Tải bản đầy đủ (.pdf) (47 trang)

Tiểu luận: Tìm hiểu chính sách tỷ giá của Việt Nam từ 1997 2011. Liên hệ với chính sách tỷ giá của Thái Lan, Trung Quốc

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (521.21 KB, 47 trang )

1






Tiểu luận

Tìm hiểu chính sách tỷ giá của Việt Nam từ 1997 - 2011.
Liên hệ với chính sách tỷ giá của Thái Lan, Trung Quốc
2


CHƯƠNG 1
KHÁI QUÁT VỀ TỶ GIÁ HỐI ĐOÁI VÀ CHÍNH SÁCH TỶ GIÁ
1.1 Khái quát chung về tỷ giá hối đoái
1.1.1 Khái niệm tỷ giá hối đoái
- Khái niệm: Tỷ giá đo lường giá của một đơn vị tiền tệ của 1 quốc gia hay khu vực
bằng đơn vị tiền tệ của quốc gia hay khu vực khác, hay chúng ta có thể hiểu, nó là
mức giá tại đó mà đồng tiền của một quốc gia/khu vực có thể chuyển đổi sang
đồng tiền của quốc gia hay khu vực khác
- Phương pháp yết giá
Theo quy ước thống nhất, đồng tiền đứng trước gọi là đồng yết giá và đồng
đứng ở vị trí thứ 2 gọi là đồng định giá.
Đồng tiền yết giá là đồng tiền thể hiện giá trị của nó thông qua đồng tiền định
giá
Đồng tiền định giá là đồng tiền dùng để xác định giá trị của đồng tiền yết giá
VD: USD/VND=20.680. Ở đây USD là đồng tiền yết giá còn VND là đồng
tiền định giá.
Có 2 phương pháp yết giá: Yết giá trực tiếp và yết giá gián tiếp


+ Yết giá ngoại tệ trực tiếp:là phương pháp biểu thị một đơn vị ngoại tệ bằng
bao nhiêu đơn vị tiền tệ trong nước, theo phương pháp này khi nhìn vào ta có
thể biết ngay là giá của 1 đồng ngoại tệ đó bằng bao nhiêu đồng nội tệ. VD:
USD/VND=20.680
+ Yết giá gián tiếp: là phương pháp biểu thị một đơn vị tiền tệ trong nước bằng
bao nhiêu đơn vị tiền ngoại tệ.
1.1.2 Phân loại tỷ giá hối đoái:
Tỷ giá hối đoái có thể phân loại theo nhiều tiêu thức khác nhau: Theo nghiệp vụ
giao dịch, theo phương tiện chuyển ngoại hối, theo thị trường yết giá,theo thời
điểm mua bán ngoại tệ, theo hình thức giao nhận ngoại hối
3

- Nếu căn cứ vào nghiệp vụ giao dịch, tỷ giá được chia làm 2 loại
+ Tỷ giá mua là mức giá tại đó chủ thể yết giá sẵn sàng trả để mua vào 1 đơn
vị đồng yết giá
+ Tỷ giá bán: là mức giá tại đó chủ thể yết giá sàng đổi 1 đơn vị đồng tiền yết
giá để lấy đồng tiền định giá.
- Nếu căn cứ theo phương tiện chuyển ngoại hối, tỷ giá hối đoái được chia thành:
+Tỷ giá điện hối: là tỷ gía mua bán ngoại hối mà ngân hàng có trách nhiệm
chuyển ngoại hối bằng điện( telegraphic transfer -T/T)
+Tỷ giá thư hối: là tỷ giá mua bán ngoại hối mà ngân hàng có trách nhiệm
chuyển ngoại hối bằng thư ( mail transfen M/T)
- Căn cứ vào thị trường yết giá:
+Tỷ giá chính thức: là tỷ giá do cơ quan quản lý ngoại tệ công bố áp dụng cho một
thời kỳ nhất định
+Tỷ giá thị trường là tỷ giá hình thành trên cơ sơ cung cầu của thị trường
- Nếu căn cứ vào thời điểm mua bán ngoại tệ :
+ Tỷ giá đóng cửa: Thông thường ngân hàng không công bố tất cả tỷ giá của các
hợp đồng đã kí kết trong một ngày mà chỉ công bố tỷ giá của hợp đồng kí cuối cùng trong
ngày đó, người ta gọi là tỷ giá đóng cửa. Tỷ giá đóng cửa được coi là chỉ tiêu chủ yếu về

tình hình biến động của tỷ giá trong ngày đó.
+ Tỷ giá mở cửa: Là tỷ giá của chuyến giao dịch ngoại hối đầu tiên trong một
ngày.
- Nếu căn cứ vào phương thức giao nhận ngoại hối:
+ Tỷ giá giao nhận ngay: Tức là tỷ giá áp dụng khi bán ngoại hối thì được nhận
tiền ngay vào ngày hôm đó hay trong vòng hai ngày làm việc sau đó.
+ Tỷ giá giao nhận có kì hạn: Là tỷ giá áp dụng cho các hợp đồng mua bán
ngoại hối được ký kết hôm nay nhưng việc thực hiện giao dịch được diễn ra tại
một thời điểm xác định trong tương lai
4

1.1.3 Tác động của tỷ giá hối đoái tới nền kinh tế
- Tỷ giá tác động tới cán cân thương mại:
Tỷ giá ảnh hưởng đến mức giá tương đối giữa hàng hóa sản xuất trong nước và
hàng hóa trên thị trường quốc tế. Trong điều kiện mức giá bán hàng hóa là không
đổi, khi tỷ giá giảm ( đồng nội tệ tăng giá), hàng hóa nhập khẩu trở nên rẻ tương
đối và hàng hóa xuất khẩu trở nên đắt tương đối so với hàng hóa nước ngoài. Vì
vậy điều này dẫn đến việc hạn chế xuất khẩu và khuyến khích nhập khẩu dẫn đến
kết quả là xuất khẩu ròng giảm.
- Tỷ giá gây ảnh hưởng trực tiếp tới tỷ lệ lạm phát.
Tỷ giá thay đổi làm thay đổi mức giá cả tương đối giữa hàng hóa trong nước và
hàng hóa nước ngoài. Điều này tác động đến cầu trong nước và cầu nước ngoài
đối với hàng hóa. Cầu thay đổi tác động đến giá cả hàng hóa và ảnh hưởng đến
lạm phát
- Với sản lượng và việc làm:
Đối với các lĩnh vực sản xuất chủ yếu dựa trên nguồn lực trong nước thì khi TGHĐ
tăng, sự tăng giá hàng nhập khẩu sẽ giúp tăng khả năng cạnh tranh cho các lĩnh vực này
giúp phát triển sản xuất từ đó tạo thêm công ăn việc làm giảm thất nghiệp, sản lượng
quốc gia có thể tăng lên và ngược lại.
- Đối với đầu tư quốc tế:

- Đầu tư trực tiếp: TGHĐ tác động tới giá trị phần vốn mà nhà đầu tư nước ngoài
đầu tư hoặc góp vốn liên doanh. Vốn ngoại tệ hoặc tư liệu sản xuất được đưa vào nước sở
tại thường được chuyển đổi ra đồng nội tệ theo tỷ giá chính thức. Bên cạnh đó tỷ giá còn
có tác động tới chi phí sản xuất và hiệu quả các hoạt động đầu tư nước ngoài. Do đó sự
thay đổi TGHĐ có ảnh hưởng nhất định tới hành vi của các nhà đầu tư nước ngoài trong
việc quyết định có đầu tư vào nước sở tại hay không.
- Đầu tư gián tiếp: là loại hình đầu tư thông qua hoạt động tín dụng quốc tế cũng như
việc mua bán các loại chứng khoán có giá trên thị trường.



