Tải bản đầy đủ (.doc) (35 trang)

các biện pháp bảo hộ đầu tư theo luật đầu tư nước ngoài tại việt nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (225.11 KB, 35 trang )

LỜI NÓI ĐẦU
Trong các thập kỷ qua, nền kinh tế thế giới đã biến đổi rất căn bản, sự
khác biệt về địa lý và văn hoá đã bị thu hẹp đáng kể khi khoa học kỹ thuật
(KHKT) phát triển. Đồng thời, nền kinh tế thế giới theo xu hướng toàn cầu hoá
đã kéo theo một loạt các biến đổi lớn trong cơ cấu nhất là sự chuyển dịch vốn và
kỹ thuật giữa các nước với nhau nhằm mục đích phát sinh lợi nhuận. Đây chính
là đầu tư nước ngoài (ĐTNN).
Trong chiến lược phát triển kinh tế các nước, đặc biệt là các nước đang
phát triển, ĐTNN chiếm một vai trò quan trọng để có thể tận dụng một cách
hiệu quả vốn và KHKT do ĐTNN mang lại. Do đó chính sách ĐTNN không chỉ
là đưa ra những biện pháp khuyến khích, ưu đãi mà cần phải có những biện pháp
bảo đảm ĐTNN trong đó có bảo đảm về pháp lý được xem như một trong những
yếu tố bảo đảm quan trọng vừa thu hút được sự đầu tư vừa làm tăng sức cạnh
tranh cho các thành phần kinh tế trong nước.
Nhà nước Việt Nam trong công cuộc xây dựng và đổi mới nền kinh tế đã
đưa ra chiến lược, chính sách ĐTNN nhằm thu hút các nguồn vốn ngoại tệ trong
và ngoài nước, tiếp thu KHKT và công nghệ mới của nước ngoài, học hỏi kinh
nghiệm quản lý tiên tiến. Bên cạnh đó, khai thác những tiềm năng, lợi thế của
kinh tế đất nước đảm bảo một môi trường đầu tư lành mạnh, thuận lợi thúc đẩy
sự phát triển nền kinh tế quốc dân. Điều 25/HP 1992 nêu rõ: " Nhà nước khuyến
khích các tổ chức, cá nhân nước ngoài đầu tư vốn, công nghệ vào Việt Nam, phù
hợp với pháp luật Việt nam và thông lệ quốc tế, đảm bảo quyền sở hữu hợp pháp
đối với vốn, tài sản và các quyền lợi khác của các tổ chức, cá nhân nước ngoài.
Doanh nghiệp có vốn ĐTNN không bị quốc hữu hoá". Hay điều 1 luật ĐTNN tại
Việt nam cũng quy định: " Nhà nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam bảo
hộ quyền sở hữu đối với vốn đầu tư và các quyền lợi hợp pháp khác của nhà
ĐTNN. Doanh nghiệp có vốn ĐTNN không bị quốc hữu hoá".
Chính sách ĐTNN của Việt nam trong thời gian qua đã gặt hái được một
số kết quả nhất định. Góp phần vào những thành công này không thể không đề
1
cập đến các biện pháp bảo hộ đầu tư do nhà nước đề ra, đặc biệt các biện pháp


bảo đảm pháp lý thông qua các quy phạm pháp luật trong luật ĐTNN tại Việt
nam. Chính những biện pháp này tạo sự tin tưởng của các nhà đầu tư nước ngoài
khi chọn Việt nam làm nơi đầu tư.
Do tính chất quan trọng của hoạt động ĐTNN, việc từng bước hoàn thiện
chế độ pháp lý về bảo hộ ĐTNN không chỉ là nhiệm vụ của những người làm
luật mà còn là ván đề quan tâm sự thu hút của mọi người. Từ nhận thức trên, đề
tài " Các biện pháp bảo hộ đầu tư theo luật đầu tư nước ngoài tại Việt Nam"
sẽ phần nào làm sáng tỏ, đánh giá những gì đã làm được và chưa làm được,
những hạn chế và tồn đọng đóng góp một phần vào việc nghiên cứu và hoàn
thiện vấn đề khá bức xúc này phù hợp với xu hướng và yêu cầu phát triển kinh
tế.
Vì điều kiện thời gian hạn chế nên khoá luận sẽ không tránh khỏi được
những thiếu sót nhất định. Rất mong sự đóng góp quý báu chân tình của quý
thầy cô, các anh chị và các bạn sinh viên thân hữu.
2
PHẦN I
LUẬT ĐẦU TƯ NƯỚC NGOÀI - CÔNG CỤ PHÁP LÝ QUAN
TRỌNG KHUYẾN KHÍCH CÁC NHÀ ĐẦU TƯ NƯỚC
NGOÀI
I. LUẬT ĐẦU TƯ NƯỚC NGOÀI TẠI VIỆT NAM RA ĐỜI LÀ MỘT ĐÒI HỎI
VÀ TẤT YẾU KHÁCH QUAN.
ĐTNN đã và đang trở thành một hoạt động kinh tế sôi động trên thế giới
và có vai trò quan trọng trong việc phát triển kinh tế ở nhiều quốc gia. Để hoà
nhập với nền kinh tế thế giới, tất cả các nước đang tranh thủ ĐTNN nhằm tập
trung cho việc phát triển kinh tế. Trước sự phát triển mạnh mẽ của các quan hệ
kinh tế quốc tế, các liên minh kinh tế, các tổ chức kinh tế thương mại ra đời và
phát triển khắp các Châu lục và sự hoạt động của các tổ chức này ngày càng náo
nhiệt hơn dưới nhiều hình thức khác nhau.
Khi bắt đầu, hoạt động ĐTNN được thực hiện từ các nước công nghiệp
phát triển vào các nước lạc hậu hay thuộc địa là chủ yếu vơí mục đích khai thác

tài nguyên, nhiên liệu, nhân công rẻ mạt phục vụ nhu cầu sản xuất và tiêu dùng
cho chính quốc. Sau chiến tranh thế giới thứ hai, nhiều quốc gia đứng lên đấu
tranh giành độc lập cho hệ thống thuộc địa trên toàn thế giới tan rã, làn sóng
quốc hữu hoá dâng lên mạnh mẽ ở các nướ thuộc địa, nhiều nước Châu Âu bị
tàn phá trong chiến tranh rất cần vốn đầu tư để phục hồi nền kinh tế. Trên cơ sở
đó, các nước phát triển đầu tư lẫn nhau và thực hiện sự liên minh kinh tế trong
từng khu vực nhằm củng cố tiền lực và vị trí kinh tế của mình trên trường quốc
tế. Nhưng sự gia tăng đầu tư vào các nước công nghiệp phát triển chững lại vào
đầu những năm 90 do suy thoái kinh tế rộng khắp thế giới tư bản và dòng vốn
ĐTNN vào khu vực này giảm mạnh trong những năm đầu thập kỷ. Do đó, dòng
vốn ĐTNN chuyển hướng sang các nước đang phát triển tăng lên - khu vực có
nền kinh tế phát triển năng động cộng vơi những lợi thế về giá nhân công và
tiềm năng về nguồn nhân lực - để giảm chi phí cho các hoạt động sản xuất kinh
doanh.
3
Khu vực Châu Á, Đông Nam Á cũng rất nhạy cảm đối với vấn đề trên.
Vào những năm 50 - 60 Đài Loan, Hồng Kông, Singapore, Triều Tiên với nền
kinh tế lạc hậu, phát triển thiếu cân đối, tài nguyên nghèo nàn họ đã nhanh
chóng đưa đất nước phát triển thành những con rồng Châu Á qua việc thực hiện
công nghiệp hoá, áp dụng chính sách mở cửa, thu hút ĐTNN từ các nước phát
triển. Malayxia, Philipin, Indonexia đã ban hành luật ĐTNN từ lâu và ngày
càng có những bổ sung sửa đổi, hoàn thiện hơn nhằm thu hút vốn ĐTNN. Ở
Chuâu Á, lượng vốn ĐTNN ngày càng tăng. Chẳng hạn năm 1984, bốn nước
Malaysia, Indonexia, Philipine, Thái Lan thu hút 16% tổng lượng ĐTNN, năm
1990 là 24%. Còn ở các nước ASEAN thì ĐTNN tăng mạnh vào những năm
1985 đến 1991, Indonexia tăng 8,5% lần, Philipine tăng 3,5 lần, Malaysia tăng
14 lần, Singapore tăng 1,8 lần. Những thành tựu to lớn do hoạt động ĐTNN
mang lại cho các nước trên đã trở nên hấp dẫn và lôi cuốn các nước lân cận
trong khu vực.
Trong khi đó, so với các nước trong khu vực Việt nam là một nước kém

