Tải bản đầy đủ (.docx) (37 trang)

Một số vấn đề lý luận về giữ vững định hướng xã hội chủ nghĩa trong phát triển kinh tế

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (183.2 KB, 37 trang )

Mở đầu

Công cuộc đổi mới đợc triển khai ngày càng sâu rộng đến nay đà sang
năm thứ 12. Chúng ta đà giành đợc nhiều thành tựu to lớn và quan trọng trên
tất cả các mặt kinh tế, chính trị, an ninh-quốc phòng, đối nội, đối ngoại...bộ
mặt của đất nớc, vị thế của Việt Nam trên trờng quốc tế đà thay đổi rất
nhiều. Đó là một sự thật hiển nhiên mà nhân dân ta đều thấy rõ và thế giới
thừa nhận. Tất cả chứng tỏ công cuộc đổi mới do Đảng ta khởi xớng và lÃnh
đạo là hoàn toàn đúng đắn, đáp ứng yêu cầu của đất nớc ta và xu thế chung
của thời đại.
Bên cạnh những thành tựu, chúng ta cũng thấy nảy sinh nhiều tiêu cực, tệ
nạn, suy thoái nh tham nhũng, buôn lậu, xa hoa, lÃng phí, phân hoá giàu
nghèo, chạy theo tiền tài, danh vị, quan liêu, dối trá, luồn lách, cơ hội... có tệ
nạn đà trở thành quốc nạn, có tệ nạn càng chống lại càng phát triển rộng hơn,
nghiêm trọng hơn. Đó cũng là sự thật nhng là sự thật đáng buồn, hay nói các
khác đó là mặt trái của tình hình đà và đang làm cho mọi Đảng chân chính
cũng nh mọi ngời dân lơng thiện băn khoăn, lo lắng có khi đà có những bất
bình đáng tiếc xảy ra.
Chúng ta phải thấy rõ hai mặt của tình hình, đánh giá khách quan đúng
mức, không thổi phồng, cờng điệu bất cứ mặt nào. Khẳng định thành tựu để
làm cho những gì là tốt đẹp, là tích cực không phải chỉ là kết quả đổi mới mà
còn phải trở thành mặt chủ đạo của đời sống xà hội, trở thành tiền đề cho sự
phát triển tiếp tục của đất nớc, trở thành động lực thúc đẩy mạnh mẽ công
cuộc công nghiệp hoá, hiện đại hoá hiện nay. Mặt khác, phải nhận diện cho
đúng, cho hết những tệ nạn, tiêu cực, suy thoái, đang là lực cân con đờng đi
lên chủ nghĩa xà hội của nhân dân ta. Hơn nữa Bác Hồ đà nói những cái đó
còn là những giặc nội xâm, là đồng minh của các thế lực thù địch đang
tìm mọi cách phá hoại sự nghiệp đổi mới của Đảng và nhân dân ta. Sự phá
hoại ấy tập chung vào mấy việc: một là, làm sao cho ngày càng có nhiều ngời mất lòng tin và đi đến từ bỏ chủ nghĩa Mac-LêNin và t tởng Hồ Chí Minh,
hai là làm giảm vai trò lÃnh đạo của Đảng Cộng Sản Việt Nam, đi đến làm
mất vai trò lÃnh đạo ấy, ba là làm sao xoá bỏ đợc định hớng xà hội chủ nghĩa