5

Trong một thế giới có sự luân chuyển vốn quốc tế tự do khi TGHĐ tăng tổng lợi tức
từ khoản vay bằng ngoại tệ lớn hơn lãi suất trong nước sẽ xảy ra hiện tượng luồng vốn
chảy ra nước ngoài và ngược lại TGHĐ giảm luồng vốn sẽ đổ vào trong nước.
Như vậy muốn tạo môi trường đầu tư ổn định nhằm phát triển kinh tế đòi hỏi các
quốc gia xây dựng và điều chỉnh một chính sách tỷ giá ổn định hợp lý giảm mức độ rủi ro
trong lĩnh vực đầu tư và thu hút vốn đầu tư nước ngoài.
- Với nợ nước ngoài:
Các khoản vay nợ nước ngoài thường được tính theo đơn vị tiền tệ nước đó hoặc
những đồng tiền mạnh nên khi TGHĐ tăng lên cũng đồng nghĩa với sự tăng lên
của gánh nặng nợ nước ngoài. Ngày nay khi sự luân chuyển vốn quốc tế ngày
càng tự do thì các nước đặc biệt các nước đang phát triển càng cần phải thận
trọng hơn trong chính sách tỷ giá để đảm bảo tăng trưởng và khả năng trả nợ
nước ngoài
1.2 Các nhân tố tác động đến tỷ giá hối đoái:
Có 5 nhân tố chính tác động đến sự thay đổi của tỷ giá hối đoái bao gồm:
+ Thay đổi Chênh lệch tương đối về lạm phát của 2 quốc gia: khi lạm phát tăng,
đòng nội tệ trở nên mất giá, mức giá cả của hàng nội địa sẽ trở nên đắt tương đối so

với hàng nhập khẩu, điều này khuyến khích nhập khẩu và hạn chế xuất khẩu, Cầu về
ngoại tệ tăng lên, cung ngoại tệ giảm xuống dẫ đến đồng ngoại tệ tăng giá, tức là tỷ
giá hối đoái tăng.
+ Thay đồi Chênh lệch về lãi suất: khi lãi suất của đồng nội tệ tăng so với lãi suất
của đồng ngoại tê, nhà đầu tư sẽ chuyển từ việc nắm giữ đồng ngoại tệ sang đầu tư
vào đồng nội tệ, cầu nội tệ tăng dẫn đến đồng nội tệ lên giá, tỷ giá hối đoái giảm.
+Thay đổi chênh lệch mức thu nhập: Trong trường hợp thu nhập của người dân
trong nước tăng, nhu cầu mua hàng hóa nước ngoài tăng, điều này dẫn đến tăng cầu
về ngoại tệ, kết quả là đồng ngoại tệ lên giá hay tỷ giá hối đoái tăng lên.
+ Thay đổi trong kiểm soát và can thiệp của chính phủ: Ví dụ như thuế quan và
hạn mức nhập khẩu là những công cụ mà chính phủ dùng để điều tiết và hạn chế nhập
khẩu. Khi chính phủ tăng thuế của hàng nhập khẩu, điều này làm tăng giá của hàng
6

nhập khẩu lên, cầu về hàng nhập khẩu giảm dẫn đến cầu ngoại tệ giảm, đồng ngoại tệ
giảm giá, tỷ giá hối đoái giảm.
+Thay đổi trong kỳ vọng về tỷ giá: Đứng trước thông tin tỷ giá hối đoái sẽ thay đổi
do chính phủ chuẩn bị thay đổi mức thuế quan với hàng nhập khẩu hoặc mức lạm
phát thay đổi thì nhu cầu nắm giữ đồng ngoại tệ cũng thay đổi dẫ tới sự thay đổi tỷ
giá.
1.3 Chính sách tỷ giá:
1.3.1 Khái niệm và mục tiêu của chính sách tỷ giá:
- Kn:Chính sách TGHĐ là một hệ thống các công cụ dùng để tác động tới cung cầu
ngoại tệ trên thị trường từ đó giúp điều chỉnh tỷ giá hối đoái nhằm đạt tới những
mục tiêu cần thiết.
- Mục tiêu của chính sách tỷ giá hối đoái
Cân bằng nội và cân bằng ngoại là hai nhóm mục tiêu cơ bản mà chính sách tỷ giá
cuối cùng phải hướng đến .Tuy nhiên trong giai đoạn nhất định nào đó , chính sách tỷ
giá cũng có thêm những mục tiêu cụ thể như : thường xuyên xác lập và duy trì mức tỷ
giá cân bằng , duy trì và bảo vệ giá trị đồng nội tệ, tiến tới thực hiện đầy đủ chức năng

của đồng tiền ( bao gồm việc thực hiện khả năng chuyển đổi của đồng tiền) ,gia tăng
dự trữ ngoại tệ
Bây giờ sẽ lần lượt xem xét hai mục tiêu : cân bằng nội và cân bằng ngoại.
Mục tiêu cân bằng nội : Là trạng thái ở đó các nguồn lực của một quốc gia được sử
dụng đầy đủ, thể hiện ở sự toàn dụng nhân công và mức giá cả ổn định. Mức giá biến
động bất ngờ có tác động xấu đến các khoản tín dụng và đầu tư. Chính phủ cần ngăn
chặn các đợt lên hay xuống phát triển đột ngột của tổng cầu để duy trì một mức giá cả
ổn định, có thể dự kiến trước được. Vì vậy, tỷ giá hối đoái được xem như là một công
cụ đắc lực, hỗ trợ hiệu quả cho Chính phủ trong việc điều chỉnh giá cả, đặc biệt là
trong nền kinh tế, xu thế hội nhập quốc tế như hiện nay.
Mục tiêu cân bằng ngoại : Khái niệm "cân bằng ngoại" khó xác định hơn nhiều so
với "cân bằng nội", nó chủ yếu là sự cân đối trong "tài khoản vãng lai". Trên thực tế
người ta không thể xác định được "tài khoản vãng lai" nên cân bằng, thâm hụt hay
7

thặng dư bao nhiêu chỉ có thể thống nhất rằng: không nên có một sự thâm hụt hay
thặng dư quá lớn mà thôi. Tuỳ thuộc vào điều kiện kinh tế, chính trị xã hội của một
quốc gia mà Chính phủ phải có cách để điều chỉnh tỷ giá hối đoái của họ cho phù
hợp, hiệu quả, chủ yếu tác động vào các hoạt động xuất nhập khẩu và đầu tư xuyên
quốc gia.
1.3.2 Nội dung của chính sách tỷ giá:
Chính sách tỷ giá gồm 2 nội dung cơ bản là lựa chọn chế độ tỷ giá và can thiệp,
điều chỉnh tỷ giá bằng các công cụ
1.3.2.1. Lựa chọn chế độ tỷ giá:
a) Khái niệm chế độ tỷ giá:
Chế độ tỷ giá là cách thức cơ quan quản lý tiền tệ của một quốc gia thực hiện để
điều tiết quản lý đồng tiền của quốc gia mình trong mối quan hệ với đồng tiền của
quốc gia khác cũng như với thị trường ngoại hối.
b) Phân loại chế độ tỷ giá
Theo cách phân loại của quỹ tiền tệ quốc tế IMF 4/ 2008, chế độ tỷ giá của các

