Tải bản đầy đủ (.doc) (23 trang)

Chính sách tiền tệ chống lạm phát ở Việt Nam trong giai đoạn hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (239.46 KB, 23 trang )

Giáo viên hướng dẫn: GV Nguyễn Quốc Anh
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
Khoa Tài Chính Doanh Nghiệp

Đề tài
CHÍNH SÁCH TIỀN TỆ CHỐNG LẠM
PHÁT Ở VIỆT NAM TRONG GIAI
ĐOẠN HIỆN NAY
GIẢNG VIÊN HƯỚNG DẪN: ThS Nguyễn Quốc Anh
SINH VIÊN THỰC HIỆN: Trần Thò Mỹ Phượng
LỚP : TCDN04 – K31
Thành phố Hồ Chí Minh năm 2008
- 1 -
Giáo viên hướng dẫn: GV Nguyễn Quốc Anh
- 2 -
Giáo viên hướng dẫn: GV Nguyễn Quốc Anh
Nhận xét và chấm điểm của thầy:








- 3 -
Giáo viên hướng dẫn: GV Nguyễn Quốc Anh
Mục lục trang
Lời mở đầu 4
I - Giải pháp cơ sở để chống lạm phát 4
II - Để chống lạm phát, mới đây, Ngân hàng Nhà nước tung ra 4


động thái: 5
1/Tăng tỷ lệ dự trữ bẳt buộc thêm 1%: 3
Mục đích của tăng tỷ lệ tiền gửi dự trữ bắt buộc: 6
2/Ban hành Quyết định 03: 7
ảnh hưởng quyết định 03 lên thị trường chứng khoán: 9
3/Tăng lãi suất tái cấp vốn, lãi suất chiết khấu: 10
A - Tăng lãi xuất cấp vốn: 10
a.Tình hình lãi xuất ở cách ngân hàng thương mại trong thời gian gần
đây: 10
b.Đâu là nguyên nhân tăng lãi xuất: 10
c.Dự báo những tác động của việc lãi suất tiền đồng tăng cao: 13
B - Tăng lãi suất chiết khấu: 15
a. Tác động của lãi xuất chiết khấu lên hệ thống ngân hàng
thương mại: 15
b.Tác động đến thị trường chứng khoán: 16
c.Tác động đến đầu tư: 16
4/ "Hút" 20.300 tỷ đồng từ tín phiếu bắt buộc: 18
Vậy chính sách thắt chặt tiền tệ có làm giảm lạm phát ko? 20
Tài liệu tham khảo: 22
- 4 -
Giáo viên hướng dẫn: GV Nguyễn Quốc Anh
Lời mở đầu:
Có thể hình dung "con đường lạm phát" những năm qua như sau:
Một hiện tượng kinh tế đặc thù trong những năm gần đây của Việt Nam là
sự tăng trưởng mạnh của các dòng tiền từ nước ngoài (bên cạnh những dòng
tiền truyền thống như dòng vốn đầu tư trực tiếp và tiền của Việt kiều, còn có
tiền gửi về của người Việt lao động ở nước ngoài và vốn đầu tư gián tiếp).
Để giữ đồng tiền Việt ổn định (nhằm giữ lợi thế cho xuất khẩu), cơ quan
tiền tệ Việt Nam đã phải mua vào ngoại tệ với lượng ngày càng lớn. Do đó,
hằng năm một lượng lớn tiền đã được đẩy vào lưu thông. Lượng tiền này có

thể lên tới 15% GDP hoặc hơn.
Một chính sách nên được tiến hành đồng bộ với chính sách trên là thắt chặt
hợp lý tăng trưởng tiền tệ và tín dụng. Nhưng trong thời gian vừa qua, nó đã
không được thực hiện. Kết quả là lạm phát đã trở thành một hiện tượng kinh
niên.
I - Giải pháp cơ sở để chống lạm phát:
1. Lạm phát hiện nay ở nước ta nên được xem xét nghiêm túc và thẳng
thắng là có căn nguyên từ chính sách tiền tệ. Trên cơ sở đó, các chính sách
chống lạm phát nên mang tính tiền tệ. Điều ấy đồng nghĩa với việc nên hạn chế
sử dụng chính sách tài khóa (như giảm thuế một số mặt hàng được quan sát
thấy là tăng nhanh nhất), hay chính sách hành chính (đốc thúc doanh nghiệp,
kêu gọi sự hỗ trợ của người dân). Chúng tôi cho rằng các biện pháp tài khoá và
hành chính đều mang tính thoả hiệp, tạm thời và có khuynh hướng che đậy bản
chất thực sự của lạm phát. Đi kèm với nó là chi phí cao, hiệu quả thấp.
2. Các biện pháp tiền tệ mang tính gốc rễ là giảm tốc độ tăng tiền và tín
dụng. Các biện pháp như tăng dự trữ bắt buộc hay phát hành trái phiếu chỉ nên
coi là tức thời và cục bộ mà thôi. Ví dụ, chính sách tăng dự trữ bắt buộc khiến
khối ngân hàng gánh nhiều chi phí hơn các khu vực khác trong công cuộc
chống lạm phát. Ngược lại, việc cắt giảm tín dụng và cung tiền trên toàn nền
kinh tế, áp dụng cho toàn bộ các thành phần kinh tế, sẽ san sẻ chi phí chống
lạm phát một cách bình đẳng hơn.
3. Bên cạnh cam kết chống lạm phát đã được thể hiện rõ ràng của chính
phủ, cần công khai các biện pháp cụ thể để thể hiện cam kết là đáng tin cậy,
đồng thời ràng buộc chính phủ vào cam kết đó. Điều này sẽ giúp người dân
hình thành kỳ vọng về mức lạm phát thấp trong tương lai (nếu họ biết và tin
các chính sách là đúng đắn và cứng rắn), dẫn đến khả năng thành công dễ dàng
hơn của chính sách chống lạm phát. (Một chính sách chỉ có hiệu lực khi người
ta tin là nó có hiệu lực).
4. Không nên duy trì quan điểm cho rằng lạm phát thấp hơn mức tăng
trưởng GDP là tốt, mà có lẽ chỉ nên coi đây như một kinh nghiệm để phấn đấu

- 5 -
Giáo viên hướng dẫn: GV Nguyễn Quốc Anh
khi lạm phát đã thành một sự đã rồi. Hiện nay chưa tìm thấy căn cứ khoa học
cho luận điểm nêu trên, do đó, chúng ta không nên tự ràng buộc mục tiêu lạm
phát vào một giới hạn khá dễ dãi (khoảng 8%), để rồi lại bị cuốn vào nỗi lo con
rồng sẽ giật đứt dây xích.
II - Để chống lạm phát, mới đây, Ngân hàng Nhà nước tung ra 4
động thái:
• Tăng tỷ lệ dự trữ bắt buộc thêm 1%
• Ban hành Quyết định 03
• Tăng lãi suất tái cấp vốn, lãi suất chiết khấu
• "Hút" 20.300 tỷ đồng từ tín phiếu bắt buộc.
1/Tăng tỷ lệ dự trữ bẳt buộc thêm 1%:
Ngày 16/1/2008, Thống đốc NHNN đã ban hành Quyết định số
187/2008/QĐ-NHNN ngày 16/01/2008 về việc điều chỉnh dự trữ bắt buộc đối
với tổ chức tín dụng.
Theo đó, Ngân hàng Nhà nước yêu cầu mở rộng diện các loại tiền gửi phải
dự trữ bắt buộc bao gồm các loại tiền gửi không kỳ hạn và có kỳ hạn so với
quy đinh hiện nay là áp dụng dự trữ bắt buộc đối với tiền gửi không kỳ hạn và
có kỳ hạn từ 24 tháng trở xuống.
Điều chỉnh tăng tỷ lệ dự trữ bắt buộc 1% đối với các loại tiền gửi so với tỷ
lệ quy định hiện nay. Cụ thể là: đối với tiền VND không kỳ hạn và có kỳ hạn
dưới 12 tháng, tỷ lệ dự trữ bắt buộc được tăng từ 10% lên 11%, đối với tiền gửi
có kỳ hạn từ 12 tháng trở lên, tỷ lệ dự trữ bắt buộc được tăng từ 4% lên 5%;
đối với tiền gửi bằng ngoại tệ không kỳ hạn và có kỳ hạn dưới 12 tháng tăng từ
10% lên 11%, đối với tiền gửi có kỳ hạn trên 12 tháng tỷ lệ dự trữ bắt
buộc tăng từ 4% lên 5%.
Theo đó, bắt đầu từ kỳ thực hiện dự trữ bắt buộc tháng 7/2004, tỷ lệ dự trữ
bắt buộc đối với tiền gửi Đồng Việt Nam của các ngân hàng thương mại Nhà
nước, ngân hàng thương mại cổ phần đô thị, ngân hàng liên doanh, chi nhánh

