Tải bản đầy đủ (.pdf) (84 trang)

Cơ sở khởi tố vụ án hình sự theo luật tố tụng hình sự việt nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.52 MB, 84 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƢỜNG ĐẠI HỌC LUẬT TP HỒ CHÍ MINH

TRƢƠNG THỊ MỸ DUYÊN

CƠ SỞ KHỞI TỐ VỤ ÁN HÌNH SỰ
THEO LUẬT TỐ TỤNG HÌNH SỰ VIỆT NAM

LUẬN VĂN THẠC SĨ
CHUYÊN NGÀNH LUẬT HÌNH SỰ VÀ TỐ TỤNG HÌNH SỰ

TP. HỒ CHÍ MINH, NĂM 2020


BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƢỜNG ĐẠI HỌC LUẬT TP HỒ CHÍ MINH

CƠ SỞ KHỞI TỐ VỤ ÁN HÌNH SỰ
THEO LUẬT TỐ TỤNG HÌNH SỰ VIỆT NAM
Chun ngành: Luật Hình sự và Tố tụng hình sự
Định hƣớng nghiên cứu
Mã số: 8380104

Người hướng dẫn khoa học: TS. Lê Nguyên Thanh
Học viên: Trƣơng Thị Mỹ Duyên
Lớp: Cao học Luật, Khóa 25

TP. HỒ CHÍ MINH, NĂM 2020


LỜI CAM ĐOAN


Tôi cam đoan luận văn tốt nghiệp “Cơ sở khởi tố vụ án hình sự theo luật tố
tụng hình sự Việt Nam” là kết quả nghiên cứu của riêng tôi dưới sự hướng dẫn của
Tiến sĩ Lê Nguyên Thanh.
Q trình thực hiện luận văn tơi tn thủ nghiêm túc Quyết định số
1461/QĐ-ĐHL, ngày 14/7/2016 của Hiệu trưởng Trường Đại học Luật Thành phố
Hồ Chí Minh hướng dẫn về nội dung và hình thức luận văn thạc sĩ Luật và Quyết
định số 250/QĐ-ĐHL, ngày 03/3/2015 của Hiệu trưởng Trường Đại học Luật
Thành phố Hồ Chí Minh về việc ban hành quy chế trích dẫn và chống đạo văn của
Trường Đại học Luật Thành phố Hồ Chí Minh.
Kết quả nghiên cứu trong luận văn là trung thực và chưa được cơng bố dưới
bất kỳ hình thức nào. Tơi xin chịu trách nhiệm trước nhà trường về lời cam đoan
này.
Thành phố Hồ Chí Minh, ngày…. tháng…. năm 2020
Tác giả luận văn


DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT

Từ viết tắt

Cụm từ đầy đủ

BLTTHS

Bộ luật Tố tụng hình sự

CSKT

Cơ sở khởi tố


DHTP

Dấu hiệu tội phạm

TTHS

Tố tụng hình sự

VAHS

Vụ án hình sự

VKS

Viện kiểm sát

YCDĐ

Yêu cầu dẫn độ


MỤC LỤC
LỜI MỞ ĐẦU ........................................................................................................... 1
CHƢƠNG 1. LÝ LUẬN CHUNG VỀ CƠ SỞ KHỞI TỐ VỤ ÁN HÌNH SỰ .... 7
1.1. Khái niệm, đặc điểm, ý nghĩa cơ sở khởi tố vụ án hình sự ............................ 7
1.1.1. Khái niệm cơ sở khởi tố vụ án hình sự........................................................ 7
1.1.2. Đặc điểm cơ sở khởi tố vụ án hình sự ........................................................ 11
1.1.3. Ý nghĩa của cơ sở khởi tố vụ án hình sự .................................................. 13
1.2. Kinh nghiệm từ lịch sử pháp luật tố tụng hình sự của Việt Nam và pháp
luật một số nƣớc trên thế giới về cơ sở khởi tố vụ án hình sự ............................ 15

1.2.1. Lịch sử hình thành và phát triển của pháp luật tố tụng hình sự về cơ sở
khởi tố vụ án hình sự .......................................................................................... 15
1.2.2. Cơ sở khởi tố vụ án hình sự theo luật tố tụng hình sự của một nước trên
thế giới ............................................................................................................... 21
Kết luận Chƣơng 1 ................................................................................................. 27
CHƢƠNG 2. QUY ĐỊNH PHÁP LUẬT TỐ TỤNG HÌNH SỰ VỀ CƠ SỞ
KHỞI TỐ VỤ ÁN HÌNH SỰ ................................................................................. 29
2.1. Quy định Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 về cơ sở khởi tố vụ án hình sự
.................................................................................................................................. 29
2.1.1. Tố giác của cá nhân ................................................................................. 29
2.1.2. Tin báo của cơ quan, tổ chức, cá nhân .................................................... 35
2.1.3. Tin báo trên các phương tiện thông tin đại chúng .................................. 37
2.1.4. Kiến nghị khởi tố của cơ quan nhà nước ................................................. 39
2.1.5. Cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng trực tiếp phát hiện dấu hiệu
của tội phạm....................................................................................................... 41
2.1.6. Người phạm tội tự thú .............................................................................. 42
2.2 Thủ tục, trình tự tiếp nhận, giải quyết nguồn tin là cơ sở khởi tố vụ án hình
sự ............................................................................................................................. .44
Kết luận Chƣơng 2 ................................................................................................. 51
CHƢƠNG 3. THỰC TIỄN VÀ GIẢI PHÁP NÂNG CAO HIỆU QUẢ ÁP
DỤNG PHÁP LUẬT TỐ TỤNG HÌNH SỰ VỀ CƠ SỞ KHỞI TỐ VỤ ÁN
HÌNH SỰ ................................................................................................................. 52


3.1 Thực tiễn áp dụng pháp luật tố tụng hình sự về cơ sở khởi tố vụ án hình sự
.................................................................................................................................. 52
3.1.1. Những kết quả đạt được........................................................................... 52
3.1.2. Những hạn chế, thiếu sót ......................................................................... 61
3.1.3. Nguyên nhân của những hạn chế, vướng mắc ......................................... 64
3.2. Giải pháp nâng cao hiệu quả áp dụng pháp luật tố tụng hình sự về cơ sở

khởi tố vụ án hình sự ............................................................................................... 65
3.2.1. Giải pháp hồn thiện Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015 về cơ sở khởi tố
vụ án hình sự ...................................................................................................... 65
3.2.2. Giải pháp triển khai áp dụng các quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự về
cơ sở khởi tố vụ án hình sự ................................................................................ 68
Kết luận Chƣơng 3 ................................................................................................. 72
KẾT LUẬN ............................................................................................................. 73


1

LỜI MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Xây dựng “Nhà nước ta là Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân
dân, do nhân dân, vì nhân dân”1 ln là tư tưởng xuyên suốt của Đảng và Nhà nước
ta. Để thực hiện được mục tiêu trên, trước hết, TTHS phải là công cụ sắc bén, hiệu
quả, đáp ứng yêu cầu bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa, bảo vệ pháp chế xã hội chủ
nghĩa, phát huy được tính dân chủ và công bằng xã hội, tôn trọng, bảo vệ tốt quyền,
lợi ích hợp pháp của cơng dân, xử lý nghiêm minh mọi hành vi phạm tội, không làm
oan người vô tội, không bỏ lọt tội phạm và người phạm tội. Do đó, trình tự, thủ tục
TTHS phải được tiến hành chặt chẽ, khoa học, hợp lý và hợp pháp từ khi hành vi
phạm tội xảy ra cho đến khi vụ án được xem xét, giải quyết bằng quyết định hoặc
bản án có hiệu lực pháp luật của tịa án.
Theo quy định của pháp luật hiện hành, việc giải quyết vụ án hình sự có thể
trải qua nhiều giai đoạn TTHS khác nhau như: Khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử…
Trong đó khởi tố vụ án hình sự là giai đoạn mở đầu TTHS, mở đầu cho quá trình
chứng minh vụ án. Đây là giai đoạn có ý nghĩa đặc biệt quan trọng đối với việc giải
quyết vụ án hình sự, trong đó cơ quan có thẩm quyền xác định có hay khơng có dấu
hiệu của tội phạm để ra quyết định khởi tố và không khởi tố vụ án hình sự. Nếu việc
khởi tố vụ án hình sự được thực hiện một cách kịp thời, có căn cứ và đúng pháp luật

sẽ góp phần đảm bảo cho phát hiện và xử lý tội phạm được được nhanh chóng,
tránh tình trạng truy cứu trách nhiệm hình sự oan sai đối với người vô tội; tạo điều
kiện, tiền đề cho các giai đoạn sau mà trước hết là cơ sở để CQĐT công khai mở
cuộc điều tra và áp dụng các biện pháp cần thiết do pháp luật TTHS quy định để
làm rõ vụ án, người phạm tội. Ngược lại, nếu việc khởi tố vụ án hình sự khơng kịp
thời sẽ gây khó khăn cho các giai đoạn sau, có thể dẫn đến tình trạng bỏ lọt, bỏ sót
tội phạm; khởi tố vụ án khơng chính xác thì sẽ dẫn đến oan sai cho người vô tội,
ảnh hưởng đến quyền và lợi ích hợp pháp của cơng dân, tính nghiêm minh của pháp
luật cũng như trật tự xã hội. Vì vậy, việc khởi tố vụ án hình sự cần phải đáp ứng
được những yêu cầu chung về bảo vệ an toàn cho các hoạt động trong trật tự quản
lý nhà nước và quản lý xã hội, nhằm bảo đảm mọi hành vi phạm tội phải được phát

1

Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI, Nxb. Chính trị quốc gia – Sự
thật, Hà Nội, 2011, tr. 72.