quốc gia được phân chia thành 8 nhóm như sau:
Nhóm 1: Hệ thống tiền tệ không có đồng tiền pháp định riêng (Exchange
arrangement with no separate legal tender): Đây là chế độ tỷ giá của những
nước không sử dụng đồng tiền bản tệ riêng của quốc gia mình mà sử dụng đồng
tiền của quốc gia khác làm đồng tiền pháp định duy nhất. Số nước áp dụng chế độ
này năm 2008 là 10 nước chiếm 5.32% trong đó tiêu biểu là Equador, El Savaldor
Nhóm 2: Neo cứng theo một đồng tiền mạnh (currency board) Đây là chế độ
tỷ giá theo đó một quốc gia cam kết bằng luật việc cố định tỷ giá của đồng nội tệ
với một đồng ngoại tệ nào đó. Các nước sử dụng chế độ tỷ giá này năm 2008 là 13
nước chiếm 6.91% trong đó tiêu biểu là Hồng Kông, Brunei, Bulgaria
Nhóm 3: Neo cố định ( conventional fixed peg arrangements) với một đồng
tiền (single currency), với một rổ đồng tiền (composite): Theo chế độ này, đồng
tiền của một quốc gia được neo tỷ giá trung tâm với một hoặc một rổ tiền tệ. Tỷ
giá vẫn có thể giao động trong một biên độ hẹp +_ 1% ít nhất trong 3 tháng,
8

NHTW sẵn sàng can thiệp để duy trì tỷ giá này, NHTW có thể điều chỉnh tỷ giá
trung tâm nhưng không thường xuyên. Năm 2008 số nước áp dụng chế độ tỷ giá
này là 68 chiếm 36.17% trong đó tiêu biểu là Nga, Jordan, Quatar
Nhóm 4: Neo trong biên độ ( pegged exchange rate within horizontal bands):
Neo tỷ giá trung tâm với đồng tiền khác theo một tỷ lệ cố định, biên độ dao động
lớn hơn +_1%. Năm 2008 có 3 (1,6%)nước áp dụng chế độ này trong đó tiêu biểu
là Seria
Nhóm 5: Neo tỷ giá có điều chỉnh (crawling peg) tỷ giá trung tâm được điều
chỉnh thường xuyên với các bước nhỏ theo các chỉ số định lượng như lạm phát .
Số nước sử dụng năm 2008 là 8 (4,26%) trong đó tiêu biểu là Trung quốc, Iraq
Nhóm 6: Neo tỷ giá với biên độ điều chỉnh ( crawling band) : Cho phép biên độ
được thay đổi trên +-1%, đồng thời tỷ giá trung tâm được điều chỉnh thường
xuyên theo các chỉ số định lượng như lạm phát. Năm 2008 có 2 nước sử dụng chế
độ này chiếm 1.06% gồm Costa Rica và Azerbajan

Nhóm 7: Thả nổi có quản lý (Managed floating) Tỷ giá được xác định bởi thị
trường, nghĩa là không có tỷ giá chính thức được công bố, NHTW chủ động can
thiệp để làm mềm sự biến động của tỷ giá, chính phủ có một mức tỷ giá mục tiêu
ngầm đối với tỷ giá. Năm 2008 có 44 nước sử dụng (chiếm 23.4%) trong đó tiêu
biểu là Thái Lan, Singapore, Ấn độ, Lào, Malaysia, Philippines, Indonesia,
Cambodia
Nhóm 8: Thả nổi hoàn toàn ( Independently floating) tỷ giá được xác định
hoàn toàn bởi thị trường, NHTW can thiệp ít và không có mức tỷ giá mục tiêu.
Năm 2008 có 40 nước sử dụng chiếm 21.28% trong đó tiêu biểu là Anh, EU, Hàn
quốc, Mỹ, Nhật, Úc, New Zealand
1.3.2.2. Các công cụ của ngân hàng trung ương trong việc thực thi chính sách tỷ giá
a. Chính sách chiết khấu: là chính sách của NHTW dùng cách thay đổi lãi suất chiết
khấu của ngân hàng mình để điều chỉnh TGHĐ trên thị trường. Khi TGHĐ lên cao
đến mức nguy hiểm muốn cho tỷ giá hạ xuống thì NHTW nâng cao tỷ suất chiết khấu
lên, do đó lãi suất trên thị trường cũng nâng lên, kết quả là vốn ngắn hạn trên thị
9

trường thế giới sẽ chạy vào nước mình để thu lãi cao. Lượng vốn chạy vào sẽ góp
phần làm dịu sự căng thẳng của cầu ngoại hối, do đó, TGHĐ sẽ có xu hướng hạ
xuống.
Chính sách chiết khấu cũng chỉ có ảnh hưởng nhất định và có hạn đối với TGHĐ, bởi
vì giữa tỷ giá và lãi suất không có quan hệ nhân quả, lãi suất không phải là nhân tố
duy nhất quyết định sự vận động vốn giữa các nước.
Lãi suất biến động do tác động của quan hệ cung cầu của vốn cho vay. Lãi suất có thể
biến động trong phạm vi tỷ suất lợi nhuận bình quân và trong một tình hình đặc biệt
có thể vượt quá tỷ suất lợi nhuận bình quân. Còn TGHĐ thì do quan hệ cung cầu về
ngoại hối quyết định mà quan hệ này lại do tình hình của cán cân thanh toán dư thừa
hay thiếu hụt quyết định. Như vậy là nhân tố hình thành lãi suất và tỷ giá không
giống nhau, do đó mà biến động của lãi suất không nhất định đưa TGHĐ biến động
theo.

Lãi suất lên cao có thể thu hút vốn ngắn hạn của nước ngoài chạy vào, nhưng trong
tình hình chính trị, kinh tế và tiền tệ trong nước đó không ổn định thì không nhất thiết
thực hiện được, bởi vì đối với vốn nước ngoài, vấn đề lúc đó đặt ra là sự đảm bảo an
toàn cho số vốn chứ không phải là vấn đề thu được lãi nhiều.
Tuy nhiên, không nên hoàn toàn coi thường chính sách chiết khấu. Nếu tình hình tiền
tệ của các nước đều đại thể như nhau thì phương hướng đầu tư ngắn hạn vẫn hướng
vào những nước có lãi suất cao. Do đó, hiện nay, chính sách chiết khấu vẫn còn có ý
nghĩa của nó
b. Chính sách hối đoái hay còn gọi là Nghiệp vụ thị trường mở là biện pháp tác
động trực tiếp vào TGHĐ, có nghĩa là NHTW hay các cơ quan ngoại hối của Nhà
nước dùng nghiệp vụ mua bán trực tiếp ngoại hối để điều chỉnh TGHĐ.
Khi TGHĐ lên cao, NHTW tung ngoại hối ra bán để kéo TGHĐ tụt xuống. Muốn
thực hiện được biện pháp này, NHTW phải có dự trữ ngoại hối lớn. Song, nếu tình
hình thiếu hụt của cán cân thanh toán quốc tế của một nước kéo dài thì khó có thể có
nguồn dự trữ ngoại hối lớn để thực hiện chính sách này.
10