phát triển, tốc độ phát triển kinh tế cũng như thu nhập quốc dân hàng năm trước
khi nhà nước thực hiện chính sách mở cửa rất thấp. Để bắt kịp và hoà nhập vào
sự phát triển chung của thế giới, Việt nam cần tích cực nhiều hơn, mở rộng hợp
tác với nước ngoài thực hiện đúng đắn chính sách đầu tư để thu hút vốn đầu tư
nước ngoài vào Việt nam.
Sự chuyển biến trong hướng đầu tư đã ảnh hưởng rất lớn đến nền kinh tế
các nước trên thế giới, nhất là các nước đang phát triển trong đó có Việt nam.
Dòng ĐTNN vào các nước đang phát triển tăng lên nhưng chủ yếu đổ vào các
nước đang phát triển có độ phát triển kinh tế tương đối cao. Vì vậy, muốn tăng
sự thu hút vốn đầu tư trước hết về phía mình các nước đang phát triển phải tạo
được sự ổn định về xã hội, kinh tế, chính trị và đạt được tốc độ tăng trưởng kinh
tế nhanh là lâu dài. Đặc biệt trong giai đoạn hiện nay, khi thế giới đang diễn ra
cuộc cạnh tranh quyết liệt nhằm lôi kéo vốn ĐTNN thì sự tạo lập môi trường
đầu tư thuận lợi là nhân tố cơ bản có ý nghĩa quyết định đến khả năng thu hút
vốn ĐTNN.
4
Do đó, việc ban hành luật ĐTNN xuất phát từ những yêu cầu thực tế
khách quan và xu hướng phát triển chung của thế giới. Từ cuối năm 1996, Việt
nam bắt đầu thực hiện công cuộc đổi mới toàn diện và sâu sắc trên tất cả các mặt
đời sống kinh tế, chính trị, xã hội. Trên cơ sở đó, chính phủ đã ban hành hàng
loạt các Bộ Luật, Pháp Lệnh và các Nghị Định hướng dẫn thi hành Luật, Pháp
Lệnh cũng như điều chỉnh nhiều vấn đề kể cả những vấn đề có tính thử nghiệm.
Trong lĩnh vực kinh tế, đáng chú ý là luật ĐTNN tại Việt nam, Luật Đất Đai,
Luật Công ty, các Luật về Thuế, Luật Hàng Hải, Bộ Luật Lao Động nhiều
Luật và Pháp Lệnh được sửa đổi để phù hợp với yêu cầu thực tế từng thời kỳ.
Luật pháp đã và đang tích cực đi vào khuôn khổ, môi trường pháp lý về đầu tư
được cải thiện rõ rệt.
Luật ĐTNN ra đời đã đánh dấu một bước ngặt mới trong hợp tác quốc tế
của Việt nam với các khu vực và được đánh giá là một trong những chế độ về
ĐTNN tiến bộ và thuận lợi ở Châu Á, đáp ứng được yêu cầu của phần lớn các

nhà đầu tư trong và ngoài nước. Trong phương thức hoạt động kinh tế của mình,
Việt nam có thêm một phương thức hoạt động hiệu quả. Luật ĐTNN tại Việt
nam ra đời bước đầu đã tạo ra một môi trường pháp lý thuận lợi cho các hoạt
động ĐTNN tại Việt nam. Đây là văn bản pháp lý có đủ hiệu lực tạo sự an tâm
tin tưởng cho các nhà ĐTNN, bảo đảm khả năng thực hiện trong thực tế. Trên
cơ sở quy định của luật ĐTNN này chúng ta có điều kiện để mở rộng hợp tác
kinh tế với nước ngoài, phát triển kinh tế quốc dân, đẩy mạnh các hoạt động
thương mại, đầu tư Việt nam hơn nữa.
II. VÀI NÉT VỀ QUÁ TRÌNH HOÀN THIỆN CHẾ ĐỘ PHÁP LÝ VỀ ĐTNN TẠI
VIỆT NAM
Có thể nói về cơ bản Việt nam đã có những đạo luật và văn bản cần thiết
tạo thành một khung pháp luật phù hợp với sự phát triển kinh tế xã hội. Riêng
ĐTNN năm 1987 đã được nghiên cứu, bổ sung và sửa đổi nhiều lần vào những
năm 1990, 1992 và tháng 11/1996 Quốc hội đã thông qua luật ĐTNN sửa đổi để
kịp với yêu cầu của tình hình, có cân nhắc đến ý kiến của các nhà đầu tư trong
5
nước và ngoài nước làm cho Luật ngày càng phù hợp với tập quán kinh tế vẫn
có được tính hấp dẫn riêng của nó.
Ngay từ lời mở đầu, Luật ĐTNN đã chỉ rõ: " Để mở rộng hợp tác kinh tế
với nước ngoài, phục vụ sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá phát triển kinh
tế quốc dân trên cơ sở khai thác và sử dụng có hiệu quả các nguồn lực của đất
nước". Và theo từng thời kỳ nhất định, Luật ĐTNN đã có những sửa đổi bổ sung
cho phù hợp với điều kiện nền kinh tế trong nước, tạo đà phát triển cho các
doanh nghiệp.
Khái quát về quá trình hoàn thiện chế độ pháp lý về ĐTNN tại Việt nam
để tạo sự nhận thức về sự thay đổi tất yếu khách quan về hệ thống, dần tạo được
nề nếp trong thực hiện, chấp hành luật:
1. Điều lệ về đầu tư nước ngoài ngày 10/08/1977
Căn cứ vào nghị quyết của Hội Đồng Chính phủ tại phiên họp hội nghị
thường vụ ngày 16/3/1977, Hội Đồng Chính phủ đã ra nghị định 115/CP ngày

18/04/1977 ban hành về điều lệ về ĐTNN tại Việt nam. Qua bản điều lệ này,
nhà nước Việt nam cho phép đầu tư nước ngoài tại Việt nam, sẵn sàng tham gia,
mở rộng các quan hệ hợp tác kinh tế quốc tế với các nước không phân biệt chế
độ chính trị, kinh tế, xã hội. Nhà nước Việt nam hoan nghênh việc ĐTNN tại
Việt nam trên nguyên tắc tôn trọng độc lập, chủ quyền của Việt nam và hai bên
cùng có lợi. Điều quan trọng của hoạt động đầu tư, đã được điều lệ xác định, là
cơ sở để bảo vệ lợi ích quốc gia và lợi ích của các nhà ĐTNN, cũng là một trong
những nguyên tắc cơ bản chủ yếu trong quan hệ kinh tế đối ngoại của Đảng và
nhà nước ta.
Điều lệ về đầu tư đã phần nào thể hiện được sự tiến bộ và tính thời sự của
nó bằng việc quy định các hình thức hợp tác đầu tư ( hợp tác sản xuất chia sản
phẩm, Xí nghiệp, Công ty hỗn hợp, Xí nghiệp tư doanh chuyên sản xuất hàng
xuất khẩu). Và điều này đã tạo cơ sở cho các nhà đầu tư có điều kiện để lựa
chọn hình thức đầu tư thích hợp đáp ứng được nhu cầu và mục đích của cả nhà
đầu tư lẫn nhà nước, nền kinh tế Việt nam. Điều lệ còn quy định chính sách ưu
đãi nhằm khuyến khích các tổ chức, cá nhân nước ngoài đầu tư vào Việt Nam
6
như: Bảo đảm quyền kinh doanh, bảo hộ vốn trong một thời gia nhất định; nếu
quốc hữu hoá Xí nghiệp thì Chính phủ Việt nam sẽ mua lại với giá hợp lý; được
chuyển nhượng về nước lợi nhuận, vốn thu hồi; miễn giảm thuế lợi thức trong
những năm đầu kinh doanh tuỳ địa bàn hoạt động; miễn giảm thuế nhập khẩu
một lần, nhiều lần nhằm trang bị cho máy móc thiết bị cho Xí nghiệp.
Điều lệ đầu tư năm 1977 đã thu hút được sự chú ý của giới kinh doanh và
các tập đoàn tư bản nước ngoài. Nhưng qua một thời gian thực hiện, điều lệ
cũng đã bộc lộ nhiều nhược điểm như: lợi ích giành cho các nhà ĐTNN, quyền
của các bên nước ngoài trong việc quản lý, điều hành hoạt động Công ty chưa
đủ sức hấp dẫn của các nhà đầu tư nước ngoài. Hoặc như việc quy định về thời
hạn, điều kiện được giảm thuế lợi tức, ngành nghề, khu vực được nhà nước
khuyến khích ưu đãi chưa rõ ràng chính sách quản lý đầu tư, chưa chặt chẽ gây
tổn thất cho nhà nước, thủ tục cấp phép rườm rà, công tác quản lý đầu tư chưa

