Tải bản đầy đủ (.pdf) (83 trang)

căn cứ long hưng - sa đéc với quá trình khôi phục lực lượng của nguyễn ánh (1787-1789)

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (5.32 MB, 83 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM TP. HỒ CHÍ MINH



Liêu Thị Linh


CĂN CỨ LONG HƯNG - SA ĐÉC VỚI
QUÁ TRÌNH KHÔI PHỤC LỰC LƯỢNG
CỦA NGUYỄN ÁNH (1787-1789)



LUẬN VĂN THẠC SĨ LỊCH SỬ







Thành phố Hồ Chí Minh –
2011
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM TP. HỒ CHÍ MINH


Liêu Thị Linh

CĂN CỨ LONG HƯNG - SA ĐÉC VỚI


QUÁ TRÌNH KHÔI PHỤC LỰC LƯỢNG CỦA
NGUYỄN ÁNH (1787-1789)


Chuyên ngành: Lịch Sử Việt Nam
Mã số: 602254


LUẬN VĂN THẠC SĨ LỊCH SỬ


NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC:
TS. LÊ HỮU PHƯỚC



Thành phố Hồ Chí Minh – 2011
Lời cam đoan

Đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các sự kiện, số liệu, tài liệu trích dẫn và
kết quả nghiên cứu trong Luận văn là trung thực, đảm bảo tính khách quan khoa học và
nghiêm túc.



Tác giả Luận văn


Liêu Thị Linh














MỤC LỤC

0TLời cam đoan0T - 1 -
0TMỤC LỤC0T - 2 -
0TMỞ ĐẦU0T - 4 -
0T1. Lí do chọn đề tài0T - 4 -
0T2. Lịch sử nghiên cứu đề tài0T - 5 -
0T3. Nguồn tài liệu0T - 6 -
0T4. Phương pháp nghiên cứu0T - 6 -
0T5. Đóng góp của đề tài0T - 6 -
0T6. Cấu trúc đề tài0T - 6 -
0TCHƯƠNG 1: KHÁI QUÁT VỀ VÙNG ĐẤT LONG HƯNG THẾ KỶ XVII - XVIII0T - 8 -
0T1.1. Đặc điểm tự nhiên và xã hội của vùng đất Long Hưng.0T - 8 -
0T1.1.1. Đặc điểm tự nhiên.0T - 8 -
0T1.1.2. Những biến đổi hành chính.0T - 10 -
0T1.1.3. Đặc điểm xã hội và dân cư0T - 11 -
0T1.2. Vùng đất Long Hưng cuối thế kỷ XVIII.0T - 12 -
0T1.2.1. Bối cảnh Nam Kỳ cuối thế kỷ XVIII.0T - 12 -

0T1.2.2. Thành tựu khai hoang và tình hình kinh tế - xã hội ở Long Hưng.0T - 14 -
0TCHƯƠNG 2: NGUYỄN ÁNH ĐẶT CĂN CỨ TẠI LONG HƯNG – SA ĐÉC.0T - 17 -
0T2.1. Những thắng lợi của Tây Sơn trong giai đoạn 1773 – 1783.0T - 17 -
0T2.2. Nguyễn Ánh bôn tẩu và sang Xiêm cầu viện (1783 – 1787).0T - 22 -
0T2.3. Nguyễn Ánh chọn vùng đất Long Hưng làm căn cứ.0T - 25 -
0T2.3.1. Những yếu tố tác động đến quyết định về nước của Nguyễn Ánh.0T - 25 -
0T2.3.2. Những yếu tố khiến Nguyễn Ánh lấy vùng Tân Long (Long Hưng) - Sa Đéc làm căn cứ.0T - 28 -
0TCHƯƠNG 3: QUÁ TRÌNH KHÔI PHỤC LỰC LƯỢNG CỦA NGUYỄN ÁNH TẠI CĂN
CỨ LONG HƯNG – SA ĐÉC (1787-1789)
0T - 34 -
0T3.1. Từ Long Hưng, Nguyễn Ánh khởi binh và liên tiếp giành thắng lợi.0T - 34 -
0T3.2. Vai trò của căn cứ Long Hưng đối với thắng lợi của Nguyễn Ánh.0T - 39 -
0T3.3. Những di tích ở Long Hưng liên quan đến cuộc nội chiến Nguyễn Ánh – Tây Sơn.0T - 44 -
0TKẾT LUẬN0T - 54 -
0TTÀI LIỆU THAM KHẢO0T - 59 -
0TPHỤ LỤC0T - 62 -












MỞ ĐẦU


1. Lí do chọn đề tài
Triều Nguyễn là triều đại cuối cùng của lịch sử chế độ phong kiến Việt Nam, được
thành lập trên sự thắng lợi của Nguyễn Ánh trước Tây Sơn vào cuối thế kỷ XVIII đầu thế kỷ
XIX.
Vậy, những nhân tố nào đã góp phần làm nên thắng lợi của Nguyễn Ánh? Có nhiều
nhân tố chủ quan và khách quan đã được đề cập đến trong nhiều công trình nghiên cứu như
lòng kiên trì và quyết tâm cao độ của Nguyễn Ánh; việc khai thác triệt để yếu tố địa lợi và
nhân hoà ở miền đất Gia Định; sự kém cõi của chính quyền Tây Sơn trong việc quản lý địa
bàn này
Trong đó, có một nhân tố quan trọng là vai trò của căn cứ Long Hưng (nay thuộc
huyện Lấp Vò, tỉnh Đồng Tháp) đối với quá trình khôi phục và phát triển lực lượng của
Nguyễn Ánh để cuối cùng giành thắng lợi. Ngày nay tại Long Hưng còn những di tích về
cuộc nội chiến Nguyễn Ánh-Tây Sơn. Do đó, việc tìm hiểu vùng đất Long Hưng hay vai trò
của căn cứ Long Hưng đối với thắng lợi của Nguyễn Ánh là điều cần thiết đối với nghiên
cứu lịch sử địa phương cũng như lịch sử dân tộc.
Về mặt khoa học, đề tài “Căn cứ Long Hưng – Sa Đéc với quá trình khôi phục lực
lượng của Nguyễn Ánh (1787-1789)” sẽ làm rõ thêm những điều kiện tự nhiên và xã hội tại
vùng đất Long Hưng, tạo cơ sở để Nguyễn Ánh quyết định chọn làm nơi đặt căn cứ để khôi
phục và phát triển lực lượng, rồi giành thắng lợi. Nói cách khác, đề tài sẽ góp phần lý giải
sâu hơn một trong những vấn đề quan trọng liên quan đến cuộc nội chiến Tây Sơn-Nguyễn
Ánh; đó là quá trình khôi phục và phát triển lực lượng của Nguyễn Ánh tại căn cứ Long
Hưng (Sa Đéc) và vai trò của căn cứ này đối với thắng lợi của Nguyễn Ánh.
Về mặt thực tiễn, đề tài sẽ góp phần vào việc nghiên cứu, biên soạn địa chí, lịch sử địa
phương cũng như việc khôi phục, tôn tạo các di tích lịch sử ở Đồng Tháp, giúp người dân địa
phương hiểu thêm một số vấn đề lịch sử trên cả hai khía cạnh chính diện và phản diện.
Vì vậy tôi chọn đề tài “Căn cứ Long Hưng-Sa Đéc với quá trình khôi phục lực
lượng của Nguyễn Ánh (1787-1789)” để làm luận văn tốt nghiệp của mình.
2. Lịch sử nghiên cứu đề tài
Không kể những công trình nghiên cứu về phong trào Tây Sơn và cuộc chiến tranh
Tây Sơn-Nguyễn Ánh nói chung, thời gian qua cũng đã có một số tài liệu nghiên cứu riêng

