Tải bản đầy đủ (.pdf) (16 trang)

Tiểu luận Địa lý tự nhiên biển Đông

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (286.69 KB, 16 trang )

BÀI TIỂU LUẬN: ĐỊA LÝ TỰ NHIÊN BIỂN ĐÔNG
Chủ đề: Tài nguyên Biển Đông

1


PHẦN MỞ ĐẦU
LÝ DO CHỌN VẤN ĐỀ:
Biển Đông là một vùng biển có ý nghĩa quan trọng đối với Việt Nam nói
riêng và các nước giáp Biển Đơng nói chung. Biển Đơng đối với những tài
ngun dồi dào đóng vai trò lớn trong phát triển kinh tế của các quốc gia, do đó
việc nghiên cứu tài nguyên biển là rất cần thiết.
LỊCH SỬ NGHIÊN CỨU VẤN ĐỀ:
Việc nghiên cứu tài nguyên trên Biển Đông đã được tiến hành từ rất lâu,
nhiều tác giả đã nghiên cứu. Nhóm thực hiện chỉ đưa ra những nội dung cơ bản
nhất với tầm hiểu biết còn nhiều hạn chế.
ĐỐI TƯỢNG, NHIỆM VỤ, PHẠM VI NGHIÊN CỨU:
Đối tượng:
Bài tiểu luận nghiên cứu những loại tài ngun chính trên Biển Đơng.
Nhiệm vụ:
Khái qt một số loại tài ngun chính, hiện trạng, vai trị của chúng đối với
sự phát triển kinh tế-xã hội.
Phạm vi nghiên cứu:
Bài tiểu luận bước đầu tìm hiểu những loại tài ngun chính của Biển Đông
tiềm năng, hiện trạng và liên hệ với Việt Nam.
1.4. NGUỒN TÀI LIỆU VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU:
- Bài tiểu luận sử dụng tài liệu bao gồm: cuốn “Địa lý nhiên Biển Đông” của
tác giả Nguyễn Văn Âu, các báo cáo khoa học, mạng Internet…
- Phương pháp nghiên cứu: phương pháp thống kê, phương pháp thu thập số
liệu, phương pháp phân tích và tổng hợp…
1.5. CẤU TRÚC BÀI TIỂU LUẬN:


2


Cấu trúc bài tiểu luận gồm ba phần:
- Phần mở đầu
- Phần nội dung
- Phần kết luận
II. PHẦN NỘI DUNG
2.1 TÀI NGUYÊN SINH VẬT:
Vị trí, địa lý và khí hậu đặc biệt đã tạo cho vùng biển Đông sự đa dạng sinh
học cao so với các nước trên thế giới, cả về cấu trúc thành phần loài, hệ sinh thái
và nguồn gen. Khác biệt về điều kiện tự nhiên từ Bắc đến Nam như sự thay đổi
nhiệt độ theo vĩ tuyến, mức độ trao đổi môi trường với các vùng xung quanh,
hình thái thềm lục địa… đã tạo nên những nét đặc trưng của các hệ sinh thái giữa
các vùng biển ở Việt Nam.
Cho đến nay, trong vùng biển này đã phát hiện được khoảng 11.000 loài sinh
vật cư trú trong hơn 20 kiểu hệ sinh thái điển hình. Trong đó có khoảng 6.000
lồi động vật đáy, 2.038 lồi cá, trên 100 loài cá kinh tế, hơn 300 loài san hơ
cứng, 653 lồi rong biển, 657 lồi động vật phù du, 537 loài thực vật phù du, 94
loài thực vật ngập mặn, 225 lồi tơm biển, 14 lồi cỏ biển, 15 loài rắn biển, 12
loài thú biển và 5 loài rùa biển.
Nguồn tài nguyên sinh vật biển quan trọng đã mang đến những ưu thế cho
đời sống và sự phát triển kinh tế của các nước xung quanh. Trữ lượng hải sản
đánh bắt khoảng 3 – 3,5 triệu tấn, cơ cấu hải sản rất phong phú, có giá trị kinh tế
cao có thể khai thác được hàng năm. Trong khu vực, có các nước đánh bắt và
ni trồng hải sản đứng hàng đầu thế giới như Trung Quốc, Thái Lan, Việt Nam,
Indonesia và Philippines.