ngân hàng nước ngoài, Công ty tài chính tăng từ 2% lên 5%; riêng Ngân hàng
Nông nghiệp và Phát triển nông thôn Việt Nam tăng từ 1,5% lên 4% trên tổng
số tiền gửi phải dự trữ bắt buộc của loại không kỳ hạn và có kỳ hạn dưới 12
tháng; tăng từ 1% lên 2% đối với tiền gửi từ 12 tháng đến 24 tháng. Tỷ lệ dự
trữ bắt buộc đối với ngân hàng thương mại cổ phần nông thôn, Quỹ tín dụng
Trung ương, Ngân hàng hợp tác tăng từ 1% lên 2%. Tỷ lệ dự trữ bắt buộc áp
dụng đối với tiền gửi ngoại tệ không kỳ hạn và có kỳ hạn dưới 12 tháng từ 4%
tăng lên 8%, từ 12 tháng đến 24 tháng tăng từ 1% lên 2%.
Tuy nhiên, Ngân hàng Nhà nước không điều chỉnh tăng tỷ lệ dự trữ bắt
buộc đối với các tổ chức tín dụng hoạt động trên địa bàn nông nghiệp nông
thôn.
- 6 -
Giáo viên hướng dẫn: GV Nguyễn Quốc Anh
Việc thay đổi cơ chế và tỷ lệ dự trữ bắt buộc chưa áp dụng ngay trong tháng
1/2008 mà có hiệu lực thi hành kể từ tháng 2/2008, để tạo điều kiện cho các tổ
chức tín dụng chuẩn bị vốn để dự trữ bắt buộc.
Mục đích của tăng tỷ lệ tiền gửi dự trữ bắt buộc:
Mục đích của tăng tỷ lệ tiền gửi dự trữ bắt buộc lần này là nhằm hạn chế hệ
số nhân tiền, kiềm chế mức độ tăng trưởng tín dụng đối với nền kinh tế của
ngân hàng thương mại. Bởi vì kế hoạch tăng trưởng tín dụng trong các năm
được đề ra là không quá 25%, mà tính quy luật tín dụng thường tăng trưởng
cao trong các tháng cuối năm do nhu cầu vốn sản xuất kinh doanh các tháng
cuối năm.
Mục đích điều chỉnh tăng tỷ lệ dự trữ bắt buộc lần này nhằm đạt được yêu
cầu nói trên, nhằm rút bớt khối lượng trong lưu thông về Ngân hàng Nhà nước,
với mức độ thu rút về gấp 2 lần so với mức trước đó. Riêng đối với tiền gửi
ngoại tệ tỷ lệ dự trữ bắt buộc tăng cao, còn nhằm không khuyến khích các ngân
hàng thương mại tăng lãi suất và không khuyến khích tăng cường huy động
vốn ngoại tệ, hạn chế tình trạng đô la hoá tài sản nợ trong hệ thống ngân hàng.
Đi kèm với giải pháp trên, để kiềm chế tốc độ tăng trưởng tín dụng theo

mục tiêu đề ra từ đầu năm, các ngân hàng thương mại Nhà nước, chiếm tới trên
75% thị phần cho vay toàn ngành ngân hàng, bắt đầu từ tháng 7/2004, thực
hiện Sổ tay tín dụng theo thông lệ quốc tế. Theo đó các khoản cho vay ra sẽ
được kiểm soát chặt chẽ hơn và bảo đảm đúng các nguyên tắc tín dụng.
Một biện pháp quan trọng khác do tác động từ việc tăng tỷ lệ dự trữ bắt
buộc cũng như do nhận thức chủ động của các ngân hàng thương mại, đó là sẽ
hạn chế cho vay các dự án có tiềm ẩn rủi ro, kiên quyết không cho vay vốn các
dự án có số vốn đầu tư lớn mà xét thấy không có hiệu quả, như: dự án nhà máy
giấy Thanh Hoá có số vốn lên tới trên 1.700 tỷ đồng, dự án phân DAP ở Hải
Phòng, dự án nhà máy bột giấy ở Kon Tum Tuy nhiên các ngân hàng thương
mại vẫn mở rộng cho vay các doanh nghiệp vừa và nhỏ, cho vay kinh tế trang
trại, đánh bắt và nuôi trồng, chế biến thuỷ hải sản, kinh tế hộ nông dân Đây
là đối tượng khách hàng và lĩnh vực đang được hệ thống ngân hàng đánh giá là
hoạt động có hiệu quả, có khả năng hoàn trả vốn vay đúng hạn, tạo được số
đông việc làm mới cho người lao động.
Tăng tỷ lệ dự trữ bắt buộc về nguyên lý sẽ làm tăng chi phí đầu vào trong
hoạt động tín dụng của ngân hàng thương mại. Do đó để hoạt động bình
thường trong điều kiện tỷ lệ dự trữ bắt buộc tăng như trên thì hoặc là ngân
hàng thương mại phải tăng lãi suất cho vay tương ứng từ 1% đến 4% so với
mức lãi suất trước đó, hay tăng thêm 0,2% - 0,4%/năm so với mức lãi suất hiện
hành. Khi lãi suất cho vay vốn bị tăng lên thì khách hàng, nhất là các doanh
nghiệp sẽ phải cân nhắc đến nhu cầu vay. Hoặc là nếu không tăng thêm lãi suất
cho vay thì đương nhiên tỷ lệ lợi nhuận của các ngân hàng thương mại sẽ bị
giảm xuống.
- 7 -
Giáo viên hướng dẫn: GV Nguyễn Quốc Anh
Nhưng đợt tăng tỷ lệ dự trữ bắt buộc lần này của Ngân hàng Nhà nước đi
liền với việc trả lãi cho số tiền gửi dự trữ bắt buộc phù hợp với thông lệ quốc
tế, thay cho việc không trả lãi như trước đây. Như vậy các ngân hàng thương
mại cũng được lợi. Ngược lại, Ngân hàng Nhà nước sẽ không trả lãi cho số tiền

gửi vượt mức dự trữ bắt buộc tại Ngân hàng Nhà nước, thay cho việc trước đây
số tiền này vẫn được trả lãi. Như vậy các ngân hàng thương mại sẽ buộc phải
tính toán đến việc tối ưu hoá nguồn vốn khả dụng của mình. Điều đó cũng có
nghĩa là, việc Ngân hàng Nhà nước quyết định tăng cao tỷ lệ dự trữ bắt buộc
lần này không có tác động làm tăng lãi suất cho vay, khi mà mức lãi suất này
hiện nay bình quân đã lên tới 11%/năm, cao nhất tới 14%/năm, được đánh giá
là quá cao so với các nước trong khu vực.
Trong khi đó Ngân hàng Nhà nước vẫn cam kết không tăng các loại lãi
suất của mình, tức là vẫn giữ mức lãi suất cơ bản là 7,5%/năm, lãi suất tái cấp
vốn là 5%/năm, lãi suất chiết khấu 3,0%/năm, nhằm ổn định mức lãi suất trên
thị trường. Còn lãi suất thị trường mở và lãi suất đấu thầu tín phiếu Kho bạc
Nhà nước thì tuỳ theo quan hệ cung cầu về vốn của các Tổ chức tín dụng.
Tuy nhiên quyết định tăng tỷ lệ dự trữ bắt buộc, tác động đến việc hạn chế
tín dụng, cũng như các biện pháp khác của các ngân hàng thương mại kiềm chế
tín dụng, nhất định sẽ có ảnh hưởng đến tốc độ tăng trưởng kinh tế. Trong điều
kiện hiện nay chỉ số tăng giá lên cao được đánh giá là bản chất không phải do
thừa tiền trong lưu thông, mà do chi phí đẩy, do cầu kéo một số mặt hàng, do
các yếu tố biến động giá cả trên thị trường thế giới. Thiết nghĩ cần được tính
toán sát sao hơn trong việc đưa ra các biện pháp điều hành vĩ mô mà có thể ảnh
hưởng không những đến tăng trưởng, mà còn là công ăn việc làm và thu nhập
của người lao động.
Tiền khan hiếm, tổng phương tiện thanh toán bị rút bớt, việc làm không
tăng, thu nhập bị ảnh hưởng, từ đó nó ảnh hưởng ngay đến sức mua trên thị
trường xã hội và đương nhiên là tác động ngược lại chính sự phát triển sản xuất
kinh doanh khi hàng hoá và dịch vụ tiêu thụ chậm. Với những tác động đó dễ
dàng nhận thấy được xu hướng diễn biến của chỉ số giá cả. Có thể đến lúc đó
mục tiêu tăng trưởng nền kinh tế mới lại được ưu tiên, thì lại cần phải có thời
gian mới đạt được.
Phản ứng đầu tiên từ các ngân hàng thương mại cho thấy, ngay sau khi
nhận được thông tin về Quyết định điều chỉnh dự trữ bắt buộc, các NHTM Nhà