về Vùng đất Long Hưng gắn với cuộc nội chiến Nguyễn Ánh-Tây Sơn.
Có thể kể đến các tài liệu sau:
- Lịch sử vùng Long Hưng (TK XVIII – 2000), đề tài khoa học cấp tỉnh năm 2005 do
UBND huyện Lấp Vò thực hiện (Nguyễn Văn Lây làm chủ nhiệm; Nguyễn Hữu Hiếu sưu
tầm và biên soạn). Đề tài trình bày đặc điểm tự nhiên và xã hội vùng đất Long Hưng; bối
cảnh Long Hưng cuối thế kỉ XVII đến cuối thế kỉ XIX; Long Hưng trong thời kỳ kháng
chiến chống Pháp, chống Mỹ và vùng đất Long Hưng ngày nay.
- Đồng Tháp 300 năm, NXB Trẻ, 2004 do Nguyễn Hữu Hiếu-Ngô Xuân Tư-Lê Đức
Hòa-Nguyễn Đắc Hiền biên soạn. Tác phẩm viết về vùng đất và con người Đồng Tháp, trong
đó có đề cập đến vùng đất Long Hưng. Đồng thời, tác phẩm cũng đề cập đến cuộc nội chiến
trên vùng đất Long Hưng, nhưng chưa nêu bật được vai trò của vùng đất này đối với thắng
lợi của Nguyễn Ánh.
- Sadec Xưa và Nay của Huỳnh Minh, NXB Cảnh Bằng,1971. Tác phẩm nêu lên vị trí
địa lý của Sadec; các danh nhân lịch sử; di tích lịch sử và huyền sử; sinh hoạt tôn giáo và các
nguồn lợi về thiên nhiên.
- Lịch sử truyền thống và cách mạng xã Long Hưng A do Ban Tuyên giáo huyện ủy
Lấp Vò và Đảng ủy xã Long Hưng A tổ chức biên soạn, 12/2005. Tập sách chủ yếu đề cập
lịch sử truyền thống cách mạng của nhân dân Long Hưng A từ thế kỷ XVIII; xây dựng và
phát triển của xã Long Hưng A ngày nay.
- Lịch sử truyền thống và cách mạng xã Long Hưng B do Ban Tuyên giáo huyện ủy
Lấp Vò và Đảng ủy xã Long Hưng B tổ chức biên soạn, 12/2005. Tác phẩm chủ yếu đề cập
đến lịch sử truyền thống cách mạng của nhân dân Long Hưng B từ thế kỷ XVIII; sự phát
triển của xã Long Hưng B ngày nay.
Có thể thấy rằng, số lượng tác phẩm viết về đề tài này là khá ít ỏi và chưa đi sâu làm
rõ vị thế, vai trò của vùng đất Long Hưng trong những năm cuối thế kỷ XVIII, gắn với cuộc
nội chiến Nguyễn Ánh-Tây Sơn. Từ việc kế thừa các kết quả nghiên cứu đã có, tác giả Luận
văn muốn nghiên cứu sâu hơn về vấn đề này như đã trình bày trong lý do chọn đề tài.
3. Nguồn tài liệu
Để viết Luận văn, tôi đã sử dụng các nguồn tài liệu sau:
- Tài liệu thành văn bao gồm sách chuyên khảo, đề tài khoa học.

- Tài liệu khảo sát thực địa bao gồm ảnh chụp các di tích có liên quan đến căn cứ
Long Hưng ở xã Long Hưng A và xã Long Hưng B, huyện Lấp Vò, tỉnh Đồng
Tháp.
- Phỏng vấn nhân chứng ở địa phương bằng phương pháp đàm thoại và chép tay.
4. Phương pháp nghiên cứu
Để thực hiện được mục tiêu đặt ra của đề tài, trong quá trình nghiên cứu chúng tôi đã
dựa trên nền tảng Chủ nghĩa Mác Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và sử dụng các phương pháp
sau:
- Phương pháp lịch sử là phương pháp nhằm xem xét các hiện tượng, sự vật qua từng
giai đoạn cụ thể của nó. Cụ thể trong đề tài, phương pháp lịch sử dùng để trình bày, miêu tả
các sự kiện lịch sử của quá trình khôi phục lực lượng của Nguyễn Ánh tại căn cứ Long Hưng
(1787 - 1789).
- Phương pháp logic là phương pháp nghiên cứu các hiện tượng trong hình thức
tổng quát nhằm vạch ra bản chất, quy luật, khuynh hướng chung trong sự vận động của cái
khách quan được nhận thức. Trong đề tài, phương pháp này dùng để xâu chuỗi các sự kiện
lịch sử của quá trình khôi phục lực lượng của Nguyễn Ánh tại Long Hưng; phân tích và lý
giải vai trò, tầm quan trọng của căn cứ Long Hưng-Sa đéc đối với thắng lợi của Nguyễn
Ánh.
5. Đóng góp của đề tài
Kết quả nghiên cứu của luận văn sẽ là tài liệu tham khảo cần thiết phục vụ cho việc
giảng dạy lịch sử địa phương nói riêng và lịch sử dân tộc nói chung.
6. Cấu trúc đề tài
Ngoài phần mở đầu, kết luận, mục lục, tài liệu tham khảo, đề tài gồm có 3 chương:
Chương 1: Khái quát về vùng đất Long Hưng thế kỷ XVII - XVIII.
Chương 2: Nguyễn Ánh đặt căn cứ tại Long Hưng-Sa Đéc.
Chương 3: Qúa trình khôi phục lực lượng của Nguyễn Ánh tại căn cứ Long
Hưng-Sa Đéc (1787 – 1789).
CHƯƠNG 1: KHÁI QUÁT VỀ VÙNG ĐẤT LONG HƯNG THẾ KỶ XVII - XVIII

1.1. Đặc điểm tự nhiên và xã hội của vùng đất Long Hưng.

1.1.1. Đặc điểm tự nhiên.
Trước năm 1975 Long Hưng thuộc quận Lấp Vò, tỉnh Sa Đéc, nằm giữa các xã: Tân
Mỹ, Tân Khánh Trung ở phía Bắc; thị trấn Hòa Long, Hòa Thành (huyện Lai Vung) ở phía
Nam; Tân Dương (huyện Lai Vung) ở phía Đông; Vĩnh Thạnh và Long Hậu (huyện Lai
Vung) ở phía Tây.
Khi nhắc đến Long Hưng, người ta thường nói Long Hưng – Nước Xoáy hoặc Nước
Xoáy – Bờ Rào, chứng tỏ từ rất lâu địa danh Long Hưng hay vùng Long Hưng đã gắn liền
với rạch Nước Xoáy. Rạch Nước Xoáy là con rạch dài thứ hai trong vùng với chiều dài
8500m, chỉ sau sông Sa Đéc.
Rạch Nước Xoáy có 3 nhánh cùng đổ về chỗ giáp nước:
- Nhánh thứ nhất chảy từ sông Hậu vào rạch Lai Vung, đến Vĩnh Thạnh nối vào rạch
Thủ Ô, qua rạch Rau Cần đến chỗ giáp nước.
- Nhánh thứ hai chảy từ sông Cái Tàu Thượng vào sông Cường Thành đến Vĩnh
Thạnh rồi nối vào rạch Thủ Ô như nhánh thứ nhất.
- Nhánh thứ ba từ sông Sa Đéc chảy đến chỗ giáp nước.
Rạch Nước Xoáy và sông Sa Đéc mang lại cho Long Hưng một vị trí quan trọng trong
vùng. Long Hưng nằm trên ngã tư đường từ Tây sang Đông trên sông Sa Đéc và từ Bắc
xuống Nam trên rạch Nước Xoáy. Là một thủy đạo trọng yếu từ sông Tiền sang sông Hậu
nên Long Hưng thường đi liền với Nước Xoáy. Ngoài ra trong dân gian còn phổ biến cụm
địa danh nữa liên quan đến Long Hưng, Nước Xoáy, đó là “Nước Xoáy – Bờ Rào” [45, 4].
Bờ Rào là con rạch nhỏ nằm ở phía Nam xã Tân Mỹ, lấy nước sông Tiền đổ vào rạch
Nước Xoáy. Dân địa phương thường gọi là rạch Nước Xoáy – Bờ Rào, cũng có người gọi là
Bàu Rào.
Như vậy “vùng Long Hưng – Nước Xoáy” được hiểu theo 2 nghĩa:
Nghĩa hẹp: là khu vực nhỏ, chung quanh có hiện tượng nước xoáy, nay thuộc khu vực
quanh chợ Nước Xoáy, nơi đóng trụ sở Ủy ban nhân dân xã Long Hưng A.
Nghĩa rộng: là một vùng rộng lớn hơn, nơi rạch Nước Xoáy và các phụ lưu của nó
chảy qua, tức bao gồm nhiều địa bàn.
Vùng, tuy là một khái niệm địa lý để chỉ một khu vực, song nó lại mang đặc trưng văn
hóa nên vùng thường không có địa giới cụ thể rõ ràng. Do đó, không gian của nó chỉ có tính