2

hiện, điều tra, xử lý kịp thời, bảo vệ được những quyền và lợi ích hợp pháp của tổ
chức, cá nhân có liên quan đến hoạt động này.
Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 đã có những thay đổi trên tinh thần cải
cách tư pháp, góp phần sửa đổi, bổ sung các quy định của BLTTHS năm 2003 để
khắc phục những khó khăn, bất cập trong cơng tác điều tra, truy tố, xét xử các vụ án
hình sự. Đặc biệt, BLTTHS năm 2015 đã giải quyết một số quy định bất cập về
khởi tố vụ án hình sự nói chung và cơ sở khởi tố vụ án hình sự nói riêng, tạo cơ sở
pháp lý để các cơ quan có thẩm quyền thực thi có hiệu quả quyết định đưa sự việc
giải quyết bằng thủ tục tố tụng; đồng thời là những công cụ để bảo vệ quyền con
người trong TTHS góp phần thực hiện đấu tranh phịng chống tội phạm có hiệu quả.

Tuy nhiên, dù đã có những thay đổi tiến bộ hơn so với BLTTHS 2003,
nhưng BLTTHS năm 2015, sau một thời gian áp dụng đã bắt đầu bộc lộ một số tồn
tại, hạn chế nhất định, kể cả trên phương diện pháp luậtvà thực tiễn. Một số quy
định chưa được thống nhất, chưa rõ về mặt ngữ nghĩa, gây ra những khó khăn trong
q trình áp dụng. Bên cạnh đó, việc một số các quy định về khởi tố vụ án hình sự
cũng bộc lộ những vướng mắc, bất cập nhất định, có thể nhận thấy qua nhiều điểm
còn chưa hợp lý, thiếu đồng bộ, thống nhất; chưa dự liệu và điều chỉnh hết những
trường hợp xảy ra trong thực tiễn.
Một trong số đó là vấn đề còn bất cập liên quan đến cơ sở khởi tố vụ án hình
sự. Về phương diện lý luận, cịn nhiều vấn đề về cơ sở khởi tố chưa được làm rõ,
chưa có sự thống nhất trong nhận thức về cơ sở khởi tố, gây ra sự lúng túng trong
việc áp dụng luật và tổ chức các hoạt động thực tiễn, làm hạn chế kết quả khởi tố;
làm cho hoạt động khởi tố bị kéo dài, vi phạm thời hạn luật định, thậm chí dẫn đến
bế tắc, oan sai. Mặc khác, việc BLTTHS mới được ban hành và áp dụng trong thời
gian gần đây, cho nên các văn bản hướng dẫn và các đề tài, bài viết liên quan cơ sở
khởi tố vụ án hình sự chưa nhiều. Chính vì thế, việc nghiên cứu làm rõ nội dung lý
luận về cơ sở khởi tố hình sự hiện hành, thực tiễn áp dụng, chỉ ra các tồn tại hạn
chế, trên cơ sở đó đề ra một số giải pháp hồn thiện trong thời gian tới là một vấn
đề mang tính cấp bách có ý nghĩa cả về lý luận và thực tiễn.
Xuất phát từ lý do trên mà tác giả đã chọn đề tài “Cơ sở khởi tố vụ án hình
sự trong luật tố tụng hình sự Việt Nam” để làm đề tài luận văn của mình.


3

2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Những năm gần đây, đã có nhiều đề tài nghiên cứu về khởi tố vụ án tố hình
sự ở những cấp độ và phạm vi khác nhau. Những cơng trình nghiên cứu mà tác giả
tiếp cận được bao gồm:
- Các giáo trình luật tố tụng của các trường đại học thì nội dung về cơ sở

khởi tố vụ án hình sự rất ngắn gọn, khái qt và chủ yếu giải thích luật.
Bên cạnh đó có một số tài liệu tham khảo, cơng trình nghiên cứu, trong đó
phải kể đến một số cơng trình sau:
- Tác giả Phạm Thái (2015), Luận án Tiến sĩ “Khởi tố vụ án trong tố tụng
hình sự Việt Nam” (Trường Đại học Luật TP. Hồ Chí Minh); tác giả Phan Văn
Tuyến (2015), Luận văn cao học “Khởi tố vụ án hình sự - Những vấn đề lý luận và
thực tiễn” (Trường Đại học Luật TP. Hồ Chí Minh). Các cơng trình này đề cập
những vấn đề chung nhất về khởi tố vụ án hình sự như: khái niệm, cơ sở và căn cứ
khởi tố, thẩm quyền, trình tự thủ tục… Tuy nhiên, chưa tập trung và nghiên cứu sâu
các quy định của BLTTHS về cơ sở khởi tố vụ án hình sự.
- Viện nghiên cứu Nhà nước và Pháp luật (1995), Tội phạm học. Luật hình
sự và Luật tố tụng hình sự Việt Nam, NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội trong đó có
phần viết về khởi tố gồm 8 trang (từ trang 460 đến 467); GS.TS. Nguyễn Ngọc
Anh, TS. Phan Trung Hồi (2015), Bình luận khoa học Bộ luật Tố tụng hình sự
2015, Nxb Chính trị quốc gia có 42 trang bình luận các điều luật về khởi tố (từ
trang 303 đến trang 345). Nội dung đề cập một cách khái quát những vấn đề cơ bản
nhất trong lý luận khởi tố như căn cứ, cơ sở khởi tố vụ án, nhiệm vụ, ý nghĩa, thẩm
quyền của khởi tố vụ án.
- Phạm Việt Trường (2001), Những vấn đề lý luận và thực tiễn áp dụng pháp
luật tố tụng hình sự trong điều tra các vụ án xâm phạm an ninh quốc gia - Kiến
nghị và giải pháp, Đề tài khoa học cấp Bộ, mã số TA-2001-T31-058, trong đó có đề
cập đến các vấn đề lý luận và giải quyết tin báo, tố giác về tội phạm.
- Hay các bài viết tạp chí như: Nguyễn Hải Ninh (2010), Vấn đề khởi tố vụ
án hình sự theo yêu cầu bị hại, Tạp chí Luật học, Tr.48-52; Vũ Gia Lâm (2010),
Thẩm quyền khởi tố vụ án hình sự của Viện kiểm sát và Tịa án, Tạp chí Luật học,
Tr.34-37; Phan Thị Thanh Mai (2010), Căn cứ khơng khởi tố vụ án hình sự và một
số quy định liên quan, Tạp chí Luật học, Tr.21-24.