tập chung vào một mối, hoạt động chậm chạp điều lệ còn mang tính hành
chính, thủ tục, mệnh lệnh Ngoài ra, trong thời gian này Việt nam còn bị Mỹ
cấm vận, sự kiện Camphuchia, biên giới phía Bắc nên thực tế kết quả thu
được do hoạt động ĐTNN thời kỳ này hầu như chẳng được gì.
Ngày 17/7/1984, bộ chính trị ra Nghị quyết số 19 về quan hệ kinh tế giữa
nước ta với nước ngoài: " Cần bổ sung và hoàn thiện điều lệ đầu tư đã ban hành
để có tính hấp dẫn hơn ". Và trong phương hướng nhiệm vụ kế hoạch kinh tế,
xã hội năm 1985 cũng nêu " Nghiên cứu ban hành luật đầu tư mới để mở rộng
hợp tác, tranh thủ tín dụng của các nước xã hội chủ nghĩa và các nước khác cũng
như các tổ chức quốc tế, có chính sách rộng hơn để thu hút nguồn vốn từ bên
ngoài vào".
2. Luật đầu tư nước ngoài năm 1987
Luật đầu tư nước ngoài năm 1987 và một loạt các văn bản khác được ban
hành sau đó nhằm cụ thể hoá việc thực hiện luật đầu tư nước ngoài, đặc biệt là
nghị định 139/HĐBT ngày 5/9/1988 đã thực sự mang lại màu sắc mới cho hoạt
động ĐTNN tại Việt nam. So với điều lệ năm 1977 thì nó là một bước phát triển
lớn của chế độ pháp lý về ĐTNN cả hình thức lẫn nội dung.
7
Về hình thức đầu tư, trên cơ sở các hình thức hợp tác được ghi nhận ở
điều lệ năm 1977, luật đầu tư nước ngoài đã quy định lại các hình thức đầu tư
hoàn thiện hơn (hợp tác kinh tế trên cơ sở hợp đồng hợp tác kinh doanh, Xí
nghiệp hoặc Công ty liên doanh, Xí nghiệp 10% vốn nước ngoài ).
Về nội dung, tiếp thu được những điểm tích cực, tiến bộ cũng như khắc
phục, hạn chế được những điểm nhược điểm, thiếu sót của luật ĐTNN trong
việc khuyến khích được các tổ chức cá nhân nước ngoài đầu tư vào Việt nam
qua đó nhà nước ta đã tạo điều kiện dễ dàng cho các nhà đầu tư nước ngoài có
khả năng định hướng được chiến lược đầu tư của mình từ đó có kế hoạch, chính
sách ổn định. Vì thế nó có ý nghĩa quan trọng đối với chủ đầu tư và nước tiếp
nhận đầu tư là chúng ta.
Điểm nổi bật của luật ĐTNN năm 1987 là đã ghi nhận các biện pháp bảo

hộ đầu tư cho thấy nhà nước ta đã thực sự tôn trọng và bắt đầu quan tâm đến
việc bảo vệ lợi ích cho các chủ doanh nghiệp nước ngoài. Quy định này là đúng
đắn, phù hợp với thông lệ quốc tế nên đã từng bước lôi kéo, hấp dẫn được nhiều
nhà đầu tư nước ngoài. Luật đầu tư năm 1987 cũng được coi là thông thoáng
hơn so với các nước cùng khu vực, nhưng hiệu quả thu hút lại rất hạn chế. Từ
khi ban hành cho đến tháng 6 năm 1990, chúng ta chỉ cấp giấy phép đầu tư cho
165 dự án với tổng số vốn trên 1 tỷ USD. Các dự án chủ yếu tập trung vào khu
công nghiệp khai khoáng, công nghiệp nhẹ, tiểu thủ công nghiệp, công nghiệp
chế biến, vận tải, du lịch với quy mô nhỏ (trừ các dự án thăm dò khai thác dầu
khí) và chủ yếu tập chung ở các tình phía Nam (80% tổng số dự án), ở phía Bắc
có rất ít dự án, còn vùng cao, vùng sâu không có dự án nào. Sở dĩ dẫn đến tình
trạng như vậy là vì hoạt động đầu tư nước ngoài ở nước ta phát triển và thay đổi
khá nhanh chóng, một phần là do luật đầu tư nước ngoài ra đời mới được gần 3
năm, một khoảng thời gian quá ngắn ngủi để có thể hoà nhập với tất cả các thay
đổi và biến động của nền kinh tế thị trường với đặc tính là sự cạnh tranh khốc
liệt mà chúng ta vừa mới chuyển sang. Thêm vào đó là sự tan rã của hệ thống
XHCN, sự an rã của khối SEV làm cho nền kinh tế Việt nam đang đứng trước
nguy cơ bị suy thoái. Trong khi đó đời sống quốc tế lại nổi lên những xu hướng.
8
* Ưu tiên cho sự phát triển chạy đua về kinh tế, cạnh tranh kinh tế vừa là
bài học vừa là thách thức lớn đối với mỗi quốc gia.
* Đa dạng hoá các mối quan hệ đối ngoại, muốn làm bạn với các nước có
chế độ chính trị khác nhau, đặc biệt là các tổ chức kinh tế có quy mô toàn cầu
(IMF, WB).
* Tăng cường hợp tác khu vực như khu vực ASEAN, NAFTA.
Vì vậy một đạo luật mới trong thời kỳ này không thể tránh khỏi những
thiếu sót. Điều đó dẫn đến tình trạng nhiều nhà đầu tư muốn đầu tư vào Việt
nam nhưng vẫn còn nghi ngại một số vấn đề gây ảnh hưởng đến dự án của họ.
Xuất phát từ những lý do trên, ngày 30/6/1990 luật sửa đổi bổ sung lần 1
ra đời, phù hợp với tình hình thực tế, tạo môi trường thuận lợi nhằm thu hút

được vốn ĐTNN.
3. Luật sửa đổi bổ sung một số điều năm 1990
Sau hơn hai năm thực hiện luật ĐTNN đã mang lại nhiều kết quả khá
quan trọng, tạo điều kiện cho sự tăng trưởng kinh tế của đất nước. Điển hhình là
tổng số vốn đầu tư nước ngoài năm 1991 bằng cả 3năm trước đó. Sang năm
1992, kết quả thu được còn khả quan hơn nhiều: gấp 1.7 lần năm 1991. Quy mô
đầu tư của dự án cũng vì thế mà tăng lên từ 3,5 triệu USD/ dự án năm 1990 lên
7.5 triệu USD năm 1991, 7.6 triệu USD năm 1992.
Tuy nhiên trong tình hình mới, sự phát triển mạnh mẽ của các quan hệ
kinh tế, một số điều hạn chế và bất hợp lý của luật ĐTNN 1987 lại đặt Đảng và
nhà nước ta trước một yêu cầu mới, cần bổ sung, sửa đổi sao cho phù hợp.
Nhiều khái niệm và quan điểm ở đây cần xem xét lại và đánh giá một cách khoa
học. Chẳng hạn như các vấn đề đối tượng điều chỉnh, cơ chế trong liên doanh,
tài chính, có như thế ta mới có điều kiện cạnh tranh với các nước trong khu vực
nhằm tạo sự hấp dẫn hơn đối với nhà ĐTNN. Chính vì vậy Nghị định 28/HĐBT
ngày 6/2/1991 cũng mang một nội dung mới như: quy định về tỷ lệ vốn, kế
hoạch góp vốn pháp định Xí nghiệp liên doanh
Cùng với việc sửa đổi một số nội dung còn có những sửa đổi mang tính
văn phòng, kỹ thuật pháp lý đòi hỏi các Bộ, các ngành có liên quan cần xem
9
xét, rà soát lại, sửa đổi bổ sung hàng loạt các thông tư hướng dẫn có liên quan
nhằm làm cho chế độ pháp lý về ĐTNN ngày càng hoàn thiện hơn, dần dần đi
vào cuộc sống và phù hợp với thực tiễn.
Tuy nhiên, một số dự án lẫn số vốn đầu tư giữa các tỉnh, thành phố trong
cả nước phân bổ không đồng đều, 75% dự án tập trung ở phía Nam, phía Bắc chỉ
đạt 25% tổng số dự án, còn miền núi, vùng sâu số dự án chỉ đếm được trên đầu
ngón tay.
Bên cạnh đó, sự phát triển của khoa học công nghệ, sự gia tăng mạnh mẽ
của xu hướng khu vực hoá, toàn cầu hoá đã cuốn hút nền kinh tế quốc gia vào
quá trình hợp tác hoá và phân công lao động quốc tế. Những nhu cầu mới lại