3



Biển Việt Nam với dải bờ chạy dài trên 3260 km, diện tích trên 1 triệu km2,
hàng năm đem lại nguồn lợi trên 2 triệu tấn trong số hơn 90 triệu tấn hải sản của
thế giới, đồng thời cũng là hệ sinh thái rất đặc thù và được đánh giá là một trong
16 trung tâm đa dạng sinh học cao của thế giới. Đây là một điều kiện thuận lợi để
nước ta phát triển đa dạng các ngành kinh tế biển và ven biển trong hơn 50 năm
qua. Hiện nay, trong xu thế cả thế giới đang vươn mạnh ra biển để khai thác tiềm
năng sẵn có của đại dương, việc điều tra nghiên cứu môi trường và tài nguyên
sinh vật biển Đông ngày càng khẳng định những ý nghĩa quan trọng với đất nước
trong giai đoạn mới.
Các nghiên cứu đã chứng minh nguồn lợi hải sản Việt Nam phong phú đa
dạng bao gồm khoảng trên 2.000 loài cá, gần 6.000 loài động vật đáy, 653 loài
tảo, 5 loài rùa, 12 lồi rắn biển... Trong đó, có một số nhóm sinh vật biển có giá
trị kinh tế quan trọng như cá, tôm, mực… đã được xác định khu vực phân bố, trữ
lượng và khả năng khai thác. Trữ lượng cá đáy và cá nổi khoảng 3,0-3,5 triệu tấn
(chưa kể cá nổi di cư xa, cá sống ở ven các đảo...), với khả năng khai thác
(exploitation potential) khoảng 1,5 – 1,7 triệu tấn. Bên cạnh đó, nghiên cứu đa
dạng hóa về sản phẩm biển đang là hướng đi rất tích cực, nhằm giảm bớt áp lực
lên các đối tượng khai thác truyền thống. Các loài thân mềm (ngao, nghêu, tu hài,
hàu, vẹm, ốc hương…) đang được coi là đối tượng khai thác, nuôi trồng chỉ đứng
sau cá. Đặc biệt trong một số năm gần đây, các nhà khoa học Viện KHCN VN đã
tìm được nhiều chất có giá trị dược liệu q từ các lồi hải miên, da gai, san hơ,
sứa biển… Đây là hướng đi rất tích cực trong nghiên cứu, sử dụng hợp lý nguồn
lợi sinh vật biển. Ngoài ra, việc thường xuyên nghiên cứu, biên tập Sách Đỏ Việt
Nam cũng góp phần đáng kể vào việc bảo vệ nguồn lợi sinh vật biển

4


2.2 TÀI NGUN KHỐNG SẢN

2.2.1 Tài ngun khống sản dầu mỏ và khí đốt
Biển Đơng nằm trên 2 khu vực vành đai sinh khống lớn: Thái Bình Dương
và Địa Trung Hải là nơi hội tụ của những mỏ khoáng sản đặc biệt là dầu mỏ.
Nguồn gốc của sự phát sinh dầu mỏ là từ những xác chết của các sinh vật ở đáy
biển,đặc biệt từ các thực vật bị chôn dưới đất. Các mỏ dầu khí Tập trung chủ yếu
trong khu vực phía Nam biển Đơng hơn vùng phía Bắc như ở các vùng duyên hải
Hoa Nam,trong vịnh Bắc Việt, ngoài khơi Việt Nam,duyên hải Mã Lai-BruneiPalawan,vùng biển Hoàng Sa và Trường Sa.
Biển Đông được coi là một trong 5 bồn trũng chứa dầu khí lớn nhất thế giới.
Các khu vực thềm lục địa có tiềm năng dầu khí cao là các bồn trũng Bruney Saba, Sarawak, Malay, Pattani Thái, Nam Côn Sơn, Mêkông, sông Hồng, cửa
sông Châu Giang. Theo đánh giá của Bộ Năng lượng Mỹ, lượng dự trữ dầu đã
được kiểm chứng ở Biển Đông là 07 tỉ thùng với khả năng sản xuất 2,5 triệu
thùng/ngày. Theo đánh giá của Trung Quốc, trữ lượng dầu khí ở Biển Đơng
khoảng 213 tỷ thùng, trong đó trữ lượng dầu tại quần đảo Trường Sa có thể lên
tới 105 tỷ thùng. Với trữ lượng này và sản lượng khai thác có thể đạt khoảng 18,5
triệu tấn/năm duy trì được trong vịng 15 - 20 năm tới. Ba mỏ dầu khí được thăm
dị và có trữ lượng lớn là: Bạch Hổ ( 175-300 triệu thùng ), Đại Hùng ( 300-600
triệu thùng ), Rồng ( 100-150 triệu thùng ). Trữ lượng và sản lượng dầu khí của
Việt Nam đứng vào hạng trung bình trong khu vực, tương đương Thái Lan và
Malaysia.
Nước ta có thềm lục địa rộng lớn rộng khoảng 1 triệu km2 là nơi có nhiều bể
trầm tích chứa dầu khí và có nhiều triển vọng để khai thác. Tại vùng biển và thềm
lục địa Việt Nam xác định nhiều bể trầm tích có triển vọng dầu khí, trong đó các
bể trầm tích Cửu Long và Nam Cơn Sơn được đánh giá có triển vọng dầu khí lớn

5


nhất, điều kiện khai thác tương đối thuận lợi. Tổng trữ lượng dự báo địa chất về
dầu khí của tồn thềm lục địa Việt Nam đạt xấp xỉ 10 tỷ tấn dầu quy đổi, trữ
lượng khai thác khoảng 2 tỷ tấn và trữ lượng dự báo của khí khoảng 1.000 tỷ m3.