tương đối, rộng hay hẹp tùy theo trường hợp sử dụng, thời điểm lịch sử. Do nằm ở vị trí khá
đặc biệt với hệ thống kênh rạch chằng chịt, là trung tâm khu vực giữa sông Tiền và sông
Hậu, là nơi nối liền miền Đông và miền Tây Nam Bộ và còn là đầu cầu giữa Campuchia,
Đồng Tháp Mười nên trong một số giai đoạn lịch sử, vùng Long Hưng là nơi diễn ra một số
sự kiện quan trọng.
Trong cuộc chiến Tây Sơn – Nguyễn Ánh trên đất Nam Bộ (1777 – 1789), vùng này là
nơi tiến sang Ba Giồng lên Sài Gòn hoặc thoái xuống Cà Mau ra vịnh Thái Lan của Nguyễn
Ánh. Đến năm 1787 Nguyễn Ánh xây dựng căn cứ ở đây mà trung tâm tại Nước Xoáy –
Long Hưng. Từ đây làm bàn đạp Nguyễn Ánh tung quân đánh Tây Sơn, thu phục được toàn
bộ đất Gia Định.
Về mặt tự nhiên, Long Hưng là vùng đất nằm giữa sông Tiền và sông Hậu. Ven sông
cái, vào sâu trong nội đồng trũng thấp dần. Đó là do hiện tượng phù sa bồi lắng hàng năm
sau mỗi mùa nước nổi, hình thành dãy đất giồng ven sông, không bị ngập sâu nên đất đai rất
màu mỡ.
Có những con rạch tự nhiên đã cắt vùng này ra nhiều mảng nhỏ, tạo điều kiện thuận
lợi cho việc đi lại, chuyên chở bằng đường thủy. Con sông quan trọng nhất của vùng là sông
Sa Đéc.
Sông Sa Đéc dài 35km, chảy từ Bình Thành Tây (Lấp Vò) ở sông Hậu đổ ra sông Tiền
tại vàm An Nhơn (Châu Thành) cắt Long Hưng và cả vùng đất giữa sông Tiền và sông Hậu
ở khu vực Sa Đéc ra hai mảng theo hướng Tây – Bắc – Đông – Nam. Là một thủy lộ quan
trọng nối liền hai miền Tiền Giang và Hậu Giang.
Nằm trên vùng châu thổ, lại ở giữa hai sông lớn nên khí hậu vùng Long Hưng rất ôn
hoà, thuận lợi cho sự phát triển của các loài thực vật và cây trồng chịu nước. Do đó, thảm
thực vật tự nhiên ở đây rất phong phú đa dạng và là nơi thuận lợi cho việc canh tác lúa và
cây ăn trái. Vì vậy ngay từ thời khai hoang lập ấp, vùng này đã hấp dẫn nhiều lưu dân đến
đây khai hoang sinh sống, dẫn đến việc hình thành nhiều làng mạc dân cư đông đúc.
1.1.2. Những biến đổi hành chính.
Long Hưng là tên gọi sau này, trước đây vùng này có tên là Tân Long. Vào thế kỷ
XVII – XVIII khi quá trình khai hoang thành công, nhiều thôn được thành lập như: Tân
Long, Long Hậu, Nhơn Qưới, Tân Lộc, Hưng Qưới thuộc huyện Vĩnh An, trấn Vĩnh Thanh.

Đến năm 1836 vùng này phát triển thêm nhiều thôn như Tân Đông, Vĩnh Thạnh, Nhơn
Qưới (thuộc tổng An Thới, Huyện Vĩnh An, tỉnh An Giang), Long Hậu, Bình Thành Tây,
Tân Lộc, Định An (thuộc tổng An Phú, huyện Đông Xuyên, tỉnh An Giang), Long Hậu, Bình
Thành Tây, Tân Lộc, Định An (thuộc tổng An Phú, huyện Đông Xuyên, tỉnh An Giang).
Trong địa bạ Nam Kỳ năm 1836, tên thôn Tân Long được ghi:
“Tân Long thôn, ở xứ Thủy Nhiều (Nước Xoáy), thuộc tổng An Thới, huyện Vĩnh An,
phủ Tân Thành, tỉnh An Giang: phía đông giáp địa phận hai thôn Tân Dương và Tân Thạnh;
phía Tây giáp địa phận hai thôn Vĩnh Thạnh và Nhơn Qúy; phía Nam giáp thôn Long Hậu
(thuộc tổng An Phú, huyện Đông Xuyên); phía Bắc giáp thôn Tân Khánh Tây và thôn Tân
Mỹ, lại giáp thôn Nhơn Qưới” [7,188].
Khi tiến hành thành lập bộ máy cai trị ở hạt Sa Đéc, thực dân Pháp nhận thấy rằng
thôn Tân Long có nhiều ruộng đất và đông dân nên đã tách phần đất của thôn này giáp với
Long Hậu thành làng Long Hậu Thượng [18,132]. Sau đó theo nghị định ngày 6 tháng 5 năm
1891, chúng lại sáp nhập lại như cũ với tên là Long Hưng, thuộc tổng An Phong, Sa Đéc.
Với nghị định ngày 09 tháng 02 năm 1913 Sa Đéc trở thành một đại lý hành chính đặt
dưới quyền của tỉnh Vĩnh Long, còn Long Hưng vẫn thuộc tổng An Phong [18,135].
Nghị định ngày 01 tháng 04 năm 1916, Sa Đéc trở thành một quận của tỉnh Vĩnh Long
với ba đại lý hành chính là Sa Đéc, Cao Lãnh và Lai Vung. Long Hưng nằm trong tổng An
Phong thuộc Lai Vung. Đến nghị định ngày 09 tháng 02 năm 1924 Sa Đéc chính thức trở
thành một tỉnh riêng và tách khỏi Vĩnh Long với ba quận là Châu Thành (Sa Đéc), Cao lãnh
và Lai Vung. Long Hưng thuộc quận Lai Vung [51,15].
Đến năm 1957 với nghị định ngày 08 tháng 10 Sa Đéc lại trở thành một quận của tỉnh
Vĩnh Long. Đến nghị định ngày 11 tháng 07 năm 1962 Sa Đéc vẫn thuộc tỉnh Vĩnh Long và
được chia thành bốn quận là Sa Đéc, Lấp Vò, Đức Tôn và Đức Thành, từ đây Long Hưng
thuộc quận Lấp Vò.
Mãi đến ngày 24 tháng 09 năm 1966 Sa Đéc tái chính thức thành lập tỉnh với bốn
quận. Trong đó Sa Đéc thuộc quận Châu Thành, sau đổi thành quận Đức Thịnh.
Sau năm 1975 Long Hưng thuộc huyện Lấp Vò.
Năm 1977, huyện Lấp Vò đổi thành huyện Thạnh Hưng.
Tháng 08 năm 1989, huyện Thạnh Hưng chia thành hai huyện là Thạnh Hưng và Lai

Vung.
Đến tháng 12 năm 1996, huyện Thạnh Hưng lại đổi thành huyện Lấp Vò gồm 13 xã,
trong đó Long Hưng được chia thành hai xã là Long Hưng A và Long Hưng B.
1.1.3. Đặc điểm xã hội và dân cư
Do điều kiện tự nhiên và đất đai thuận lợi nên ngay trong thời kỳ khai hoang lập ấp,
vùng này là một trong những nơi thu hút nhiều lưu dân, dẫn đến việc hình thành nhiều thôn
làng với diện tích lớn, dân cư đông đúc và kinh tế trù phú.
Đến năm 1757 xứ Sa Đéc mới trở thành đạo Đông Khẩu của dinh Long Hồ nhưng trên
thực tế, lưu dân người Việt đã đến vùng này khai phá lập nghiệp từ lâu trong quá trình khai
phá mở cõi phương Nam.
Vùng Sa Đéc vốn đã trù phú, lại trở nên phồn thịnh hơn sau khi có đám di thần nhà
Minh được chúa Nguyễn cho vào định cư ở Biên Hòa và Mỹ Tho vào năm 1679. Rồi từ Mỹ
Tho họ sang vùng đất cũng rất trù phú nằm giữa sông Tiền và sông Hậu.
Quá trình tập trung dân cư ở vùng Long Hưng được hình thành bởi các nguồn chính
sau:
Thứ nhất là, lưu dân đến từ Quảng Trị, Quảng Bình, Quảng Tín, Quảng Nam và
Quảng Ngãi, chủ yếu bằng đường thủy. Họ dùng ghe bầu vượt biển vào sông Tiền rồi đi sang
khai phá các vùng đất cao ráo ven sông, ven rạch.
Thứ hai là, sự chuyển cư từ hai huyện Phước Long, Tân Bình và từ Mỹ Tho sang.
Thứ ba là, trong thời gian cuộc nội chiến diễn ra, vùng Long Hưng – Sa Đéc là đường
tiến thoái của quân Nguyễn Ánh. Đồng thời cũng là nơi nổ ra nhiều trận chiến, là nơi tàn ẩn
những bệnh binh, lính đào ngũ của cả hai bên. Đây chính là nguồn nhập cư đáng kể
Ngoài ra còn cò nhiều đợt nhập cư khác, có cả giáo dân Thiên chúa từ miền Trung vào
tị nạn khi chúa Nguyễn Phúc Khoát ra chỉ dụ cấm đạo Thiên chúa năm 1750 [46,175].
Chính điều kiện thuận lợi đã thu hút lưu dân từ nhiều vùng đến đây và biến vùng này
thành một trung tâm dân cư đông đúc vào đầu thế kỷ XX, được phân bố như sau:
Làng Long Hưng có 6987 người.
Làng Tân Dương có 4157 người.
Làng Long Hậu có 5712 người.
Làng Long Thắng có 1098 người [51,11-12].