xuất hiện đã làm cho một số quy định của Luật đầu tư 1990 không còn phù hợp
nữa và kết quả là luật sửa đổi bổ sung 1992 ra đời.
4. Luật sửa đổi bổ sung lần II 1992
Luật sửa đổi bổ sung này có bản giải quyết được những hạn chế, vướng
mắc mà lần sửa đổi bổ sung trước chưa làm được, góp phần thực hiện những
mục tiêu kinh tế xã hội đặt ra trước mắt, đáp ứng những nhu cầu mới nảy sinh.
Dù quy định rất chi tiết nhưng để hướng dẫn cụ thể luật ĐTNN, ngày
16/3/1993 chính phủ đã ban hành nghị định 18/CP nhằm quy định chi tiết và
hướng dẫn thi hành luật ĐTNN. Tiếp theo Nghị định này là Nghị định 29/CP
ngày 27/5/1993 của chính phủ quy định những biện pháp khuyến khích người
Việt Nam định cư ở nước ngoài đầu tư về nước, đã tạo nên một thống văn bản
về ĐTNN khá hoàn chỉnh, có tác dụng lớn trong việc thể chế hoá đường lối,
chính sách của Đảng và nhà nước ta.
Cũng thời gian này, các văn bản về ĐTNN cũng được ban hành, điều đó
chứng tỏ những cố gắng của nhà nước ta trong việc tạo ra môi trường pháp lý
thuận lợi cho các hoạt động đầu tư nước ngoài. Thiện chí đó đã được các nhà
ĐTNN nghi nhận và hưởng ứng. Luật ĐTNN đã trở thành một công cụ pháp lý
quan trọng khuyến khích các nhà ĐTNN bởi vì các hình thức đầu tư, những bảo
đảm về mặt pháp lý, những lĩnh vực mà nhà nước khuyến khích, ưu đãi được
quy định trong luật ĐTNN đã chứng minh điều đấy. Cụ thể là những năm 1988 -
10
1990 nhịp độ thu hút vốn đầu tư tăng trung bình hàng năm là 51.6% thì đến năm
1992, con số này đã tăng lên xấp xỉ 70% của cả 4 năm đó cộng lại. Với việc bổ
sung hợp đồng BOT và khu chế xuất góp phần tạo nên sự phong phú cho hoạt
động đầu tư trực tiếp nước ngoài tại Việt nam. Đặc biệt là đến tháng 11/1995 số
vốn đầu tư tăng 80% so với năm trước và bằng 30% của tất cả các năm trước
cộng lại, lớn hơn số vốn được đưa vào năm 1993 - 1994, tăng 92% so với cùng
kỳ năm 1994.
Và theo thời gian, nó cũng đã bộc lộ những hạn chế nhất định, để tránh
nguy cơ bị tụt hậu trong khu vực, đạt được mục tiêu chiến lược đến năm 2000,

phải tạo ra sự thông thoáng hơn nữa về môi trường đầu tư, hệ thống pháp luật
phải thống nhất và đồng bộ. Vì lẽ đó, để hoàn thiện hơn, lần sửa đổi tiếp theo
của Luật ĐTNN vào ngày 12/1/1996.
III. GIỚI THIỆU SƠ LƯỢC LUẬT ĐTNN TẠI VIỆT NAM 1996
Luật ĐTNN tại Việt nam được Quốc hội nước Cộng hoà xã hội chủ
nghĩa Việt Nam khoá IX kỳ họp thứ 10 thông qua ngày 12/11/1996 bao gồn 6
chương, 68 điều được bố cục như sau:
Chương I: Những quy định cung
Chương II: Hình thức đầu tư
Chương III: Biện pháp đảm bảo đầu tư
Chương IV: Quyền lợi và nghĩa vụ của các nhà ĐTNN và doanh nghiệp
có vốn ĐTNN.
Chương V: Cơ quan nhà nước quản lý đầu tư Việt nam
Chương VI: Điều khoản thi hành.
Với mục đích chiến lược được nêu rõ trong lời mở đầu " để mở rộng hợp
tác kinh tế với đất nước, phục vụ sự nghiệp công nghiệp hoá - hiện đại hoá,
phát triển kinh tế quốc dân trên cơ sở khai thác và sử dụng có hiệu quả các
nguồn lực của đất nước".
Tiếp liền sau đó là nghị định 12/CP ngày 18/02/1997 do Chính phủ ban
hành nhằm quy định chi tiết thi hành luật ĐTNN 1996. Nghị định 12/CP gồn 15
chương, 104 Điều.
11
Ngoài ra còn rất nhiều văn bản pháp luật của cơ quan nhà nước khác như:
cơ quan nhà nước về hợp tác đầu tư của các Bộ, Cơ quan Ngang bộ để quy định
cụ thể việc thi hành luật ĐTNN năm 1996. Phạm vi điều chỉnh của luật ĐTNN
là các quan hệ đầu tư trực tiếp nước ngoài.
Theo Nghị định 12/CP ngày 18/2/1997 của chính phủ, đối tượng điều
chỉnh của Luật ĐTNN tại Việt Nam bao gồm:
1. Doanh nghiệp Việt nam: gồm các thành phầm kinh tế
- Doanh nghiệp nhà nước được thành lập theo luật doanh nghiệp nhà nước

- Hợp tác xã được thành lập theo Luật hợp tác xã
- Doanh nghiệp được thành lập theo luật Công ty
- Doanh nghiệp được thành lập theo Luật doanh nghiệp tư nhân.
2. Các tổ chức của Việt nam: Thuộc đối tượng nêu tại điều 65 Luật ĐTNN
đáp ứng được các điều kiện do Chính phủ quy định gồm bệnh viện, trường học,
viện nghiên cứu trong lĩnh vực công nghệ, khoa học kỹ thuật, khoa học tự nhiên
hợp tác đầu tư với nước ngoài.
3. Doanh nghiệp có vốn ĐTNN: là các doanh nghiệp liên doanh giữa
bên Việt Nam với bên ngoài và các doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài.
4. Người Việt nam định cư ở nước ngoài: đầu tư trực tiếp về nước hoặc
chung vốn với tổ chức kinh tế Việt nam để hợp tác đầu tư với nước ngoài, trong
cả hai trường hợp này, họ đều hưởng những điều kiện thuận lợi theo quy định tại
nghị định 29/CP ngày 27/5/1993 như sau:
- Được giảm 20% số thuế lợi tức phải nộp
- Được nộp thuế lợi nhuận chuyển ra nước ngoài ở mức thấp nhất là 5%
- Được uỷ quyền cho thân nhân ở trong nước hoặc định cư ở nước ngoài
tham gia hoạt động quốc tế.
- Được tạo điều kiện dễ dàng khi xuất nhập cảnh, lưu trú, đi lại và đặt văn
phòng đại diện tại Việt nam để xúc tiến đầu tư kinh doanh.
5. Cơ quan nhà nước có thẩm quyền ký kết hợp đồng BOT, BTO, BT: đây
là trường hợp đặc biệt, nhà nước cho phép 1 pháp nhân công pháp như UBND
tỉnh, cơ quan quản lý ngành kinh tế, kỹ thuật cấp bộ được ký các loại hợp đồng
12
đặc biệt như: xây dựng - kinh doanh - chuyển giao (BOT), hợp đồng xây dựng -
chuyển giao - kinh doanh (BTO), hợp đồng xây dựng - chuyển giao (BT).
Ngoài ra, có một số lĩnh vực và địa bàn được nhà nước Việt nam khuyến
khích như:
- Lĩnh vực sản xuất hàng xuất khẩu
- Nuôi trồng chế biến nông lâm thuỷ sản
- Sử dụng công nghệ cao, kinh tế hiện đại, bảo vệ môi trường sinh thái,