4


Các cơng trình khoa học nói trên mặc dù có đề cập đến cơ sở khởi tố vụ án
hình sự nhưng khơng phải là đối tượng chính của cơng trình nên nội dung chỉ mang
tính chất khái qt, khơng sâu sắc và toàn diện.
- Tác giả Phạm Văn Huân (2013), Luận văn thạc sĩ luật học “Những cơ sở và
căn cứ khởi tố vụ án hình sự”; Lê Việt Sơn (2006), Khóa luận tốt nghiệp “Cơ sở
khởi tố vụ án hình sự” đã có những phân tích, làm rõ các quy định về cơ sở khởi tố
vụ án hình sự trong BLTTHS năm 2003 và đề xuất hoàn thiện.
Như vậy, có thể nói rằng, so với các vấn đề khác của TTHS, lý luận về cơ sở
khởi tố vụ án hình sự vẫn cịn bỏ ngõ nhiều vấn đề, vẫn chưa có một cơng trình nào
nghiên cứu tồn diện, sâu sắc những vấn đề trong luận văn theo quy định của
BLTTHS năm 2015 về cơ sở khởi tố vụ án hình sự. Chính vì vậy, mảng tri thức về
đề này vẫn còn nhiều hạn chế dẫn đến việc nhận thức chưa có sự thống nhất. Và
chính vì sự hạn chế về mặt lý luận không thống nhất nên việc áp dụng các quy định
về cơ sở khởi tố gặp không ít vướng mắc, khó khăn. Điều này cho thấy luận văn của
tác giả có tính thời sự và cấp thiết.
Trên cơ sơ kế thừa kết quả nghiên cứu của các cơng trình trên về lý luận, tác
giả bổ sung thêm các phân tích, lý giải về lý luận, pháp luật hiện hành về cơ sở khởi
tố vụ án hình sự nhằm làm rõ những điểm chưa phù hợp và các vướng mắc có khả
năng phát sinh trong thực tiễn. Từ đó đề xuất các giải pháp cụ thể nhằm mục tiêu
hồn thiện quy định của luật hình sự, đảm bảo sự phù hợp với thực tiễn.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu của đề tài
Mục đích nghiên cứu
Luận văn được nghiên cứu nhằm làm sáng tỏ cơ sở lý luận, vấn đề pháp lý và
thực tiễn về cơ sở khởi tố vụ án hình sự từ đó kiến nghị các giải pháp nâng cao hiệu
quả áp dụng pháp luật về cơ sở khởi tố vụ án hình sự.
Nhiệm vụ nghiên cứu
- Trình bày vấn đề lý luận về cơ sở khởi tố vụ án hình sự.
- Phân tích các cơ sở khởi tố vụ án hình sự được quy định trong quy chế của
ngành kiểm sát và thực tiễn áp dụng.

- Đánh giá thực tiễn áp dụng cơ sở tố vụ án hình sự, từ đó kiến nghị các giải
pháp nâng cao hiệu quả áp dụng cơ cơ sở khởi tố vụ án hình sự.


5

4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu của đề tài
- Đối tượng nghiên cứu
Luận văn tập trung nghiên cứu bản chất pháp lý và thực tiễn áp dụng các cơ
sở khởi tố vụ án hình sự.
- Phạm vi nghiên cứu
+ Về nội dung: Luận văn nghiên cứu quy định về cơ sở khởi tố vụ án hình sự
và trình tự, thủ tục tiếp nhận, giải quyết nguồn tin về tội phạm là cơ sở khởi tố vụ án
hình sự.
+ Về không gian: Trong phạm vi luận văn này, tác giả đánh giá thực tiễn về
cơ sở khởi tố vụ án hình trong phạm vi cả nước.
+ Về thời gian: đề tài nghiên cứu thực tiễn vận dụng quy định của BLTTHS
về cơ sở khởi tố vụ án hình sự từ năm 2015 đến 2020.
5. Phƣơng pháp nghiên cứu
Để hoàn thành đề tài này, trong quá trình nghiên cứu tác giả dựa trên phương
pháp luận của chủ nghĩa Mác–Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và các quan điểm của
Đảng và Nhà nước ta về chính sách hình sự và cải cách tư pháp, đảm bảo quyền con
người trong TTHS Ngoài ra, tác giả còn vận dụng tổng hợp nhiều phương pháp
nghiên cứu khác nhau. Cụ thể:
- Phương pháp phân tích và tổng hợp: Tác giả sử dụng phương pháp này để
làm rõ quy định cơ sở khởi tố vụ án hình sự. Trên cơ sở đó tổng hợp đưa ra ý kiến
đề xuất hoàn thiện BLTTHS Việt Nam.
- Phương pháp nghiên cứu tài liệu của các cơng trình đã được cơng bố trước
đó trong và ngồi nước dùng để tiếp thu chọn lọc và tham khảo các kiến thức về vấn
đề nghiên cứu.

- Phương pháp so sánh được dùng để tìm ra sự tương đồng và khác biệt giữa
luật TTHS Việt Nam với luật TTHS của các quốc gia trên thế giới. Từ đó sẽ có kết
quả đề xuất cụ thể cho vấn đề nghiên cứu.
- Phương pháp thống kê được sử dụng ở Chương 3 trong phần thực tiễn về
việc tiếp nhận tố giác, kiến nghị khởi tố của một số cơ quan có thẩm quyền, từ đó
đưa ra đánh giá về thuận lợi và khó khăn trong quá trình áp dụng quy định cơ sở
khởi tố vụ án hình sự.
6. Ý nghĩa khoa học và giá trị ứng dụng của đề tài
Luận văn góp phần làm sáng tỏ những vấn đề lý luận về cơ sở khởi tố vụ án


6

hình sự theo luật TTHS Việt Nam; phân tích sự tương đồng giữa những vấn đề lý
luận chung và quy định của BLTTHS năm 2015 và quy định của BLTTHS năm
2015 với quy định của một số quốc gia. Từ đó đề xuất các định hướng và giải pháp
hồn thiện pháp luật thực định và nâng cao hiệu quả các quy định về cơ sở khởi tố
vụ án hình sự.
Với những đóng góp trên, tác giả hi vọng luận văn có thể được sử dụng làm
tài liệu tham khảo phục vụ cho công tác nghiên cứu, học tập và giảng dạy, đóng góp
một phần nhỏ vào việc sửa đổi các quy định của BLTTHS năm 2015 để ngày càng
hoàn thiện hơn.
7. Bố cục của đề tài
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, nội dung đề tài
bao gồm ba chương:
Chƣơng 1. Lý luận chung về cơ sở khởi tố vụ án hình sự
Chƣơng 2. Quy định của pháp luật tố tụng hình sự về cơ sở khởi tố vụ án hình sự
Chƣơng 3. Thực tiễn và giải pháp nâng cao hiệu quả áp dụng pháp luật tố
tụng hình sự về cơ sở khởi tố vụ án hình sự



7

CHƢƠNG 1. LÝ LUẬN CHUNG VỀ CƠ SỞ KHỞI TỐ VỤ ÁN HÌNH SỰ
1.1. Khái niệm, đặc điểm, ý nghĩa cơ sở khởi tố vụ án hình sự
1.1.1. Khái niệm cơ sở khởi tố vụ án hình sự
Vi phạm pháp luật xảy ra trên thực tiễn rất đa dạng, phong phú, đó có thể là
vi phạm pháp luật hành chính, dân sự hay hình sự. Vi phạm pháp luật khác nhau sẽ
có biện pháp xử lý và chế tài khác nhau. Khi có hành vi vi phạm pháp luật xảy ra,
cơ quan áp dụng pháp luật phải xác định chính xác đó là loại vi phạm pháp luật nào
để áp dụng chế tài phù hợp. Trong đó, vi phạm pháp luật hình sự có tính chất và
mức độ nguy hiểm cao cho xã hội nên tính chất răn đe, trừng trị nghiêm khắc nhất.
Do đó, yêu cầu đặt ra cho các cơ quan có thẩm quyền là phải xác định loại vi phạm
này chuẩn xác nhằm bảo đảm cho hoạt động đấu tranh phòng, chống tội phạm hiệu
quả, bảo vệ quyền con người, tránh những oan sai có thể xảy ra. Sau khi tiếp nhận
nguồn tin vi phạm pháp luật, cơ quan có thẩm quyền phải tiến hành kiểm tra, xác
minh, kết luận sự việc xảy ra có hay khơng có dấu hiệu tội phạm để từ đó ra quyết
định khởi tố hay quyết định không khởi tố vụ án hình sự. Pháp luật TTHS xác định
đây là giai đoạn khởi tố vụ án hình sự - giai đoạn mở đầu cho q trình giải quyết
vụ án hình sự.
Chính giai đoạn này đã xác lập một văn bản pháp lí mang tính quyết định đối
với vụ án hình sự (quyết định khởi tố hoặc quyết định không khởi tố). Trên cơ sở
văn bản pháp lí, cơ quan thẩm quyền sẽ có những hướng giải quyết khác nhau đối
với vụ việc xảy ra: Nếu quyết định không khởi tố vụ án: sẽ chấm dứt quan hệ tố
tụng, nếu cần thiết xử lí bằng các biện pháp khác thì sẽ chuyển hồ sơ cho cơ quan,
tổ chức hữu quan; nếu quyết định khởi tố vụ án: là cơ sở pháp lý đầu tiên để tiến
hành các hoạt động tố tụng tiếp theo là điều tra, truy tố, xét xử...
Ngay từ lần pháp điển hóa đầu tiên, BLTTHS năm 1988 đã khẳng định “Chỉ
được khởi tố vụ án hình sự khi đã xác định có dấu hiệu tội phạm”2 hay nói cách
khác cơ quan có thẩm quyền chỉ được khởi tố vụ án hình sự khi đã xác định có

DHTP. Đến BLTTHS năm 2003 và BLTTHS năm 2015 tiếp tục khẳng định căn cứ
khởi tố vụ án hình sự là hành vi có “dấu hiệu tội phạm” đã được xác định. Mặc dù
Bộ luật đã quy định cụ thể nhưng tùy vào việc tiếp cận và đặt trong mối quan hệ
khác nhau đã dẫn đến sự giải thích khác nhau về “dấu hiệu tội phạm”; đó có thể là
những thơng tin khách quan về hành vi phạm tội3, có sự việc xảy ra và sự việc có
2
3

Điều 83 BLTTHS năm 1988.
Bình luận khoa học Bộ luật Tố tụng hình sự (1995), Viện nghiên cứu khoa học pháp lý, tr.463.