1


®Ĩ ®a ®Êt níc ta ®i theo con ®êng t bản chủ nghĩa, bốn là tích tụ tâm trạng
dao động, hoài nghi, bi quan, bất mÃn, kích động những hành vi chống đối,
manh động nhằm gây mất ổn định xà hội tạo nên tình trạng rối loạn ngày
càng lớn hơn. Nguy cơ diễn biến hoà bình chính là nhằm vào mục tiêu đó.
Sự diễn biến hoà bình từ ngoài với nhiều âm mu, thủ đoạn, hành động và
phơng tiện khác nhau, chủ yếu là nhằm tạo ra đợc sự diễn biến từ trong,
ngay trong hàng ngũ những ngời cách mạng, ngay trong tầng lớp nhân dân.
Hoàn toàn có căn cứ để khẳng định rằng nếu bên trong chúng ta vững vàng
thì mọi âm mu diễn biến hoà bình từ ngoài nhất đinh đều bị thất bại.
Nhìn nhận đợc thấy mặt trái của tình hình Đảng, Nhà nớc và toàn dân ta
đang cố gắng tìm mọi cách đẩy lùi, khắc phục, ngăn chặn những tiêu cực, tệ
nạn, suy thoái đang diễn ra, cïng nha ®a ra ý kiÕn, ®Ị xt ®Ĩ giải quyết tốt
vấn đề này. Ngời ta tập chung vào hai loại vấn đề là: một là kinh tế thị trờng
và chủ nghĩa xà hội, hai là dân chủ và sự lÃnh đạo của Đảng.
Về kinh tế thị trờng và chñ nghÜa x· héi cã ý kiÕn cho r»ng kinh tế thị trờng không thể đi đôi với chủ nghĩa xà hội, nếu chấp nhận chủ nghĩa xà hội
thì phải từ bỏ kinh tế thị trờng, không thể bắt cá hai tay đợc. Làm nh hiện
nay thì chỉ đẻ ra một nền kinh tế hỗn loạn, không ra kinh tế thị trờng, không
ra kinh tế chủ nghĩa xà hội, kinh tế thị trờng theo định hớng xà hội chủ nghĩa
chỉ là một cách nói nhập nhằng, chỉ tạo ra tình trạng nớc đôi, nửa vời, vừa
làm vừa run, chỉ có lợi cho những kẻ đục nớc béo cò mà thôi. Từ đó đi đến
nhận định: kinh tế thị trờng đảm bảo cho nền kinh tế của đất nớc, đem lại lợi
ích cho các tầng lớp nhân dân, còn việc gắn định hớng xà hội chủ nghĩa vào
đây chỉ là vì lợi ích của Đảng chứ không đem lại lợi ích gì cho tuyệt đại đa
số nhân dân.
Cuối cùng ngời ta đà nói rõ: hÃy chon kinh tế thị trờng và từ bỏ định hớng xà hội chủ nghĩa, từ bỏ sự lựa chọn theo hệ t tởng do Đảng đề xớng, thực
chất là do Đảng áp đặt cho toàn xà héi, híng x· héi chđ nghÜa chØ lµ ngâ cơt,

lµ con đờng đi đến thất bại, định hớng xà hội chủ nghĩa chỉ là nói thế thôi ,
cha có gì rõ cả, thực ra là ta đang chuệch choạc. ở đây không một chữ nào
đề cập đến chủ nghĩa t bản, nhng ý đồ định hớng cho đất nớc ta đi theo chủ
nghĩa t bản đà quá rõ ràng. Từ bỏ định hớng xà hội chủ nghĩa chỉ chọn kinh
tế thị trờng thì nền kinh tế thị trờng ấy sẽ tất yếu dẫn đến chủ nghĩa t bản.