nước cho biết sẽ tiết kiệm chi phí quản lý và không tăng lãi suất cho vay. Đồng
thời đề nghị, Ngân hàng Nhà nước theo dõi sát các diễn biến của thị trường
tiền tệ để áp dụng kịp thời các giải pháp điều hành chính sách tiền tệ thích hợp
nhằm ổn định thị trường tiền tệ.
2/Ban hành Quyết định 03:
Ngày 1/2, Thống đốc Ngân hàng Nhà nước chính thức ban hành Quyết định
03 thay thế Chỉ thị 03 về cho vay đầu tư chứng khoán.
- 8 -
Giáo viên hướng dẫn: GV Nguyễn Quốc Anh
Đúng vào ngày thị trường chứng khoán đóng cửa, Thống đốc Nguyễn Văn
Giàu đã ký ban hành Quyết định 03 thay cho Chỉ thị 03 về việc cho vay, chiết
khấu giấy tờ có giá để đầu tư và kinh doanh chứng khoán.
Ngoài tầm của sự kiện được chờ đợi trong suốt thời gian qua, thời điểm ban
hành cũng đáng chú ý: một bước đệm nghỉ Tết sẽ giảm bớt áp lực tác động
cũng như những phản ứng từ dư luận.
Không có gì mới ngoài những thông tin mà Ngân hàng Nhà nước đã đưa ra
trước đó:
Thứ nhất, quy định các điều kiện đối với các tổ chức tín dụng cho vay đầu
tư chứng khoán nhằm yêu cầu tuân thủ pháp luật về tín dụng và bảo đảm an
toàn trong hoạt động cho vay, như phải ban hành quy trình nghiệp vụ cho vay
loại này làm cơ sở cho việc thanh tra, giám sát hoạt động cho vay; đảm bảo các
tỷ lệ an toàn theo quy định; có tỷ lệ nợ xấu dưới 5%; thực hiện hạch toán,
thống kê chính xác, báo cáo đúng thời hạn các khoản cho vay để phục vụ cho
quản trị kinh doanh nội bộ và giám sát của Ngân hàng Nhà nước.
Thứ hai, hệ số rủi ro của các khoản cho vay đầu tư chứng khoán để tính hệ
số an toàn vốn tối thiểu là 250% (trước đây là 150%); theo đó, các tổ chức tín
dụng sẽ phải xem xét, quyết định cho vay một cách thận trọng.
Thứ ba, tổng dư nợ cho vay loại này không vượt quá 20% vốn điều lệ. Biện
pháp kiểm soát tín dụng này gắn quy mô, rủi ro cho vay đầu tư chứng khoán
với quy mô vốn điều lệ của tổ chức tín dụng, đồng thời tránh được tình trạng

tăng tổng dư nợ tín dụng nếu quy định giới hạn tỷ lệ % trên tổng dư nợ như
trước đây.
Với quy định này, cho vay đầu tư chứng khoán không quá mở rộng cho
vay, nhiều ngân hàng có dư nợ cho vay ở mức thấp so với vốn điều lệ vẫn có
thể tiếp tục cho vay.
Thứ tư, khi cơ chế cho vay mới có hiệu lực thi hành, nếu các tổ chức tín
dụng đáp ứng được các quy định nêu trên thì tiếp tục cho vay. Các tổ chức tín
dụng chưa đáp ứng được các quy định đó thì không được phép cho vay; khi
đáp ứng được các quy định này thì mới được tiếp tục trong giới hạn cho phép.
Như vậy, sau 7 tháng có hiệu lực và có ảnh hưởng sâu rộng đến thị trường
chứng khoán và hoạt động của nhiều ngân hàng thương mại, Chỉ thị 03 chính
thức kết thúc sứ mệnh.
Theo Ngân hàng Nhà nước, nếu kéo dài biện pháp khống chế tỷ lệ dư nợ
cho vay đầu tư chứng khoản ở 3% tổng dư nợ theo Chỉ thị 03 sẽ tạo nên yếu tố
tâm lý không thuận lợi đối với thị trường và hoạt động kinh doanh của các tổ
chức tín dụng. Đây là lý do để cơ quan này ban hành Quyết định 03 với một
phương thức mới.
Hiện tại, về phương thức cho vay mới theo quy mô vốn điều lệ, có những
nhận định trái chiều, có sự ủng hộ và cả thất vọng. Và có thể Quyết định 03 sẽ
tiếp tục là đề tài tốn giấy mực như Chỉ thị 03 trước đó.
- 9 -
Giáo viên hướng dẫn: GV Nguyễn Quốc Anh
Tuy nhiên, thực tế cho thấy, ngay cả khi theo phương án cũ hay mới, các
ngân hàng vẫn có khả năng cung ứng một lượng tín dụng lớn. Ngay khi theo
Chỉ thị 03, cả hệ thống cũng chỉ dùng chưa hết một nửa (1,37%), tương ứng
với 11.400 tỷ đồng.
Còn với Quyết định 03, Ngân hàng Nhà nước cho rằng đây là một trong
những giải pháp góp phần đảm bảo an toàn tín dụng và làm cho thị trường
chứng khoán phát triển ổn định, lành mạnh.
Với cơ chế mới, dư nợ cho vay đầu tư chứng khoán tiếp tục được kiểm soát

chặt chẽ, khả năng dư nợ tăng lên không lớn so với cuối năm 2007.
ảnh hưởng quyết định 03 lên thị trường chứng khoán:
Về tác động ngược lại mong muốn đối với thị trường chứng khoán là rõ
nhất của việc thực hiện chính sách tiền tệ thắt chặt hiện nay. Từ sau Tết
Nguyên đán Mậu Tý đến nay, thị trường chứng khoán Việt Nam có 10 phiên
giao dịch thì có tới 9 phiên “đỏ sàn”.
Sự tác động nói trên là đúng quy luật bởi nguyên lý chung là giữa thị
trường chứng khoán và thị trường tiền tệ có mối liên hệ mật thiết với nhau. Khi
thị trường tiền tệ nóng lên, lãi suất tăng cao thì thị trường chứng khoán đi
xuống.
Về tác động đến thị trường bất động sản, thì đang tương đối nhìn thấy rõ
nhất. Hiện nay các giao dịch bất động sản đã chậm lại, giá cả không tăng. Tuy
nhiên nhiều lo ngại là do tác động thắt chặt tiền tệ “quá liều” gây đóng băng thị
trường này, hay sụt giảm quá mức như thị trường chứng khoán bị tác động của
Chỉ thị 03 như trong năm 2007. Bởi vì các nhu cầu vay vốn bất động sản hiện
nay hầu như bị dừng hẳn, kể cả người vay là các doanh nghiệp chủ dự án, kể cả
khách hàng cá nhân. Tình trạng dừng cho vay cả khách hàng cá nhân có nhu
cầu đích thực về nhà ở chứ không phải là đầu cơ.
TP.HCM hơn 300 doanh nghiệp địa ốc đang lên tiếng “kêu cứu”. Họ cho
rằng ngân hàng ngưng cho vay bất động sản thì chỉ có “nước chết”. Hàng loạt
cán bộ, nhân viên, người nghèo,… mua nhà trả góp,… nay bị ngân hàng ngưng
không cho vay, không có tiền trả cho dự án và trả nợ ngân hàng; các doanh
nghiệp không có tiền triển khai dự án do ngân hàng không cho vay, hàng loạt
dự án bất động sản bị đình trệ. Hậu quả tiếp theo là nợ quá hạn gia tăng.
Hệ thống ngân hàng được ví như mạch máu trong một cơ thể. Dòng vốn
trong nền kinh tế chu chuyển liên tục phản ánh qua hệ thống ngân hàng. Giữa
thị trường tiền tệ, thị trường chứng khoán và thị trường bất động sản,… có sự
liên thông và liên hệ mật thiết với nhau. Thị trường bất động sản bị ngưng trệ,
thị trường chứng khoán sụt giảm kéo dài, vốn cho sản xuất kinh doanh phải
chịu chi phí lãi suất quá cao và không hiệu quả,…nợ quá hạn ngân hàng gia

tăng, các ngân hàng thương mại sẽ đi về đâu, là điều dễ tiên lượng.
Quyết định 03/2008/QĐ-NHNN thay thế cho chỉ thị 03 về hạn chế cho vay
cầm cố chứng khoán khi mới ban hành, nhà đầu tư chứng khoán lầm tưởng là
biện pháp nới rộng cho vay chứng khoán nhằm giải cứu thị trường, nhưng thực
- 10 -
Giáo viên hướng dẫn: GV Nguyễn Quốc Anh
chất đây lại là quyết định siết chặt cho vay chứng khoán. Quyết định này ra đời
trong bối cảnh nhiều tổ chức lên tiếng kêu gọi giải cứu thị trường, cũng đã
chứng tỏ ngân hàng Nhà nước không thể có lựa chọn nào khác: phải ưu tiên
chống lạm phát, hơn là giải cứu thị trường chứng khoán.
3/Tăng lãi suất tái cấp vốn, lãi suất chiết khấu:
A - Tăng lãi xuất cấp vốn:
a.Tình hình lãi xuất ở cách ngân hàng thương mại trong thời gian gần
đây:
NHTM bước vào cuộc đua tăng lãi suất khốc liệt nhất
Trong những ngày gần đây hàng loạt ngân hàng thương mại công bố tăng
lãi suất huy động vốn Đồng Việt Nam với mức lãi suất tăng khá, tăng thêm từ
0,12% - 0,48%/năm so với trước đó.
Mức tăng lớn nhất vẫn thuộc về các ngân hàng thương mại cổ phần, kể cả
các ngân hàng thương mại cổ phần quy mô còn khiêm tốn mới chuyển từ nông
thôn lên đô thị, như SHB, An Bình,…đến các ngân hàng thương mại hạng
trung bình khá như: SeABank, VPBank, Phương Nam, Phương Đông, NHTM
CP Sài Gòn… và ngay cả những NHTM cổ phần có thương hiệu khá hay quy
mô lớn, như: Eximbank, Techcombank, Đông Á, ACB,…Từ ngày 18/2/2008,
Eximbank thực hiện một đợt tăng lãi suất lớn nhất, với mức tăng thêm tới
0,84%/năm so với mức lãi suất trước đó, kỳ hạn 6 tháng lên tới 9,0%/năm.
Hiện nay lãi suất huy động vốn VND tăng cao nhất của một số NHTM cổ
phần lên tới 0,85%/tháng hay 10,20%/năm cho kỳ hạn 24 tháng, lên tới
0,80%/tháng, hay 9,6%/năm cho kỳ hạn 12 tháng,…Lãi suất huy động vốn
VND kỳ hạn 12 tháng của NHTM CP Sài Gòn lên tới 9,72%/năm, tương