Chính sách chiết khấu và chính sách ngoại hối đều dẫn đến mâu thuẩn giữa tập đoàn
tư bản trong nước, giữa thương nhân xuất khẩu muốn nâng cao TGHĐ lên với
thương nhân nhập khẩu muốn hạ thấp TGHĐ xuống, giữa nhà xuất khẩu vốn muốn
hạ thấp TGHĐ với nhà nhập khẩu vốn muốn nâng cao TGHĐ và mâu thuẩn giữa các
nước tư bản chủ nghĩa với nhau, vì tỷ giá của một nước nâng lên thì hạn chế nhập
khẩu hàng của nước khác nhưng lại khuyến khích việc xuất khẩu vốn của nước khác,
do đó, làm cho cán cân thương mại và cán cân thanh toán của nước ngoài đó với
nước thực hiện hai chính sách này bị thiệt hại.
c. Quỹ dự trữ ngoại hối: đây là một hình thức biến trướng của chính sách hối đoái,
mục đích của nó nhằm tạo ra một cách chủ động một lượng dự trữ ngoại hối để ứng
phó với sự biến động của TGHĐ, thông qua chính sách hoạt động công khai trên thị
trường.
Về nguyên tắc thì NHTW các nước không chịu trách nhiệm điều tiết sự biến động

của tỷ giá thả nổi. Song, do khủng hoảng ngoại hối trầm trọng, tiền tệ của các nước
ngày một mất giá và tỷ giá biến động mãnh liệt đã ảnh hưởng đến sản xuất và lưu
thông hàng hoá, các nước đã thành lập các quỹ dự trữ ngoại hối để điều tiết tỷ giá
của đồng tiền nước mình.
Theo số liệu của Ngân hàng dự trữ liên bang New York, các nước tư bản chủ nghĩa
đã chi một khoản tiền khá lớn trích ra trong quỹ của mình khoảng 300 tỷ đô la từ đầu
năm 1973, trong đó chỉ riêng từ tháng 8-1977 đến tháng 2-1978 đã chi ra 60 tỷ đôla
để duy trì TGHĐ của họ. Riêng tháng 3-1978, quỹ của Ngân hàng dự trữ liên bang
và khoản tín dụng “SWAP” đã đạt tới 22,6 tỷ đôla để phục vụ mục đích này.
Kinh nghiệm đã chỉ ra rằng, tác dụng của quỹ bình ổn hối đoái rất có hạn, vì một khi
đã bị khủng hoảng kinh tế và khủng hoảng ngoại hối, lượng dự trữ theo quỹ đó cũng
giảm đi và không đủ sức điều tiết tỷ giá. Quỹ này chỉ có tác dụng khi hùng hoảng
ngoại hối ít nghiêm trọng và có nguồn tín dụng quốc tế hỗ trợ, ví dụ như tín dụng
“SWAP”.
d. Phá giá tiền tệ.
11

Trong những điều kiện của cuộc đấu tranh về kinh tế, chính trị của các nước vì thị
trường ngoài nước, cũng như trong những điều kiện mức độ lạm phát rất khác nhau ở
các nước đã phát sinh, vấn đề cần thiết phải xem xét lại tỷ giá tiền tệ của nước này
hoặc của nước khác.
Trong tình trạng nghiêm trọng của khủng hoảng ngoại hối, khi mà sức mua của tiền
tệ giảm sút mạnh và không thể đại biểu cho sức mua danh nghĩa của nó, khi mà trong
suốt thời gian dài TGHĐ biến động mạnh thì vấn đề xác định lại TGHĐ là điều
không thể tránh khỏi, song các nhà nước không thừa nhận điều đó, họ phá giá tiền tệ
lúc nào, mức độ ra sao là phụ thuộc vào mục đích kinh tế và chính trị của họ. Phá giá
tiền tệ đã trở thành một chính sách kinh tế, tài chính của nhà nước để tác động đến
TGHĐ và cán cân thanh toán quốc tế.
Phá giá tiền tệ là sự tụt sức mua của tiền tệ nước mình so với ngoại tệ thấp hơn
sức mua thực tế của nó.

Ví dụ: Tháng 12-1971, đôla phá giá 7,89%, tức là giá của một bảng Anh tăng từ 2,4
USD lên 2,605 USD hay là sức mua của USD giảm từ 0,416 GBP còn 0,383GBP.
Tác dụng của phá giá tiền tệ đối với nước tiến hành phá giá có thể là:
- Khuyến khích xuất khẩu hàng hoá, hạn chế nhập khẩu hàng hoá, do đó có tác dụng
khôi phục lại sự cân bằng của cán cân ngoại thương, nhờ vậy góp phần cán cân thanh
toán quốc tế.
- Khuyến khích nhập khẩu vốn, kiều hối và hạn chế xuất khẩu vốn ra bên ngoài cũng
như chuyển tiền ra ngoài nước, do đó có tác dụng làm tăng khả năng cung ngoại hối,
giảm nhu cầu về ngoại hối, nhờ đó TGHĐ sẽ giảm xuống.
- Khuyến khích du lịch vào trong nước, hạn chế du lịch ra nước ngoài, vì vậy quan
hệ cung và cầu ngoại hối bớt căng thẳng.
- Cướp không một phần giá trị thực tế của những ai nắm đồng tiền bị phá giá trong
tay.
- Tác dụng chủ yếu của biện pháp phá giá tiền tệ là nhằm cải thiện tình hình của cán
cân thương mại.
12

Ví dụ: Do kết quả của phá giá bảng Anh 14,3% tháng 11-1967 nên trong năm 1986-
1969 sự thiếu hụt của cán cân thanh thương mại của nước Anh đã giảm đi rõ rệt và
trong hai năm 1970 và 1971 cán cân thương mại của Anh đã dư thừa 12 triệu bảng
Anh và 285 triệu bảng Anh.
Tuy vậy, tác dụng cải thiện cán cân thương mại có trở thành hiện thực hay không còn
phụ thuộc vào khả năng đẩy mạnh xuất khẩu của nước tiến hành phá giá tiền tệ và
năng lực cạnh tranh của hàng hoá xuất khẩu của nước đó.
e. Nâng giá tiền tệ: là việc nâng sức mua của tiền tệ nước mình so với ngoại tệ,
cao hơn sức mua thực tế của nó.
Đây là chính sách nhằm nâng giá chính thức đơn vị tiền tệ nước mình so với ngoại
tệ, tức là làm cho tỷ giá của ngoại hối so với tiền tệ nâng giá bị sụt xuống, tức là hạ
thấp tỷ giá hối đoái xuống.
Ảnh hưởng của nâng giá tiền tệ đối với ngoại thương của một nước hoàn toàn ngược

lại với phá giá tiền tệ. Ngày nay, việc nâng giá tiền tệ thường do các nguyên nhân
sau:
- Do áp lực các nước khác muốn tăng khả năng cạnh tranh của hàng hoá của họ vào
quốc gia có cán cân thương mại và cán cân thanh toán quốc tế dư thừa.
- Tránh những đồng tiền mất giá “chạy trốn” vào nước mình.
- Những nước có nền kinh tế phát triển quá “nóng” muốn làm “lạnh” nền kinh tế để
tránh khủng hoảng về cơ cấu thì sẽ nâng giá về tiền tệ để giảm xuất khẩu hàng hoá,
giảm đầu tư vào trong nước mình.
- Phục vụ cho việc chuyển vốn đầu tư ra bên ngoài xây dựng một nền kinh tế của
mình “trong lòng” các nước khác nhằm giữ vững thị trường bên ngoài, vấn đề sống
còn của nền kinh tế mỗi quốc gia.
Nâng giá tiền tệ trong những điều kiện hiện nay thường xảy ra dưới áp lực của nước
khác mà các nước này mong muốn tăng khả năng cạnh tranh hàng hoá của mình vào
nước có cán cân thanh toán và cán cân thương mại dư thừa.
13

Những nước có nền kinh tế phát triển quá “nóng” như Nhật Bản, muốn làm “lạnh”
nền kinh tế để tránh khủng hoảng cơ cấu thì sẽ dùng biện pháp nâng giá tiền tệ để
giảm xuất khẩu hàng hoá, giảm đầu tư vào trong nước.
Việc nâng giá đồng Yên Nhật Bản cũng tạo điều kiện để Nhật Bản chuyển vốn đầu
tư ra bên ngoài nhằm xây dựng một nước Nhật “kinh tế” trong lòng các nước khác,
nhờ vào đó mà Nhật giữ vững được thị trường bên ngoài, một vấn đề sống còn đối
với Nhật Bản.