Các khu vực có tiềm năng dầu khí cịn lại chưa khai thác là khu vực thềm lục địa
ngoài cửa vịnh Bắc Bộ và bờ biển miền Trung Việt Nam.
Các mỏ dầu và khí đốt tập trung trong các miền võng,với các bể trầm tích
như: bể trầm tích sơng Hồng, Hồng Sa, Cửu Long, Nam Cơn Sơn, Mã Lay-Thổ
Chu, Phù Khánh và Trường SaHiện trạng khai thái dầu khí ở Việt Nam
Lợi thế của một quốc gia biển và một vùng thềm lục địa rộng lớn tiếp nối
với hai đồng bằng ven biển (châu thổ sông Hồng và Cửu Long) rộng lớn, đã tạo
ra cho Việt Nam những triển vọng và tiềm năng đa dạng về khoáng sản biển, đặc
biệt là dầu khí ở thềm lục địa. Việc khai thác dầu khí vừa qua đã đóng góp to lớn
cho nền kinh tế quốc dân với GDP xuất khẩu đứng đầu trong nhiều năm, nên luôn
được xem là một ngành kinh tế mũi nhọn. Dầu khí đã được phát hiện ở Việt Nam
từ những năm 1970, nhưng chỉ sau năm 1984, ngành cơng nghiệp dầu khí mới
thực sự có bước đi vững chắc... Dầu khí được tập trung ở các bể trầm tích Sơng
Hồng, Cửu Long, Nam Cơn Sơn, Malay, Thổ Chu, Phú Khánh, Tư Chính, Vũng
Mây, Trường Sa. Khống sản dầu khí đang được thăm dị với cường độ cao.
Trữ lượng dầu đã được phát hiện vào khoảng 1.7 tỷ tấn và khí đốt vào
khoảng 835 tỷ m3. Trữ lượng dầu được dự báo vào khoảng 6 tỷ tấn và trữ lượng
khí vào khoảng 4,000 tỷ m3. Sản lượng khai thác dầu thô ở Việt Nam hằng năm
tăng 30%. Năm 1994, sản lượng khai thác đạt 7 triệu tấn và giá trị xuất khẩu
khoảng 1 tỉ USD, năm 2001 sản lượng khai thác 17,01 triệu tấn đạt giá trị xuất
khẩu 3,139 tỉ USD.
Hiện nay, ngành dầu khí nước ta đang khai thác chủ yếu tại các mỏ: Bạch
Hổ, Rồng, Đại Hùng, Rubi, Rạng Đơng, Bunga Kekwa. Ngành dầu khí Việt Nam
6


đang trở thành một trong những lĩnh vực đầu tư nước ngồi sơi động.Có nhiều
tập đồn dầu khí lớn đang có kế hoạch đầu tư và mở rộng hoạt động tại Việt Nam
như tổng cơng ty dầu khí Việt Nam . Hoạt động kinh doanh dầu khí cũng từng
bước phát triển theo hướng hiện đại hóa: hệ thống cơ sở vật chất kĩ thuật và dịch

vụ kĩ thuật như các dịch vụ căn cứ, tàu thuyền, sữa chữa thiết bị dầu khí, gia cơng
chế tạo, xây lắp các đường ống dẫn dầu, bảo hiểm dầu khí, cung cấp lao động và
dịch vụ sinh hoạt. Tuy nhiên hoạt động thăm dò, khai thác ở vùng biển nước sâu
gặp rất nhiều khó khăn, kể cả khách quan và chủ quan. Trở ngại lớn nhất là về
thiên nhiên như sóng to, gió lớn, nhất là hiện nay thời tiết có những diễn biến khó
lường. Hơn nữa, hoạt động ở vùng nước sâu địi hỏi phải có những máy móc thiết
bị hiện đại, đủ khả năng đáp ứng với cơng việc tương ứng..
2.2.2 Khống sản kim loại và phi kim loại
Biển Đông nằm gọn trong phần phía Tây của vành đai quặng thiếc Thái
Bình Dương, tập trung các sa khoáng biển kim loại hiếm, chủ yếu là thiếc,titan,
ziricon, vonfaram, brom, sắt, đồng….Một số khoáng sản hòa tan khác với nồng
độ thấp hơn : bạc , Uran , và Iot. Hiện nay biển Đơng cịn có nhiều kim loại nằm
ngay trên đáy biển dưới dạng hạt đa kim. Thành phần chủ yếu là magan và sắt.
Ngồi ra cịn có niken, coban, ngun tố phóng xạ uran, radi và các nguyên tố
khác.
- Muối :
Biển Đông là biển nằm trong khu vực gần xích đạo nên có giờ nắng nhiều
cán câu bức xạ mặt trời lớn thuận lợi cho sản xuất muối. Độ muối trên Biển Đông
khá cao nên có thể nói rằng tài nguyên muối trên Biển Đông là rất lớn. Hàng năm
các nước trong khu vực Biển Đông đều nhận được một nguồn lợi lớn từ muối
biển không những đáp ứng đủ nhu cầu tiêu thụ trong nước mà còn phục vụ xuất
khẩu, Trung Quốc là một điển hình.