Người Hoa vốn thạo nghề buôn bán, họ đứng ra thu mua các thổ sản, lâm sản, thủy
sản do lưu dân người Việt đến trước khai thác và sản xuất, góp phần hình thành Nông nại
đại phố trên Cù Lao Phố (Biên Hòa) và Mỹ Tho đại phố. Nhóm người Hoa ở Mỹ Tho còn
sang Vĩnh Long và Sa Đéc làm ăn, từ đó hình thành một số tụ điểm dân cư quan trọng ở khu
vực Sa Đéc, dọc theo tuyến sông Tiền như Nha Mân (Cái Tàu Hạ), đất Sét (nay thuộc xã Mỹ
An Hưng B), Cái Tàu thượng (nay thuộc xã Mỹ An Hưng A) và một số trung tâm khác ở
phía sông Hậu như Lấp Vò, Lai Vung.
Nghề nông vẫn là ngành kinh tế chủ yếu. Trong 2 thế kỷ XVII, XVIII thị trường tiêu
thụ cau tươi và cau khô rất lớn và còn xuất khẩu sang Hồng Kông, Singapore, Phôm Pênh do
thương lái người Hoa thu gom.
Đến đầu thế kỷ XIX toàn tỉnh Sa Đéc có 2848 ha trồng cau [51,19], tập trung chủ yếu
ở vùng Long Hưng, nhất là Tân Lộc. Ngoài ra còn xuất hiện nhiều ngành nghề khác như
đóng ghe xuồng (Long Hậu), dệt chiếu (Định Yên, Định An), đươn lờ lọp
Riêng hai xã Long Hưng A và Long Hưng B kinh tế nông nghiệp vẫn là chủ yếu.
1.2. Vùng đất Long Hưng cuối thế kỷ XVIII.
1.2.1. Bối cảnh Nam Kỳ cuối thế kỷ XVIII.
Đồng bằng Sông Cửu Long cũng như cả Nam Bộ, dù là vùng đất mới của người Việt.
Song về mặt lịch sử, đây là địa bàn có người cư ngụ rất sớm, mặc dù chưa biết thời gian
chính xác.
Theo các giáo sĩ và thương nhân từng đi ngang qua đây ghi nhận đã có người cư ngụ
như Fernand Mindez vào năm 1540, Caspard de la Croix vào năm 1552 [6,26].
Đến năm 1562 văn hào Camoens-người Bồ Đào Nha bị đắm thuyền gần Hà Tiên, nhờ
người cứu vớt đưa về Mỹ Tho, nơi có người Bồ Đào Nha lập thương cảng. Trong một ghi
chép, Ông mô tả: “Bờ sông Mê Kông (tức sông Cửu Long) bao phủ vô số rừng rậm và chứa
đầy thú dữ, thỉnh thoảng có vài người đánh cá ven sông” [6,27].
Năm 1620 sau cuộc hôn nhân giữa công nương Ngọc Vạn-con gái chúa Sải Nguyễn
Phước Nguyên với quốc vương Chân Lạp Chêy Chetta II, người Việt có nhiều điều kiện
thuận lợi hơn để vào sinh sống ở vùng Đồng Nai – Cửu Long.
Năm 1623 Chêy Chetta nhượng cho chúa Nguyễn đất Prey Nokor (Xứ Sài Gòn) lập
trạm thuế nên lưu dân người Việt vào càng nhiều hơn. Mối quan hệ giữa Chêy Chetta và

chúa Nguyễn Phước Nguyên ngày càng chặt chẽ.
Trong hồi ký “Xứ Đàng Trong năm 1621” của Cristophoro Borri, có chép:
Ngoài ra Chúa còn chuẩn bị vũ khí liên tục và mộ binh giúp Vua Campuchia, cung
cấp cho Vua này thuyền chiến và quân binh để cầm cự với vua Xiêm [50,84].
Con đường thủy duy nhất mà chúa Nguyễn vận chuyển vũ khí, chiến thuyền và quân
binh giúp cho chàng rễ Chêy Chette II là từ cảng nước Mặn (Qui Nhơn) vào sông Tiền qua
Sa Đéc, Phnom Pênh rồi Oudong. Đến giữa thế kỷ XVII, Sa Đéc đã là một trung tâm dân cư
lớn ở châu thổ sông Cửu Long với cảnh chợ búa trên bến dưới thuyền tấp nập.
Vốn là vùng sông nước nên cư dân địa phương dùng tre kết thành bè, trên cất nhà có
gác chứa hàng hóa. Buôn bán theo con nước nổi lên xuống rất tiện lợi nên có tên gọi là Phsar
ădek tức là “chợ nổi”. Lâu ngày người Việt nói trại là Sa Đéc [18,27] và trở thành tên cho cả
vùng.
Mùa Xuân năm 1698 vâng lệnh chúa Nguyễn, thống suất Nguyễn Hữu Cảnh vào nam
kinh lược, xác định chủ quyền của người Việt trên vùng đất mới, lập ra hai dinh Trấn Biên
và Phiên Trấn, gọi chung là Gia Định phủ-trên phần đất từ sông Đồng Nai đến sông Tiền. Sử
cũ ghi rõ: “lấy xứ Sài Gòn làm huyện Tân Bình, dựng dinh Phiên Trấn” [10,12].
Như vậy dinh phiên trấn chỉ có một huyện là Tân Bình nhưng huyện này rất rộng, gồm
thành phố Hồ Chí Minh và các tỉnh Tây Ninh, Long An, Tiền Giang và cả phần đất phía Bắc
sông Tiền của tỉnh Đồng Tháp.
Trong khi đó Mạc Cửu-người Lôi Châu (Quảng Đông, Trung Quốc) có quan hệ mật
thiết với Trịnh Thành Công ở Đài Loan khoảng năm 1680. Khi thấy công cuộc “Phản Thanh
phục Minh” đi vào chỗ bế tắc, bỏ sang Chân Lạp sinh sống. Ông được triều đình Chân Lạp
phong chức Ốc nha, song thấy nội tình xứ này luôn rối ren do nạn người Xiêm thường hay
cướp phá. Ông xin đến khai thác cửa biển Peam (là Hà Tiên sau này). Nơi đây vốn đã có
nhiều thương nhân nước ngoài đến buôn bán. Ông cho xây thành và lập thêm phố xá, mở
hiệu buôn, sòng bạc thu hút thương nhân ngày một đông hơn. Ông còn chiêu tập lưu dân
người Việt, người Hoa mở ruộng lập vườn và hình thành được bảy thôn, trong đó Hà Tiên
ngày một phồn thịnh.
Khoảng từ năm 1678 đến năm 1688 bọn cướp biển và quân Xiêm thường cướp bóc Hà
Tiên. Dưới áp lực quân Xiêm, Mạc Cửu phải sang cảng Muang Galapuri (Xiêm).