2


Từ khi bớc vào đổi mới, chúng ta đà đổi mới t duy, đổi mới khá nhiều
những quan niệm về chủ nghĩa xà hội. Trong những quan điểm mới, có vấn
đề chấp nhận kinh tế hàng hoá, kinh tế thị trờng, vì kinh tế hàng hoá, kinh tế
thị trờng không phải chỉ riêng chủ nghĩa t bản, nó xuất hiện và tồn tại trong
các xà hội có sản xuất hàng hoá. Chúng ta đà đi đến nhất trí nền kinh tế mà
chúng ta cần xây dựng không phải là nền kinh tế kế hoạch hoá tập trung bao
cấp nh trớc đây mà là nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần, vận hành theo
cơ chế thị trờng có sự quản lý của nhà nớc theo định hớng xà hội chủ nghĩa.
Đây là vấn đề mà Đảng và nhà nớc ta đặt mối quan tâm chủ yếu trong
việc xây dựng đất nớc ta. Trong những năm qua Đảng và nhà nớc ta cố gắng
tìm mọi cách điều chỉnh, bổ sung, từng bớc hoàn thiện cơ chế kinh tế mới,
nhằm giữ vững định hớng xà hội chủ nghĩa khi đi vào kinh tế thị trờng, làm
cho định hớng xà hội chủ nghĩa rõ ràng hơn, sử dụng tột kinh tế thị trờng
phục vụ cho mục tiêu xây dựng chủ nghĩa xà hội, làm sao kinh tế nhà nớc
không bị thua lỗ để đóng đợc vai trò chủ đạo, làm sao phát huy đợc năng lực
của các thành phần kinh tế... Nh vậy việc ra đời đề án này là rất cần thiết, kịp
thời, phù hợp với mục tiêu nghiên cứu xu hớng phát triển kinh tế hiện nay,
phù hợp với mục tiêu phơng hớng mà chúng ta đặt ra.
Hiện nay, những ngời ViƯt Nam trong níc cịng nh nh÷ng ngêi ViƯt Nam
sèng ở nớc ngoài, vẫn có ngời nghĩ rằng chỉ cần đặt vấn đề xây dựng một nớc Việt Nam giàu mạnh, xà hội công bằng và văn minh là đủ, không cần
phải đa nó theo định hớng xà hội chủ nghĩa, bởi vì nói nh vậy vừa thừa vừa

làm rối t duy, theo họ chủ nghĩa nào cũng đợc miễn là dân giàu nớc mạnh, xÃ
hội công bằng văn minh, dòng sông tự nó chảy ra biển, việc gì phải uốn nắn,
định hớng, làm một việc thừa trái quy luật. Lập luận trên không phải không
có tác động đến một sè ngêi, nhÊt lµ líp ngêi cha qua kinh nghiƯm đấu tranh,
muốn an phận, tuần tự nhi tiến, khắc đi khắc đến.
Thực tế diễn ra mấy năm nay, trên thế giíi cịng nh trong níc, cho phÐp
chóng ta kÕt ln rằng: suy nghĩ trên là hời hợt và nguy hiểm. Nguy hiểm vì
nó sùng bái tính tự phát, hơn nữa nã tíc mÊt lý tëng cđa mét d©n téc, tøc là tớc đi ý chí chiến đấu của dân tộc. Một xà hội muốn tồn tại, một dân tộc
muốn ngang hàng với các dân tộc khác, phải có t tởng của mình. Chủ nghĩa
Mac-LêNin và t tởng Hồ Chí Minh là nền tảng t tởng của Đảng ta: đó là t tởng về định hớng xà hội chủ nghĩa.
3


Định hớng là nghệ thuật nhận biết đợc mình đang ở đâu bằng cách xác
định đợc những đặc điểm then chốt. Còn tính từ xà hội chủ nghĩa là thể
hiện đợc nguyên tắc, tinh thần, đặc điểm của chủ nghĩa xà hội khoa học.
Theo từ điển chủ nghĩa công sản khoa học của Liên Xô định hớng xà hội
chủ nghĩa là để chỉ đờng lối đi lên chủ nghĩa xà hội của những nớc dới sự
lÃnh đạo của Đảng cộng sản sau chiến tranh thế giới thứ 2, đợc giải phóng
khỏi ách thống trị của nớc ngoài đi thẳng lên chủ nghĩa xà hội, không qua
chủ nghĩa t bản.
Từ sau đại hội VII, khái niệm định hớng xà hội chủ nghĩa đợc sử dụng
rộng rÃi trng các văn kiện của Đảng, nhà nớc và các tổ chức chính trị, xà hội,
trong các công trình khoa học ở nớc ta.
Theo văn kiện hội nghị đại biểu toàn quốc giữa nhiệm kỳ khoá VII định
hớng xà hội chủ nghĩa có nghĩa là phấn đấu thực hiện sáu đặc trng của chủ
nghĩa xà hội mà đại hội VII đà thông qua. Trong văn kiện đó viết: Đại hội
VII đà nêu lên sáu đặc trng của xà hội xà hội chủ nghĩa mà nhân dân ta xây
dựng. đại hội cũng đà chỉ rõ bảy phơng hớng cơ bản để từng bớc thực hiện
trong các thực tế các đặc trng ấy. Đó chính là định hớng xà hội chủ nghĩa mà