7


Ở Việt Nam, có khả năng khai thác 900 nghìn tấn muối/năm (tập trung ở
tỉnh Ninh Thuận và Bình Thuận).Sản lượng muối tháng 1/2012 đạt khoảng
23.931 tấn. Theo thông tin từ Bộ NN và PTNT, lượng muối tồn trong diêm dân
và một số doanh nghiệp sản xuất tính tới thời điểm 20/01 khoảng gần 93 nghìn

tấn, bằng 42% so với cùng kỳ năm 2011. Trong đó, miền Bắc tồn hơn 15 nghìn
tấn, Miền Trung tồn hơn 38 nghìn tấn, ĐBSCL tồn hơn 39 nghìn tấn.
Tháng đầu năm 2012, diện tích sản xuất muối cả nước ước đạt 14.602 ha,
trong đó diện tích muối thủ cơng đạt 11.638 ha; diện tích muối cơng nghiệp đạt
2.964 ha. Sản lượng muối tính đến 20/1 đạt khoảng 23.931 tấn (tăng 334% so với
cùng kỳ năm 2011). Trong đó, muối sản xuất thủ cơng đạt 12.250 tấn, muối sản
xuất công nghiệp đạt 11.681 tấn.
Nước ta với 3260 km bờ biển, tiềm năng về muối là vô cùng lớn nhưng nước
ta lại đang phải nhập khẩu hàng trăm ngàn tấn muối mỗi năm phục vụ nhu cầu
tiêu dùng và sản xuất trong nước, nguyên nhân gây ra nghịch lý trên là bởi ngành
muối trong nước thiếu quy hoạch, đầu tư một cách bài bản. Sản xuất muối cho
đến nay vẫn dựa vào thủ công, chưa áp dụng khoa học kỹ thuật, máy móc hiện
đại, thiếu sản xuất tập trung…Theo ước tính của Bộ Nơng nghiệp và Phát triển
nông thôn, lượng cung muối trong năm 2012 sẽ vượt cầu. Vì vậy, trước mắt Bộ
Cơng Thương nên cơng bố hạn ngạch thuế quan nhập khẩu muối năm 2012 là
102.000 tấn.Trong buổi đối thoại trực tuyến đầu năm 2012, Bộ trưởng Cơng
Thương Vũ Huy Hồng cho biết nhập khẩu muối là việc buộc phải làm vì lượng
muối sản xuất trong nước dù nhiều nhưng chỉ đáp ứng nhu cầu sinh hoạt bình
thường. Theo ơng, muối trong nước có tạp chất cao, hàm lượng hóa chất chưa thể
đáp ứng cho các ngành cơng nghiệp, y tế, hóa chất.
Trước năm 2000, chúng ta là nước xuất khẩu muối, nhưng những năm gần
đây do nhu cầu tiêu dùng và sản xuất cần đến muối chất lượng cao, mà muối

8


trong nước khơng đáp ứng được. Nói cách khác là thị trường trong nước khát
muối, và chúng ta đã phải nhập khẩu muối.
- Cát :
Cát trắng là một trong những khống sản chính ven biển Việt Nam, phân bố

rải rác dọc bờ biển từ Bắc đến Nam. Hầu hết các mỏ cỡ lớn tập trung ở ven biển.
Ước tính có 20 mỏ đã được tìm kiếm, thăm dị với trữ lượng lớn. Đa số các mỏ
là cát thủy tinh. Một số mỏ cát có chất lượng tốt như Vân Hải, Cam Ranh có chất
lượng cao để sản xuất pha lê và dụng cụ quang học.
Cát ở Việt Nam chủ yếu có ở duyên hải miền Trung (1,1 tỉ tấn) với 6 mỏ
lớn là Cửa Tùng (Quảng Trị), Quảng Ngãi, Tuy Hoà, Nha Trang, Phan Rang,
Phan Thiết. Cát ở Cam Ranh nổi tiếng có chất lượng tốt để sản xuất pha lê. Ở
phía Bắc có quy mơ nhỏ hơn (6 triệu tấn). Trong đó, cát ở Vân Hải (Quảng Ninh)
nổi tiếng có chất lượng tốt.
Cát thủy tinh đã được khai thác phục vụ cho sản xuất trong nước nhưng một
lượng lớn phục vụ xuất khẩu. Với trữ lượng rất lớn, việc khai thác hiện nay là
chưa đáng kể.
2.2.3. Băng cháy:
Người ta đã tìm thấy băng cháy ở nhiều đáy biển khắp các đại dương thế
giới và cả ở những vùng băng tuyết phủ quanh năm (như Siberi của Nga) với trữ
lượng đủ cung cấp cho toàn thế giới trong hàng trăm năm. Về hình dạng hydrat
metan trơng như tuyết hay băng nên có mang cái tên là “băng cháy”. Băng cháy
hình thành trong điều kiện áp suất cao và nhiệt độ thấp, nó được hình thành từ
xác sinh vật biển trầm tích. Ở những vùng biển tích tụ hydrat metan thường ở độ
sâu dưới 500m. Ngoài ra, độ muối là một tác nhân quan trọng ảnh hưởng đến sự
tích tụ và giữ sự ổn định của hiđrat metan. Người ta nói “hidrat metan” là nguồn
nhiên liệu khổng lồ cho tương lai vì tiềm năng tài nguyên này rất lớn. Người ta
dự báo trữ lượng hydrat metan khoảng 11.200 triệu tỷ m3. Những nghiên cứu gần
9