đầu tư vào nghiên cứu và phát triển.
- Sử dụng nhiều lao động, chế biến nguyên liệu và sử dụng có hiệu quả tài
nguyên thiên nhiên ở Việt nam.
Địa bàn gồm:
* Miền núi, vùng sâu, vùng xa.
* Những vùng có điều kiện kinh tế - xã hội khó khăn.
Và nhà nước Việt nam sản xuất không cấp giấy phép ĐTNN vào các lĩnh
vực gây thiệt hại đến quốc phòn, an ninh quốc gia, di tích lịch sử, văn hoá, thuần
phong mỹ tục và môi trường sinh thái.
Về hình thức đầu tư thì luật ĐTNN quy địnhcác hình thức như sau:
* Hợp tác kinh doanh trên cơ sở hợp đồng hợp tác kinh doanh.
Hai bên hoặc nhiều bên hợp tác kinh doanh trên cơ sở hợp đồng hợp tác
kinh doanh như hợp tác sản xuất phân chia lợi nhuận, phân chia sản phẩm.
Đặc điểm của hình thức này:
Các bên trong nước và nước ngoài hợp tác thực hiện một hoạt động sản
xuất kinh doanh nào đó trong một thời gian, không gian nhất định theo hợp đồng
quy định. Sự hợp tác này không tạo nên một pháp nhân tư pháp. Trước pháp luật
các bên tự chịu trách nhiệm về phần việc của mình.
Bên nước ngoài thực hiện nghĩa vụ về thuế theo luật ĐTNN tại Việt nam.
Bên Việt nam thực hiện nghĩa vụ đóng thuế theo các quy định áp dụng đối với
các doanh nghiệp trong nước.
* Doanh nghiệp liên doanh.
13
Hai bên hoặc nhiều bên hợp tác với nhau để thành lập doanh nghiệp liên
doanh tại Việt nam trên cơ sở hợp đồng liên doanh. Doanh nghiệp liên doanh
được hợp tác với nhà ĐTNN hoặc với doanh nghiệp Việt nam để thành doanh
nghiệp liên doanh mới tại Việt nam. Doanh nghiệp này được thành lập theo hình
thức Công ty trách nhiệm hữu hạn (TNHH) có tư cách pháp nhân theo pháp luật
Việt nam. Một hoặc nhiều bên nước ngoài tham gia là liên doanh góp vốn pháp
định ít nhất phải là 30% tổng số vốn đầu tư của doanh nghiệp.

* Doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài
Được thành lập theo hình thức Công ty TNHH, có tư cách pháp nhân theo
pháp luật Việt nam. Tổ chức hoặc cá nhân ở nước ngoài được tự mình quản lý
doanh nghiệp theo quy định của pháp luật Việt nam. Doanh nghiệp này còn
được hợp tác với doanh nghiệp Việt nam để thành lập doanh nghiệp liên doanh.
Ngoài ra luật ĐTNN 1996 còn đề cập đến quyền và nghĩa vụ của nhà
ĐTNN và doanh nghiệp có vốn ĐTNN quy định ở chương IV.
Chương này thể hiện rõ các chính sách khuyến khích ĐTNN tại Việt nam
qua việc miễn giảm thuế nhập khẩu, thuế doanh nghiệp, thuế lợi tức trong quá
trình hoạt động. Doanh nghiệp liên doanh còn được chuyển khoản lỗ của bất kỳ
năm thuế nào sang năm kế tiếp và được bù khoản lỗ đó bằng lợi nhuận của các
năm tiếp theo. Nếu tái đầu tư vào các dự án khuyến khích đầu tư, doanh nghiệp
sẽ được hoàn lại một phần hay toàn bộ thuế lợi tức đã nộp cho số lợi nhuận tái
đầu tư. Nếu nhà đầu tư nước ngoài là người Việt nam định cư ở nước ngoài còn
được giảm 20% thuế lợi tức so với các dự án cùng loại.
Trong quá trình thực hiện dự án đầu tư nếu có thay đổi về điều kiện đầu tư
thì việc miễn giảm thuế cho doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài và bên
ngoài tham gia hợp đồng hợp tác kinh doanh do bộ Tài chính quyết định.
Các doanh nghiệp chế xuất được miễn thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu đối
với hàng hoá từ khu chế xuất khẩu ra nước ngoài và từ nước ngoài nhập khẩu
vào khu chế xuất. Doanh nghiệp chế xuất, doanh nghiệp có vốn ĐTNN trong
khu công nghiệp được hưởng các ưu đãi về thuế đối với trường hợp khuyến
khích, đặc biệt khuyến khích đầu tư.
14
IV. LUẬT SỬA ĐỔI BỔ SUNG NGÀY 9/6/2000
Để mở rộng hợp tác kinh tế với nước ngoài, phục vụ sự nghiệp công
nghiệp hoá, hiện đại hoá, phát triển kinh tế quốc dân trên cơ sở khai thác sử
dụng có hiệu quả các nguồn lực của đất nước.
Căn cứ vào Hiến pháp nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam năm
1992.

Luật nay sửa đổi bổ sung một số điều của Luật ĐTNN tại Việt nam được
Quốc hội nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam thông qua ngày 12 tháng
11 năm 1996.
Luật sửa đổi bổ sung này có một số điểm mới như sau:
Theo điều 19a " doanh nghiệp có vốn ĐTNN các bên tham gia hợp đồng
hợp tác kinh doanh trong quá trình hoạt động được phép chuyển đổi hình thức
đầu tư, chia, tách, sáp nhập, hợp nhất doanh nghiệp.
Chính phủ quy định điều kiện, thủ tục chuyển đổi hình thức đầu tư chia,
sáp nhập, hợp nhất doanh nghiệp".
Ngoài ra, luật ĐTNN còn sửa đổi bổ sung một số điều tạo điều kiện thuận
lợi cho doanh nghiệp có vốn ĐTNN về thủ tục hành chính, chính sách thuế
Bên cạnh đó một số quy định khuyến khích đầu tư ngoài nước từ người Việt
nam ở nước ngoài, nhằm thu hút nguồn vốn ĐTNN khá phong phú mà lâu nay
chưa khai thác đúng mức. Điều 44 sửa đổi như sau:
" Người Việt nam định cư ở nước ngoài đầu tư về nước theo quy định của
luật này được giảm 20% thuế thu nhập doanh nghiệp so với các dự án cùng loại,
trừ trường hợp áp dụng mức thuế suất thuế thu nhập doanh nghiệp là 10%; được
áp dụng mức thuế suất thuế chuyển lợi nhuận ra nước ngoài là 3% số lợi nhuận
chuyển ra nước ngoài".
15
PHẦN II
CÁC BIỆN PHÁP BẢO HỘ ĐẦU TƯ THEO LUẬT ĐẦU TƯ
NƯỚC NGOÀI TẠI VIỆT NAM
I. KHÁI NIỆM
Bảo hộ ĐTNN là một vấn đề hết sức quan trọng trong việc thu hút vốn
ĐTNN. Thật vậy, để phát triển ĐTNN, huy động được một nguồn vốn lớn từ các
nước đầu tư sang nước nhận đầu tư, thì một trong những yếu tố hết sức quan
trọng là nước nhận đầu tư phải tạo nên một môi trường pháp lý thuận lợi nhằm
bảo hộ và tăng cường vốn đầu tư.
Trên thực tế, vấn đề bảo hộ ĐTNN là một phạm trù rất rộng bao gồm

nhiều biện pháp do nước nhận đầu tư đề ra để đảm bảo quyền và lợi ích thiết
thực chính đáng cho các nhà ĐTNN trong suốt quá trình đầu tư vào nước chủ
nhà. Bảo hộ đầu tư là một biện pháp khuyến khích đầu tư mang tính chất chính
trị - pháp lý được ghi nhận trong hầu hết các đạo luật về đầu tư ở các nước.
Bảo hộ ĐTNN về mặt pháp lý là một khái niệm phức tạp, hết sức nhậy
cảm, nó liên quan chặt chẽ đến việc thực hiện sự cần bằng lợi ích cho cả hai bên
- bên đầu tư và bên nhận đầu tư. Tất cả các nước trên thế giới khi thực hiện chủ
trương thu hút vốn ĐTNN đều có mục đích là đạt được lợi ích cho đối tác của
nước mình, nhưng chính lợi ích này lại có một quan hệ chặt chẽ tới lợi íc của
phía nước chủ nhà. Mọi sự thay đổi trong chính sách pháp luật của nước sở tại
sẽ làm ảnh hưởng sâu sắc tới lợi ích của các bên đầu tư, nhất là bên đầu tư nước
ngoài. Bởi vậy, muốn hài hoà lợi ích của hai bên đầu tư trong hợp đồng đầu tư
thì nhà nước cần phải tạo sự ổn định về mặt pháp lý. Có như thế thì môi trường
đầu tư mới thực sự hấp dẫn và thu hút các nhà ĐTNN.
Hiện nay, khái niệm bảo hộ đầu tư có thể hiểu theo hai nghĩa:
* Theo nghĩa hẹp: Bảo hộ đầu tư là sự bảo đảm về vốn và những tài sản
hợp pháp khác mà nhà đầu tư nước ngoài đầu tư vào nước sở tại. Điều này có
nghĩa là nước sở tại thừa nhận và bảo vệ quyền sở hữu của nhà ĐTNN đối với
các vốn và tài sản hợp pháp khác của họ. Nhà đầu tư không thể tiến hành đầu tư
16
sản xuất kinh doanh nếu như nước sở tại không có biện pháp bảo toàn vốn và tài
sản của họ. Do vậy mà vấn đề về vốn được đặc biệt quan tâm và việc bảo đảm
vốn được đưa lên hàng đầu.
* Theo nghĩa rộng: Bảo hộ đầu tư không chỉ bao gồm vấn đề bảo đảm vốn
và tài sản của nhà đầu tư đưa vào nước nhận đầu tư mà là bao gồm cả việc tạo ra
môi trường đầu tư thuận lợi, thông thoáng về mọi mặt, đặc biệt là môi trường
pháp lý để nhà ĐTNN phát huy được hiệu quả của đồng vốn và những tài sản
khác trong quá trình đầu tư.
Thực tiễn cho thấy các nhà ĐTNN không những quan tâm đến việc bảo vệ
đồng vốn mà còn vô cùng quan tâm đến hiệu quả đầu tư. Môi trường đầu tư