8

dấu hiệu tội phạm4, khi có chứng cứ để đi đến nghi ngờ có tội phạm xảy ra5 hay căn
cứ để xác định dấu hiệu của tội phạm6...
Như vậy, các nhà nghiên cứu đã dựa trên lý luận triết học về cặp phạm trù
nội dung - hình thức để lý giải căn cứ khởi tố. Chẳng hạn trên cơ sở lý luận chứng
cứ, đặt căn cứ khởi tố trong mối quan hệ với nguồn tài liệu chứa đựng, phản ánh nó
thì căn cứ khởi tố được giải thích là chứng cứ chứng minh nhằm xác định có dấu
hiệu tội phạm. Đặt trong mối quan hệ giữa Luật hình sự và Luật tố tụng hình sự thì
căn cứ khởi tố là dấu hiệu của tội phạm7.
Trong thực tiễn, để ra quyết định khởi tố vụ án hình sự, cơ quan có thẩm
quyền cần xác định rõ hai vấn đề sau:
Thứ nhất, có sự việc xảy ra, hay nói cách khác, sự việc được tiếp nhận có
xảy ra trên thực tế hay không. Đây là vấn đề quan trọng đầu tiên cần xác định, bởi
lẽ không phải mọi thông tin về tội phạm mà cơ quan có thẩm quyền tiếp nhận đều
xảy ra trên thực tế. Trong nhiều trường hợp có cơ quan, tổ chức, cá nhân nhầm lẫn
như thấy cảnh đâm chém, tấn cơng người khác nên trình báo với cơ quan Cơng an,
tuy nhiên, sau q trình kiểm tra, xác minh xác định đó chỉ là hoạt động của đồn

phim đang diễn cảnh; hay đó có thể là cá nhân phá rối cơ quan có thẩm quyền hoặc
do giả tạo nên cung cấp thông tin về vụ việc phạm tội khơng chính xác. Do đó, khi
tiếp nhận thơng tin liên quan đến tội phạm, cơ quan có thẩm quyền phải xác định rõ
xem là có sự việc đã diễn ra hay đang diễn ra, nắm được sơ bộ về thời gian, địa
điểm, diễn biến vụ việc cùng các thông tin khác có liên quan.
Thứ hai, sự việc xảy ra có dấu hiệu tội phạm. Khi giải thích về căn cứ khởi tố
vụ án, vấn đề có ý nghĩa đặc biệt quan trọng là hiểu đúng nội dung, phạm vi của
quy định “dấu hiệu tội phạm”. Theo Khoa học Luật Hình sự, tội phạm gồm 04
thuộc tính sau: Tính nguy hiểm cho xã hội, tính có lỗi, tính trái pháp luật hình sự và
tính chịu trách nhiệm hình sự. Một hành vi chỉ bị coi là tội phạm khi có đầy đủ 04
dấu hiệu trên. Điều này đặt ra vấn đề cần làm rõ, đó là “dấu hiệu tội phạm” trong
căn cứ khởi tố vụ án hình sự có đồng nhất với DHTP trong luật hình sự khơng?
Dấu hiệu tội phạm là căn cứ khởi tố vụ án hình sự là DHTP trong luật hình
sự nhưng khác nhau ở sự đầy đủ. Đối với DHTP (với ý nghĩa là căn cứ khởi tố vụ
4

Trường Đại học Luật Hà Nội (2019), Giáo trình Luật Tố tụng hình sự Việt Nam, Nhà xuất bản Công an
nhân dân, tr.291
5
Nguyễn Bá Ngừng (2003), Nội san Khoa học và Giáo dục An ninh, tr.43.
6
Bình luận khoa học Bộ luật Tố tụng hình sự (1995), Viện nghiên cứu khoa học pháp lý, tr. 57
7
Phan Văn Tuyến (2009) Khởi tố vụ án hình sự - Những vấn đề lý luận và thực tiễn, tr. 13


9

án) phải được hiểu theo nghĩa chung, khái quát; có nghĩa là cơ quan cơ quan có
thẩm quyền chứng minh sơ bộ có dấu hiệu tội phạm. Đó là những biểu hiện, những

“khía cạnh” của tội phạm được chứng minh, xác định bằng chứng cứ cụ thể.8 Tức là
khi khởi tố vụ án hình sự, cơ quan có thẩm quyền chỉ cần xác định biểu hiện tội
phạm, chưa cần thiết phải xác định đầy đủ các dấu hiệu của tội phạm được rút ra từ
khái niệm tội phạm. Bởi lẽ, khởi tố vụ án hình sự là giai đoạn đầu tiên của TTHS,
cơ quan có thẩm quyền THTT chỉ tiếp nhận những thông tin ban đầu về tội phạm,
thời gian tiến hành ngắn, do đó khơng thể xác định một cách đầy đủ tất cả các dấu
hiệu trên. Chẳng hạn, khi chưa xác định được người thực hiện tội phạm, thì việc xác
định tính có lỗi của chủ thể là khơng thể vì lỗi là trạng thái tâm lý của người phạm
tội với hành vi và hậu quả. Do đó, khơng phải chờ đến khi có chứng cứ chứng minh
đầy đủ các dấu hiệu kể trên mới khởi tố vụ án, vì đây là nhiệm vụ điều tra. Tại thời
điểm ra quyết định khởi tố vụ án, cơ quan có thẩm quyền vẫn xác định dấu hiệu tội
phạm dựa trên những lý luận về tội phạm trong luật hình sự nhưng không phải
chứng minh tất cả các dấu hiệu kể trên mà chỉ cần làm rõ một hoặc một số dấu hiệu
đặc trưng mà dựa vào đó CQTHTT có căn cứ để tin rằng có thể có tội phạm xảy ra.
Trong thực tế, những biểu hiện của DHTP rất đa dạng nhưng không mập mờ,
trừu tượng, mà ngược lại, DHTP phải rất cụ thể, rõ ràng bằng các chứng cứ cụ thể.
DHTP thường được biểu hiện như: Sự việc nguy hiểm xảy ra là do hành vi con
người gây ra (như phát hiện người chết, nguyên nhân chết không phải do tự tử mà
có sự tác động của con người, cơ quan có thẩm quyền khởi tố để điều tra làm rõ..);
sự việc xảy ra có tính chất và mức độ nguy hiểm đáng kể (như hành vi gây tai nạn
giao thông gây hậu quả nghiêm trọng, cháy chung cư làm nhiều người chết…).
Như vậy, theo quy định của BLTTHS, cơ quan có thẩm quyền quyết định
khởi tố vụ án hình sự khi đã xác định dấu hiệu tội phạm. Có những trường hợp do
cơ quan có thẩm quyền trực tiếp phát hiện dấu hiệu tội phạm và khởi tố; có những
trường hợp phải thơng qua các nguồn tin khác nhau, như: Tố giác, tin báo hay kiến
nghị khởi tố… để xác định dấu hiệu tội phạm. Đây là nguồn thơng tin ban đầu để cơ
quan có thẩm quyền tiến hành kiểm tra, xác minh. Những nguồn tin này được
BLTTHS năm 1988 và BLTTHS năm 2003 xem là cơ sở khởi tố vụ án hình sự.
Cho đến hiện nay, khái niệm về cơ sở khởi tố vụ án hình sự vẫn chưa được
quy định trong Luật. Theo Đại từ điển Tiếng Việt năm 2008 cho rằng “Cơ sở là cái