Một thời gian sau, ông lại trốn về Hà Tiên tiếp tục công việc khai mở. Để có chỗ dựa
vững chắc, năm 1708 Mạc Cửu dâng đất Hà Tiên cho chúa Nguyễn và xin nội thuộc, được
Chúa Nguyễn Phước Chu (1691-1725) chấp thuận và phong cho Mạc Cửu làm Tổng binh
trấn Hà Tiên.
Như vậy cho đến đầu thế kỷ XVIII, chỉ còn vùng đất giữa sông Tiền và sông Hậu là
chưa chính thức thuộc chủ quyền người Việt. Nhưng đến năm 1757 Nguyễn Cư Trinh cho
dời dinh Long Hồ về Tầm Bao (tức Long Hồ thuộc Vĩnh Long ngày nay) và lập 3 đạo Tân
Châu, Châu Đốc và Đông Khẩu. Sự kiện này đánh dấu vùng đất Tầm Phong Long đã thuộc
chủ quyền người Việt.
1.2.2. Thành tựu khai hoang và tình hình kinh tế - xã hội ở Long Hưng.
Thành tựu khai hoang:
Trong gần nửa thế kỷ (1757-1800) vùng Long Hưng có tốc độ khai hoang tương đối
nhanh. Long Hưng trong thời này thuộc châu Định Viễn, dinh Long Hồ, đến năm 1802 mới
đổi thành Vĩnh Trấn và năm 1808 trở thành trấn Vĩnh Thanh.
Đến nay chưa có tư liệu về số thôn ấp thành lập được trước năm 1800 nên tạm thời sử
dụng bảng danh mục hành chính của trấn Vĩnh Thanh được Trịnh Hoài Đức lập trong Gia
Định thành thông chí, thuộc huyện Lai Vung và Lấp Vò ngày nay.
Huyện Lai Vung có 12 thôn: Long Hậu, Định Hòa, Đông Thành, Tân Hòa, Nhơn Hòa,
Tân Lộc, Tân Lộc Trung, Phú Lộc, Tân Sơn, Tân Thạnh, Tân Bình.
Huyện Lấp Vò có 13 thôn: Mỹ An, Tòng Sơn, Mỹ Hưng, Tân Mỹ, Bình Thành Tây,
Bình Thành Đông, Tân Đông, Nhơn Qưới, Tân Long, Tân Khánh, Tân Khánh Tây, Tân An
Trung, Định An Phú.
Vào thời điểm này, công tác quản lý hành chính ở Nam Bộ nói chung còn rất lỏng lẻo.
Diện tích khai phá được đưa vào canh tác đều do người dân tùy tiện tự khai báo, không
thông qua đo đạt, kiểm tra nên chúng ta ngày nay không có con số cụ thể để mô tả thành tựu
của công cuộc khai hoang. Hơn nữa, trong khai báo người dân không dùng đơn vị địa chính
(mẫu ta) mà tính bằng dây, bằng khoảnh hoặc thửa nên không thể quy chiếu thành đơn vị đạt
điền để tính diện tích được [32,50]. Dĩ nhiên để trốn thuế, người dân không kê khai đúng sự
thật.
Mặc dù không nắm được diện tích khai phá cụ thể nhưng với con số 25 thôn được

thành lập cho thấy đây là một thành tựu lớn trong cuộc khai hoang. Hơn nữa trong số đó có
một số thôn mà trong cuộc đo đạt địa chính vào năm 1836 đã đạt diện tích vào hàng cao nhất
trong số 1637 thôn ở Nam Bộ lúc bấy giờ, cụ thể như:
Tân Lộc là 4336 mẫu ta, đứng hàng thứ 3.
Tân Long (sau này là Long Hưng) là 4110 mẫu ta, đứng hàng thứ 4.
Long Hậu là 3116 mẫu ta, đứng hàng thứ 14.
Bình Thành Tây là 2261 mẫu ta, đứng hàng thứ 26 [8,255-256].
Đến cuối thế kỷ XVIII lưu dân người Việt đến vùng này cư trú không chỉ dưới hình
thức di dân tự nhiên mà còn diễn ra bằng hình thức chuyển cư tại chỗ và các cuộc di dân cơ
chế có tổ chức với số lượng lớn.
Những lưu dân đầu tiên mạo hiểm vượt biển vào Nam tìm đất sống ở nơi hoang vu
vắng vẻ, chưa có sự kiểm tra của chính quyền thì đất đai khai phá được đương nhiên thuộc
quyền sở hữu của họ. Với số lượng cư dân ít ỏi, họ chỉ có khả năng liên kết lại để khai phá
từng lõm, từng khoảnh ven sông rạch và cùng nhau chống chọi với thú dữ, bệnh tật dần dần
trở thành xóm ấp đầu tiên.
Trong suốt diễn trình khai hoang lưu dân còn khai thác các nguồn lợi tự nhiên tại chỗ
như cá tôm, chim thú, mật ong, các loại gỗ Mặc dù với kỹ thuật, trình độ canh tác còn kém,
năng suất thấp nhưng với nguồn lợi thiên nhiên phong phú đã mang lại cho lưu dân cuộc
sống khá hơn nơi quê cũ. Chính điều này là thông tin hấp dẫn đối với thân thuộc của họ còn
ở quê nhà và là một động lực dẫn đến những đợt di dân tiếp theo.
Tình hình kinh tế - xã hội:
Trước năm 1757 việc hình thành quyền sở hữu ruộng đất tư nhân chủ yếu dựa trên khả
năng khai khẩn đất hoang của từng hộ gia đình. Những áp lực xã hội như: bao chiếm, sang
đoạt, cầm cố dường như chưa hình thành khi mà quyền lực nhà nước phong kiến chưa với
tới vùng đất này hoặc đã hiện diện nhưng còn quá lỏng lẻo.
Sau năm 1757, một mặt do điều kiện thiên nhiên thuận lợi, đất lành chim đậu. Nay lại
được chúa Nguyễn thiết lập cơ sở hành chính, có pháp luật bảo vệ, vùng này hấp dẫn nhiều
lưu dân hơn. Công cuộc khẩn hoang diễn ra nhanh chóng hơn. Dân biết thâm canh làm thủy
lợi, góp phần làm cho khu vực Lấp Vò, Cái Dầu, Long Hậu, Tân Lộc sau là Tân Thành (Lai
Vung) trở thành trung tâm dân cư quan trọng trải từ sông Tiền đến sông Hậu.

Đồng thời với những cuộc khai phá lẻ tẻ của dân nghèo xiêu tán, Chúa Nguyễn còn
chiêu mộ những nhà giàu có ở các phủ Điện Bàn, Quảng Ngãi, Quy Nhơn đưa gia nhân vào
khai phá.
Bên cạnh đó các Chúa Nguyễn còn sử dụng binh lính, tù phạm và mộ dân khai hoang
lập đồn điền.


Như vậy Long Hưng có một vị trí khá đặc biệt, với hệ thống kênh rạch chằng chịt,
là trung tâm khu vực giữa sông Tiền và sông Hậu, là nơi nối liền miền Tây và miền Đông
Nam Bộ. Đồng thời điều kiện tự nhiên Long Hưng rất thuận lợi nên từ thời khai hoang lập
ấp, vùng này đã hấp dẫn nhiều lưu dân đến đây sinh sống, dẫn đến việc hình thành nhiều
thôn ấp dân cư đông đúc. Đặc biệt đến cuối thế kỷ XVIII, vùng Long Hưng có tốc độ khai
hoang tương đối nhanh so với các vùng khác ở đồng bằng sông Cửu Long.
Long Hưng có vị trí và điều kiện tự nhiên thuận lợi nên sau nhiều lần bị Tây Sơn đánh
bại, cuối cùng Nguyễn Ánh đã chọn vùng đất Long Hưng làm căn cứ để đánh lại quân Tây
Sơn. Vậy Nguyễn Ánh đã chọn và xây dựng căn cứ ở Long Hưng như thế nào? Chúng ta sẽ
tiếp tục tìm hiểu ở chương 2 – Nguyễn Ánh đặt căn cứ tại Long Hưng-Sa Đéc.














CHƯƠNG 2: NGUYỄN ÁNH ĐẶT CĂN CỨ TẠI LONG HƯNG – SA ĐÉC.