các hội nghị Trung ơng (khoá VII) đà cụ thể hoá để chỉ đạo thực hiện. Nói
cách khác, định hớng xà hội chủ nghĩa là khái niệm dùng để chỉ mục tiêu
xà hội chủ nghĩa mà chúng ta cần đạt tới cùng những phơng hớng cơ bản để
từng bớc tiến tới mục tiêu đó.
Đi đôi với việc hiểu thế nào là định hớng x· héi chđ nghÜa chóng ta cịng
cÇn hiĨu râ vỊ kinh tế thị trờng. Có hai loại ý kiến khác nhau:
Một là, xem kinh tế thị trờng là phơng thức vận hành kinh tế lấy thị trờng hình thành do trao đổi và lu thông hàng hoá làm ngời phân phối các
nguồn lực chủ yếu, lấy lợi ích vật chất, cung cầu thị trờng và mua bán giữa
hai bên làm cơ chế khuyến khích hoạt động kinh tế. Nó là một phơng thức tổ
chức vận hành kinh tế xà hội. Kinh tế thị trờng là phơng thức, phơng
tiện, công cụ vận hành nền kinh tế có hiệu quả. Tự nó không mang tính
giai cấp-xà hội, không tốt mà cũng không xÊu. Tèt hay xÊu lµ do ngêi sư
dơng nã. Theo quan điểm này, kinh tế thị trờng là vật trung tính, là công
nghệ sản xuất ai sử dụng cũng đợc.
Hai là, xem kinh tế thị trờng là một loại quan hệ kinh tế xà hội chính
trị, nó in đậm dấu ấn của lực lợng sản xuất làm chủ thị trờng. Kinh tÕ thÞ tr4


ờng là một phạm trù kinh tế hoạt động, có chủ thể của quá trình hoạt động
đó, chủ thể hoạt động trong kinh tế thị trờng không phải chỉ là cá nhân riêng
lẻ, đó còn là những tập đoàn xà hội những giai cấp. Sự tác động qua lại của
các chủ thể hoạt động đó có thể có lợi cho ngời này, tầng lớp hay giai cấp
này, có hại cho tầng lớp, giai cấp khác. Cho nên kinh tế thị trờng có mặt tích
cực có mặt tiêu cực nhất định không thể nhấn mạnh chỉ một mặt trong hai
mặt của nã.

5


I. Một số vấn đề lý luận về giữ vững định hớng xÃ

hội chủ nghĩa trong phát triển kinh tế.

Ngày nay chúng ta dùng định hớng xà hội chủ nghĩa, giữ vững định
hớng xà hội chủ nghĩa bao hàm ý:
Một là, dứt khoát đi theo con đờng tiến lên chủ nghĩa xà hội, không chọn
lựa con đờng phát triển t bản chủ nghĩa hay con đờng thứ ba nào khác.
Hai là, chúng ta không có đủ điều kiện thực hiện kiểu quá độ trực tiếp.
Trong điều kiện đó, chúng ta đÃ, đang và sẽ phải sử dụng một số nhân tố trớc
hết là nền kinh tế nhiều thành phần vận hành theo cơ chế thị trờng...mà do
bản chất khách quan của nó, khả năng phát triển theo định hớng t bản chủ
nghĩa là có thật, bất cứ lúc nào cũng có thể chệch hớng, nếu Đảng ta nói
riêng, hệ thống chính trị nớc ta không đủ mạnh.
Ba là, trong giai đoạn này, chúng ta cha thể thực hiện đợc ngay một lúc
tất cả những đặc trng của xà hội xà hội chủ nghĩa, mà là thực hiện từng bớc
các đặc trng đó.
1.Quá độ lên chủ nghĩa xà hội bỏ qua chủ nghĩa t bản-một tất yếu lịch
sử.
Toàn thế giới đà bớc vào thời đại quá độ từ chủ nghĩa t bản lên chủ nghĩa
xà hội. Thực tiễn đà khẳng định chủ nghĩa t bản là chế độ xà hộ đà lỗi thời về
mặt lịch sử, sớm hay muộn cũng phải đợc thay bằng hình thái kinh tế xà hội
cộng sản chủ nghĩa mà giai đoạn đầu là giai đoạn xà hội chủ nghĩa. Cho dù
hiện nay, với những cố gắng thích nghi với tình hình mới, chủ nghĩa t bản thế
giới vẫn đang có những thành tựu phát triển nhng vẫn không vợt qua khỏi
những mâu thuẫn cơ bản của nó, những mâu thuẫn này không dịu đi mà ngày
càng phát triển gay gắt và sâu sắc. Chủ nghĩa t bản không phải là tơng lai của
loài ngời. Đi theo dòng chảy của thời đại cũng tức là đi theo quy luật phát
triển tự nhiên của lịch sử.
Cách mạng Việt Nam phát triển theo con đờng độc lập dân tộc gắn liền
với chủ nghĩa xà hội. Tính tất yếu lịch sử ấy xuất hiện từ những năm 20 của
6