đây đã khoanh vùng những khu vực có triển vọng về băng cháy là những vùng
đáy biển có độ sâu trên 500m, và Biển Đông là vùng biển nhiều tiềm năng vì độ
sâu trung bình và độ muối đáp ứng được. Nếu khai thác hidrat metan thì đó sẽ là
nguồn năng lượng cho thế giới trong tương lai.

Tuy nhiên, cho đến nay chưa có nước nào khai thác hidrat metan ở quy mô
công nghiệp. Nhưng triển vọng khoảng một vài chục năm tới khai thác công
nghiệp không phải là dự báo thiếu cơ sở. Ở Việt Nam chưa có cơng trình nghiên
cứu về hidrat metan. Nhưng đây là vấn đề lớn và Chính phủ hết sức quan tâm về
sự có mặt băng cháy trong vùng biển nước ta. Báo Đà Nẵng ngày 6/6/2011 dẫn
thông tin, các chuyên gia Nga đánh giá, khu vực vùng biển Hồng Sa và Trường
Sa cịn chứa đựng tài nguyên băng cháy. Trên trang wed của Bộ Tài nguyên và
Môi trường đưa tin ngày 13 tháng 3 năm 2012 cho biết tiềm năng khí hydrat của
Việt Nam nằm thứ 4 trong nhóm có tiềm năng trung bình của châu Á, sau
Philippines, Srilanka, Malaysia. Hiện chúng ta mới chỉ dừng ở việc “nghiên cứu,
điều tra” mà chưa đi vào khai thác. Một trong những nguyên nhân chủ yếu là
thiếu nhân lực chuyên sâu.
Trong khi than, dầu khí ngày càng cạn kiệt, người ta bắt đầu hướng sự chú ý
đến băng cháy, nguồn năng lượng khổng lồ còn đang nằm sâu dưới đáy biển.
Theo tính tốn, tồn khu vực biển Đông sẽ đứng thứ 5 châu Á về băng cháy.
Tại Việt Nam, các nghiên cứu cũng cho thấy, ở độ sâu từ 500m tính từ đáy biển
là nơi có tiềm năng về băng cháy. Từ năm 2008, nước ta cũng có những nghiên
cứu, đánh giá trữ lượng băng cháy. Tuy nhiên, việc nghiên cứu biển sâu từ 500 2.000m đang còn tương đối kém do chưa được trang bị đầy đủ thiết bị, cơng nghệ
và cịn thiếu nguồn nhân lực phục vụ nghiên cứu, điều tra cơ bản và thăm dị.
2.2.4. Sa khống:

10


Có nhiều ở Biển Đơng. Titan là loại sa khống quý, được dùng trong trên 30
ngành công nghiệp khác nhau. Kim loại titan khơng độc, khó bị ăn mịn, hợp kim
titan có độ bền vững gấp 3 lần so với hợp kim nhôm, khả năng chống rỉ sét cao
không thua bạch kim nhưng lại nhẹ bằng một nửa thép. Vì vậy kim loại này được
dùng nhiều trong lĩnh vực chế tạo máy bay, hàng khơng vũ trụ, cơng nghiệp quốc
phịng, đóng tàu, chế biến thực phẩm, vận tải đường sắt, kỹ thuật điện, sản xuất