thuận lợi là tổng thể những vấn đề có liên quan đến địa lý, tình hình chính trị,
kinh tế, văn hoá, xã hội, tất cả phải ổn định thì mới tạo điều kiện cho nhà đầu tư
nước ngoài phát huy hiệu quả cao nhất. Môi trường pháp lý không có tính đồng
bộ, thống nhất, ổn định thì đương nhiên lợi ích của nhà đầu tư không được đảm
bảo.
Bảo hộ đầu tư là việc thừa nhận về mặt pháp luật quyền của nhà ĐTNN
đối với các khoản lợi nhuận sinh ra trong hoạt động sản xuất kinh doanh, cũng
như việc chuyển lợi nhuận và tài sản của họ ra nước ngoài một cách dễ dàng.
Ngoài ra bảo hộ đầu tư còn bao gồm cả việc nhà nước phải tạo ra một cơ
chế công bằng, thuận lợi, thoả đáng cho các nhà ĐTNN khi có chanh chấp xảy
ra.
Tóm lại bảo hộ đầu tư là một biện pháp khuyến khích đầu tư mang tính
chất chính trị - pháp lý, được ghi nhận trong hầu hết các đạo luật về đầu tư của
các nước. Hay nói đúng hơn bảo hộ ĐTNN là chế độ pháp lý bao gồm tổng hợp
các quy phạm pháp luật do nước nhận đầu tư ban hành, nhằm bảo đảm các
quyền và lợi ích của các tổ chức, cá nhân nước ngoài đầu tư vào nước sở tại. Nó
có ý nghĩa đặc biệt quan trọng, vai trò của biện pháp bảo đảm này được khẳng
định dựa trên các đặc tính của pháp luật.
17
Trong thực tế, tuỳ thuộc vào chính sách ĐTNN cũng như tình hình kinh
tế - xã hội cụ thể của từng quốc gia mà nội dung của các biện pháp bảo hộ
ĐTNN nhưng đều tập trung vào các vấn đề sau:
* Quyền sở hữu của chủ đầu tư nước ngoài
* Chế độ pháp luật mà nước nhận đầu tư đối với bên nhận đầu tư ( chế độ
đãi ngộ như công dân, chế độ có đi có lại, chế độ báo phục quốc).
* Sự ổn định và thống nhất của hệ thống pháp luật
* Vấn đề giải quyết tranh chấp
* Do đó mà Chính phủ các nước và nhà đầu tư nước ngoài đều mong
muốn nâng cao giá trị pháp lý của các biện pháp bảo hộ đầu tư, không chỉ gói
gọn trong luật quốc hội mà còn được ghi nhận trong các hiệp định bảo hộ đầu tư

được ký kết giữa các quốc gia mới nhau.
Tính đến tháng 11 năm 1997 nhà nước đã ký 30 hiệp định bảo hộ đầu tư
với 30 quốc gia đó là: Thái Lan, Malaysia. Indonexia, Đài Loan, Hàn Quốc, Mỹ,
Áo, Úc, Ý, Pháp, Đức, Bỉ, Cu Ba, NewZealand
II. TẠI SAO CẦN CÓ NHỮNG BIỆN PHÁP BẢO HỘ ĐẦU TƯ
Đầu tư để kinh doanh là việc bỏ vốn bằng tiền hay tài sản, hiện vật để tổ
chức hoạt động kinh doanh nhằm phát sinh lợi nhuận. Vì vậy tất cả các chủ đầu
tư nước ngoài đều quan tâm đến vấn đề bảo đảm vốn đầu tư, các bảo đảm đối
với các hoạt động kinh doanh (về biện pháp chanh chấp, bồi thường khi có sự
thay đổi của pháp luật) và quan tâm đến cả biện pháp tài chính mà nhà nước áp
dụng cho mình. Không nhà đầu tư nào đem của cải của mình đầu tư vào một nơi
mà vốn và tài sản của mình có nguy cơ bị tước đoạt, hoạt động kinh doanh luôn
gặp khó khăn.
Đầu tư là một hoạt động hướng về tương lai, nó diễn ra trong một khoảng
thời gian khá dài và phải chịu sự tác động của những biến động về kinh tế, xã
hội và cả chính pháp luật cũng không nằm ngoài số đó, nếu không muốn nói là
chúng khá quan trọng. Một môi trường pháp lý hoàn chỉnh và đồng bộ là điều
kiện lý tưởng cho hoạt động đầu tư. Các chính sách, pháp luật thường có nhiều
thay đổi và đôi khi gây bất lợi cho nhà đầu tư. Chính vì vậy, yêu cầu đặt ra là
18
cùng với việc cố gắng tạo lập một môi trường pháp lý ngày càng thuận lợi và ổn
định, bảo đảm điều chỉnh kịp thời các quan hệ đầu tư vừa nẩy sinh, nhà nước
cần có những cam kết về mặt pháp lý nhằm đảm bảo sự an toàn về vốn và tài
sản, bảo đảm các điều kiện hoạt động kinh doanh cho các chủ đầu tư nhằm giải
toả tâm lý lo sợ, e dè của họ, động viên họ yên tâm bỏ vốn đầu tư dài hạn ở Việt
nam, Điều 1, Luật đầu tư nước ngoài 96 quy định: " nhà nước Cộng hoà xã hội
chủ nghĩa Việt Nam bảo hộ quyền sở hữu đối với vốn đầu tư và các quyền lợi
hợp pháp khác của nhà ĐTNN, tạo những điều kiện thuận lợi và quy định thủ
tục đơn giản, nhanh chóng cho các nhà ĐTNN vào Việt nam".
Ngay cả một số luật khác trong các ngành nghề khác hay lĩnh vực có liên

quan đến ĐTNN, nhà nước cũng xây dựng các nguyên tắc bảo đảm trên khi kêu
gọi ĐTNN. Chẳng hạn Điều 2, Luật Dầu khí 19/7/1993 quy định: " nhà nước
Việt nam bảo đảm quyền sở hữu về vốn đầu tư, tài sản và các quyền lợi hợp
pháp của các tổ chức cá nhân nước ngoài và Việt nam tiến hành các hoạt động
dầu khí ở Việt nam" hay tại khoản 8, Điều 5, Luật Khoáng Sản 20/03/1996 cũng
ghi nhận: " Nhà nước bảo hộ quyền sở hữu đối với vốn và tài sản, các quyền, lợi
ích hợp pháp khác của các tổ chức cá nhân, tập thể trong hoạt động khoáng sản
theo quy định của Luật khoáng sản và các quy định khác của pháp luật". Để xây
dựng đất nước, Việt nam sẵn sáng hợp tác kinh tế với nước ngoài, làm bạn với
tất cả các quốc gia: " Chính phủ Việt nam bảo đảm đối xử công bằng và thoả
đáng đối với các nhà đầu tư nước ngoài đầu tư vào Việt nam " (Điều 20, Luật
Đầu tư nước ngoài năm 96). Việc đối xử bảo đảm đúng với pháp luật Việt nam,
Phù hợp với các điều ước quốc tế mà Việt nam ký kết hay tham gia và phù hợp
với các thông lệ quốc tế.
Những nguyên tắc và những quy định trên đã được pháp điển hoá và đạo
luật cơ bản của đất nước, cụ thể là điều 25, hiến pháp 1992. Đây là cơ sở pháp lý
cao nhất cho việc quy định các biện pháp pháp lý cụ thể đối với ĐTNN, khắc
phục các quan điểm không rõ ràng trong vấn đề quốc hữu hoá có thể xảy ra theo
các quy định của luật tư pháp quốc tế trong trường hợp vì lợi ích quốc gia hay "
Bảo lưu trật tự công cộng".
19
Như chúng ta đã biết, Việt nam là một nước đang phát triển, trình độ khoa
học kỹ thuật lạc hậu, thiếu vốn trầm trọng, cơ sở hạ tầng nghèo nàn, thu nhập
bình quân đầu người ở mức 200 USD/năm thì việc thu hút vốn đầu tư là một vấn
đề vô cùng quan trọng đối với công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước. Tuy
nhiên, hiện nay do sự cạnh tranh gay gắt giữa các quốc gia kêu gọi đầu tư cung
- cầu vốn đầu tư trên thế giới lại có biến động lớn, số nước kêu gọi đầu tư ngày
càng tăng, nhu cầu vốn đầu tư nước ngoài khoảng 300 tỷ USD như nguồn vốn
chỉ có 200 tỷ USD đầu tư vào các nước phát triển, số còn lại đầu tư vào các
nước đang phát triển bao gồm cả Việt nam mà mục tiêu của nhà nước ta đề ra

