kinh Bác sĩ” người học rộng hiểu rõ kinh điển Nho giáo).
Khoa này chọn được 10 người, đỡ đầu là Lê Văn Thịnh. Đó là khoa thi Nho học đầu
tiên trong lịch sử khoa cử Việt Nam và Lê Văn Thịnh có vinh dự là người khai khoa
của quốc gia Đại Việt. Năm 1076, nhà Lý lại cho mở Quốc Tử giám, ngay bên cạnh
Văn Miếu, làm nơi học tập cho con em tầng lớp quý tộc quan lại. Nền đại học Việt
Nam bắt đầu từ đó…
Năm 1086, triều đình mở khoa thi tuyển chọn người có tài văn học trong nước để bổ

vào làm quan trong Hàn Lâm viện. Mạc Hiển Tích đỡ đầu được bổ làm Hàn Lâm Học
sĩ. Sau đó, nhà Lý còn tiếp tục mở các khoa thi để kén chọn nhân tài vào các năm
1152, 1165, 1185 và 1195.
Trong ý tưởng xây dựng một nền văn hóa Việt Nam độc lập ở thời kỳ này, có sự đóng
góp rất quan trọng của giới thiền sư. Về mặt tư tưởng – chính trị, họ góp phần khơng
nhỏ tạo dựng nên được cả một triều đại, với những ông vua như: Lý Thái Tổ, Lý Thái
Tông, Lý Thánh Tông, Lý Nhân Tông... đầy tư cách thuần từ, lấy đức từ bi làm căn
bản cho chính trị.
Có thể nói tư tưởng chính trị dưới triều Lý là sự kết hợp khá hài hòa giữa tư tưởng
Nhân nghĩa của Nho giáo và tư tưởng từ bi bác ái của Phật giáo.
Tư tưởng Nhân nghĩa của Nho giáo, mặc dù được Khổng Tử và Mạnh Tử là những
người đầu tiên đề xướng và luận bàn rất tường tận, nhưng tư tưởng đó đã phần nào có
ở trong Kinh Thư và Kinh Thi. Thiên Thái Trọng chi mệnh (Kinh Thư) viết: "Hồng
thiên vơ thân, duy đức thị phụ. Dân tâm vô thường, duy huệ thị hồi (Nghĩa là: Trời
khơng thân với ai, chỉ giúp người có đức. Lịng dân khơng thường, chỉ u mến người
có ân huệ). Thiên Kim đằng (Kinh Thư) có câu: "Dư nhân nhược khảo" (Nghĩa là: Ta
nhân thuận với ông cha). Thơ Thúc vu điền, trong Trịnh phong (Kinh Thi) cũng có
câu: "Tuân mỹ thả nhân"(Nghĩa là: Vừa đẹp vừa nhân từ).
Trên cơ sở kế thừa có phê phán những tư tưởng đó của tiền nhân, Khổng Tử đã làm
phong phú thêm khái niệm "Nhân", cho nó một hàm nghĩa mới, phát triển thành hạt
nhân lý luận trong học thuyết của mình. Thiên Ung dã (Luận Ngữ), Khổng Tử phác
họa những nét chính về nhân cách của bậc "Nhân giả": "Phù nhân giả, kỷ dục lập nhi


lập nhân, kỷ dục đạt nhi đạt nhân. Năng cận thủ thí, khả vì nhân chi phương dã
dĩ” (Người nhân, hễ muốn tự lập lấy mình thì cũng lo thành lập cho người; hễ muốn
mình đạt được thành quả, thì cũng lo làm cho người đạt được thành quả. Có thể lấy thí
dụ ngay trong thực tế trước mắt mà ra sức thực hiện, đó là phương pháp để trở thành
người nhân vậy). Ở thiên Nhan Uyên (Luận Ngữ), có câu: "Phàn Trì vấn nhân. Tử viết:
Ái nhân" (nghĩa là: Phàn Trì hỏi thế nào là người có đức nhân? – Khổng Tử trả lời:

Hãy yêu thương con người).
Mạnh Tử đã kế thừa những luận điểm "Nhân", "Đức trị" của Khổng Tử, đề xuất khái
niệm "Nhân chính (Nền chính trị dựa trên đức nhân), để thu phục nhân tâm, thống nhất
thiên hạ. Nội dung của Nhân chính về đại thể bao gồm: giảm hình phạt, tha thuế khóa,
tạo điều kiện để dân được an cư lạc nghiệp, tăng gia sản xuất thu hoạch nhiều thóc lúa,
dâu gai … Trên nền tảng dân chúng đã có của ăn của để (Tức cái mà Mạnh Tử gọi là
Hằng sản), nhà vua sẽ tiến hành việc giáo hóa theo những tiêu chuẩn đạo đức luân lý
của Nho gia, để bảo tồn cái mà Mạnh Tử gợi là Hằng tâm (tấm lòng thường xuyên
hướng thiện).
Về văn học, các vị Thiền sư là lực lượng sáng tác đông đảo và quan trọng nhất, tạo nên
cả một dòng thơ, được mệnh danh là Thơ Thiền đời Lý, phần lớn lấy cảm hứng từ chủ
đề Phật giáo.Về mỹ thuật, những cơng trình kiến trúc và điêu khắc của Phật giáo cũng
là những đóng góp mỹ thuật quan trọng nhất của thời Lý. Trong sách Lý Thường Kiệt
của mình, khơng phải ngẫu nhiên Học giả Hồng Xn Hãn đã nhận xét: "Đời Lý có
thể gọi là đời thuần từ nhất trong lịch sử nước ta. Đó chính là ảnh hưởng của Đạo
Phật". Nếu trong hai triều Đinh và Tiền Lê, chúng ta thấy triều đình Hoa Lư, cịn dùng
những cực hình như vạc dầu, chuồng hổ để trừng trị kẻ có tội, thì sang đời Lý, các vị
vua có đạo đức và đời sống tâm linh, có độ lượng khoan hồng với dân và ngay cả với
kẻ cừu địch. Vua Lý Thái Tông đã tha tội cho Nùng Trí Cao, khơng giết, cịn Vua Lý
Thái Tơng cũng đã khơng giết vua Chiêm Thành là Chế Củ.
Có thể nói, những tư tưởng, chính sách trị quốc, an dân của các vua nhà Lý mang đậm
tính chất nhân ái, vị tha là chịu ảnh hưởng của lòng từ bi, bác ái của Đạo Phật kết hợp
với tinh thần “thương người như thể thương thân” truyền thống của dân tộc Việt Nam.
Tư tưởng ấy được biểu hiện khá rõ trong một câu nói của Vua Lý Thái Tơng vào năm
1064. Sách Tồn thư chép: “Mùa hạ, tháng 4 năm Giáp Thìn (1064), Vua ngự điện
Thiên Khánh xử kiện. Khi ấy công chúa Động Thiên hầu bên cạnh, vua chỉ vào công


chúa bảo ngục lại rằng: “ta yêu con ta, cũng như lịng ta làm cha mẹ dân, nhân dân
khơng biết mà mắc vào hình pháp, ta rất lấy làm thương. Từ nay về sau, khơng cứ gì

tội nặng hay nhẹ, đều nhất luận khoan giảm.
1.3. Đặc điểm trong triết lý về tư tưởng yêu nước thân dân và tư tưởng xây
dựng pháp luật thời Lý
Từ những nội dung đã phân tích ở trên, có thể rút ra một số đặc điểm tư tưởng
triết lý yêu nước thân dân và xây dựng pháp luật thời Lý như sau:
Đặc điểm thứ nhất là, tư tưởng chính trị thời nhà Lý hình thành, phát triển gắn với đòi
hỏi lịch sử và thực tiễn của xã hội Việt Nam từ thế kỷ X đến thế kỷ XII.
Đặc điểm thứ hai là, tư tưởng chính trị thời nhà Lý phản ánh tinh thần yêu nước, ý chí
quật cường chống giặc ngoại xâm, bảo vệ độc dân tộc và chủ quyền quốc gia. Trước
nguy cơ xâm lược của nhà Tống, để khẳng định chủ quyền quốc gia với tinh thần độc
lập, tự chủ, tư tưởng chính trị thời kỳ nhà Lý đã được biểu hiện khá sâu sắc trong các
chính sách đồn kết các dân tộc, khơi dậy lịng u nước của mỡi người dân để họ hợp
với triều đình thành một khối thống nhất quyết tâm đánh giặc bảo vệ Tổ quốc.
Đặc điểm thứ ba là, tư tưởng chính trị thời nhà Lý phản ánh sâu sắc tinh thần “thân
dân”, coi trọng nhân dân và vì nhân dân. Chủ nghĩa duy vật lịch sử khẳng định quần
chúng nhân dân là chủ thể sáng tạo chân chính ra lịch sử.
Đặc điểm thứ tư là, tư tưởng chính trị thời nhà Lý lấy đạo đức làm nền tảng, gắn chặt
chính trị xã hội với đạo đức. Trong suốt quá trình tồn tại của vương triều mình, nhà Lý
đã dùng đạo đức như là một cơ sở để thực hành chính sách cai trị, hầu hết các chính
sách do nhà Lý ban hành đều hướng đến điều hòa lợi ích cho xã hội, miễn giảm thuế,
giảm hình phạt v.v.., có thể nói rằng, đạo đức thời nhà Lý là sự kết hợp giữa đạo đức
cổ truyền Việt Nam với đạo đức của Nho giáo, Phật giáo.
Đặc điểm thứ năm là, tư tưởng chính trị thời nhà Lý mở đầu cho hình thức “xây dựng
nền quốc phịng tồn dân”. Xuất phát từ tinh thần yêu nước, bảo vệ nền độc lập, chủ
quyền quốc gia và tiếp nối truyền thống đấu tranh của dân tộc, nhà Lý đã xây dựng nền
quốc phịng tồn dân thể hiện qua chính sách “ngụ binh ư nông”.
1.4. Ý nghĩa lịch sử của tư tưởng yêu nước thân dân và tư tưởng xây dựng
pháp luật thời Lý
Bỏ qua những hạn chế của lịch sử, tư tưởng chính trị thời nhà Lý thể hiện được
những ý nghĩa sau:




×