sơn, que hàn, sơn, men, y tế… Riêng trong thân vỏ ở một số loại máy bay, titan
chiếm từ 25% đến 27%. Nhận thấy giá trị quý hiếm của kim loại này như vậy nên
những năm sau này, các quốc gia gần Biển Đông không những khơng khai thác
titan mà cịn tích cực mua để dự trữ. Gần đây nhất là Trung Quốc tăng cường
mua dự trữ lớn kim loại này.
Tại Việt Nam, trong những năm gần đây, việc khai thác quặng sa khoáng
ven biển phát triển khá mạnh mẽ và có hiệu quả cao ở rất nhiều khu vực ven biển
Việt Nam. Tuy vậy, việc khai thác quặng sa khoáng ven biển hầu như chỉ tiến
hành ở các diện tích lộ quặng tại các bãi bồi sát biển, việc điều tra đánh giá quặng
sa khoáng chôn vùi hầu như chưa được tiến hành Theo số liệu của Hiệp hội Titan
Thế giới, Việt Nam có nguồn tài nguyên thiên nhiên này chiếm tỷ lệ 1/5 trữ
lượng thế giới. Loại khoáng sản này tập trung dọc bờ biển duyên hải miền Trung,
còn được gọi là “cát đen”. Theo Tổng Cơng ty Khống sản Việt Nam, riêng tại
Bình Thuận, khoáng sản này chiếm 20% trữ lượng cả nước. Đây là nguồn tài sản
vô giá mà thiên nhiên đã ban cho Bình Thuận. Mặc dù được xem là nguồn tài
nguyên quý giá, nhưng loại sa khoáng này đang được bán với một giá rẻ như cát.
Nhiều năm qua nạn đào đãi, mua bán trái phép loại sa khoáng này diễn ra ồ ạt.
Trong khi đó, hàng năm Việt Nam phải nhập lại các sản phẩm được tinh chế từ sa
khoáng này để sử dụng với một lượng lớn.

11


Dọc dải bờ biển nước ta có nhiều sa khống kim loại, đáng kể nhất là các sa
khoáng ilmenit tập trung các vùng biển Hà Tĩnh, Thừa Thiên - Huế, Bình Định,
Phú Yên, Ninh Thuận với tổng trữ lượng khoảng 10 triệu tấn. Các khoáng vật đi
kèm ilmenit là zircon, monaxit có giá trị kinh tế cao. Những năm gần đây, công
tác khai thác đã được phát triển mạnh ở Hà Tĩnh, Thừa Thiên - Huế, Bình Định
và Bình Thuận với sản lượng khai thác khoảng 100 ngàn tấn/năm phục vụ cho
nhu cầu trong nước và xuất khẩu

Ngoài ra, biển Việt Nam cịn có nhiều loại khống sản khác như: đất hiếm,
bùn đỏ, đất sét biển và nhiều loại kim loại quý hiếm khác.
2.3 TÀI NGUYÊN DU LỊCH BIỂN
Biển Đông có nhiều vùng du lịch hấp dẫn khơng những đối với nhu cầu nghỉ
dưỡng của khách hàng trong khu vực, mà còn thu hút nhiều khách quốc tế trên
thế giới. Địa lý bờ biển Đông đã tạo điều kiện kết hợp hài hòa các cảnh quan tự
nhiên với cảnh quan xã hội. Tài nguyên du lịch Biển Đông đa dạng, giàu bản sắc
cả về mặt thiên nhiên cũng như về mặt nhân văn. Du lịch vẫn được xem là giấy
thông hành của hồ bình. Các quốc gia giáp biển như: Việt Nam, Malaysia,
Inđônêxia, Philippin... đã tận dụng ưu thế này nhằm phát triển một dịch vụ đem
lại nguồn lợi khổng lồ và trở thành một trong những điểm đến hàng đầu về du
lịch biển, đảo.
Ở Việt Nam, du lịch biển cũng là một ưu thế đặc biệt, mở ra triển vọng khai
thác tổng hợp để phát triển mạnh. Các bãi biển của Việt Nam phân bố trải đều từ
Bắc vào Nam. Dọc bờ biển Việt Nam có khoảng 125 bãi biển thuận lợi cho việc
phát triển du lịch, với bãi thoải, nước trong xanh, khí hậu ơn hịa, và cảnh quan
thiên nhiên kỳ thú. Trên 30 bãi biển đã được đầu tư và khai thác. Một số địa danh
du lịch biển của Việt Nam đã được biết đến trên phạm vi toàn cầu như vịnh Hạ
12


Long – hai lần được UNESCO công nhận là di sản thiên nhiên thế giới, đang nằm
trong danh sách đề cử kỳ quan thiên nhiên của thế giới. Vịnh Nha Trang được coi
là một trong những vịnh đẹp nhất hành tinh, bãi biển Đà Nẵng được tạp chí
Forbes bầu chọn là một trong 6 bãi tắm quyến rũ nhất hành tinh.
Theo các chuyên gia du lịch, biển Việt Nam rất đẹp và thích hợp cho du lịch
tắm biển. Suốt từ Móng Cái (Quảng Ninh) cho đến mũi Cà Mau vịng lên Kiên
Giang có tới hàng ngàn cây số bờ biển, hấp dẫn du khách bởi bãi biển tuyệt đẹp,
cát trắng, cát vàng sạch sẽ, nước biển trong xanh, cảnh đẹp hữu tình. Trong đó,
những khu vực biển có tiềm năng lớn đã đầu tư phát triển là Trà Cổ-vịnh Hạ