đương 0,81%/tháng; của Techcombank lên tới 9,6%/năm. Thậm chí lãi suất
huy động của nhiều Quỹ tín dụng nhân dân kỳ hạn 12 tháng lên tới
0,90%/tháng, hay 10,80%/năm.
Một số NHTM bên cạnh việc tăng lãi suất còn đưa ra một số hình thức huy
động vốn hấp dẫn khác, như: quay số dự thưởng với trị giá các giải thưởng
bằng hiện vật lên tới hàng tỷ đồng, triển khai hình thức gửi tiền với lãi suất linh
hoạt, khách hàng được rút tiền bất kỳ lúc nào có nhu cầu nhưng được hưởng lãi
suất có kỳ hạn, lãi suất luỹ tiến theo số tiền gửi…
Đặc biệt đánh vào tâm lý khách hàng trong điều kiện chỉ số giá tăng cao, từ
ngày 18/2/2008, có ngân hàng còn đưa ra hình thức huy động vốn VND: “Lãi
suất bù lạm phát”. Ngoài lãi suất thông thường, khách hàng gửi tiền kỳ hạn 12
tháng được ngân hàng này cam kết bù một phần hoặc toàn bộ chênh lệch giữa
lãi suất và tỷ lệ lạm phát thực tế, nhằm đảm bảo cho khách hàng gửi tiền được
hưởng lãi suất không bị thiệt khi lạm phát tăng cao.
b.Đâu là nguyên nhân tăng lãi xuất:
Hiển nhiên là do tình trạng thị trường tiền tệ nóng lên, vốn VND khan
hiếm. Lãi suất trên thị trường liên ngân hàng hầu như chỉ có người vay mà
- 11 -
Giáo viên hướng dẫn: GV Nguyễn Quốc Anh
không có người cho vay. Chỉ có một số thời điểm nóng nhất Ngân hàng Nhà
nước đưa ra đấu thầu hơn 10.000 tỷ đồng - 17.000 tỷ đồng.
Lãi suất cho vay qua đêm một số thời điểm lên tới 20%/năm, thậm chí tới
30%/năm. Ngày 15/2/2008, trên 10 ngân hàng thương mại tham gia đấu thầu
lãi suất khoản vay kỳ hạn 1-2 tuần từ ngân hàng thương mại với lãi suất trúng
thầu lên tới 30%/năm, tăng cao so với mức 25%/năm ngày trước đó.
Dự báo trong thời gian tới lãi suất thị trường liên ngân hàng tiếp tục nóng
lên và ở mức cao. Còn nguyên nhân tiếp theo đó là cầu vốn tiền Đồng Việt
Nam tăng cao, trong khi đó cung hạn chế bởi các lý do sau đây:
Một là ngân hàng nhà nước quyết định phát hành 20.300 tỷ đồng tín phiếu
ngân hàng nhà nước với lãi suất 7,8%/năm, kỳ hạn 364 ngày nhằm mục tiêu

thu hút bớt tiền từ lưu thông về, kiềm chế lạm phát. Hình thức phát hành là bắt
buộc phải mua đối với các Tổ chức tín dụng theo mức phân bổ cụ thể.
1. Ngân hàng Nhà nước quyết định phát hành 20.300 tỷ đồng tín phiếu
ngân hàng nhà nước với lãi suất 7,8%/năm, kỳ hạn 364 ngày nhằm mục tiêu
thu hút bớt tiền từ lưu thông về, kiềm chế lạm phát. Hình thức phát hành là bắt
buộc phải mua đối với các Tổ chức tín dụng theo mức phân bổ cụ thể.
Theo đó có tới 41 Tổ chức tín dụng đô thị phải mua loại tín phiếu nói trên,
nhưng lại không được sử dụng để giao dịch tái cấp vốn. ngân hàng nông
nghiệp và phát triển nông thôn, Quỹ tín dụng nhân dân và các TCTD có số vốn
huy động VND đến 31/1/2008 từ 1.000 tỷ đồng trở xuống không phải mua tín
phiếu ngân hàng nhà nước đợt này. Thời điểm phát hành là ngày 17/3/2008.
Do đó để chủ động có đủ vốn mua tín phiếu ngân hàng nhà nước bắt buộc vào
thời điểm đó thì ngay từ bây giờ các ngân hàng thương mại phải “ chạy đôn ,
chạy đáo” huy động vốn trên thị trường, bởi vì hơn 20.000 tỷ đồng đâu có phải
ít
2. Kể từ ngày 1/2/2008 các tổ chức tín dụng phải thực hiện tỷ lệ dự trữ bắt
buộc mới, theo hướng mở rộng phạm vi tiền gửi phải nộp dự trữ bắt buộc và
tăng thêm 1% tỷ lệ dự trữ bắt buộc so với mức trước đó.
Theo đó Thống đốc ngân hàng nhà nước quyết định mở rộng thêm phạm vi
phải thực hiện tỷ lệ dự trữ bắt buộc đối với tiền gửi trên 24 tháng, thay vì chỉ
có tới 24 tháng như trước đây. Tỷ lệ dự trữ bắt buộc tiền gửi VND không kỳ
hạn đến dưới 12 tháng tăng từ 10% lên 11%, tiền gửi có kỳ hạn từ 12 tháng trở
lên tăng từ 4% lên 5%; tiền gửi ngoại tệ không kỳ hạn đến có kỳ hạn dưới 12
tháng tăng từ 10% lên 11%, tiền gửi ngoại tệ có kỳ hạn từ 12 tháng trở lên tăng
từ 4% lên 5%. Như vậy từ tháng 2-2008, các ngân hàng thương mại phải bỏ ra
thêm ít nhất là gần 10.000 tỷ đồng để nộp dự trữ bắt buộc cho ngân hàng nhà
nước.
3. Thống đốc ngân hàng nhà nước quyết định tăng một số loại lãi suất chủ
đạo, thực hiện từ tháng 2/2008. Theo đó, lãi suất cơ bản tăng từ 8,25%/năm lên
8,75%/năm; lãi suất tái cấp vốn tăng từ 6,5%/năm lên 7,5%/năm và lãi suất

chiết khấu tăng từ 4,5%/năm lên 6,0%/năm. Các mức lãi suất trước đó được
thực hiện từ tháng 12/2005, tức là ổn định trong hơn 2 năm đến nay mới điều
- 12 -
Giáo viên hướng dẫn: GV Nguyễn Quốc Anh
chỉnh tăng trước áp lực gia tăng lạm phát. Đồng thời các mức lãi suất đó thực
tế ít tác động đến lãi suất của các ngân hàng nhà nước, nhưng về điều hành
ngân hàng nhà nước phát đi tín hiệu tăng lãi trên thị trường tiền tệ, tạo áp lực
về tâm lý tăng lãi suất trên thị trường.
4. Cơ cấu vốn huy động Đồng Việt Nam của các ngân hàng nhà nước có sự
thay đổi theo hướng tiền gửi ngắn hạn và tiền gửi không kỳ hạn tăng lên nhanh
hơn tiền gửi trung và dài hạn. Đây là loại tiền gửi không những có tỷ lệ dự trữ
bắt buộc cao tới 11%, mà tỷ lệ sử dụng thấp do khách hàng có thể rút ra bất cứ
lúc nào. Trong số đó có những khoản tiền gửi lớn của khách hàng chờ mua
chứng khoán, chờ mua bất động sản của cá nhân, quỹ thặng dư vốn của doanh
nghiệp, vốn tạm thời nhàn rỗi của chủ dự án đầu tư khu chung cư và căn hộ
liền kề khách hàng đã nộp nhưng chưa giải ngân,…Những khoản tiền này
khách hàng thường rút ra đột xuất với mức độ lớn, nên ngân hàng nhà nước
phải để tỷ lệ vốn khả dụng cao hơn.
5. Sau Tết Nguyên đán Mậu Tý, nhu cầu vay vốn của các hộ gia đình và cá
nhân, nhu cầu giải ngân các hợp đồng tín dụng của doanh nghiệp tăng lên, nên
các ngân hàng thương mại cần số vốn lớn hơn.
6. Nhu cầu VND để mua ngoại tệ của khách hàng. Để có vốn mua ngoại tệ,
các ngân hàng thương mại buộc phải đẩy mạnh huy động vốn trên thị trường.
7. Một phần vốn trong dân được chuyển sang đầu tư vào vàng do chỉ số giá
tăng cao, tâm lý một bộ phận người dân cho rằng lãi suất tiền gửi ngân hàng
“âm” vì chỉ số tăng giá năm 2007 là 12,6%, tháng 1/2008 là 2,8%, cao hơn rất
nhiều so với lãi suất tiền gửi tiết kiệm. Trong khi đó giá vàng thị trường quốc
tế và thị trường trong nước thời gian qua liên tục tăng cao. Giá vàng hiện nay
đã tăng gần 40% so với đầu năm 2007. Bên cạnh đó một lượng vốn đáng kể
khác được tiếp tục đầu tư vào bất động sản do thị trường này đang tiếp tục