8

truy cập ngày 07/01/2019


10

làm nền tảng để dựa vào đó hay từ đó mà phát triển”9. Từ điển Tiếng Việt năm
1988 định nghĩa “Cơ sở là cái nền tảng, gốc và dựa vào đó mà tồn tại, phát triển”10
hay Từ điển Tiếng Việt năm 1997 cũng có định nghĩa tương tự “Cơ sở là nền tảng,
căn cứ, gốc”11.
Khi nghiên cứu các tài liệu trước khi BLTTHS năm 2015 ra đời, như giáo
trình Luật Tố tụng hình sự Việt Nam năm 2011, PGS. TS Trần Văn Độ (chủ biên)
cho rằng “Cơ sở khởi tố vụ án hình sự là những nguồn tin mà dựa vào đó cơ quan
có thẩm quyền khởi tố xác định đấu hiệu tội phạm để ra quyết định khởi tố vụ án” 12.
Đề cương bài giảng Luật Tố tụng hình sự Việt Nam của Trường Đại học An ninh
nhân dân năm 2012 định nghĩa “cơ sở khởi tố vụ án hình sự là những nguồn thơng
tin, tài liệu phản ánh căn cứ khởi tố”13. Như vậy, dựa vào lý luận về chứng cứ, dấu
hiệu tội phạm không tự bộc lộ được mà được thể hiện thông qua chứng cứ tồn tại
trong các tài liệu, thông tin ban đầu về tội phạm (cơ sở khởi tố) phản ánh đối tượng
chứng minh (là dấu hiệu tội phạm). Tóm lại, các tài liệu, nghiên cứu trên đã xác
định cơ sở khởi tố vụ án là những thông tin, tài liệu ban đầu về sự kiện phạm tội.
Từ các tài liệu đã phân tích ở trên, tác giả cho rằng cơ sở khởi tố vụ án hình
sự là những nguồn tin, tài liệu mà dựa vào đó cơ quan có thẩm quyền có thể xác
định sự việc xảy ra có dấu hiệu tội phạm hay khơng; hay nói các khác cơ sở khởi tố
VAHS là nguồn thông tin chứa đựng thông tin về tội phạm. Những nguồn tin này là
những cơ sở ban đầu để cơ quan có thẩm quyền kiểm tra, xác minh, nhằm xác định
dấu hiệu tội phạm. Dấu hiệu tội phạm được xác định thông qua các nguồn tin,
nguồn tài liệu luật định mới có giá trị pháp lý để tiến hành kiểm tra, xác minh để ra
quyết định khởi tố hoặc khơng khởi tố vụ án hình sự. Ngược lại, thơng tin dù có giá

trị đến đâu nhưng nếu khơng được rút ra từ các nguồn luật định thì cơ quan có thẩm
quyền cũng khơng thể dựa vào đó để khởi tố hoặc khơng khởi tố vụ án hình sự.
Như vậy, những nguồn tin cung cấp thông tin về tội phạm là cơ sở ban đầu
để cơ quan tiến hành tố tụng có thẩm quyền tiến hành các hoạt động kiểm tra, xác
minh hay các biện pháp tố tụng khác nhằm xác định dấu hiệu tội phạm là cơ sở khởi
tố VAHS. Điều này chứng tỏ rằng, cơ sở khởi tố VAHS không phải là căn cứ khởi
9

Nguyễn Như Ý (2008), Đại từ điển Tiếng, Nxb, Đại học Quốc gia TP. Hồ Chí Minh, tr.355.
Viện ngơn ngữ học (1988) Từ điển Tiếng Việt, Nhà xuất bản từ Khoa học xã hội, Hà Nội, tr.235.
11
Phan Canh, Từ điển Tiếng Việt (1997) , Nhà xuất bản Mũi Cà Mau, tr.211
12
PGS.TS Trần Văn Độ (2011), Giáo trình luật Tố tụng hình sự Việt Nam, Nhà xuất bản giáo dục Việt
Nam, tr.144.
13
Bộ môn Pháp luật (2019), Tập bài giảng Luật Tố tụng hình sự Việt Nam, Trường Đại học An ninh nhân
dân, tr.119.
10


11

tố mà chúng chỉ là nguồn chứa thông tin cho phép đi đến kết luận có hay khơng khởi tố
VAHS. Cơ sở khởi tố vụ án là tổng hợp những thơng tin, tài liệu theo quy định pháp
luật, từ đó cơ quan có thẩm quyền tiến hành xác định có hay khơng có dấu hiệu tội
phạm.
Từ BLTTHS năm 2003 trở về trước đều ghi nhận hai thuật ngữ pháp lý “căn
cứ” và “cơ sở” khởi tố vụ án hình sự. Tuy nhiên, BLTTHS năm 2015 lại sử dụng
cụm từ “căn cứ xác định dấu hiệu tội phạm” thay thế cho “cơ sở khởi tố” như trước

đây. Tuy có sự thay đổi về mặt hình thức, nhưng về bản chất là không thay đổi. Dù
là căn cứ xác định dấu hiệu tội phạm hay cơ sở khởi tố thì đây đều là nguồn thông
tin, tài liệu chứa đựng thông tin về tội phạm. Tuy vậy, theo tác giả, đây là một bước
lùi về mặt lập pháp, vì trong một điều luật sử dụng chung một thuật ngữ “căn cứ”
nhưng không thống nhất về mặt nội hàm dẫn đến điều luật không rõ ràng.

1.1.2. Đặc điểm cơ sở khởi tố vụ án hình sự
Về bản chất cơ sở khởi tố là các thơng tin mà các cơ quan có thẩm quyền dựa
vào đó để xác định có hay khơng có dấu hiệu tội phạm để ra các quyết định phù hợp
là có khởi tố hay khơng khởi tố vụ án hình sự. Do vậy, đặc điểm của cơ sở khởi tố
vụ án có thể được tiếp cận dưới một số góc độ sau:
Một là về hình thức tồn tại của cơ sở khởi tố vụ án là những nguồn tin về tội
phạm được quy định trong BLTTHS
Cơ sở khởi tố vụ án là thơng tin mà dựa vào đó cơ quan có thẩm quyền khởi
tố xác định có dấu hiệu tội phạm. Để tránh những sai sót có thể xảy ra, luật quy định
chỉ được khởi tố vụ án hình sự khi xác định có dấu hiệu tội phạm. Tuy nhiên, khơng
phải trong mọi trường hợp khi có tội phạm xảy ra thì cơ quan có thẩm quyền cũng
trực tiếp phát hiện được dấu hiệu tội phạm. Rất nhiều trường hợp phải dựa vào các
nguồn tin khác nhau để kiểm tra, xác minh nhằm xác định dấu hiệu tội phạm. Chính
vì vậy luật quy định rất rõ rằng các nguồn tin đó phải được quy định trong luật thì
mới có giá trị pháp lý để thơng qua đó có thể ra quyết định khởi tố vụ án hình sự.
Nói một cách khác, cơ sở khởi tố vụ án hình sự phải được ghi nhận trong luật. Điều
143 Bộ luật TTHS hiện hành quy định rằng việc xác định dấu hiệu tội phạm dựa
vào các nguồn thông tin sau:
- Tố giác của cá nhân
- Tin báo của cơ quan, tổ chức, cá nhân
- Tin báo trên phương tiện thông tin đại chúng
- Kiến nghị khởi tố của cơ quan nhà nước



12

- Cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng trực tiếp phát hiện dấu hiệu tội phạm
- Người phạm tội tự thú
Hai là, về thời điểm xuất hiện nguồn tin về tội phạm là khi cơ quan có thẩm
quyền THTT tiếp nhận thông tin về tội phạm
Cơ sở khởi tố đặc trưng bởi mối quan hệ mật thiết giữa người, cơ quan, tổ
chức có thơng tin về tội phạm và các cơ quan có thẩm quyền tiếp nhận tin báo, tố
giác về tội phạm. Khi bàn về cơ sở khởi tố vụ án hình sự, theo quan điểm tác giả
phải đề cập tới quá trình hình thành cơ sở khởi tố vụ án hình sự. Theo đó khi có sự
việc phạm tội xảy ra sẽ có thơng tin về hành vi, con người phạm tội, các tình tiết
liên quan, hay nói khác đi là các thơng tin về tội phạm. Các thông tin về tội phạm
này sẽ được thông báo đến các cơ quan có thẩm quyền và được các cơ quan có thẩm
quyền tiếp nhận theo trình tự, thủ tục tố tụng.
Như vậy có thể sơ đồ hóa quá trình hình thành cơ sở khởi tố vụ án hình sự
như sau: tội phạm  thơng tin về tội phạm  hoạt động của người (tổ chức) liên
quan đến việc chuyển giao thông tin về tội phạm  tiếp nhận theo trình tự thủ tục
tố tụng. Chính từ thời điểm cơ quan có thẩm quyền tiếp nhận thơng tin về tội phạm
(ghi nhận vào sổ thông tin, tố giác về tội phạm, lập biên bản tiếp nhận thông tin, tin
báo tố giác về tội phạm v.v…) thì những thơng tin này sẽ trở thành cơ sở về mặt tố
tụng để các cơ quan này có thể đưa ra các quyết định tiếp theo.
Có thể khẳng định thời điểm xuất hiện của cơ sở khởi tố vụ án hình sự gắn
chặt với hoạt động tiếp nhận, giải quyết thông tin, tài liệu về tội phạm của các cơ
quan có thẩm quyền. Bởi lẽ, nếu không thông qua hoạt động tiếp nhận, giải quyết thì
nguồn tin về tội phạm khơng tồn tại theo quy định của pháp luật và khơng có ý nghĩa
trong quá trình giải quyết vụ án hình sự. Do đó, việc nghiên cứu về cơ sở khởi tố vụ
án hình sự khơng thể tách rời với hoạt động tiếp nhận, giải quyết nguồn tin về tội
phạm.
Ba là, nội dung chính của cơ sở khởi tố phản ánh là thông tin về tội phạm
Các thông tin này thể hiện trong 06 nguồn mà nhà làm luật quy định tại điều