Long- Hải Phòng- Cát Bà; Sầm Sơn- Cửa Lò; Nhật Lệ- Cửa Tùng- Cửa Việt;
Huế- Đà Nẵng- Quảng Nam; Quảng Ngãi- Quy Nhơn; Vân Phong- Đại LãnhNha Trang…Sự có mặt của các tập đoàn quản lý khách sạn, khu nghỉ dưỡng lớn
nổi tiếng trên thế giới tại Việt Nam như Furama, General, Accor, Starwood...
càng làm tăng thêm sức hấp dẫn của du lịch biển Việt Nam. Đó là chưa kể đến
các hình thức du lịch mới trong điều kiện hiện nay như lướt sóng, đua thuyền
buồm, du lịch lặn biển…trong thời gian gần đây đã đem lại nhiều triển vọng cho
du lịch văn hố biển.
Theo số liệu thống kê trong vịng 10 năm trở lại đây, vùng ven biển là lãnh
thổ thu hút hàng năm trên 73% số lượt khách du lịch quốc tế đến các địa phương
trong lãnh thổ Việt Nam với tốc độ tăng trưởng trung bình khoảng 31%/năm.
Năm 1997 số lượt khách du lịch quốc tế đến vùng ven biển đạt 2.127 ngàn, năm
2002 gần 5,3 triệu lượt và năm 2008 các tỉnh ven biển đón khoảng 9 triệu lượt
khách quốc tế. Cùng với tỉ lệ cao số lượng khách du lịch, thu nhập xã hội từ du
lịch của các địa phương ven biển luôn chiếm tỉ lệ lớn (trên 70%) trong tổng thu
nhập xã hội từ du lịch của cả nước. Phấn đấu đến năm 2020, kinh tế trên biển và
ven biển đóng góp khoảng 53-55% tổng GDP của cả nước.
13


Tuy nhiên du lịch biển Việt Nam vẫn còn những hạn chế nhất định, dọc bờ
biển Việt Nam có khoảng 125 bãi biển lớn nhỏ thuận lợi cho phát triển du lịch
nhưng số lượng bãi tắm được đầu tư với qui mơ lớn chưa nhiều. Nhiều bãi tắm ở
tình trạng: “nhiều nắng, nhiều biển, nhiều cát nhưng khơng có người”. Nhiều bãi
biển ô nhiễm nặng, nhiều điểm du lịch chưa đưa vào sử dụng...
2.4 GIAO THƠNG VẬN TẢI BIỂN
Biển Đơng nằm trên tuyến đường giao thông biển huyết mạch nối liền Thái
Bình Dương - Ấn Độ Dương, châu Âu - châu Á, Trung Đông - châu Á. Đây được
coi là tuyến đường vận tải quốc tế nhộn nhịp thứ hai của thế giới. Mỗi ngày có
khoảng từ 150 - 200 tàu các loại qua lại Biển Đơng, trong đó có khoảng 50% là
tàu có trọng tải trên 5.000 tấn, hơn 10% là tàu có trọng tải từ 30.000 tấn trở lên.

Trong khu vực Đơng Nam Á có khoảng 536 cảng biển, trong đó có hai cảng vào
loại lớn và hiện đại nhất thế giới là cảng Singapore và Hồng Công. Thương mại
và công nghiệp hàng hải ngày càng gia tăng ở khu vực.Biển Đông được coi là
con đường chiến lược về giao lưu quốc tế và thương mại quốc tế.
Nhiều nước ở khu vực Đơng Á có nền kinh tế phụ thuộc sống còn vào con
đường biển này như Nhật Bản, Hàn Quốc, Đài Loan, Singapore và cả Trung
Quốc. Đây là mạch đường thiết yếu vận chuyển dầu và các nguồn tài nguyên
thương mại từ Trung cận Đông và Đông Nam Á tới Nhật Bản, Hàn Quốc và
Trung Quốc. Hơn 90% lượng vận tải thương mại của thế giới thực hiện bằng
đường biển và 45% trong số đó phải đi qua vùng Biển Đơng.
Lượng dầu lửa và khí hố lỏng được vận chuyển qua vùng biển này lớn gấp
15 lần lượng chuyên chở qua kênh đào Panama. Khu vực biển Đơng có những eo
biển quan trọng đối với nhiều nước, với 4 trong 16 con đường chiến lược của thế
giới nằm trong khu vực Đông Nam Á. Đặc biệt eo biển Malacca là eo biển nhộn
nhịp thứ hai trên thế giới. Hàng năm có khoảng 70% khối lượng dầu mỏ nhập