14

CHƯƠNG II
THỰC TRẠNG CHÍNH SÁCH TỶ GIÁ CỦA VIỆT NAM
GIAI ĐOẠN 1997 -2011
2.1. Chính sách tỷ giá của Việt Nam giai đoạn 1997 – 1999
2.1.1. Bối cảnh kinh tế, chính trị
Đây là giai đoạn cuộc khủng hoảng tài chính - tiền tệ diễn ra ở khu vực Đông Nam Á,
điểm xuất phát là Thái Lan, sau đó lan nhanh khắp khu vực và có tầm ảnh hưởng rộng
khắp trên phạm vi thế giới, Việt Nam tuy không nằm trong tâm bão nhưng cũng không
tránh khỏi những ảnh hưởng của cuộc khủng hoảng. Xét trên góc độ vĩ mô, nền kinh tế
Việt Nam phải đối đầu với những cơn sốc rộng khắp trong các lĩnh vực như tài chính –
ngân hàng; ngoại thương; đầu tư; chính sách tài khoá; tăng trưởng kinh tế, dự trữ ngoại tệ
và nợ nước ngoài. Mặt khác, những hạn chế của chính sách tỷ giá hối đoái cố định thời
kỳ từ năm 1993-1997 đã trở nên trầm trọng khi cuộc khủng hoảng xảy ra và đặt chúng ta

trước những vấn đề nan giải cấp bách trong việc lựa chọn, điều chỉnh chính sách tỷ giá
hối đoái. Cuộc khủng hoảng đã làm cho một loạt đồng tiền của các nước trong khu vực
như: đồng Won (Hàn Quốc), đồng Baht (Thái Lan), đồng Rupiah ( Indonesia), đồng
Ringgit (Malaysia) giảm giá mạnh so với đồng USD. Hai quốc gia chịu nhiều thiệt hại
nhất từ cuộc khủng hoảng, Inđonêsia và Thái Lan đã buộc phải tuyên bố thả nổi tỷ giá
sau một thơi gian phát triển thần kỳ với chế độ tỷ giá cố định. Sau một thời gian lên giá
nhẹ, năm 1997 VND bắt đầu giảm giá so với USD, tuy nhiên so với 3 đồng tiền trên thì
mức độ giảm giá thấp hơn và không có biến động đột ngột
Điều này vô hình trung làm cho VND bị định giá cao hơn thực tế so với các đồng tiền
của các nước trong khu vực. , trong bối cảnh các nước trong khu vực là bạn hàng chủ yếu
và quan trọng của Việt Nam, đã làm cho xuất khẩu của Việt Nam giảm sút nhanh chóng.
Vì vậy, mục tiêu của chính sách tiền tệ giai đoạn này là thắt chặt tiền tệ, ổn định giá
trị đồng tiền, tăng dự trữ ngoại hối, ổn định lãi suất, kiểm soát tỷ giá để khuyến khích
xuất khẩu, hạn chế nhập khẩu.
2.1.2. Chính sách tỷ giá và tác động
Bảng diễn biến tỷ giá chính thức và tỷ giá thị trường từ năm 1998 – 2010




Đơn vị tính: đồng
15

Năm
Tỷ giá chính
thức
(USD/VND)
Tỷ giá thị
trường
(USD/VND)

T
ỷ lệ so sánh
giữa tỷ giá chính
thức và tự do
(%)
1997

11175

13780

81.10

1998

12980

13903

93.36

1999

14000

14650

95.56

2000


14515

14960

97.03

2001

15024

15320

98.07

2002

15350

1539
0

99.74

2003

15603

15670


99.57

2004

15739

15790

99.69

2005

15875

15925

99.69

2006

16091

16070

100.13

2007

16114


16040

100.46

2008

16977

17500

97.01

2009

17941

19530

91.86

11/2/2010

18544

19100

97.09

17/8/2010


18932

19500

97.08

31/12/2010

18932

20
800

91.02

Nguồn: Ngân hàng Nhà Nước
[38]

Sau khủng hoảng tài chính tiền tệ khu vực năm 1997, Việt Nam đã lựa chọn cơ chế tỷ
giá thả nổi có điều tiết. Chúng ta đã từ bỏ cơ chế tỷ giá cố định, theo đó, tỷ giá thị trường
16

được giao dịch quanh tỷ giá chính thức do Ngân hàng nhà nước (NHNN) công bố và một
biên độ được ấn định sẵn
- Trong 3 năm 1997 – 1999, tỷ giá chính thức USD/VND được điều chỉnh tăng từ
11175 đến 12980 và năm 1999 tăng đến 14000 với những thay đổi trong biên độ giao
động: tháng 10 năm 1997, NHNN đã quyết định mở rộng biên độ giao dịch giữa tỷ giá
chính thức và tỷ giá giao dịch tại các thị trường liên ngân hàng từ (+) (-) 5% lên (+) (-
)10% rồi lại giảm xuống (+) (-)7%. Nới rộng biên độ giao dịch đã làm cho tỷ giá thị
trường tăng mạnh. Mặc dù tỷ giá tăng, nhưng giá cả trên thị trường không có những biến

động đáng kể.
Việc điều chỉnh tỷ giá của NHNN trên đã có tác động tích cực đối với xuất khẩu và
hạn chế nhập khẩu của Việt Nam, giảm nhập siêu trong các năm 1997-1999, cán cân tài
khoản vãng lai và cán cân thanh toán cũng giảm dần thâm hụt, mặc dù đầu tư nước ngoài
suy giảm mạnh trong các năm này. Nhưng điều chỉnh tỷ giá như trên cũng có những tác
động tiêu cực đến nền kinh tế, bởi vì khi VND giảm giá đã làm tăng thêm gánh nặng nợ
nước ngoài của cả chính phủ và các doanh nghiệp có vốn vay nước ngoài, giảm đầu tư
trực tiếp nước ngoài.