143 BLTTHS năm 2015. Phân tích bản chất của cơ sở khởi tố vụ án cho thấy, cho
dù thuộc loại nào trong 06 loại được BLTTHS quy định thì cơ sở khởi tố vụ án hình
sự vẫn được xem là thông tin đầu tiên (thông tin sơ cấp) về hành vi phạm tội, chủ
thể của tội phạm cũng như các tình tiết của sự việc phạm tội. Những thơng tin này


13

có giá trị là cơ sở để các cơ quan có thẩm quyền, sau khi đã tiến hành các biện pháp
xác minh, ra các quyết định tố tụng phù hợp.
Như vậy, nội dung cơ sở khởi tố vụ án hình sự là các thông tin về tội phạm
xuất phát từ các nguồn tin “thô” ban đầu về tội phạm, về người phạm tội hay các
tình tiết liên quan đến sự việc phạm tội, được pháp luật ghi nhận dưới các hình thức
khác nhau, nhưng đều hướng tới việc giúp các cơ quan có thẩm quyền đưa ra các
quyết định tố tụng trong giai đoạn khởi tố vụ án hình sự. Từ những nguồn tin “thơ”
này, cơ quan có thẩm quyền tiến hành “bóc tách” làm rõ có hay khơng có dấu hiệu
tội phạm để từ đó ra các quyết định tố tụng.
1.1.3. Ý nghĩa cơ sở khởi tố vụ án hình sự
Ý nghĩa về mặt pháp lý
Tại Điều 2 BLTTHS năm 2015 có quy định: “Bộ luật Tố tụng hình sự có
nhiệm vụ bảo đảm phát hiện chính xác và xử lý công minh, kịp thời mọi hành vi
phạm tội, phịng ngừa, ngăn chặn tội phạm, khơng để lọt tội phạm, làm oan người
vô tội”. Đây là nhiệm vụ quan trọng, xuyên suốt; do vậy, tất cả các quy định trong
BLTTHS đều được đặt ra nhằm thể chế hóa quy định này, cơ sở khởi tố vụ án hình
sự là một trong số đó. Cơ sở khởi tố vụ án hình sự là tiền đề để những hành vi phạm
tội bị phát hiện và xử lý. Bởi lẽ, từ những nguồn thông tin, tài liệu luật định, cơ
quan thẩm quyền mới tiến hành các hoạt động kiểm tra, xác minh kịp thời sự việc
xảy ra có hay khơng có dấu hiệu tội phạm nhằm ra quyết định khởi tố hay quyết
định khơng khởi tố vụ án hình sự.
Khi một tội phạm xảy ra, vấn đề đặt ra cho các cơ quan có thẩm quyền phải

phát hiện nhanh chóng, ngăn chặn, xử lý kịp thời hành vi phạm tội. Tuy nhiên, nếu
chỉ giao nhiệm vụ này cho các cơ quan có thẩm quyền khởi tố vụ án hình sự tự
mình phát hiện thì nguy cơ bỏ lọt, bỏ sót tội phạm rất cao. Vì vậy, BLTTHS đã quy
định cơ sở KTVAHS xuất phát từ nhiều nguồn tin chứa đựng thông tin tội phạm do
cá nhân, cơ quan, tổ chức, phương tiện thơng tin đại chúng cung cấp hay cơ quan có
thẩm quyền trực tiếp phát hiện. Bởi lẽ, đấu tranh phòng, chống tội phạm là nhiệm
vụ trọng tâm, cấp thiết, thường xun của cả hệ thống chính trị và tồn dân. Có thể
nhận thấy, các thơng tin về tội phạm được quy định trong BLTTHS sẽ được đa
dạng, phong phú, bao trùm được nhiều nguồn khác nhau. Như vậy, việc BLTTHS
quy định cơ sở khởi tố vụ án hình sự nâng cao quyền và trách nhiệm của các cơ
quan, tổ chức, cá nhân trong cơng cuộc đấu tranh phịng, chống tội phạm; đảm bảo
tội phạm nhanh chóng bị phát hiện và xử lý kịp thời.


14

Xuất phát từ việc áp dụng trách nhiệm hình sự sẽ ảnh hưởng đến quyền và
lợi ích chính đáng của cá nhân, pháp nhân. Do đó, q trình giải quyết vụ án hình sự
cần phải tuân theo một trình tự, thủ tục được quy định cụ thể trong BLTTHS. Theo
quy định tại Điều 143 Bộ luật TTHS 2015 “Chỉ được khởi tố vụ án khi đã xác định
có dấu hiệu tội phạm. Việc xác định dấu hiệu tội phạm dựa trên những căn cứ…”.
Có thể hiểu rằng cơ quan tiến hành tố tụng chỉ được khởi tố vụ án hình sự khi xác
định dấu hiệu tội phạm từ 06 cơ sở (căn cứ xác định dấu hiệu tội phạm): tố giác của
cá nhân; tin báo của cơ quan, tổ chức, cá nhân; tin báo trên phương tiện thông tin
đại chúng; kiến nghị khởi tố của cơ quan nhà nước; cơ quan có thẩm quyền THTT
trực tiếp phát hiện dấu hiệu tội phạm; người phạm tội tự thú. Hay nói cách khác, các
nguồn thông tin không xuất phát từ 06 cơ sở luật định thì khơng được coi là cơ sở
khởi tố vụ án hình sự và cơ quan có thẩm quyền khơng thể khởi tố vụ án hình sự.
Như vậy, các quy định của pháp luật TTHS nói chung và cơ sở khởi tố vụ án hình
sự nói riêng được quy định một cách chặt chẽ tránh việc áp dụng các chế tài tùy tiện

của các cơ quan có thẩm quyền; bảo vệ tốt hơn quyền, lợi ích hợp pháp của cá nhân,
pháp nhân.
Ý nghĩa về mặt pháp lý của cơ sở khởi tố vụ án hình sự thể hiện ở chỗ nó yêu
cầu các cơ quan có thẩm quyền theo trình tự thủ tục phải tiếp nhận, tiến hành kiểm
tra, xác minh lại đối với mỗi “tín hiệu” về tội phạm đang được chuẩn bị hay tội
phạm đang, đã được thực hiện. Khơng thể có cơ sở khởi tố vụ án hình sự nếu như
hành vi nguy hiểm cho xã hội khơng được “quan tâm tới”. Chính cơ sở khởi tố vụ
án hình sự yêu cầu các cơ quan có thẩm quyền tiến hành áp dụng pháp luật hình sự.
Theo cách tiếp cận này cơ sở khởi tố vụ án hình sự là “mắt xích” đầu tiên kết nối
giữa pháp luật hình sự và pháp luật TTHS. Cơ sở khởi tố vụ án có ý nghĩa khởi
động bộ máy TTHS, làm phát sinh quyền và nghĩa vụ của các chủ thể trong giai
đoạn khởi tố vụ án.
Ý nghĩa thực tiễn
Việc quy định cơ sở khởi tố trong BLTTHS giúp cho các quyết định khởi tố
vụ án của các cơ quan có thẩm quyền có căn cứ pháp lý, đồng thời cũng là yêu cầu
bắt buộc các cơ quan có thẩm quyền xác định đúng các nguồn thông tin về tội phạm
theo luật định. Bởi nếu không xác định đúng các nguồn thông tin về tội phạm một
mặt sẽ dẫn đến quyết định khởi tố trái pháp luật, thậm chí xảy ra oan sai. Mặt khác,
điều này sẽ gây ảnh hưởng đến quyền cơ bản của cá nhân, pháp nhân. Do vậy việc
ghi nhận quy định về cơ sở khởi tố vụ án trong BLTTHS giúp hạn chế tình trạng