2.1. Những thắng lợi của Tây Sơn trong giai đoạn 1773 – 1783.
Mùa thu năm 1773, lực lượng nghĩa quân Tây Sơn đã lên đến vài vạn người và đánh
chiếm được phần lớn phủ Quy Nhơn. Nguyễn Nhạc với trách nhiệm Đệ nhất trại chủ chỉ huy
hai huyện Bồng Sơn và Phù Ly, cử Nguyễn Tông làm Đệ nhị trại chủ chỉ huy huyện Tuy
Viễn và Huyền Khê làm Đệ tam trại chủ phụ trách quân lương.
Tiếp đó, Nguyễn Nhạc chia quân bao vây thành Quy Nhơn. Tuần phủ Nguyễn Khắc
Tuyên và toàn bộ binh lính chạy trốn. Nguyễn Nhạc lại đem quân tiến lên phía Bắc đánh
chiếm các kho thóc ở Kiển Dương và Đạm Thuỷ.
Đốc Trưng Đằng chạy trốn nhưng bị Nhạc đuổi theo giết được, tiếp đó nghĩa quân tiến
ra Quảng Ngãi, Quảng Nam. Đi đến đâu, nghĩa quân đều được nhân dân nhiệt liệt hưởng
ứng. Tập Đình và Lý Tài đem lực lượng của họ đi theo Tây Sơn cũng vào thời gian này.
Nghe tin quân Tây Sơn đánh chiếm Quy Nhơn và đang tràn ra phía Bắc, triều đình
Phú Xuân rất hoảng hốt. Tướng sĩ bấy lâu chỉ lo ăn chơi, nay sắp phải ra trận, ai nấy đều
hoang mang cực độ, tìm cách đút lót quan trên để xin ở lại. Quân lính thì chán nản, không
còn tinh thần chiến đấu, hễ gặp nghĩa quân thì bỏ chạy hoặc đầu hàng.
Trương Phúc Loan vội sai bốn viên tướng là Nguyễn Cửu Thống, Nguyễn Cửu Sách,
Tống Sùng và Đỗ Văn Hoàng đem đại quân vào Quy Nhơn trong khi nghĩa quân đã nhanh
chóng chiếm được Quảng Ngãi và đang tiến ra Quảng Nam.
Khi quận chúa Nguyễn kéo vào đến Bến Ván (Bản Tân – ranh giới Quảng Ngãi và
Quảng Nam), nghĩa quân liền rút về Bến Đá (Thạch Tân, thuộc phủ Thăng Bình, Quảng
Nam) bố trí mai phục. Quân Nguyễn đuổi theo đến Bến Đá thì bị phục binh Tây Sơn đánh
bại. Các tướng Nguyễn đều bị giết, chỉ còn Nguyễn Cửu Sách thu tàn quân chạy trốn. Trận
thắng lớn ở Bến Đá nâng cao thanh thế nghĩa quân và cổ vũ mạnh mẽ tinh thần quật khởi của
các tầng lớp bị trị.
Cuối năm 1773, chúa Nguyễn cử Tôn Thất Hương làm tiết chế nội quân đi đánh Tây
Sơn nhưng quân của Hương đã bị Lý Tài và Tập Đình đặt phục binh ở núi Bích Kê (huyện
Phù Mỹ) đánh cho tan tác, Tôn Thất Hương tử trận. Ở phía Nam, nghĩa quân cũng thừa
thắng đánh chiếm các phủ Diên Khánh, Bình Khang.

Như vậy, chỉ trong vòng một năm, quân Tây Sơn chiến thắng liên tiếp, kiểm soát cả
khu vực rộng lớn từ Quảng Ngãi vào đến Bình Thuận; duy chỉ một lần bị quân Nguyễn do
Nguyễn Cửu Dật chỉ huy đánh bất ngờ, quân Tây Sơn bị thua phải rút về phía Nam Chợ Củi
(Sài Thị) [31,172].
Đầu năm 1774, Tôn Thất Thắng được Chúa Nguyễn cử làm đại tướng đi đánh Tây
Sơn. Nhưng Tôn Thất Thắng thấy quân Tây Sơn mạnh quá, rất hoảng sợ, đang đêm bỏ quân
lính chạy trốn một mình. Mùa hạ năm đó, lưu thủ Long Hồ là Tổng Phúc Hiệp huy động
quân lính ở Gia Định tiến đánh nghĩa quân, chiếm lại được ba phủ Bình Thuận, Diên Khánh
và Bình Khang, sau đó đã chiếm lại cả Phú Yên.
Những biến động ở Đàng Trong được viên trấn thủ Nghệ An là Bùi Thế Đạt báo về
Thăng Long. Vốn nuôi mộng chiếm nốt vùng đất của Chúa Nguyễn, Chúa Trịnh Sâm mừng
rỡ nói:
Họ Nguyễn vốn có thế thù với họ Trịnh. Sở dĩ bấy nay Trịnh phải làm thinh, chẳng
qua chỉ cốt đợi thời. Bây giờ cơ hội đã đến, Trịnh sao lại chịu bó tay ngồi nhìn để họ Nguyễn
ngang nhiên tranh hùng mãi [31,180].
Trịnh Sâm bèn cử Hoàng Ngũ Phúc làm thượng tướng quân đem 3 vạn binh đi trước,
còn tự mình cầm đại quân đi sau, đến đóng ở Hà Trung để ứng viện.
Hoàng Ngũ Phúc tuy xuất thân hoạn quan nhưng là một viên tướng có tài. Ngũ Phúc
đã tham gia đắc lực vào việc đánh bại cuộc khởi nghĩa Nguyễn Hữu Cầu. Lần này xuất quân,
Ngũ Phúc lại có những bộ tướng giỏi như Hoàng Đình Bảo, Nguyễn Hữu Chỉnh.
Hoàng Ngũ Phúc kéo quân vào đất chúa Nguyễn nêu danh nghĩa giúp chúa Nguyễn
đánh đổ quyền thần Trương Phúc Loan và dẹp loạn Tây Sơn, ngoài ra không có ý gì khác.
Quân Chúa Nguyễn phải dồn sức đối phó với Tây Sơn ở mặt Nam, nên lực lượng ở phía Bắc
rất yếu.
Tháng 11 năm 1774, quân Trịnh vượt sông Gianh Dinh Trạm và Dinh Cát. Chúa
Nguyễn vội triệu Tôn Thất Nghiễm (bấy giờ đang đánh nhau với quân Tây Sơn) về đối phó
với Hoàng Ngũ Phúc và cử Nguyễn Cửu Dật thay Tôn Thất Nghiễm ở phía Nam.
Hoàng Ngũ Phúc tiến quân đến Bồ Đề (huyện Minh Linh) đưa thư khuyên Chúa Phúc
Thuần đầu hàng. Bị tấn công cả hai mặt, Chúa Nguyễn lâm vào tình thế nguy ngập, sai bắt
trói Trương Phúc Loan đem nộp cho Hoàng Ngũ Phúc và dâng vàng bạc xin bãi binh nhưng

vẫn bố trí lực lượng chống cự.
Bắt được Trương Phúc Loan, quân Trịnh vẫn tiếp tục tiến vào Phú Xuân. Đầu năm
1775 Chúa Nguyễn Phúc Thuần phải bỏ Phú Xuân, đem gia quyến cùng hơn 100 thân binh
xuống thuyền ra cửa Tư Dung, rồi đổ bộ vượt đèo Hải Vân chạy vào Quảng Nam. Sau đó
Phúc Thuần lại cùng cháu là Nguyễn Ánh vượt biển vào Gia Định. Trước khi đi, Phúc Thuần
phong cho hoàng tôn Nguyễn Phúc Dương làm Đông cung.
Quân Tây Sơn lại khởi thế công, chia hai cánh đánh bại quân của Nguyễn Cửu Dật,
buộc Dật phải chạy về Trà Sơn. Tiếp đó, Nguyễn Nhạc chia ba cánh quân vây bắt Nguyễn
Phúc Dương.
Lại nói về quân Trịnh, bấy giờ đã vượt đèo Hải Vân (3/1775). Quân Tây Sơn do
Nguyễn Nhạc, Tập Đình và Lý Tài chỉ huy đón đánh quân Trịnh ở Cẩm Sa. Trận chiến đấu
diễn ra quyết liệt nhưng cuối cùng quân Tây Sơn bị tổn thất nhiều, phải rút về Bến Ván để
bảo vệ căn cứ Quy Nhơn và vùng Quảng Ngãi.
Ở phía Nam, tướng của Chúa Nguyễn là Tống Phúc Hiệp sau khi chiếm lại được Phú
Yên cũng tấn công ra. Tình hình quân Tây Sơn bấy giờ rất bất lợi, bị kẹp giữa hai thế lực thù
địch: quân Trịnh ở Bắc và quân Nguyễn ở Nam. Nhằm vượt qua trận thế nguy hiểm, Nguyễn
Nhạc kịp thời thay đổi sách lược, một mặt lo củng cố căn cứ ở miền núi Qui Nhơn, một mặt
tạm thời hoà hoãn với quân Trịnh để tập trung lực lượng tấn công quân Nguyễn.
Tháng 7 năm 1775, Nguyễn Nhạc sai người đem vàng bạc và một bức thư đến doanh
trại Hoàng Ngũ Phúc “xin hàng”, xin nộp ba phủ Quảng Ngãi, Quy Nhơn, Phú Yên và xin
làm tướng tiên phong đi đánh quân Nguyễn. Hoàng Ngũ Phúc vốn biết lực lượng Tây Sơn
đang bột phát, thường nói với bộ hạ:
Tây Sơn bây giờ đang như ngọn lửa bốc mạnh. Ta già mất rồi; còn các tướng, ta e
không phải là tay đối địch với họ được [31,193].
Nhận được thư của Nguyễn Nhạc, Ngũ Phúc biết đây chỉ là kẻ hoãn binh nhưng vì
đang mùa hè, quân Trịnh mệt mỏi lại bị chết dịch nhiều và tinh thần binh sĩ rất hoang mang
nên Ngũ Phúc phải chấp nhận đề nghị của Tây Sơn. Ngũ Phúc bèn sai Nguyễn Hữu Chỉnh
đem ấn, cờ và kiếm phong cho Nguyễn Nhạc làm “Tây Sơn hiệu trưởng tráng tiết tướng
quân”.
Tạm yên mặt Bắc, Nguyễn Nhạc dồn lực lượng tấn công quân Nguyễn ở phía Nam. Bề