Biều đồ: Tình hình kinh tế Việt Nam giai đoạn 1995 - 1999



- Năm 1999, Việt Nam trải qua hai quý đầu giảm phát, chính vì vậy chính sách tiền
tệ đã được nới lỏng. Trần lãi suất cho vay được thiết lập và sau đó được điều chỉnh theo
17

sát những thay đổi của tỷ giá. NHNN Việt Nam đã quyết định hạ thấp giá đồng nội tệ một
cách từ từ nhằm đẩy mạnh xuất khẩu trong bối cảnh khủng hoảng khu vực. Từ tháng
2/1999, chính sách tỷ giá đã có sự thay đổi lớn khi được chuyển từ cơ chế quản lý hành
chính sang hệ thống tỷ giá theo định hướng thị trường. Thay vì áp đặt tỷ giá chính thức
với biên độ dao động, NHNN Việt Nam bắt đầu công bố tỷ giá bình quân liên ngân hàng
làm tham chiếu cho thị trường với biên độ dao động (+) (-) 0,1%. Việc can thiệp của Nhà
nước đối với tỷ giá được thực hiện chủ yếu thông qua hoạt động mua bán ngoại tệ của
NHNN trên thị trường ngoại hối, xoá bỏ phương thức quản lý mang nặng tính chất hành
chính chủ quan trước đây. Từ đó cho đến nay, tỷ giá hối đoái đã được hình thành theo cơ
chế thị trường, bám sát sự biến động của thị trường thế giới, phản ánh tương đối sát quan
hệ kinh tế quốc tế giữa đồng nội tệ và ngoại tệ, nên đã cải thiện cơ bản cán cân thương
mại và cán cân thanh toán quốc tế của Việt Nam.
Như vậy trong thời gian này, chế độ tỷ giá của Việt Nam là sự pha trộn giữa TGHĐ

cố định và TGHĐ với biên độ điều chỉnh

2.2. Chính sách tỷ giá của Việt Nam giai đoạn 2000 -2005
2.2.1. Bối cảnh kinh tế, chính trị
Trong giai đoạn này VN là một nền kinh tế chuyển đổi và đang phát triển. Kể từ khi
bắt đầu Đổi Mới, Việt Nam duy trì được tốc độ tăng trưởng trung bình khoảng 7% một
năm. Với tốc độ tăng trưởng này Việt Nam được lấy làm một trong những “điển hình”
cho các quốc gia đang phát triển khác.
Đây là thời kỳ hậu khủng hoảng Đông Á. Ở những năm đầu của giai đoạn, nền kinh
tế vẫn còn chịu những ảnh hưởng nhất định từ hệ quả của cuộc khủng hoảng, các nguồn
lực từ bên ngoài giảm, kinh tế thiểu phát, tốc độ tăng trưởng kinh tế chỉ đạt dưới mức
trung bình của 10 năm trước đó (dưới 7%).
Từ năm 2003, với việc cải thiện môi trường đầu tư, phát triển các định chế thị trường
tài chính và đặc biệt là chủ trương đẩy mạnh cổ phần hóa và nới lỏng tỷ lệ nắm giữ cổ
phần của các nhà đầu tư nước ngoài trong các doanh nghiệp nhà nước được cổ phần hóa
(từ 30% lên 49%), luồng vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài đã trở lại và tăng trưởng mạnh
mẽ.
2.2.2. Chính sách tỷ giá giai đoạn 2000-2005
Quyết định số 64/1999/QĐ/NHNN và quyết định số 65/1999/QQĐ/NHNN ban
hành cơ chế điều hành tỷ giá bình quân trên thị trường ngoại tệ liên ngân hàng, với
nguyên tắc cơ bản là tỷ giá được xác định theo cung cầu thị trường, có sự điều tiết của
nhà nước. Trong đó tỷ giá bình quân liên ngân hàng của ngày hôm trước được áp dụng để
các ngân hàng thương mại (NHTM) làm cơ sở xác định tỷ giá giao dịch trong ngày hôm
sau. NHNN quy định biên độ giao dịch cho phép trong từng thời kỳ và NHNN trực tiếp
18

can thiệp lên tỷ giá ngoại tệ liên ngân hàng để tác động lên tỷ giá bình quân liên ngân
hàng hàng ngày. Xét về măt lý thuyết đây là bước cải cách có bước ngoặt rất lớn vì nó
chuyển từ cơ chế tỷ giá xác định một cách chủ quan theo ý chí của NHNN sang một cơ
chế tỷ giá xác định khách quan hơn trên cơ sở cung cầu thị trường , đó là cơ chế thả nổi

có điều tiết. Theo cơ chế này, tỷ giá trên thị trường sẽ vận động khách quan, phản ánh
đúng hơn các quan hệ về cung cầu về ngoại tệ trên các thị trường, đồng thời cũng phù
hợp với cơ chế điều hành tỷ giá của nhiều nước trên thế giới.
Cùng với các quyết định đó, với mục tiêu ổn định tỷ giá, kiểm soát lạm phát, NHNN
cũng đưa ra biên độ dao động rất hẹp cho tỷ giá giao dịch của các NHTM là 0.1%, sau đó
nâng lên là 0.25% vào ngày 1/7/2002. Có thể nói rằng các quyết định trên của NHNN là
một cuộc cải cách thực sự về cơ chế vận hành tỷ giá phù hợp với điều kiện và tình hình
Việt Nam. Mức chênh lệch tỷ giá giữa thị trường chính thức và thị trường tự do theo đó
được thu hẹp dần. Tuy nhiên, biên độ dao động quá hẹp dẫn đến kết quả khả năng để tỷ
giá biến động là không đáng kể, kết quả là tỷ giá niêm yết tại các NHTM luôn chịu áp lực
tăng giá.


Biểu đồ: Tỷ giá chính thức và tỷ giá của thị trường tự do tử 1999 – 2002



Từ ngày 26/2/1999, Chính phủ công bố tỷ giá giao dịch bình quân của thị trường
ngoại tệ liên ngân hàng là tỷ giá chính thức của NHNN và quy định biên độ xác định tỷ
giá kinh doanh của các ngân hàng thương mại không được vượt quá +/- 0,1% so với tỷ
19

giá chính thức. Đến 1/7/2002, theo QĐ 679, tỷ lệ này được điều chỉnh lên +/- 0,25% so
với tỷ giá chính thức. So với năm trước, năm 2002: tỷ giá tăng +1,92%. Quyết định này
đã là một cuộc cải cách thực sự về cơ chế vận hành tỷ giá.
Mức chênh lệch tỷ giá giữa thị trường chính thức và thị trường tự do được thu hẹp.
So với năm trước, năm 2003: tăng +1,52%, năm 2004: tăng +0,84%, năm 2005: tăng
+0,84%, năm 2006 tăng +1,36%:. Cùng với những đổi mới trong chính sách quản lý
ngoại hối, lượng ngoại tệ tập trung vào ngân hàng ngày một gia tăng, các ngân hàng
thương mại luôn đáp ứng đủ nhu cầu hợp lý của các doanh nghiệp, tình hình căng thẳng

ngoại tệ được giải quyết.
Để thấy rõ hơn về điều hành tỷ giá trong giai đoạn này, đề tài so sánh tỷ giá liên ngân
hàng với tỷ giá niêm yết của Vietcombank và tỷ giá trên thị trường tự do. Biểu đồ 2.3 và
2.4 cho thấy các ngân hàng luôn đứng trước sức ép về tỷ giá rất lớn, thể hiện ngân hàng
gần như luôn niêm yết đụng trần biên độ cho phép.