14


khẩu và khoảng 45% khối lượng hàng hoá xuất khẩu của Nhật Bản được vận
chuyển qua biển Đông. Trung Quốc có 29/39 tuyến đường hàng hải và khoảng
60% lượng hàng hóa xuất nhập khẩu, 70% lượng dầu mỏ nhập khẩu được vận
chuyển bằng đường biển qua biển Đông.
Việt Nam hiện có 73 cảng biển lớn nhỏ và 8 thương cảng lớn do TW quản lý
(Cái Lân, Hải Phòng, Cửa Lò, Đà Nẵng, Quy Nhơn, Nha Trang, Sài Gòn, Cần
Thơ). Trong đó, 3 cảng lớn là Hải Phịng, Đà Nẵng, Sài Gòn. Hiện nay, đang tập
trung xây dựng một số cảng nước sâu cho tàu trọng tải lớn đạt tiêu chuẩn quốc tế.
Đặc biệt là cảng trung chuyển quốc tế Vân Phong – Khánh Hòa; cảng cửa ngõ
quốc tế tại Hải Phòng, Bà Rịa – Vũng Tàu.Vận tải biển quốc tế được phát triển
mạnh mẽ sau năm 1976. Các tuyến đường biển quốc tế chủ yếu xuất phát từ các

cảng biển quốc tế của nước ta đã đi tớii nhiều nước trong khu vực và thế giới
(Trung Quốc, Nhật Bản, Hàn Quốc, Thái Lan, Campuchia, Singapo, Malayxia,
Hồng Kông, ...)
Tuy nhiên, việc phát triển tổng hợp kinh tế biển ở nước ta vẫn chưa tương
xứng với tiềm năng hiện có. Có nhiều cảng biển nhưng tốc độ phát triển còn
chậm, thiếu sức cạnh tranh, thiết bị dỡ xếp lạc hậu, thiếu cảng nước sâu, cảng
Contenner, cảng tổng hợp đều nằm sâu trong đất liền (Hải Phòng sâu 30 km, Sài
Gòn sâu 90 km).
Việt Nam là nước có tính biển lớn nhất so với các nước trên bán đảo Trung
- Ấn. Mục tiêu đến năm 2020, phấn đấu đưa nước ta trở thành quốc gia mạnh về
biển, làm giàu từ biển, bảo đảm vững chắc chủ quyền, quyền chủ quyền quốc gia
trên biển, đảo. Xây dựng một số thương cảng quốc tế có tầm cỡ khu vực và khu
kinh tế mạnh ở ven biển.Tiềm năng biển Việt Nam là một lợi thế lớn, là niềm tự
hào của đất nước trong tiến trình cơng nghiệp hoá, hiện đại hoá và trong xu thế
hội nhập kinh tế khu vực và thế giới. Tuy nhiên, tiềm năng đó vẫn chỉ là tiềm

15


năng, nếu thiếu đi một chiến lược tổng thể, cùng những mục tiêu, biện pháp cụ
thể.
III. KẾT LUẬN:
Lịch sử phát triển của thế giới cho thấy những bước đột phá phát triển mang
tầm thế giới cho đến nay hầu như đều bắt nguồn từ những quốc gia - biển (đại
dương). Đó là Italia, Anh, Nhật Bản, Xingapo, Trung Quốc...Ngày nay, thế giới
đang bước vào giai đoạn bùng nổ phát triển mới với xu hướng ngày càng khẳng
định tầm quan trọng to lớn của biển và đại dương. Các nước giáp Biển Đông, nhờ
nguồn tài nguyên biển phong phú, đã không ngừng phát triển kinh tế và ngày
càng phát huy tốt hơn thế mạnh biển.
Tình trạng khan hiếm nguyên liệu, năng lượng trở nên gay gắt hơn bao giờ

hết, dẫn tới cạnh tranh thị trường, tranh chấp lãnh thổ và xung đột quốc gia
thường xuyên và gay gắt. Vươn ra biển, khai thác đại dương đã trở thành khẩu
hiệu hành động mang tính chiến lược của tồn thế giới. Chính vì lẽ đó mà khơng
phải ngẫu nhiên luận điểm “Thế kỷ XXI là thế kỷ của đại dương” xuất hiện và
được nhất trí cao trên tồn thế giới . Tuy nhiên, trong vấn đề phát triển kinh tế
biển có nhiều thách thức đang được đặt ra.
Khu vực Biển Đơng đang có tranh chấp gay gắt, nên việc hợp tác và hội
nhập quốc tế để phát triển kinh tế ở khu vực này cịn gặp khơng ít khó khăn.
Việc giải quyết các tranh chấp liên quan đến biển, những vi phạm trong q trình
sử dụng, khai thác tài ngun biển chưa có các quy định cụ thể mang tính pháp
quy như trong quản lý sử dụng đất trên đất liền và còn nhiều bất cập. Ngồi ra,
khu vưc Biển Đơng cịn có nhiều vấn đề quan trọng về giao thông biển, môi
trường biển… cần sự chung tay đối thoại và giải quyết của các quốc gia trong
thời gian tới nhằm đẩy mạnh phát triển kinh tế.

16



×