15

các cơ quan tiến hành tố tụng tùy tiện khởi tố vụ án khi không dựa trên cơ sở luật
định.
1.2. Kinh nghiệm từ lịch sử pháp luật tố tụng hình sự của Việt Nam và
pháp luật một số nƣớc trên thế giới về cơ sở khởi tố vụ án hình sự
1.2.1. Lịch sử hình thành và phát triển của pháp luật tố tụng hình sự về cơ sở
khởi tố vụ án hình sự

Giai đoạn từ Cách mạng tháng Tám năm 1945 đến trước khi pháp điển hóa
Bộ luật Tố tụng hình sự năm 1988
Sau thắng lợi của Cách mạng tháng Tám năm 1945, chính quyền nhân dân,
chế độ dân chủ cộng hòa được thiết lập ở nước ta. Từ sau khi giành được chính
quyền, để bảo vệ chính quyền mới, bảo vệ thành quả cách mạng, bảo vệ quyền tự do
dân chủ của nhân dân, Nhà nước đã ban hành nhiều văn bản pháp luật. Ngày 10
tháng 10 năm 1945, Sắc lệnh số 47/SL đã quy định rõ: “Những điều khoản trong
các luật lệ cũ được tạm giữ lại do sắc luật này, chỉ thi hành khi nào không trái với
độc lập của nước Việt Nam và chính thể dân chủ cộng hòa”14. Tuy nhiên để ngăn
chặn, trừng trị âm mưu và hoạt động chống phá của các thế lực thù địch và của bọn
tội phạm, Nhà nước mới không thể áp dụng pháp luật của nhà nước phong kiến và
thực dân vào nhà nước dân chủ cộng hòa. Do đó, chính quyền đã khẩn trương xây
dựng và ban hành kịp thời các văn bản pháp luật Hình sự và Tố tụng hình sự.
Những văn bản đầu tiên có quy định về hoạt động TTHS là công cụ sắc bén
bảo vệ nhà nước non trẻ, đấu tranh với bọn Việt gian, phản động và bọn tội phạm
khác đồng thời bảo vệ quyền dân chủ nhân dân. Có thể kể đến như Sắc lệnh 13/SL
ngày 24 tháng 01 năm 1946 về tổ chức Tòa án và ngạch thẩm phán, Sắc lệnh số
163/SL ngày 23 tháng 8 năm 1946 về tổ chức Tòa án binh lâm thời, Sắc lệnh số
17/SL ngày 17 tháng 11 năm 1950 về cải cách bộ máy tư pháp.
Trong đó sắc lệnh 131/SL về tổ chức tư pháp cơng an của Chủ tịch Chính
phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hoà số 131 ngày 20 tháng 7 năm 1946 tại Điều 2 quy
định “Tư pháp cơng an có nhiệm vụ truy tầm tất cả các sự phạm pháp (đại hình,
tiểu hình hoặc vi cảnh), sưu tập các tang chứng, bắt giao người phạm pháp cho các
Toà án xét xử trong phạm vi luật pháp ấn định”. Theo quy định này, thẩm phán,
cơng an và kiểm sốt viên có thẩm quyền truy tìm, thu thập chứng cứ và bắt người
phạm tội.
14

Điều 12 SL47/SL ngày 10/10/1947



16

Đến ngày 16/02/1953, Nhà nước ban hành Sắc lệnh số 141 quy định về Vụ
chấp pháp trong Thứ bộ Công an, trong đó nêu rõ: “Vụ chấp pháp có nhiệm vụ điều
tra, lập hồ sơ đề nghị truy tố các vụ phạm tội phản cách mạng và hình sự khác”.
Như vậy, việc xác định sự việc xảy ra có dấu hiệu của tội phạm hay không sẽ phụ
thuộc vào quyết định của tổ chức Việt Nam công an vụ hoặc tư pháp cơng an. Cơ sở
khởi tố vụ án hình sự, các thủ tục tiến hành khởi tố vụ án, thời hạn khởi tố… không
được quy định hoặc quy định khơng rõ ràng nên dẫn đến tình trạng oan sai, bỏ lọt
tội phạm, làm oan người vô tội. Mặt khác, khởi tố vụ án hình sự trong giai đoạn này
được coi là một trong những hoạt động của quá trình điều tra vụ án hình sự chứ
khơng phải là một giai đoạn tố tụng độc lập.
Sau chiến thắng Điện Biên Phủ, hiệp định Giơ ne vơ được ký kết, miền Bắc
được giải phóng, bước vào cơng cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội. Tại kỳ họp thứ VI
Quốc hội khóa I đã đề ra phương án về xây dựng pháp luật: “Một mặt đảm bảo các
quyền tự do dân chủ của nhân dân, mặc khác phải thực hiện chuyên chính với kẻ
thù của nhân dân”. Trên phương hướng đó, Nhà nước đã ban hành một số văn bản
pháp luật TTHS như: Luật tổ chức Tịa án được thơng qua ngày 14/7/1960, Luật tổ
chức VKS thông qua ngày 15/7/1960, Thông tư liên Bộ giữa Bộ Công an và VKS
nhân dân tối cao số 427/TTLB ngày 28/6/1963.
Theo tinh thần điểm 1, Chương 1 Thông tư liên Bộ giữa Bộ Công an và VKS
nhân dân tối cao số 427/TTLB ngày 28/6/1963 thì Cơng an có trách nhiệm khởi tố
các vụ án phản cách mạng và các vi phạm pháp luật hình sự khác do cơ quan Cơng
an phát hiện, nếu sau đó có những vụ án thuộc trách nhiệm thụ lý của VKS thì Cơng
an chuyển sang VKS.
Theo Luật tổ chức VKS nhân dân năm 1960 tại Điều 11: “Viện kiểm sát nhân
dân có trách nhiệm tiếp nhận, giải quyết các việc khiếu nại và tố cáo của nhân dân
về việc vi phạm pháp luật và trả lời người khiếu nại hoặc tố cáo” hay Điều 17 thì
VKS có quyền khởi tố vụ án đối với các vụ án hình sự thơng thường, ít phức tạp

thuộc về kinh tế và an toàn xã hội mà người phạm tội và sự việc phạm tội tương đối
rõ. VKS chỉ thực hiện quyền hủy bỏ quyết định khởi tố cúa cơ quan Cơng an khi có
sự trao đổi giữa Công an và VKS mà không đi đến sự thống nhất. Sự ra đời của hệ
thống Viện kiểm sát nhân dân là điều kiện đảm bảo cho hoạt động TTHS đạt hiệu
quả và đúng pháp luật.
Cùng với đó, theo Điều 16 Luật tổ chức Tịa án nhân dân quy định Tịa có
quyền khởi tố những vụ việc hình sự nhỏ để phân xử. Trong khi xét xử ở tòa, nếu


17

Tòa án phát hiện tội phạm mới, người phạm tội mới thì Tịa án có thể ra quyết định
khởi tố đối với tội mới của những bị cáo đã bị truy tố và đang xét xử hay đối với
những người mới, nhưng người này chưa bị truy tố. Những vụ án và bị can do Tòa
án khởi tố phải được chuyển cho VKS cùng cấp điều tra làm rõ. Nếu Tòa án khởi tố
vụ án mới hay bị can mới mà khơng đúng thì VKS có quyền kháng nghị.
Sau chiến dịch Hồ Chí Minh lịch sử, đất nước thống nhất, non sông nối liền
một dải, tuy nhiên, miền Nam lúc này đang cịn tồn tại nhiều vấn đề chính trị xã hội
bất ổn và phức tạp, chính vì vậy Chính phủ cách mạng lâm thời Cộng hoà miền
Nam Việt Nam đã ban hành sắc lệnh số 01 SL/76 ngày 15/3/1976 về tổ chức tồ án
nhân dân để nhanh chóng ổn định tình hình ở miền Nam thời điểm này. Tuy nhiên,
đây chỉ là giải pháp mang tính tình thế, các quy định về TTHS nói chung và các quy
định về cơ sở khởi tố vụ án hình sự nói riêng vẫn chưa được chú trọng đề cập nhiều
trong các văn bản hiện hành lúc này.
Sau khi thống nhất về mặt nhà nước, đồng thời tạo điều kiện cho việc thống
nhất thi hành các quy định pháp luật trên toàn bộ đất nước. Chính vì vậy, hệ thống
tồ án nhân dân và viện kiểm sát nhân dân trên cả nước được tổ chức, hoạt động
theo Luật tổ chức viện kiểm sát nhân dân và Luật tổ chức toà án nhân dân ban hành
năm 1960. Có thể nhận định rằng, trong giai đoạn này, việc hồn thiện hệ thống
pháp luật nói chung và pháp luật TTHS nói riêng phục vụ cho cơng cuộc xây dựng