nóng và dự báo sẽ tiếp tục nóng từ nay đến hết năm 2008.
Trong khi vốn Đồng Việt Nam nóng lên thì vốn ngoại tệ lại có xu hướng
diễn biến trái chiều. Lãi suất huy động vốn USD đứng nguyên và có xu hướng
giảm, do lãi suất chủ đạo đồng USD của Cục dự trữ liên bang Mỹ (Fed) từ đầu
năm 2008 đến nay 2 lần được cắt giảm từ mức 4,25%/năm xuống còn
3,0%/năm và được dự báo sẽ tiếp tục được giảm hơn nữa. Tỷ giá VND/USD
tiếp tục giảm mạnh. Đến cuối tuần trước, ngày 15/2/2008 tỷ giá bán ra của các
ngân hàng thương mại giảm xuống còn 15.959 VND/USD, giảm mạnh so với
mức 15.995 VND/USD thời điểm cách đây 1 tháng; tỷ giá bán USD bằng tỷ
giá mua của ngân hàng thương mại. Tỷ giá trên thị trường tự do cũng xuống
dưới mức 15.995 VND/USD.
Hai là, kể từ ngày 1/2/2008 các tổ chức tín dụng phải thực hiện tỷ lệ dự trữ
bắt buộc mới, theo hướng mở rộng phạm vi tiền gửi phải nộp dự trữ bắt buộc
và tăng thêm 1% tỷ lệ dự trữ bắt buộc so với mức trước đó
Theo đó Thống đốc ngân hàng nhà nước quyết định mở rộng thêm phạm vi
phải thực hiện tỷ lệ dự trữ bắt buộc đối với tiền gửi trên 24 tháng, thay vì chỉ
có tới 24 tháng như trước đây. Tỷ lệ dự trữ bắt buộc tiền gửi VND không kỳ
- 13 -
Giáo viên hướng dẫn: GV Nguyễn Quốc Anh
hạn đến dưới 12 tháng tăng từ 10% lên 11%, tiền gửi có kỳ hạn từ 12 tháng trở
lên tăng từ 4% lên 5%; tiền gửi ngoại tệ không kỳ hạn đến có kỳ hạn dưới 12
tháng tăng từ 10% lên 11%, tiền gửi ngoại tệ có kỳ hạn từ 12 tháng trở lên tăng
từ 4% lên 5%. Như vậy từ tháng 2-2008, các ngân hàng thương mại phải bỏ ra
thêm ít nhất là gần 10.000 tỷ đồng để nộp dự trữ bắt buộc cho ngân hàng nhà
nước.
Ba là, Thống đốc ngân hàng nhà nước quyết định tăng một số loại lãi suất
chủ đạo, thực hiện từ tháng 2/2008. Theo đó, lãi suất cơ bản tăng từ
8,25%/năm lên 8,75%/năm. Lãi suất tái cấp vốn tăng từ 6,5%/năm lên
7,5%/năm và lãi suất chiết khấu tăng từ 4,5%/năm lên 6,0%/năm. Các mức lãi
suất trước đó được thực hiện từ tháng 12/2005, tức là ổn định trong hơn 2 năm

đến nay mới điều chỉnh tăng trước áp lực gia tăng lạm phát. Đồng thời các mức
lãi suất đó thực tế ít tác động đến lãi suất của các ngân hàng thương mại,
nhưng về điều hành ngân hàng nhà nuớc phát đi tín hiệu tăng lãi trên thị
trường tiền tệ, tạo áp lực về tâm lý tăng lãi suất trên thị trường.
Bốn là, cơ cấu vốn huy động Đồng Việt Nam của các ngân hàng thương
mại có sự thay đổi theo hướng tiền gửi ngắn hạn và tiền gửi không kỳ hạn tăng
lên nhanh hơn tiền gửi trung và dài hạn. Đây là loại tiền gửi không những có tỷ
lệ dự trữ bắt buộc cao tới 11%, mà tỷ lệ sử dụng thấp do khách hàng có thể rút
ra bất cứ lúc nào. Trong số đó có những khoản tiền gửi lớn của khách hàng chờ
mua chứng khoán, chờ mua bất động sản của cá nhân, quỹ thặng dư vốn của
doanh nghiệp, vốn tạm thời nhàn rỗi của chủ dự án đầu tư khu chung cư và căn
hộ liền kề khách hàng đã nộp nhưng chưa giải ngân,…Những khoản tiền này
khách hàng thường rút ra đột xuất với mức độ lớn, nên ngân hàng thương mại
phải để tỷ lệ vốn khả dụng cao hơn.
Năm là, sau Tết Nguyên đán Mậu Tý, nhu cầu vay vốn của các hộ gia đình
và cá nhân, nhu cầu giải ngân các hợp đồng tín dụng của doanh nghiệp tăng
lên, nên các ngân hàng thương mại cần số vốn lớn hơn.
Sáu là nhu cầu VND để mua ngoại tệ của khách hàng. Để có vốn mua ngoại
tệ, các ngân hàng thương mại buộc phải đẩy mạnh huy động vốn trên thị
trường.
Bảy là, một phần vốn trong dân được chuyển sang đầu tư vào vàng do chỉ
số giá tăng cao. Tâm lý một bộ phận người dân cho rằng lãi suất tiền gửi ngân
hàng “ âm” vì chỉ số tăng giá năm 2007 là 12,6%, tháng 1/2008 là 2,8%, cao
hơn rất nhiều so với lãi suất tiền gửi tiết kiệm. Trong khi đó giá vàng thị trường
quốc tế và thị trường trong nước thời gian qua liên tục tăng cao. Giá vàng hiện
nay đã tăng gần 40% so với đầu năm 2007. Bên cạnh đó một lượng vốn đáng
kể khác được tiếp tục đầu tư vào bất động sản do thị trường này đang tiếp tục
nóng và dự báo sẽ tiếp tục nóng từ nay đến hết năm 2008.
c.Dự báo những tác động của việc lãi suất tiền đồng tăng cao
Vậy lãi suất huy động vốn VND tăng cao sẽ tác động như thế nào! Có

những ảnh hướng lớn sau đây:
- 14 -
Giáo viên hướng dẫn: GV Nguyễn Quốc Anh
Một là làm tăng lãi suất cho vay vốn trên thị trường, tức là làm tăng chi phí
vốn vay của doanh nghiệp và người kinh doanh, từ đó làm tăng giá thành sản
phẩm và dịch vụ, tác động tăng giá trên thị trường xã hội, đi ngược lại mục tiêu
kiềm chế lạm phát của việc ngân hàng nhà nuớc thực hiện chính sách tiền tệ
thắt chặt.
Hai là lãi suất đầu vào của ngân hàng thương mại, tức lãi suất huy động vốn
tăng cao, cộng với chi phí cao do tỷ lệ dự trữ bắt buộc tăng mạnh, chi phí bù lỗ
cho việc mua tín phiếu ngân hàng nhà nước, nhưng lãi suất cho vay tăng chậm,
khoảng cách chênh lệch giữa lãi suất cho vay và lãi suất đầu vào thu hẹp. Bên
cạnh đó tốc độ tăng trưởng dư nợ chậm hơn tốc độ tăng huy động vốn. Cả hai
nhân tố đó làm cho lợi nhuận của ngân hàng thương mại ngày càng thấp, làm
ảnh hưởng đến năng lực tài chính và khả năng cạnh tranh, uy tín của ngân hàng
thương mại.
Ba là việc vay vốn của doanh nghiệp, của khách hàng khó khăn hơn. Một
mặt tạo điều kiện cho tiêu cực nảy sinh trong quan hệ tín dụng giữa khách hàng
và ngân hàng, tức là ngân hàng thương mại buộc phải lựa chọn dự án, lựa chọn
khách hàng, việc cho vay vốn khắt khe hơn. Mặt khác nhiều dự án bị từ chối
vay vốn, hoặc doanh nghiệp không dám vay, không dám triển khai dự án, từ đó
ảnh hưởng tới tốc độ tăng trưởng kinh tế mà Chính phủ đặt ra mục tiêu 9%
trong năm 2008, cao hơn mức 8,44% của năm 2007. Bởi vì hiện nay vốn đầu
tư của nền kinh tế, vốn hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp và hộ gia đình
chủ yếu là vốn vay ngân hàng. Mà hiệu quả của vốn đầu tư có độ trễ, ít nhất là
6 tháng. Tức là việc hạn chế đầu tư vốn tín dụng ngân hàng hiện nay sẽ có tác
động làm chậm tốc độ tăng trưởng trong những tháng cuối năm 2008 và đầu
năm 2009.
Bốn là, việc thực hiện chính sách tiền tệ thắt chặt thu hút hàng chục nghìn
tỷ đồng từ lưu thông về không thể kiềm chế được tốc độ tăng giá rau, thực