đến năm 2000 phải thu hút được 2 tỷ USD do đó sự cạnh tranh của các nước
đang phát triển về vấn đề này lại càng gay gắt hơn, vì vậy việc cải tạo mô
trường đầu tư ngày càng hoàn thiện và có sức hấp dẫn là một điều tất yếu mà
nhà nước chúng ta phải làm.
Hiện nay dù điều kiện về địa bàn tự nhiên của nước ta thuận lợi cộng với
tất cả những biện pháp khuyến khích, ưu đãi nhưng các nhà ĐTNN vẫn còn tâm
lý e dè, bởi môi trường đầu tư ổn định mới là điều quan trọng hàng đầu vì nó
chính là yếu tố chung bao hàm những yếu tố khác. Một số nhà ĐTNN cho rằng
rủi ro ở Việt nam cao hơn các nước khác trong khu vực một phần vì cơ sở hạ
tầng của ta quá kém, đồng tiền Việt nam chưa chuyển đổi được, thị trường Việt
nam không những bị hạn chế, khả năng bảo hộ sản xuất yếu, chính sách pháp
luật thực hiện không nghiêm " Phép vua thua lệ làng", hiện tượng hàng gian,
hàng giả tràn lan mà nhà nước ta chưa có biện pháp bảo vệ, Việt nam lại chưa ra
nhập các công ước quốc tế về bảo hộ quyền tác giả, chưa ký kết các hiệp định
song phương về quyền tác giả và quyền sở hữu công nghiệp. Mặc dù hệ thống
pháp luật của ta mang tính khuyến khích cao nhưng thực sự chưa tạo được sự an
toàn cho nhà đầu tư, vẫn còn các văn bản pháp luật thiếu nồng độ, chồng chéo,
thậm chí vô hiệu hoá lẫn nhau và ban hành không phù hợp với thực tiến hoạt
động đầu tư, chậm sửa đổi, bổ sung gây ảnh hưởng không ít đến quyền lợi của
nhà đầu tư.
20
Trong giai đoạn từ nay đến 2005, muốn đạt được mục tiêu đẩy mạnh công
nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước do Đảng và nhà nước đề ra, chắc chắn ta phải
xây dựng một cơ chế bảo hộ đầu tư hữu hiệu vững chắc, hợp lý để có thể thu hút
các dự án đầu tư lớn như công trình, cơ sở hạ tầng, giao thông, điện nước. Có
thể nói, đối với những dự án có độ rủi ro cao, vốn đầu tư lớn thì cần phải có sự
bảo đảm tuyệt đối của nước chủ nhà.
Qua phân tích trên đã chứng minh cho thấy việc ổn định pháp luật, ổn
định chính trị - xã hội, ổn định kinh tế sẽ góp phần nào tạo nên một môi trường
đầu tư thuận lợi. Trong bối cảnh hiện nay vấn đề bảo hộ đầu tư không phải do

ngẫu nhiên mà có, nó xuất phát từ mục tiêu chiến lược phát triển kinh tế của
nước ta cũng như suất phát từ tình hình thực tiễn ĐTNN tại Việt nam đã nêu
trên.
III. NỘI DUNG CÁC BIỆN PHÁP BẢO HỘ ĐẦU TƯ
Hiện nay nước ta đang ở trong khu vực có sự hợp tác về kinh tế lại vừa có
sự cạnh tranh gay gắt trong lĩnh vực thu hút vốn ĐTNN. Vì vậy, việc nhanh
chóng cải cách môi trường đầu tư ngày càng hấp dẫn hơn là điều vô cùng cần
thiết và quan trọng.
Như vậy có thể nói xu hướng và chính sách phát triển kinh tế của nhà
nước ta là nhằm tới việc bảo đảm một cách tốt nhất tài sản và vốn đầu tư của nhà
ĐTNN bằng những cơ sở pháp lý có giá trị nhất định. Chừng mực nào đó có thể
nói trong giai đoạn hiện nay, những bảo đảm và ưu đãi mà nhà nước ta đã giành
cho các nhà ĐTNN còn có phần cao hơn so với chủ đầu tư trong nước. Điều đó
cũng dễ hiểu và hợp lý, bởi vì lúc này chúng ta đang tranh thủ thu hút các nguồn
vốn ở nước ngoài nhằm trợ giúp sản xuất trong nước có điều kiện phát triển
mạnh mẽ hơn.
Những biện pháp đầu tư được ghi nhận trong việc ĐTNN Việt nam bao
gồm những vấn đề sau:
1. Vấn đề bảo đảm vốn đầu tư nước ngoài.
Vốn là một trong những yếu tố cơ bản quyết định sự thành bại của hoạt
động sản xuất kinh doanh. Do vậy mà vấn đề trước tiên là phải có biện pháp bảo
21
đảm cho sự an toàn của đồng vốn nhất là về mặt pháp lý thì từ đó mới có thể
phát sinh những lợi nhuận của nhà đầu tư.
Chính vì vậy mà tại Điều 21 Luật ĐTNN quy định: " Trong quá trình đầu
tư vào Việt nam, vốn và tài sản hợp pháp khác của nhà đầu tư nước ngoài không
bị trưng dụng hoặc tịch thu bằng biện pháp hành chính, doanh nghiệp có vốn
ĐTNN không bị quốc hữu hoá. Nhà nước CHXNCH Việt nam bảo hộ quyền sở
hữu công nghiệp, bảo đảm lợi ích hợp pháp của các nhà ĐTNN trong hoạt động
chuyển giao công nghệ tại Việt nam ".

Quy định này phù hợp với điều 25 Hiến pháp 1992: " Nhà nước Việt nam
khuyến khích các tổ chức, cá nhân nước ngoài đầu tư vốn và công nghệ vào Việt
nam phù hợp với pháp luật Việt nam, pháp luật và thông lệ quốc tế, bảo đảm
quyền sở hữu đối với vốn, tài sản và quyền lợi của các tổ chức, cá nhân Xí
nghiệp có vốn ĐTNN không bị quốc hữu hoá". Chính điều này đã xoá tan được
nỗi e ngại của các nhà ĐTNN.
Theo lệ thường, khi di chuyển vốn và tài sản sang nước ngoài để đầu tư,
các chủ đầu tư thường lo sợ những quy định trong đạo luật quốc hữu hoá của
quốc gia đó sẽ tước đoạt đi quyền sở hữu của họ đối với khối tài sản mà họ có.
Vì vậy, một khi hiến pháp và các đạo luật cơ bản Pháp đã xây dựng biện
pháp bảo đảm này thì coi như đã chút đi gánh nặng cho họ.
Luật ĐTNN 96 sửa đổi ngày 9/6/2000 khẳng định: Điều 21a " Trong
trường hợp do thay đổi quy định của pháp luật Việt nam làm thiệt hại đến lợi ích
của doanh nghiệp có vốn ĐTNN và các bên tham gia hợp đồng hợp tác kinh
doanh tiếp tục được hưởng các ưu đãi đã được quy định trong giấy phép đầu tư
vào luật này hoặc được nhà nước giải quyết thoả đáng theo các biện pháp sau
đây:
a. Thay đổi mục tiêu hoạt động của dự án;
b. Miễn giảm thuế theo quy định của pháp luật;
c. Thiệt hại của doanh nghiệp có vốn ĐTNN, các bên tham gia hợp đồng
hợp tác kinh doanh được khấu trừ vào thu nhập chịu thuế của doanh nghiệp;
d. Được xem xét bồi thường thoả đáng trong một số trường hợp cần thiết.
22
Các quy định mới ưu đãi hơn được ban hành sau khi được cấp giấy phép
đầu tư sẽ được áp dụng cho doanh nghiệp có vốn ĐTNN và các bên tham gia
hợp đồng hợp tác kinh doanh:
Mặc dù không phải bất cứ trường hợp thiệt hại nào cũng được giải quyết
theo hướng bồi thường, mà chỉ có một số trường hợp cần thiết, nhưng quy định
này có ý nghĩa khá quan trọng đối với các chủ ĐTNN đang tiến hành hoạt động
kinh doanh ở Việt nam. Cho phép họ được giảm đến mức thấp nhất các thiệt hại