Biểu đồ 2.3: Biến động tỷ giá VND/USD từ 2003 – 2006

s

Sẽ là bình thường nếu niêm yết đụng trần mà tỷ giá trên thị trường tự do vẫn ở mức
tương đương. Điều này thể hiện cầu vẫn được đáp ứng bởi nguồn cung trên thị trường
Tuy nhiên, một lần nữa, thị trường cho thấy VND luôn trong sức ép giảm giá với USD
khi giá trên thị trường tự do luôn cao hơn tỷ giá niêm yết tại VCB, đặc biệt là trước quí 4
20

năm 2000. Từ sau quí 4 năm 2000, diễn biễn tỷ giá tại 3 thị trường luôn ở mức tương
đồng.
Tuy nhiên, so với giai đoạn trước, cơ chế xác định tỷ giá mới đã góp phần tập trung
lượng ngoại tệ vào ngân hàng, nhờ đó giúp các NHTM đáp ứng nhu cầu hợp lý của các
doanh nghiệp, tình hình căng thẳng ngoại tệ được giải quyết. Đồng thời tỷ giá trong giai
đoạn này là khá ổn định xoay quanh mức 16000.
2.2.3. Tác động của chính sách tỷ giá
* Cán cân vãng lai.
Tình trạng của cán cân vãng lai (CCVL) trong giai đoạn này là thặng dư (2000-
2001). Tình trạng thặng dư của CCVL đi theo chiều hướng giảm dần với tốc độ giảm rất
nhanh, trung bình 78%/năm. Sang năm 2002, CCVL đột ngột chuyển sang tình trạng
thâm hụt rồi đạt đỉnh điểm của thâm hụt trong giai đoạn này vào năm 2003 (thâm hụt
1.931 triệu USD).
Đi sâu vào tình trạng từng khoản mục trong CCVL, có thể thấy, thành phần quyết

định CCVL thặng dư hay thâm hụt đó chính là tình trạng của cán cân thương mại
(CCTM). Các cán cân bộ phận khác trong CCVL, mặc dù không có tính chất quyết định
nhưng cũng ảnh hưởng tới cán cân dịch vụ và cán cân thu nhâp.

Biểu đồ: Cán cân vãng lai của Việt Nam giai đoạn 1999-2006



* Tác động của tỷ giá đến CCTM.
21

Trong 2 năm đầu của giai đoạn, từ 2000 đến 2001, CCTM có thặng dư, tuy nhiên, độ
thặng dư ngày càng giảm dần, điều này cũng có nghĩa là tốc độ tăng trưởng của xuất khẩu
và tốc độ tăng trưởng của nhập khẩu có sự chênh lệch nghiêng mạnh về phía NK. Năm
1999 cũng là năm đầu tiên nền kinh tế có được thặng dư thương mại sau 4 năm liên tục
rơi tình trạng thâm hụt. Có được kết quả trên nguyên nhân là do tháng 10/1997, Ngân
hàng Nhà nước (NHNN) đã quyết định mở rộng biên độ giao dịch giữa tỷ giá chính thức
và tỷ giá giao dịch tại các thị trường liên ngân hàng từ (+/-) 5% lên (+/-)10%, làm cho tỷ
giá thị trường tăng mạnh, khuyến khích xuất khẩu và hạn chế nhập khẩu. Bên cạnh đó giá
cả trên thị trường biến động không đáng kể cũng là một nhân tố góp phần cải thiện cán
cân thương mại. Đồng thời cũng không thể phủ nhận kết quả tích cực của việc cải tiến
chính sách và cơ chế điều hành xuất nhập khẩu như: quyền kinh doanh xuất nhập khẩu
được mở rộng, các thủ tục đơn giản, thuận tiện cho mọi doanh nghiệp chủ động tham gia,
đồng thời nhiều biện pháp như thưởng xuất khẩu, xuất khẩu hàng đổi hàng….
CCTM bắt đầu rơi vào tình trạng thâm hụt, và duy trì tình trạng này cho các năm về
sau với mức độ thâm hụt ngày càng nghiêm trọng. Năm 2006 là năm đỉnh điểm của nhập
siêu trong giai đoạn này với mức nhập siêu là 2775.6 triệu USD góp phần đưa tốc độ tăng
trưởng thâm hụt trung bình trong giai đoạn lên 38%/năm.
*Tác động của tỷ giá đến các cán cân khác
Trong giai đoạn này cán cân dịch vụ và cán cân thu nhập luôn trong tình trạng thâm

hụt, ngược lại cán cân chuyển giao vãng lai một chiều luôn thặng dư.
- Cán cân vốn
Cán cân vốn của Việt Nam trong giai đoạn này bao gồm 3 bộ phận là Đầu tư trực tiếp
(FDI), đầu tư gián tiếp (FII) và đầu tư khác (OI). Cán cân vốn trong giai đoạn này đóng
vai trò tài trợ cho thâm hụt cán cân vãng lai, tuy nhiên, tình trạng thặng dư của cán cân
vốn lại không ổn định mà rất biến động dưới tác động từ các bộ phận của nó.
Đầu tư trực tiếp (FDI): như mọi nước đang phát triển khác, FDI chiếm tỷ trọng lớn
khá lớn và mang tính ổn định trong cán cân vốn với qui mô trung bình mỗi năm là 1,480
triệu USD và tốc độ tăng trung bình trong giai đoạn là 6%/năm.
Biểu đồ : Vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài vào Việt Nam từ 2000 – 2006
22


Đầu tư gián tiếp (FPI) chỉ được ghi nhận lần đầu tiên trên cán cân thanh toán của
Việt Nam vào quí 4 năm 2005 khi thị trường chứng khoán Việt Nam bùng nổ thu hút sự
quan tâm của các nhà đầu tư nước ngoài (115 triệu USD) và khi chính phủ Việt Nam phát
hành 750 triệu USD trên thị trường chứng khoán New York. Do chỉ mới phát sinh nên
chưa thể đánh giá mức biến động của dòng vốn này, tuy nhiên, kinh nghiệm từ các quốc
gia khác cho thấy, chiếm tỷ trọng lớn trong FPI thường là đầu tư vào thị trường chứng
khoán, do vậy, đây là dòng vốn rất nhạy cảm với tình hình kinh tế của quốc gia nói chung
và sự biến động của tỷ giá nói riêng.
Biểu đồ: Biến động vốn đầu tư gián tiếp nước ngoài (FPI) vào Việt Nam 2001 – 2009


Đơn vị: Triệu USD
Nguồn: Tổng hợp từ Bộ Tài chính, Ngân hàng Nhà nước
23

Phần còn lại của của cán cân vốn, OI, bao gồm các khoản tín dụng ngắn và dài hạn.
Có thể thấy được rằng, với đa phần của khoản mục thuộc về tiền gửi ngân hàng, và tín

dụng ngắn hạn, rõ ràng đây là dòng vốn rất biến động. Trong giai đoạn này OI biến động
liên tục: OI thâm hụt ở 3 năm đầu của giai đoạn và thặng dư ở 4 năm còn lại, đặc biệt,
vào năm thâm hụt lớn (năm 2000, thâm hụt 1614 triệu USD), OI kéo theo sự thâm hụt
của cán cân vốn.
* Quản lý ngọai hối.
Từ tháng 2/1999, cùng với sự thay đổi trong điều hành tỷ giá, chính sách quản lý
ngoại hối cũng ngày càng được nới lỏng. Trước hết là với các doanh nghiệp có nguồn thu
ngoại tệ. Nhằm giúp các doanh nghiệp linh hoạt và chủ động trong hoạt động kinh doanh
chính phủ đã liên tục điều chỉnh tỷ lệ kết hối đối với các tổ chức kinh tế có nguồn thu
ngoại tệ theo hướng giảm dần; cụ thể, theo quyết định 80/1999/QĐ-TTg (30/8/1999), tỷ
lệ kết hối là 50%; theo quyết định 61/2001/QĐ-TTg về nghĩa vụ bán ngoại tệ và quyền
mua ngoại tệ của người cư trú là tổ chức và quyết định số 1076/2001/QĐ-NHNN ngày
27/8/2001, tỷ lệ kết hối giảm còn 40%; quyết định 61/2002/QĐ-TTg ngày 15/5/2002. Các
doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài được đối xử bình đẳng với các doanh nghiệp
trong nước trong các giao dịch ngoại hối.
Một dấu ấn quan trọng trong giai đoạn này là việc công bố Pháp lệnh Ngoại hối (năm
2005), Việt Nam đã tuyên bố tự do hóa giao dịch vãng lai. Đây cũng là một trong các
điều kiện tiên quyết giúp Việt Nam hội nhập sâu rộng trong lãnh vực tài chính tiền tệ.