ngoài, Nguyễn Nhạc giả vờ liên kết với Tống Phúc Hiệp và lập hoàng tôn Nguyễn Phúc
Dương lên làm vua.
Nguyễn Nhạc sai người mang thư vào Phú Yên ngỏ ý xin hàng Tống Phúc Hiệp. Khi
sứ giả của Phúc Hiệp đến Quy Nhơn để xét hư thực, Nguyễn Nhạc đặt hoàng tôn Dương
ngồi giữa, còn tự mình thì ngồi ở bên tả. Trước mặt sứ giả, Nguyễn Nhạc tuyên bố:
Năm doanh tướng sĩ từ ngàn dặm làm việc cần vương, thật là đã hết lòng trung nghĩa.
Nạn Quốc phó (Trương Phúc Loan) đã trừ xong, chúng ta nên rước Hoàng tôn lên ngôi để
yên nghiệp lớn, đó là cái công muôn đời, phải cùng với các tướng sĩ mưu toan [31,199]
Sứ giả Phúc Hiệp hỏi: “Minh công có lòng tôn phù như vậy, danh nghĩa lừng lẫy, ai
chẳng nghe theo. Nay quân năm doanh đến thì nên đóng ở đâu?”. Nguyễn Nhạc trầm ngâm
một lúc rồi nói: “Việc ấy xin nhờ Điện hạ (Hoàng tôn Dương) xử trí, thế nào chúng tôi cũng
xin tuân theo”. Hoàng tôn Dương nói: “Các ông tuỳ tiện mà làm”. Khi sứ giả về, Nguyễn
Nhạc lại viết thư giảng hoà với Tống Phúc Hiệp; Phúc Hiệp tin là thật nên không chú ý
phòng bị nữa [31,203].
Nguyễn Nhạc nắm ngay sơ hở này, sai Nguyễn Huệ đem đại binh đánh úp Phú Yên.
Đây cũng là chiến thắng lớn đầu tiên của Nguyễn Huệ, bấy giờ mới 23 tuổi. Chiếm được Phú
Yên, Nguyễn Nhạc cử Lý Tài làm trấn thủ Phú Yên và báo tin cho Hoàng Ngũ Phúc biết và
xin phong chức cho Nguyễn Huệ. Ngũ Phúc bèn phong cho Nguyễn Huệ làm Tây Sơn hiệu
tiền phong tướng quân.
Bấy giờ quân Trịnh đang mắc bệnh dịch, binh sĩ chết đến quá nữa, Hoàng Ngũ Phúc
phải rút quân về Phú Xuân, dọc đường Ngũ Phúc bị bệnh chết. Quân Trịnh vừa rút thì ở
Quảng Nam, bọn Tôn Thất Quyền và Tôn Thất Xuân mộ lính đánh lại Tây Sơn. Được sự
giúp đỡ của một phú thương người Hoa tên là Tất, Quyền và Xuân chiếm lại được hai phủ
Thăng Hoa và Điện Bàn (Quảng Nam). Bấy giờ Quảng Nam đang bị nạn đói lớn, quân của
Quyền và Xuân bị thiếu lương lại không được dân ủng hộ, cuối cùng bị quân Tây Sơn đánh
tan. Nguyễn Nhạc giao Quảng Nam cho Nguyễn Văn Duệ đóng giữ rồi rút về Quy Nhơn,
tiếp tục tiến đánh quân chúa Nguyễn ở phía Nam.
Đầu năm 1776 Nguyễn Nhạc sai em là Nguyễn Lữ đem thuỷ binh vào đánh Gia Định,
chiếm được thành Gia Định và các dinh Trấn Biên, Phiên Trấn; chúa Nguyễn Phúc Thuần
phải chạy về Bà Rịa.

Một địa chủ ở Mỹ Tho là Đỗ Thành Nhơn tụ tập dân chúng chừng 3000 người, lập ra
quân Đông Sơn, nêu danh nghĩa phù Nguyễn, chọi lại Tây Sơn. Thấy quân cứu viện của chúa
Nguyễn từ các ngả kéo về Gia Định, Nguyễn Lữ ra lệnh tịch thu của cải, lương thực của họ
Nguyễn rồi rút về Tây Sơn. Quân chúa Nguyễn chiếm lại được Gia Định, nhưng phải bỏ mất
các phủ Diên Khánh, Bình Khang, Bình Thuận.
Tháng 3 năm 1776 Nguyễn Nhạc tự xưng Tây Sơn vương, xây lại thành Đồ Bàn (kinh
đô cũ của Champa) và phong cho Nguyễn Huệ làm phụ chính và Nguyễn Lữ làm thiếu phó.
Ngay sau đó Nguyễn Nhạc lại sai Nguyễn Huệ và Nguyễn Lữ đem quân vào đánh Gia
Định lần thứ hai. Quân Lý Tài bị đánh tan, chúa Phúc Dương chạy về Trà Tân (thuộc Định
Tường) rồi về Ba Vát (thuộc Vĩnh Long), còn chúa Nguyễn Phúc Thuần thì chạy về Long
Xuyên. Nguyễn Huệ đuổi theo bắt giết được cả Phúc Thuần lẫn Phúc Dương, chỉ còn
Nguyễn Ánh (cháu Phúc Thuần) chạy thoát.
Sau khi chiếm Gia Định, Nguyễn Huệ và Nguyễn Lữ cử các tướng ở lại trấn giữ, rồi
lại rút quân về Quy Nhơn. Nhưng cuối năm ấy Nguyễn Ánh được tầng lớp đại địa chủ ở Gia
Định ủng hộ, khởi binh ở Long Xuyên rồi kéo về đánh Sa Đéc, chiếm lại thành Gia Định.
Tháng 11 năm 1777 khi nghe tin đại quân Tây Sơn rút về Qui Nhơn, Nguyễn Ánh từ
Thổ Châu về Cà Mau khởi binh. Tháng 01 năm 1778 Nguyễn Ánh được các tướng suy tôn
làm Đại Nguyên súy Nhiếp quốc chính.
Khoảng một tháng sau thì quân Tây Sơn lại kéo vào, Nguyễn Ánh giao Sài Gòn cho
Đỗ Thanh Nhân trấn giữ, còn mình trực tiếp làm tướng trông coi mặt trận Bến Lức. Đỗ
Thanh Nhân giết được tư khấu Uy ở sông Bến Nghé. Thủy quân Tây Sơn thì bị Lê Văn
Duyệt phá, Lê Văn Quân đánh chiếm được Bình Thuận [32,30].
Lợi dụng những tháng còn lại của năm 1778 và hai năm 1779 và 1780 Tây Sơn ngừng
tấn công Gia Định, Nguyễn Ánh lo củng cố lực lượng: tích trữ lương thực, mua sắm chiến
thuyền, binh khí, ổn định tổ chức hành chính
Đầu năm 1780 thấy không còn gì trở ngại nữa, Nguyễn Ánh xưng vương, nhưng vẫn
theo niên hiệu nhà Lê, ấn “Đại Việt quốc Nguyễn Chúa chi bảo” đúc từ thời Quốc chúa
Nguyễn Phước Chu, nay chỉ dùng làm ấn truyền ngôi. Đất đai thuộc quyền quản lí của
Nguyễn Ánh lúc bấy giờ ngoài Gia Định còn cả khu vực Phú Yên, Bình Khang và Bình
Thuận. Trong thời gian này, một mặt lo ổn định tình hình kinh tế - xã hội chuẩn bị đương