có thể xảy ra một khi chính sách pháp luật Việt nam có sự thay đổi làm ảnh
hưởng đến lợi ích của họ. Đồng thời mục đích của quy định bảo đảm này cũng
nhằm duy trì và ổn định hoạt động kinh doanh, tránh sự sáo trộn không cần thiết.
Nhà nước Việt nam lúc nào cũng muốn tạo điều kiện tốt nhất cho nhà
ĐTNN yên tâm tin tưởng đầu tư vào Việt nam. Nhà đầu tư luôn nhận được sự
đối xử thoả đáng từ phía nhà nước ta. Chính sách nhất quán này đã được Luật
ĐTNN 96 ghi nhận: " nhà nước CHXNCH Việt nam bảo đảm đối xử công bằng
và thoả đáng đố với các nhà đầu tư nước ngoài vào Việt nam".
Vậy, với những quy định pháp luật nha nhau trong cùng một điều kiện,
những quyền lợi và nghĩa vụ của các nhà đầu tư cũng như nhau, tất cả đều bình
đẳng trong một môi trường đảm bảo chung.
Nhà nước Việt nam hoàn toàn ủng hộ, khuyến khích những dự định tốt
đẹp của các nhà ĐTNN, thể hiện ở việc nhà nước ta đã giành sự ưu đãi của mình
đối với vốn của bên chủ đầu tư như: đa dạng hoá vốn góp, không quy định thời
hạn bắt buộc cho việc góp vốn và người đầu tư có quyền quyết định sử dụng vốn
trong khuôn khổ pháp luật Việt nam.
Điều 7 Nghị định 12/CP nêu rõ: " Hợp đồng hợp tác kinh doanh là văn
bản ký kết giữa hai bên hoặc nhiều bên quy định trách nhiệm và phân chia kết
quả kinh doanh cho mỗi bên để tiến hành đầu tư kinh doanh ở Việt nam mà
không thành lập pháp nhân" hay tại điều 26 ghị định 12/CP "doanh nghiệp
100% vốn nước ngoài là doanh nghiệp thuộc sở hữu ủa nhà ĐTNN do nhà
ĐTNN thành lập tại Việt nam, tự quản và tự chịu trách nhiệm về kết quả kinh
doanh". Điều 46 ghị định 12/CP cũng nghi nhận: "doanh nghiệp có vốn ĐTNN,
23
các bên tham gia hợp đồng hợp tác kinh doanh có quyền tự chủ kinh doanh theo
mục tiêu quy định trong giấy phép đầu tư, được nhập khẩu thiết bị, máy móc,
vật tư, phương tiện vận tải, trực tiếp hoặc uỷ quyền xuất khẩu về tiêu thụ sản
phẩm của mình để thực hiện dự án đầu tư theo quy định của pháp luật".
Tâm lý chung của các nhà ĐTNN khi đầu tư vào Việt nam họ rất lo sợ
Chính phủ Việt nam bằng các biện pháp hành chính thực hiện quyền lực của

mình đối với tài sản của người nước ngoài. Sự lo ngại này không phải là không
có căn cứ vì thực tế điều này đã xảy ra say ngày Việt nam giành được độc lập.
Luật Quốc tế ngày nay cũng thừa nhận quyền quốc hữu hoá nhưng phải có sự
đền bù thoả đáng và trong trường hợp vì lợi ích quốc gia.
Việc từ bỏ quyền quốc hữu hoá thể hiện sự nhất quán của nhà nước Việt
nam trong việc bảo đảm vốn, tài sản của nhà ĐTNN, nó hoàn toàn phù hợp với
mục tiêu thu hút vốn của nhà nước Việt nam cũng như thông lệ quốc tế, nhất là
đối với các nước trong khu vực Đông Nam Á và một số nước khác. Chẳng hạn
như đạo luật khuyến khích ĐTNN của Malaysia (Promotion of Investment Act
1986) ghi nhận: " Trong quá trình hoạt động của Công ty nước ngoài ở liên
bang, chi phí bảo đảm cho các nhà đầu tư không bị trưng thu sở hữu của họ, và
được đền bị hoàn toàn trong trường hợp bị quốc hữu hoá, người đầu tư được tự
do hồi hương vốn và chuyển lợi nhuận về nước". Indonexia cũng hết sức quan
tâm đến vấn đề bảo hộ đầu tư, coi đây là tiền đề đê thu hút vốn ĐTNN. Điều 21
luật ĐTNN 1967 đã chỉ ra những biện pháp ưu đãi, bảo hộ đầu tư. Chính phủ
Indonexia còn đưa ra các quyết định nhằm xác định tính ổn định, lâu dài, tạo
điều kiện cho chủ đầu tư yên tâm trong quá trình thực hiện hợp đồng, quy chế
bồi hoàn đố với khoản đầu tư khi gặp rủi ro, hoặc những công trình bị nhà nước
quốc hữu hoá " Chính phủ không quốc hữu hoá, không tước bỏ các quyền sở
hữu của doanh nghiệp có vốn ĐTNN, không thể hiện các biện pháp hạn chế các
quyền kiểm soát hoặc quyền quản lý của các doanh nghiệp có vốn ĐTNN trừ khi
luật quy định rằng lợi ích của quốc gia đòi hỏi phải thực hiện biện pháp đó. Nếu
có bất kỳ sự kiện nào xảy ra thì khoản thiệt hại sẽ được đền bù hợp lý với các
24
nguyên tắc cuả luật quốc tế, sự thiếu sót trong thoả thuận, phần đền bù sẽ được
quyết định bởi trọng tài".
Tại Điều 19 luật ĐTNN của Indonexia còn quy định doanh nghiệp có vốn
ĐTNN được quyền chuyển vốn, lợi nhuận bằng ngoại tệ đầu tư ra nước ngoài
với tỷ giá hiện hành.
Luật ĐTNN (1993) của Philipines còn quy định đảm bảo ĐTNN không bị

trưng thu trừ trường hợp vì mục đích công cộng hay lợi ích quốc gia. Trong
trường hợp này, nhà ĐTNN sẽ được nhận các khoản bồi thường thoả đáng bằng
ngoại tệ mà họ đã sử dụng để đầu tư. Pháp luật Trung Quốc, Hàn Quốc đều quy
định bảo đảm tài sản nhà ĐTNN không bị trưng thu.
Như vậy hầu hết các nước trong khu vực như: Việt nam, Đài Loan,
Malaysia, Philipines, Hàn Quốc, Indonesia đều ghi nhận việc không quốc hữu
hoá hay không trưng thu doanh nghiệp có vốn ĐTNN của nhà đầu tư khi đầu tư
vào nước mình, đồng thời nêu rõ nếu có sự thay đổi của pháp luật nước chủ nhà
gây thiệt hại hay trưng thu thì các nhà ĐTNN sẽ nhận sự bồi thường thoả đáng
tuỳ theo điều kiện của mỗi nước mà việc bồi thường được xác định khác nhau,
nhưng nó chung là đều giải quyết công bằng thoả đáng quyền lợi nhà ĐTNN.
Riêng Đài Loan thì việc quy định bảo hộ đầu tư cỉ được áp dụng có điều
kiện trong một số trường hợp nhất định mà thôi. Đó là ĐTNN được đảm bảo
không bị trưng thu vòng 20 năm từ khi bắt đầu dự án nếu như phần vốn góp
nước ngoài trong dự án đó tối thiểu là 45%. Nếu phần vốn góp nước ngoài ít
hơn 45% thì nhà đầu tư không được hưởng sự đảm bảo trên, nhưng trong trường
hợp bị trưng thu vì mục đích quốc phòng thì sẽ được đền bù thoả đáng bằng
ngoại tệ mà nhà ĐTNN sử dụng để đầu tư.
Qua những quy định về bảo hộ đầu tư của các nước đã cho ta thấy quy chế
bảo hộ đầu tư của Việt nam đố với vốn và tài sản của nhà ĐTNN được mở rộng
và triệt để hơn so với các nước trong khu vực hay nói cách khác môi trường bảo
hộ đầu tư của Việt nam hấp dẫn hơn.
Sở dĩ luật Việt nam quy định như vậy vì ngoài việc thu hút mạnh nguồn
vốn ĐTNN như đã trình bày ở các phần trên, nó còn xuất phát từ nhận thức rằng
25

×