phẩm, giá cà phê, sắt thép, giá bất động sản… hiện nay. Bởi vì giá các mặt
hàng đó tăng là do rét đậm kéo dài, do nhu cầu sau Tết nguyên đán tăng cao,
do giá thị trường thế giới tăng, do cung cầu….
Bởi vậy cho dù ngân hàng nhà nuớc có tăng cao hơn nữa tỷ lệ dự trữ bắt
buộc, điều chỉnh tăng các loại lãi suất chủ đạo, phát hành thêm hàng chục
nghìn tỷ đồng tín phiếu ngân hàng nhà nuớc có tính chất bắt buộc, thì giá các
nhóm mặt hàng đó vẫn diễn biến theo các nhân tố hiện hữu của nó. Bởi vì đó là
những nhu cầu thiết yếu của cuộc sống còn người.
Bên cạnh đó việc phát hành trên 20.000 tỷ đồng tín phiếu ngân hàng nhà
nuớc về để “ giam trong kho”, nhưng mỗi tháng ngân hàng nhà nuớc phải trả
130 tỷ đồng cho các tổ chức tín dụng. Bên cạnh đó việc thu khoảng gần
100.000 tỷ đồng dự trữ bắt buộc cũng để “ giam kho”, mỗi tháng ngân hàng
nhà nuớc cũng phải trả lãi cho các tổ chức tín dụng gần 100 tỷ đồng. Chi phí
kiềm chế lạm phát đó không đạt hiệu quả mà còn làm suy yếu đi năng lực tài
chính của ngân hàng nhà nuớc với tư cách một cơ quan của Chính phủ có
nghiệp vụ sinh lời.
- 15 -
Giáo viên hướng dẫn: GV Nguyễn Quốc Anh
Bên cạnh đó diễn biến giảm tỷ giá VND/USD và tình trạng cung USD tăng
mạnh,…nếu tiếp tục diễn ra với mức độ lớn thì sẽ ảnh hưởng nhất định đến
xuất khẩu, đến thu hút vốn đầu tư gián tiếp của nước ngoài,…
Định hướng điều hành chính sách tiền tệ nói trên rõ ràng là mục tiêu tăng
trưởng kinh tế đang bị tạm thời “ hy sinh” cho mục tiêu kiềm chế lạm phát,
nhưng chỉ số giá tiêu dùng, diễn biến của thị trường bất động sản và thị trường
chứng khoán thì vẫn dường như không thấy có liên hệ gì đến thắt chặt tiền tệ.
Đây là mâu thuẫn trong điều hành cần được phân tích để có điều chỉnh phù hợp
trong điều hành chính sách kinh tế vĩ mô.
B - Tăng lãi suất chiết khấu:
Lãi suất chiết khấu mà ngân hàng trung ương (ngân hàng Nhà nước) đánh
vào các khoản tiền cho các Lãi suất chiết khấu, hay còn gọi là lãi suất tái chiết

khấu là lãi suất ngân hàng thương mại vay để đáp ứng nhu cầu tiền mặt ngắn
hạn hoặc bất thường của các ngân hàng này. Quy định lãi suất chiết khấu là
một trong những công cụ của chính sách tiền tệ nhằm điều tiết lượng cung tiền.
Theo quyết định vừa được Ngân hàng Nhà nước ban hành, kể từ ngày 1/4, lãi
suất chiết khấu và tái cấp vốn của Ngân hàng Nhà nước với các tổ chức tín
dụng là ngân hàng sẽ tăng thêm 0,5%.
Cụ thể, lãi suất tái cấp vốn hiện tại được điều chỉnh từ 5,5% lên 6% và
lãi suất chiết khấu từ 3,5% lên 4%.
Đây là lần thứ 2 kể từ đầu năm nay, Ngân hàng Nhà nước điều chỉnh
tăng hai mức lãi suất này với mục đích cảnh báo các ngân hàng chủ động hơn
trong việc tự huy động nguồn vốn từ dân cư, hạn chế lệ thuộc vào vốn cho vay
từ Chính phủ.
Điều này cũng có nghĩa là các ngân hàng "buộc" phải nỗ lực mạnh hơn
để "gom bớt tiền mặt trên thị trường. Lượng tiền mặt giảm trong lưu thông sẽ
giúp Việt Nam giảm lạm phát trong tình hình giá cả nhiều mặt hàng thiết yếu
đang tăng mạnh.
Tuy nhiên, giới chuyên gia cho rằng, động thái này của Ngân hàng
Trung ương còn thận trọng, chưa đủ mạnh để tác động đáng kể đến thị trường.
Bởi lãi suất tái chiết khấu và cấp vốn dù đã tăng nhưng vẫn thấp hơn nhiều so
với mặt bằng lãi suất chung trên thị trường Việt Nam (hiện là trên dưới
0,7%/năm).
a. Tác động của lãi xuất chiết khấu lên hệ thống ngân hàng thương mại:
Các ngân hàng thương mại phải tính toán tỷ lệ giữa tiền mặt và tiền gửi (dự
trữ của ngân hàng) để đáp ứng nhu cầu của khách hàng và họ có một tỷ lệ giữa
tiền mặt và tiền gửi an toàn tối thiểu. Tỷ lệ này ngoài quy định của ngân hàng
trung ương về tỷ lệ dự trữ bắt buộc còn phụ thuộc vào tình hình kinh doanh của
ngân hàng thương mại và dự trữ của ngân hàng thường lớn hơn dự trữ bắt buộc
do ngân hàng trung ương quy định. Khi tỷ lệ dự trữ tiền mặt thực tế của ngân
hàng thương mại giảm xuống đến gần tỷ lệ an toàn tối thiểu thì họ sẽ phải cân
- 16 -

Giáo viên hướng dẫn: GV Nguyễn Quốc Anh
nhắc việc có tiếp tục cho vay hay không vì buộc phải tính toán giữa số tiền thu
được từ việc cho vay với các chi phí liên quan trong trường hợp khách hàng có
nhu cầu tiền mặt cao bất thường:
Nếu lãi suất chiết khấu bằng lãi suất thị trường thì ngân hàng thương mại sẽ
tiếp tục cho vay đến khi tỷ lệ dự trữ tiền mặt giảm đến mức tối thiểu cho phép
vì nếu thiếu tiền mặt họ có thể vay từ ngân hàng trung ương mà không phải
chịu bất kỳ thiệt hại nào.
Nếu lãi suất chiết khấu cao hơn lãi suất thị trường, các ngân hàng thương
mại không thể để cho tỷ lệ dự trữ tiền mặt giảm xuống đến mức tối thiểu cho
phép, thậm chí phải dự trữ thêm tiền mặt để tránh phải vay tiền từ ngân hàng
trung ương với lãi suất cao hơn lãi suất thị trường khi phát sinh nhu cầu tiền
mặt bất thường từ phía khách hàng. Do vậy, với một tiền cơ sở nhất định, bằng
cách quy định lãi suất chiết khấu cao hơn lãi suất thị trường, ngân hàng trung
ương có thể buộc các ngân hàng thương mại phải dự trữ tiền mặt bổ sung khiến
cho số nhân tiền tệ giảm xuống (vì bội số của tiền gửi so với tiền mặt giảm) để
làm giảm lượng cung tiền. Ngược lại, khi lãi suất chiết khấu giảm xuống thì
các ngân hàng thương mại có thể giảm tỷ lệ dự trữ tiền mặt và do vậy số nhân
tiền tệ tăng lên dẫn đến tăng lượng cung tiền.
b.Tác động đến thị trường chứng khoán
Rõ ràng, sự thay đổi trong lãi suất chiết khấu đã ảnh hưởng đến hành vi của
các cá nhân cũng như các doanh nghiệp, nhưng câu chuyện không chỉ có như
vậy mà thị trường chứng khoán cũng bị ảnh hưởng. Như chúng ta đã biết, một
trong những cách để định giá một doanh nghiệp chính là đưa tất cả các dòng
tiền kỳ vọng trong tương lai chiết khấu về hiện tại. Lấy giá trị của doanh
nghiệp chia cho số lượng cố phần đang lưu hành ta có giá trị một cổ phần. Gía
chứng khoán thay đổi tuỳ theo các kỳ vọng khác nhau của nhà đầu tư về công
ty ở các thời điểm khác nhau. Do đó mà nhà đầu tư sẵn sàng mua hoặc bán cổ
phần ở các mức giá khác nhau.
Một khi doanh nghiệp bị thị trường nhìn thấy là sẽ cắt giảm các chi phí đầu

tư tăng trưởng hoặc là doanh nghiệp đang tạo ra lợi nhuận ít hơn vì chi phí vay
nợ tăng cao hoặc là doanh thu sụp giảm do người tiêu dùng thì dòng tiền tương
lai được dự đoán sẽ giảm đi. Và hệ quả là giá cổ phần của doanh nghiệp sẽ
thấp xuống. Nếu số lượng doanh nghiệp trên TTCK có sự sụp giảm này đủ lớn
thì xét toàn bộ thị trường, chỉ số thị trường chứng khoán sẽ giảm.
c.Tác động đến đầu tư
Đối với nhiều nhà đầu tư, thị trường đi xuống hoặc giá chứng khoán sụt
giảm là điều không hề mong muốn. Nhà đầu tư nào cũng kỳ vọng giá trị khoản
đầu tư của mình sẽ không ngừng tăng lên, có thể là ở dạng lãi vốn, cổ tức hoặc
cả hai. Nhưng với kỳ vọng về sự tăng trưởng trong tương lai thấp hơn và dòng
tiền trong tương lai của doanh nghiệp không tốt như mong đợi, chắc chắn
- 17 -
Giáo viên hướng dẫn: GV Nguyễn Quốc Anh
không nhà đầu tư thông minh nào tiếp tục đánh giá cao doanh nghiệp, nhà đầu
tư sẽ mong đợi ít hơn khi sở hữu các cổ phần.
Hơn nữa, đầu tư vào cổ phiếu có thể được xem là rủi ro hơn so với việc
đầu tư vào các lĩnh vực khác. Khi ngân hàng trung ương công bố tăng lãi suất
chiết khấu, thường sẽ kèm theo là các chứng khoán chính phủ mới được phát
hành thí dụ như trái phiếu chính phủ. Đây được xem là cơ hội đầu tư an toàn
nhất. Nói cách khác, lúc này tỷ suất sinh lợi phi rủi ro sẽ tăng và do đó đầu tư
vào trái phiếu chính phủ và các cơ hội đầu tư tương tự trở nên hấp dẫn hơn.
Nếu nhà đầu tư vẫn tiếp tục trung thành với các cổ phiếu thì họ sẽ nâng tỷ suất
sinh lợi đòi hỏi của mình lên để bù đắp cho phần rủi ro tăng thêm một lượng
gọi là phần bủ rủi ro.
Tỷ suất sinh lợi mong đợi từ việc nắm giữ cổ phiếu bao gồm tổng của tỷ
suất sinh lợi phi rủi ro và phần bù rủi ro thị trường. Dĩ nhiên là độ lớn của phần
bù rủi ro khác nhau với mỗi nhà đầu tư, tuỳ thuộc vào khả năng chịu đựng rủi
ro cũng như doanh nghiệp mà họ đầu tư. Tuy nhiên nói một cách tổng quát thì,
khi ngân hàng trung ương tăng lãi suất chiết khấu, lãi suất phi rủi ro cũng tăng
theo, và do đó tổng tỷ suất sinh lợi đầu tư đòi hỏi cũng sẽ tăng.