đầu với Tây Sơn, mặt khác Nguyễn Ánh còn phải đối phó với một số vấn đề nội bộ và Chân
Lạp.
Nguyễn Ánh dự tính mùa hè năm 1781 đưa quân đánh úp Tây Sơn. Nhưng phát hiện
Đỗ Thanh Nhân âm mưu làm phản. Nguyễn Ánh cho người giết chết và chia quân Đông Sơn
của Nhân ra làm bốn đạo để trừ hậu họa.
Cũng từ đó quân Đông Sơn tan rã và binh lực của Nguyễn Ánh cũng suy yếu hẳn.
Nhân cơ hội đó Nguyễn Nhạc và Nguyễn Huệ tiến đánh Gia Định lần thứ ba năm
1782. Mấy trăm chiến thuyền Tây Sơn vào cửa Cần Giờ đánh tan quân Nguyễn Ánh ở ngã
bảy. Nguyễn Ánh phải chạy về Ba Giồng, thành Gia Định lại trở về với Tây Sơn.
Tháng 5 năm 1782 đại quân của Nguyễn Huệ truy đuổi Nguyễn Ánh, Nguyễn Ánh
phải thoát chạy ra đảo Phú Quốc. Yên tâm là lực lượng Nguyễn Ánh không còn gì, nên đại
quân Tây Sơn rút về Qui Nhơn giao Gia Định cho hàng tướng Đông Sơn là Đỗ Nhàn Trập và
Hộ Bộ Bá cai quản với 3000 quân [32,41-42].
Tháng 06 năm 1782 tàn quân Nguyễn Ánh quy tụ quân, đánh chiếm được Long Hồ
(thuộc tỉnh Vĩnh Long), rồi tiến về Bến Lức làm cho Nhàn Trập dao động, cùng Hộ Bộ Bá
phải chạy về Qui Nhơn.
Thế là Nguyễn Ánh lại làm chủ Gia Định một lần nữa nhưng lần này không lâu vì lực
lượng bị tiêu hao gần hết, tướng tá còn lại không mấy người, làm sao đương đầu nổi với Tây
Sơn – một thế lực đang đảm đương sứ mạng lịch sử.
Tình trạng của Nguyễn Ánh ngày một bi thảm, dù lấy được Gia Định nhưng không đủ
binh lực bảo vệ, tính kế lâu dài.
Trước mắt Nguyễn Ánh không tính đến việc chạy qua Chân Lạp, vì chiến tranh và đói
kém đã tàn phá xứ này. Phải tính tới chuyện chạy ra các hải đảo ở vịnh Xiêm La (Thái Lan)
và Bá Đa Lộc được ủy thác sửa soạn tàu bè, lương thực đề phòng lúc phải ra đi [44,113-
114].
Năm 1783 Nguyễn Huệ và Nguyễn Lữ lại đem quân vào đánh Gia Định lần thứ tư.
Quân Chu Văn Tiếp tan vỡ, Nguyễn Ánh lại chạy về Ba Giồng rồi ra đảo Côn Lôn. Phò mã
Tây Sơn là Trương Văn Đa đem thuỷ binh đuổi theo, Nguyễn Ánh lại chạy ra Phú Quốc.
Nguyễn Huệ cử Trương Văn Đa giữ Gia Định rồi lại mang quân về Quy Nhơn.
2.2. Nguyễn Ánh bôn tẩu và sang Xiêm cầu viện (1783 – 1787).

. Cầu viện lần thứ nhất (1783-1784):
Nguyễn Ánh cùng gia quyến và một ít tàn quân vượt sông Lật Giang (Bến Lức) chạy
về Mỹ Tho rồi ra Phú Quốc [31,48].
Thất bại liên tiếp làm cho một số tướng sĩ nản lòng, sanh tâm làm phản, nơi trú ẩn của
Nguyễn Ánh bại lộ. Thống suất Tây Sơn Phan Tấn Thuận mang quân tới vây đánh. Cầm
chắc cái chết trong tay, may nhờ Cai cơ Lê Phước Điền “đóng vai Lê Lai cứu Chúa”-
Nguyễn Ánh mới thoát và trốn về đảo Cổ Long [31,49].
Quyết tâm tiêu diệt quân Chúa Nguyễn, tháng 7 năm 1783 Nguyễn Huệ sai Trương
Văn Đa mang quân bao vây đảo Cổ Long không cho Nguyễn Ánh thoát. Trước tình thế đó,
bỗng có một trận giông bão nổi lên làm chiến thuyền của Tây Sơn tan vỡ. Nhờ đó Nguyễn
Ánh trốn thoát về đảo Cô Cốt, rồi trở về Phú Quốc trong tình trạng vô cùng thảm hại. Lương
thực không còn, đến nổi binh sĩ phải hái lá rừng, đào củ dại mà ăn [32,50].
Không tiêu diệt được Nguyễn Ánh, song Nguyễn Huệ và Nguyễn Lữ vẫn kéo quân về
Qui Nhơn và giao Gia Định cho Trương Văn Đa. Trương Văn Đa chia quân đóng khắp nơi
canh giữ, nhất là thủy quân luôn tuần tra ở các cửa sông, vùng ven biển.
Nguyễn Huệ rút đi, Nguyễn Ánh và quân tướng tiếp tục hoạt động trở lại, cho người
về Cà Mau chiêu mộ binh sĩ, kích động quân tướng cũ, lập đồn lũy chờ cơ hội hoạt động.
Cuối năm 1783 quân Nguyễn Ánh ở Gia Định bắt đầu hoạt động mạnh. Hồ Văn Lân
đánh Tân Châu, Cần Thơ nhưng Trương Văn Đa không để cho họ tồn tại lâu. Đến tháng 01
năm 1784 Nguyễn Ánh không còn chỗ dựa ở Gia Định, đành chạy sang Xiêm ẩn náo và nhờ
viện binh.
Từ lâu người Xiêm có tham vọng bành trướng sang Đông, nhân cơ hội này, họ mượn
cớ giúp Nguyễn Ánh đánh Tây Sơn và cướp phá Gia Định.
Tuy nhiên, giữa Tây Sơn và Nguyễn Ánh, Xiêm phải chọn bên nào có lợi cho mình và
chọn lựa này còn tùy thuộc vào tình hình Chân Lạp. Dĩ nhiên là họ chọn Nguyễn Ánh
[31,53], Vua Xiêm liền sai hai cháu là Chiêu Tăng và Chiêu Sương sang giúp nhưng bị Tây
Sơn đánh bại bằng trận Rạch Gầm-Xoài Mút.
Còn Nguyễn Ánh sau khi quân Xiêm thất bại, ông chạy sang Trấn Giang (Cần Thơ),
chuẩn bị trốn ra các đảo trong vịnh Xiêm La, rồi chạy ra Thổ Châu nhưng bị Tây Sơn truy
đuổi nên cuối cùng phải chạy sang đảo Cổ Cốt [45,27].

Đến tháng 03 năm 1785, Nguyễn Ánh sang Xiêm riếp tục cuộc đời lưu vong lần hai.
. Cầu viện lần thứ hai (1785-1787):
Trong khi giao hoàng tử Cảnh cho Bá Đa Lộc làm con tin sang Pháp cầu viện, tháng 4
năm 1785 Nguyễn Ánh đến Vọng Các và được vua Xiêm cho đóng ở Long Khâu thuộc khu
vực ngoại thành Vọng Các (về sau mang tên là làng Gia Long).
Ở đây Nguyễn Ánh một mặt thu thập, gom góp tàn quân từ trong nước kéo sang; mặt
khác Nguyễn Ánh chia quân đi làm ruộng để nuôi quân và trích trữ lương thực, chờ cơ hội

×