thế kỷ XX. Nhờ đi con đờng ấy, nhân dân ta đà làm cách mạng Tháng Tám
thành công, đà tiến hành thắng lợi hai cuộc kháng chiến hoàn thành sự
nghiệp giải phóng dân tộc. Ngày nay, chỉ có đi lên chủ nghĩa xà hội mới giữ
vững đợc độc lập, tự do cho dân tộc, mới thực hiện đợc mục tiêu làm cho mọi
ngời dân đợc ấm no, tự do hạnh phúc. Sự lựa chọn con đờng độc lập dân tộc
và chđ nghÜa x· héi cđa nh©n d©n ta nh vËu là sự lựa chọn của chính lịch sử
dân tộc lại vừa phù hợp với xu thế của thời đại đà làm cho sự quá độ lên chủ
nghĩa xà hội bỏ qua chế độ t bản ở nớc ta là một tất yếu lịch sử.
Mặc dù kinh tế còn lạc hậu, nớc ta vẫn còn những khả năng và tiền đề để
quá độ lên chủ nghĩa xà hội bỏ qua chế độ t bản ngay cả trong điều kiện
không còn Liên Xô.
Về khả năng khách quan, trớc hết phải kể đến nhân tố thời đại, tức xu thế
quá độ lên chủ nghĩa xà hội trên phạm vi toàn thế giới.
Nhân tố thời đại đóng vai trò tích cực làm thức tỉnh các dân tộc, các quốc
gia, không những làm cho sự quá độ bỏ qua chế độ t bản trở thành một tất
yếu mà còn đem lại những điều kiện và khả năng khách quan cho sự quá độ
này. Quá trình quốc tế hoá sản xuất và sự phụ thuộc lẫn nhau giữa các nớc
ngày càng tăng lên, cũng nh sự phát triển của cuộc cách mạng khoa học và
công nghệ về khách quan đà tạo ra những khả năng đẻ các nớc phát triển đi
sau có thể tiếp thu và vận dụng vào nớc của mình những lực lợng sản xuất
hiện đại của thế giới và những kinh nghiệm của các nớc đi trớc để thực hiện
con đờng phát triển rút ngắn. Xu thế toàn cầu hóa sự phụ thuộc lẫn nhau
giữa các quốc gia trên thế giới ngày càng tăng lên tuy có chứa đựng những
nguy cơ và thách thức nhng vẫn tạo khả năng khách quan cho việc khặc phục
khó khăn về nguồn vốn và kỹ thuật hiện đại cho các nớc chậm phát triển nếu
có đờng lối chính sách đúng.
Về những tiền đề chủ quan:
Việt Nam là nớc có số dân tơng đối đông, nhân lực dồi dào, tài nguyên

đa dạng. Nhân dân ta đà lập nên chính quyền nhà nớc dân chủ nhân dân dới
sự lÃnh đạo của Đảng cộng sản, làm nhiệm vụ lịch sử của chuyên chính vô
sản, đà xây dựng đợc những cơ sở ban đầu về chính trị, kinh tế của chủ nghĩa
xà hội. So sánh với Liên xô trớc đây khi bắt đầu thời kỳ quá độ ta tuy có mặt
yếu, nhng cũng có mặt thuận lợi hơn trong công cuộc xây dựng đất nớc quá
độ lên chủ nghià xà hội.
7