Do vậy, nếu phần bù rủi ro đòi hỏi giảm trong khi tỷ suất sinh lợi tiềm năng
vẫn như cũ hoặc thậm chí là thấp hơn, thì chắc là nhà đầu tư sẽ cảm thấy đầu tư
vào cổ phiếu trở nên rủi ro hơn và kết quả là họ sẽ chuyển tiền của mình vào
các lĩnh vực đầu tư khác.
Lãi suất thông qua các phương tiện thông tin đại chúng như báo đài, ti vi,
mạng internet dễ dàng được người tiêu dùng biết đến và thật sự thì nó có một
tác động rộng lớn khác nhau đối với cả nền kinh tế. Khi lãi suất chiết khấu gia
tăng, hiệu ứng tổng thể là nó sẽ làm giảm lượng cung tiền nhằm mục đích duy
trì lạm phát ở mức thấp. Nó cũng làm cho việc vay tiền của các cá nhân và
doanh nghiệp trở nên đắt hơn, nó tác động đến hành vi tiêu dùng của các cá
nhân và chiến lược kinh doanh của các doanh nghiệp, gia tăng chi phí cho các
doanh nghiệp, khiến cho thu nhập thấp hơn và cuối cùng là nó có khuynh
hướng làm cho thị trường chứng khoán trở nên kém hấp dẫn hơn đối với các
nhà đầu tư.
Tuy nhiên phải luôn nhớ rằng, mỗi sự kiện và kết quả luôn có liên hệ với
nhau. Lãi suất không phải là yếu tố có tính quyết định đối với giá chứng khoán
và có rất nhiều cách thức khác nhau để xem xét sự thay đổi của giá chứng
khoán và khuynh hướng thị trường - một sự gia tăng trong lãi suất chiết khấu
chỉ là một trong những cách đó. Do vậy, không ai có thể tự tin nói rằng một
công bố gia tăng lãi suất chiết khấu của ngân hàng trung ương có thể tạo nên
ảnh hưởng xấu đến toàn bộ giá chứng khoán.
4/ "Hút" 20.300 tỷ đồng từ tín phiếu bắt buộc.
Để rút tiền từ lưu thông về, chủ động kiểm soát chặt chẽ tiền tệ, góp phần
kiềm chế lạm phát,Thống ngân hàng nhà nước vừa có Quyết định phát hành tín
- 18 -
Giáo viên hướng dẫn: GV Nguyễn Quốc Anh
phiếu ngân hàng nhà nước bằng đồng Việt Nam dưới hình thức bắt buộc đối
với các tổ chức tín dụng.
Theo đó, tổng giá trị tín phiếu ngân hàng nhà nước phát hành bắt buộc đợt
này là 20.300 tỷ đồng, kỳ hạn là 364 ngày, lãi suất là 7,80%/năm; hình thức

phát hành là ghi sổ. Giá trị tín phiếu được phân bổ cho từng tổ chức tín dụng
theo quy mô, tỷ trọng huy động vốn bằng đồng Việt Nam của từng tổ chức tín
dụng.
Có 41 tổ chức tín dụng thuộc đối tượng mua tín phiếu ngân hàng nhà nước
bắt buộc. Thời điểm phát hành tín phiếu là ngày 17/3/2008. Tín phiếu ngân
hàng nhà nước mua bắt buộc đợt này được ngân hàng nhà nước thanh toán khi
đáo hạn (ngày 16/3/2009), các tổ chức tín dụng không được sử dụng tín phiếu
mua đợt này trong các giao dịch tái cấp vốn với ngân hàng nhà nước.
Theo đánh giá của ngân hàng nhà nước, việc phát hành tín phiếu bắt buộc
đợt này sẽ có tác động nhất định đến cung- cầu vốn nhưng lãi suất thị trường
tiền tệ sẽ ít biến động do ngân hàng nhà nước trả lãi suất tín phiếu ở mức hợp
lý, kỳ hạn phát hành ngắn hạn… ngân hàng nhà nước sẽ theo dõi chặt chẽ các
tác động và diễn biến thị trường tiền tệ để có giải pháp thích hợp nhằm tránh
những biến động đột biến trên thị trường tiền tệ.
Với biện pháp mạnh trên, Ngân hàng Nhà nước tiếp tục thể hiện quyết tâm
kiềm chế lạm phát năm nay. Tuy nhiên, với tình hình khan vốn VND tại nhiều
ngân hàng hiện nay, việc bắt buộc mua tín phiếu với khối lượng trên sẽ tạo áp
lực nhất định đến mặt bằng lãi suất huy động hiện nay, khi thời hạn chuẩn bị
chỉ còn một tháng.
Mặt khác, việc mạnh tay hút VND về của Ngân hàng Nhà nước cũng có thể
càng đẩy giá VND lên cao, hiện tỷ giá VND/USD chỉ còn 15.957 VND, tỷ giá
của Ngân hàng Nhà nước công bố cũng gần mất mốc 16.000 VND.Trong khi
đó, vốn của các ngân hàng hầu hết đã cạn kiệt, vì đã mạnh tay cho vay trước
đó.
Hiện các ngân hàng đang ráo riết tăng lãi suất huy động vốn, chuẩn bị đủ
lượng tiền đồng đáp ứng yêu cầu mua tín phiếu bắt buộc nhằm rút bớt tiền
trong lưu thông của ngân hàng nhà nước với mục tiêu là kiềm chế lạm phát.
Nhiều ngân hàng đang ở thế rất khó khăn khi nguồn tiền chảy vào ngân
hàng hạn chế thì nguồn tiền gửi lại nối đuôi nhau đi ra. Tâm lý của người tiêu
dùng đang bị ảnh hưởng bởi cuộc khủng hoảng về tiền đồng tại các ngân hàng

cổ phần. Chính vì vậy, nhiều người đã rút tiết kiệm để chọn kênh đầu tư khác.
-Cuộc khủng khoảng về tiền đồng tiếp tục kéo dài đang làm các nhà kinh
doanh tiền tệ đau đầu trước bài toán lãi suất đầu vào và đầu ra.
Lãi suất qua đêm tăng chóng mặt, có thời điểm lên đến trên dưới 37%/năm.
Thế nhưng, một số ngân hàng phải "ngậm đắng nuốt cay" vay tiền qua thị
trường liên ngân hàng, vì đang mất dần tính thanh khoản vốn. Theo phó tổng
giám đốc một ngân hàng cổ phần tại TP. HCM, nếu tình hình này tiếp tục kéo
dài đến hết tháng 2/2008, khả năng sẽ có nhiều ngân hàng không thực hiện
được yêu cầu mua tín phiếu bắt buộc của ngân hàng nhà nước.
- 19 -
Giáo viên hướng dẫn: GV Nguyễn Quốc Anh
Hiện tính thanh khoản của nhiều ngân hàng đang ngày một yếu dần. Có
thời điểm, nhiều khách hàng cùng rút vốn với số lượng lớn, ngân hàng không
thể đáp ứng kịp thì lấy đâu ra tiền để mua tín phiếu của ngân hàng nhà nước, vị
phó tổng giám đốc trên nói.
Giám đốc khối khách hàng cá nhân của một ngân hàng khác cho hay, rút
bớt tiền trong lưu thông để kiềm chế lạm phát trong bối cảnh giá tiêu dùng
đang ngày một tăng nhanh là việc làm phù hợp. Tuy nhiên, các biện pháp đưa
ra của ngân hàng nhà nước là quá nhanh và đột ngột làm các ngân hàng cổ
phần không thể trở tay kịp. Trên thực tế, chưa bao giờ thị trường xảy ra tình
trạng các ngân hàng phải đóng cửa "đuổi" khách hàng đến vay vốn. Trong khi
trước đó, tất cả nhà băng phải ra sức nỗ lực mới có thể tiếp cận được các
"thượng đế" này.
Khác với trước, khi cung tiền đồng và vốn khả dụng của các ngân hàng còn
dồi dào, lãi suất huy động vốn thường được điều chỉnh gia tăng theo thời gian
gửi tiền. Có nghĩa là, gửi tiết kiệm kỳ hạn dài thì lãi suất sẽ cao hơn. Nhưng
hiện xu hướng này đã đảo ngược, gửi kỳ hạn càng ngắn lãi suất tiền gửi càng
cao. Mục tiêu của các ngân hàng là hút tiền trước khi thời hạn mua tín phiếu
bắt buộc được thực hiện. Chẳng hạn như tại SeABank, kỳ hạn tiền gửi 1 tháng
lãi suất lên đến 12%/năm; còn kỳ hạn 2 tháng là 11,5%/năm và 3 tháng là