2.3. Chính sách tỷ giá của Việt Nam giai đoạn 2006 – 2011
2.3.1. Bối cảnh kinh tế, chính trị giai đoạn 2006 – 2011
Mở đầu của giai đoạn này là tiếp nối sự bùng nổ của thị trường chứng khoán
Việt Nam từ năm 2005. Ngoài việc trở thành kênh huy động vốn cho nền kinh tế, sự
bùng nổ của thị trường chứng khoán đã thu hút một lượng lớn vốn đầu tư gián tiếp
nước ngoài. Kết quả là lượng ngoại tệ vào Việt Nam tăng mạnh, giá USD giảm làm
cho nhập khẩu tăng và xuất khẩu giảm. NHNN cũng đã tung VNĐ để mua USD với
mục đích tăng dự trữ ngoại hối, điều này đã làm cho lạm phát của Việt Nam tăng
nhanh chóng, và đến năm 2008 đạt mức cao nhất trong vòng 20 năm trở lại đây ( trên
20%).
Ngày 20/12/2006, Quy chế thương mại bình thường vĩnh viễn (PNTR -

Permanent Normal Trade Relations) Việt Nam – Hoa Kỳ chính thức được thiết lập
và ngày 11/01/2007, Việt Nam chính thức trở thành thành viên thứ 150 của WTO là
những thay đổi hứa hẹn về một nền kinh tế thị trường bước đầu hội nhập.
24

Gia nhập WTO mang tới những cơ hội và thách thức mới cho Việt Nam khi hội nhập
kinh tế quốc tế: thị trường xuất khẩu mở rộng, các rào cản thương mại Việt Nam với
các nước thành viên WTO được dỡ bỏ hoặc hạn chế, tạo điều kiện thu hút đầu tư
nước ngoài…. Trong năm 2007, lượng vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài tăng vọt, đạt
20,3 tỷ USD (năm 2006 là 12 tỷ USD), vốn đầu tư gián tiếp khoảng 5,3 tỷ USD, vốn
ODA cam kết tài trợ 5,4 tỷ USD, và kiều hối cũng xấp xỉ 8 tỷ USD.
Cuối năm 2007, nền kinh tế thế giới bắt đầu bước vào giai đoạn suy khoái kéo
dài mà nguyên nhân bắt nguồn từ 2 cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu ( bắt đầu từ
Mỹ) và khủng hoảng nợ công châu Âu ( bắt đầu tư Hy Lạp 2010)

2.3.2.Diễn biến chính sách tỷ giá
Chế độ tỷ giá trong giai đoạn này vẫn là neo với biên độ điều chỉnh. Cụ thể là từ
cuối 2006, công cụ biên độ dao động bắt đầu được điều chỉnh với tần suất cao hơn và
với chiều hướng gia tăng cho đến đầu năm 2009. Sau đó, từ tháng 11/2009, biên độ
dao động bắt đầu giảm xuống ± 3%, rồi ±1% vào năm 2011. Ngày 11/2/2011, lần đầu
tiên Ngân hàng Nhà nước điều chỉnh mức tăng tỷ giá USD/VND bình quân liên ngân
hàng lên 9,3%. Đây là mức điều chỉnh mạnh nhất trong lịch sử qua một lần điều
chỉnh, gần với cả mức tăng của cả một năm trong những năm gần đây. Bước đi đột
phá này nhằm kéo giá USD trên thị trường liên ngân hàng và thị trường tự do sát lại
gần nhau.
Số quyết định Ngày hiệu lực Tỷ giá BQLNH
BĐDĐ
được phép
65/1999/QĐ-NHNN 25/02/1999 ±0,10%
679/2002/QĐ-NHNN 01/07/2002 ±0,25%

2554/QĐ-NHNN 02/01/2007 16 101 ±0,55%
3039/QĐ-NHNN 25/12/2007 16 113 ±0,75%
504/QĐ-NHNN 10/03/2008 16 025 ±1%
1436/QĐ-NHNN 27/06/2008 16 451 ±2%
2635/QĐ-NHNN 07/11/2008 16 511 ±3%
25

672/QĐ-NHNN 24/03/2009 16 980 ±5%
2666/QĐ-NHNN 26/11/2009 17 961 ±3%
Thông tư 03/2010/TT-
NHNN
11/02/2010 17 941 lên 18 544 ±3%
19/08/2010 18 544 lên 18 932 ±3%
Thông tư 11/2011 –
NNNN
11/02/2011 18.932 lên 20.693 ±1%

Ngoài ra, khá nhiều các công cụ khác, bao gồm cả trực tiếp và gián tiếp, được
NHNN Việt Nam áp dụng trong thời gian này nhằm đối phó với tình hình lạm phát
tăng cao, không ổn định, như tỷ lệ dự trữ bắt buộc bằng ngoại tệ; giảm giá đồng nội
tệ; lãi suất huy động tối đa đối với ngoại tệ; hạn mức cho vay với ngoại tệ; kết hối
ngoại tệ đối với các công ty lớn….
Trong năm 2009, khi nguồn cung ngoại tệ trong nền kinh tế không đáp ứng nhu cầu
ngoại tệ thậm chí với nhu cầu nhập khẩu những mặt hàng chiến lược, ngày
23/12/2009 chính phủ đã ban hành văn bản 2578/TTg-KTTH buộc 7 tập đoàn là tập
đoàn dầu khí VN, tập đoàn công nghiệp than – khoáng sản VN, tổng công ty (TCT)
lương thực miền Nam, TCT lương thực miền Bắc, TCT lắp máy VN, TCT cảng hàng
không miền nam, TCT hóa chất - bán ngoại tệ. Theo số liệu thống kê từ NHNN cho
biết, đến cuối ngày 30/11/2009, tổng tiền gửi ngoại tệ của các tổ chức doanh nghiệp là
10,3 tỉ USD, trong đó tiền gửi có kì hạn của 7 tập đoàn này là 1,2 tỉ USD và tiền gửi

không kì hạn khoảng 700 triệu USD. Cần lưu ý là quỹ dự trữ ngoại hối của VN năm
2009 khoảng 14 tỉ USD. Việc buộc kết hối đã ko làm hài lòng các tập đoàn, tuy nhiên,
vì các tập đoàn đã được hưởng nhiều ưu đãi từ chính sách hỗ trợ lãi suất 4% trong gói
kích cầu số 1 của chính phủ nên đây là nghĩa vụ của họ trong việc cân đối ngoại tệ,
bình ổn tỉ giá trong nền kinh tế. Thật vậy, ngay khi ý tưởng buộc các tập đoàn kết hối,
tình trạng găm giữ chờ ngoại tệ lên giá của các tổ chức trong nền kinh tế giảm đáng
kể. theo vụ quản lí ngoại hối, từ 11 đến 17/11/2009 trước khi chính phủ ban hành văn
bản 2578 doanh số giao dịch liên ngân hàng đạt mức 2,03 tỉ USD tương đương 406
triệu USD/ ngày, tăng trung bình 580 triệu USD so với tuần trước đó. Việc làm này đã
góp phần hạn chế căng thẳng ngoại tệ và kiềm chế sự biến động của tỉ giá.

×