và bảo vệ Tố quốc trong giai đoạn mới được coi là nhiệm vụ cấp bách.
Năm 1980, Quốc hội thông qua Hiến pháp mới. Trên cơ sở của Hiến pháp
năm 1980, Luật tổ chức toà án nhân dân và Luật tổ chức viện kiểm sát nhân dân
năm 1981 được ra đời để thay thế Luật tổ chức toà án nhân dân và Luật tổ chức viện
kiểm sát nhân dân năm 1960. Các quy định về TTHS nói chung và khởi tố nói riêng
được bổ sung, sửa đổi và từng bước hồn thiện.
Theo thơng tư liên Bộ số 1–TTLB ngày 23 tháng 11 năm 1984 giữa Bộ Nội
vụ (nay là Bộ Công an) và Viện kiểm sát nhân dân tối cao thì khi xác định có tội
phạm xảy ra, cơ quan Cơng an khởi tố hình sự vụ án để tiến hành điều tra, đồng thời
gửi bản sao quyết định khởi tố sang VKS. Trường hợp phát hiện có tội phạm xảy ra
cần điều tra mà cơ quan Công an chưa khởi tố thì VKS yêu cầu cơ quan Cơng an
khởi tố hoặc VKS trực tiếp khởi tố hình sự vụ án và gửi yêu cầu cho Cơ quan Công
an tiến hành điều tra. Trường hợp phát hiện việc khởi tố khơng có căn cứ, khơng
đầy đủ hoặc khơng cần thiết thì cơ quan nào đã quyết định khởi tố thì cơ quan đó
làm lại quyết định khởi tố, quyết định bổ sung hoặc quyết định hủy bỏ quyết định


18

khởi tố. Cơ quan có thẩm quyền khởi tố vụ án hình sự là Cơ quan Cơng an, VKS từ
cấp quận, huyện, thị xã và thành phố trực thuộc tỉnh trở lên.
Nhìn chung các văn bản pháp luật TTHS trong thời kỳ 1945 - 1988 được ban
hành trước hết là để nhằm thực hiện thắng lợi các nhiệm vụ chiến lược cách mạng,
phục vụ các yêu cầu của 2 cuộc kháng chiến chống Pháp, chống Mỹ, và ổn định tình
hình đất nước sau khi vừa bước ra khỏi chiến tranh. Chính vì vậy, các văn bản có
tính pháp lý cao như Luật, pháp lệnh về cơ bản chỉ được sử dụng theo các quy định
về tổ chức bộ máy của các cơ quan tố tụng. Cịn về trình tự, thủ tục tố tụng giải
quyết vụ án hình sự lại được ghi nhận trong các văn bản dưới luật là chính. Do đó,
các quy định về khởi tố vụ án hình sự nói riêng và cơ sở vụ án hình sự nói chung
được quy định được quy định khơng rõ ràng hoặc chưa quy định; các quy định liên

quan đến khởi tố vụ án hình sự chỉ dừng ở các quy định về thẩm quyền khởi tố cho
các cơ quan tiến hành tố tụng. Chính điều này đã gây khó khăn cho các cơ quan tiến
hành tố tụng trong quá trình áp dụng pháp luật, dễ dẫn tới những sai phạm như bỏ
lọt tội phạm, làm oan người vô tội, xâm phạm tới các quyền và lợi ích hợp pháp của
cơng dân…
Giai đoạn từ Bộ luật Tố tụng hình sự năm 1988 ra đời cho đến nay
Cùng với chỉ đạo từ lãnh đạo Đảng và Nhà nước, sự cố gắng, nỗ lực của các
chuyên gia pháp lý trong và ngoài nước, ngày 28/6/1988, BLTTHS đầu tiên của
nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam đã được Quốc hội khóa VIII kì họp thứ
3 thơng qua và bắt đầu có hiệu lực pháp luật từ ngày 1/1/1989, đánh dấu 1 bước
chuyển mình quan trọng trong pháp luật TTHS tại Việt Nam. Sự ra đời của Bộ luật
TTHS 1988 đã đánh dấu bước phát triển quan trọng của khoa học luật TTHS, của
ngành luật TTHS và kỹ thuật lập pháp TTHS ở nước ta. Bộ luật đã kế thừa và phát
triển pháp luật TTHS của Nhà nước ta từ Cách mạng tháng Tám đến nay, với tinh
thần đổi mới trên mọi mặt của đời sống xã hội. Bộ luật gồm 7 phần, 32 chương, 286
Điều. Bộ luật đã quy định trình tự, thủ tục tiến tiến hành các hoạt động tố tụng từ
giai đoạn khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử và thi hành án. Trong đó, liên quan tới
giai đoạn khởi tố vụ án hình sự, BLTTHS 1988 đã dành 1 chương riêng (chương
VII) để quy định về khởi tố vụ án hình sự với các quy định cụ thể về nhiệm vụ, chủ
thể tiến hành tố tụng, hoạt động điến hành tố tụng, thời hạn… trong giai đoạn khởi
tố vụ án hình sự. Đặc biệt, chế định về cơ sở khởi tố vụ án hình sự được quy định cụ
thể tại Điều 83 BLTTHS năm 1988. Cụ thể gồm 5 cơ sở:
“1- Tố giác của công dân;


19

2- Tin báo của cơ quan Nhà nước hoặc tổ chức xã hội;
3- Tin báo trên các phương tiện thông tin đại chúng;
4- Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát, Tồ án, đơn vị Bộ đội biên phịng, cơ

quan Hải quan và cơ quan Kiểm lâm trực tiếp phát hiện dấu hiệu của tội phạm;
5- Người phạm tội tự thú.”
Nhìn chung, BLTTHS năm 1988 đã đánh dấu một bước đổi mới của pháp
luật TTHS nước ta khi lần đầu tiên nước ta đã có một BLTTHS hồn chỉnh, có
nhiều điểm mới. Trong đó, quy định về cơ sở khởi tố vụ án hình sự là nền tảng giúp
cơ quan có thẩm quyền khởi tố vụ án hình sự nói chung và các cơ quan tư pháp nói
riêng vận dụng đúng đắn, hiệu quả. Mặc dù, các quy định này vẫn có những hạn chế
nhất định nhưng quy định về cơ sở khởi tố vụ án hình sự là một chế định dân chủ,
tiến bộ, góp phần bảo vệ tốt quyền và lợi ích hợp pháp của cơng dân, góp phần vào
cơng cuộc đấu tranh phịng, chống tội phạm trong tình hình mới.
Cùng với sự phát triển của xã hội và sau một quá trình áp dụng vào thực tiễn
thì những quy định trong BLTTHS năm 1988 đã bộc lộ một số hạn chế, bất cập.
Qua các lần sửa đổi bổ sung vào tháng 6 năm 1990, tháng 12 năm 1992 nhằm đáp
ứng kịp thời yêu cầu, đòi hỏi của thực tiễn đấu tranh phòng chống tội phạm trong
từng thời kỳ và đã từng bước thể chế hóa một số quan điểm về cải cách tư
pháp. Với sự ra đời của Bộ luật Hình sự (được Quốc hội thơng qua ngày 21/12/1999
có hiệu lực thi hành từ ngày 01/7/2000), nhiều quy định có liên quan của BLTTHS
hiện hành khơng cịn phù hợp nữa. Do vậy, ngày 09/6/2000 Quốc hội thông qua
Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của BLTTHS (lần thứ ba) nhằm thi hành Bộ luật
Hình sự năm 1999 cũng như phù hợp với tiến trình dân chủ và đổi mới của đất
nước.
Tuy nhiên, trong công cuộc đổi mới toàn diện của đất nước trên tất cả các
lĩnh vực, trong đó có cải cách tư pháp, BLTTHS năm 1988 khơng cịn phù hợp nữa
và đã bộc lộ một số hạn chế nhất định. Với tinh thần các nghị quyết của Đảng,
BLTTHS năm 2003 được Quốc hội khoá XI tại kì họp thứ tư thơng qua ngày
26/11/2003, có hiệu lực từ ngày 01/7/2004.
Đến ngày 26 tháng 11 năm 2003, tại kỳ họp thứ 4, Quốc hội khóa XI đã
thơng qua Bộ luật TTHS năm 2003, có hiệu lực từ ngày 01 tháng 7 năm 2003. Bộ
luật này gồm 8 phần, 37 chương. Chế định khởi tố trong Bộ luật TTHS năm 2003
được sửa đổi, bổ sung tương đối đầy đủ, cụ thể về cơ sở khởi tố, căn cứ khởi tố,

thẩm quyền, thủ tục khởi tố cũng như một số vấn đề có liên quan đến việc khởi tố.


×