11%/năm. Thế nhưng, vốn vào ngân hàng vẫn trong tình trạng "nhỏ giọt" khiến
nhiều ngân hàng lo lắng.
Tuy nhiên, qua trao đổi với ĐTCK, một cán bộ của ngân hàng nhà nước -
Chi nhánh TP. HCM cho rằng, khó có thể xảy ra trường hợp không đáp ứng
yêu cầu mua tín phiếu bắt buộc của ngân hàng nhà nước bởi tất cả các thành
viên vẫn đảm bảo khả năng thanh toán. Một số ngân hàng thiếu hụt vốn, nhưng
chỉ mang tính chất tạm thời. Còn theo báo cáo mới nhất của ngân hàng nhà
nước, trên thị trường “vẫn còn” hai ngân hàng có vốn khả dụng dồi dào là
Vietcombank và MHB.
Một số phản ứng của ngân hàng thương mại:
Việc tăng thêm lãi suất huy động để hút vốn nhàn rỗi trong dân của các
ngân hàng là điều đã và sẽ tiếp tục xảy ra trong thời gian tới. Đây cũng là điều
hợp lý trong bối cảnh lạm phát đang tăng cao hơn lãi suất, vì hiện người gửi
tiền vẫn phải chịu lãi suất âm.
Theo một nguồn tin Sacombank bị “bắt buộc” mua 1.200 tỉ đồng tín phiếu.
Nếu NHNN tôn trọng các nguyên tắc cơ bản của kinh tế thị trường, “thuận
mua, vừa bán”, lãi suất của các tín phiếu đó có thể lên tới 10%/năm thì có lẽ
Sacombank mới đồng ý mua. Nếu với lãi suất “hợp lý” 10% thì Sacombank sẽ
không phải chịu “lỗ” mất: 2,2%/năm tiền lời.
Bằng một phép tính đơn giản có thể nhận thấy trong năm tài chính 2008
tới, Sacombank sẽ mất đi một một khoảng lợi nhuận trước thuế là 26,4 tỉ đồng.
Việc kinh doanh lời lỗ của ngân hàng này ảnh hưởng đến túi tiền hàng ngàn cổ
- 20 -
Giáo viên hướng dẫn: GV Nguyễn Quốc Anh
đông, đáng lý các cổ đông Sacombank phải có được 26,4 tỉ đồng đó, đằng này
nó lại chui vào “trong túi” của ngân hàng nhà nước.
Tình cảnh của các ngân hàng khác cũng “chua xót” không kém. ngân hàng
Đầu tư và Phát triển (BIDV), ngân hàng Công thương và ngân hàng Ngoại
thương phải mua 3.000 tỉ đồng mỗi đơn vị. Kế đến là ACB với 1.500 tỉ đồng.
Các ngân hàng khác gồm Techcombank, Eximbank, Đông Á mỗi đơn vị

được phân bổ mua 500 tỉ đồng.
Khi lợi nhuận của các ngân hàng trong năm 2008 giảm đi, giá cổ phiếu của các
ngân hàng cũng có nguy cơ giảm theo, nhất là trong bối cảnh hiện nay các
ngân hàng phải “đua” nhau tăng lãi suất tiền gửi.
Trong khi các công cụ của thị trường (tăng lãi suất để hấp dẫn các ngân
hành mua tín phiếu, tổ chức đấu thầu giữa các ngân hàng) vẫn còn có thể thực
hiện được thì việc áp đặt một chính sách thắt chặt tiền tệ, chuyển gánh nặng
“chi phí chống lạm phát” đáng lý ra ngân hàng nhà nước phải gánh sang cho
các ngân hàng thương mại là không hợp lý.
Điều này có thể dẫn đến một hệ quả không mong muốn đó là các ngân hàng
phải lên kế hoạch dự trữ tiền mặt để mua tín phiếu bắt buộc làm tăng khả năng
khủng hoảng thanh khoản ở các ngân hàng thương mại. Nếu lỡ như một ngân
hàng thương mại nào đó vì lý do này mà bị thua lỗ thậm chí phá sản vì mất khả
năng thanh khoản thì hậu quả đó ai sẽ là người gánh chịu?
Kinh nghiệm cho thấy việc chống lạm phát ở các quốc gia trên thế giới luôn
luôn rất tốn kém. Bởi vì để rút tiền về ngân hàng nhà nước luôn phải trả một
chi phí rất cao. Do đó, chi phí lãi suất cao mà ngân hàng nhà nước phải trả nên
được coi là chi phí chống lạm phát, một khoản chi phí mà ngân sách nhà nước
cần phải gánh chịu bởi lẽ việc chống lạm phát có lợi cho tất cả mọi người đóng
góp vào ngân sách.
Còn việc đề ra chính sách tín phiếu bắt buộc như hiện nay của ngân hàng
nhà nước chính là hành vi đẩy chi phí chống lạm phát sang cho khối ngân hàng
thương mại. Đó là điều không hay và không nên làm trong một nền kinh tế
đang vận động theo những quy luật thị trường.
Vậy chính sách thắt chặt tiền tệ có làm giảm lạm phát ko?
Hiện nay chính sách thắt chặt tiền tệ của Nhà nước là nhằm giảm lạm phát
đang ở mức12%, cao hơn tốc đọ tăng trưởng (8-9%). Tuy nhiên cách làm này
có làm cho lạm phát giảm hay không thì không ai có thể khẳng định được, Nếu
chỉ làm cho đồng tiền lưu hành ít mà giảm được lạm phát thì không cần các
chuyên gia kinh tế cũng có thể hoạch định chính sách vĩ mô được. Lý do: Hiện

nay để đối phó với tình trạng thiếu tiền do chính sách thắt chặt tiền trong lưu
thông, hệ thống ngân hàng có vẻ như đang chơi Canh bạc cuối cùng, mà tính
chất liều lĩnh thể hiện rõ ở mức lãi suất lên cực kỳ cao, hiện nay 12-14%, có
lúc để cạnh tranh đã lên 30-40%/năm.
Hậu quả của động thái này: Tuy hệ thống ngân hàng có thể chữa cháy tình
trạng thiếu tiền trong ngắn hạn, tuy nhiên, sau đó thì sao: Hệ thống kinh tế đất
- 21 -
Giáo viên hướng dẫn: GV Nguyễn Quốc Anh
nước, các thành phần kinh tế phải lấy nguồn tiền từ ngân hàng để hoạt đông sẽ
phải chịu lãi suất cực kỳ cao để có thể hoạt đông, họ cũng đứng trước nguy cơ
không thể lựu chọn là sống hay là chết, dừng hoạt đông do không chịu nổi lãi
suất ngân hàng cao nghĩa là chết, nếu muốn sống, cho dù là sống ngắc ngoải thì
phải chịu lãi suất cao Chỉ có nước buôn Heroin may ra mới có lời, kinh
doanh gì có lãi khi nguồn tiền của ngân hàng phải chịu mức lãi suất kinh khủng
như vậy.
Hậu quả nhãn tiền là muốn tồn tại, muốn có lãi thì tuy vẫn tạo ra một lượng
sản phẩm như vậy, nhưng bắt buộc phải tăng giá bán hàng hay tăng giá đầu ra
của dịch vụ, sản xuất hoặc kinh doanh. Vậy thì có giảm lạm phát hay không
Nền kinh tế đang đứng trước dấu hỏi rất lớn: sau đó động thái của chính phủ sẽ
là thế nào, hay lại sửa sai Sửa sai, sửa sai và tiếp tục sủa sai có phải là cách
điều khiển hệ thống kinh tế duy nhất mà hiện nay các chuyên gia kinh tế Việt
nam có thể làm được hay không?
Lạm phát diễn biến có theo dự định của các cơ quan quản lý vĩ mô hay
không thì vài tháng tiếp theo mới kiểm chứng được, nhưng hệ quả trước mắt là
các chỉ số chứng khoán giảm mạnh, tình hình sản suất kinh doanh của các
doanh nghiệp sẽ phải thu hẹp lại và ít nhiều làm giảm tốc độ tăng trưởng kinh
tế.
Chống lạm phát đang là một bài toán được ưu tiên nhưng trước việc các
doanh nghiệp và nhất là khối doanh nghiệp vừa và nhỏ đang trong cơn bĩ cực
về vốn, có lẽ phải áp dụng đồng thời các biện pháp khác cùng lúc chứ không

phải chỉ trông chờ mỗi ở chính sánh thắt chặt tiền
- 22 -
Giáo viên hướng dẫn: GV Nguyễn Quốc Anh
Tài liệu tham khảo:
* Sách
Nhập Môn Tài Chính Tiền Tệ.tác giả TS Sử Đình Thành – TS Vũ Thị Minh
Hằng XB 2006 nhà xuất bản DH Quốc Gia Tp.HCM.
Nghiệp Vụ Ngân Hàng Thương Mại.tác giả Lê Văn Tư Xb 2005 nhà xuất
bản tài chính.
*Web:
vietnamnet.vn/kinhte/taichinh/2005/11/512457/ - 23k –
www2.thanhnien.com.vn
www.rfa.org/vietnamese/in_depth
www.thanhnien.com.vn/Kinhte
www.saga.vn
dantri.com.vn/Sukien/Viet-Nam-can-that-chat-chinh-sach-tien-te
www.mof.gov.vn/Default.aspx
- 23 -

×