Cách mạng Việt Nam do Đảng cộng sản Việt Nam lÃnh đạo-một Đảng
giàu tinh thần cách mạng, sáng tạo và trí tuệ khoa học, có đờng lối đúng đắn
và gắn bó quần chúng, đó là nhân tố chủ quan có ý nghĩa vô cùng quan trọng
đảm bảo cho thắng lợi của công cuộc xây dựng chủ nghĩa xà hội và bảo vệ tổ
quốc Việt Nam xà hội chủ nghĩa.
Nhân dân ta dới sự lÃnh đạo của Đảng cộng sản Việt Nam đà từng chiến
đấu, hy sinh không chỉ nhằm mục đích giành lại độc lập dân tộc, mà còn vì
cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc. Những yêu cầu đó chỉ có chủ nghĩa xÃ
hội mới đáp ứng đợc. Vì vậy, quyết tâm của nhân dân sẽ trở thành lực lợng
vật chất đủ sức vợt qua mọi khó khăn và xây dựng thành công chủ nghĩa xÃ
hội

8


2.Bản chất và nội dung giữ vững định hớng xà hội chủ nghĩa.
2.1.Bản chất giữ vững định hớng xà hội chủ nghĩa.
Đại hội VII của Đảng đà xác định bản chất giữ vững định hớng xà hội
chủ nghĩa: xây dựng nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần, vận hành theo
cơ chế thị trờng, đi đôi với tăng cờng quản lý của nhà nớc theo định hớng xÃ
hội chủ nghĩa, ...phát triển nền kinh tế nhiều thành phần, vận hành theo cơ

chế thị trờng có sự quản lý của nhà nớc theo định hớng xà hội chủ nghĩa.
2.1.1.Nền kinh tế mà chúng ta cần có là nền kinh tế hàng hóa phát triển
tức là kinh tế thị trờng hiện đại.
ĐÃ là kinh tế thị trờng thì có cơ chế vận hành vốn có của nó-cơ chế thị trờng.Khi chuyển sang kinh tế thị trờng chúng ta đứng trớc một thực trạng
là:đất nớc đà và đang từng bớc quá độ lên chđ nghÜa x· héi tõ mét x· héi vèn
lµ thc địa nửa phong kiến với trình độ phát triển của lực lợng sản xuất xÃ
hội rất thấp. Đất nớc lại trải qua hàng chục năm chiến tranh hậu quả để lại
còn nặng nề. Những tàn d thực dân, phong kiến còn nhiều, lại chịu ảnh hởng
nặng nề của cơ chế tập chung quan liêu bao cấp.
Với những đặc điểm xuất phát nh trên, có thể nhận xét rằng: nền kinh tế
nớc ta không còn hoàn toàn là nền kinh tế tự nhiên tự cung tự cấp, nhng cũng
cha phải là kinh tế hàng hoá theo nghĩa đầy đủ. Mặt khác do có sự đổi mới
về mặt kinh tế cho nên nền kinh tế nớc ta cũng không còn là nền kinh tÕ chØ
huy. Cã thĨ nãi thùc tr¹ng kinh tÕ nớc ta khi chuyển sang kinh tế thị trờng là
nền kinh tế hàng hoá kém phát triển còn mang nặng tính tự cấp tự túc và chịu
ảnh hởng nặng nề của cơ chế tập chung quan liêu bao cấp.
Để phát triĨn nỊn kinh tÕ th× nỊn kinh tÕ níc ta phải đợc chuyển sàn nền
kinh tế thị trờng theo định hớng xà hội chủ nghĩa. Tuy nhiên với tất cả tính
phức tạp và các mặt tiêu cực xảy ra trên thÞ trêng, viƯc chun sang nỊn kinh
tÕ thÞ trêng vÉn cha tới bớc tiến bộ về mặt kinh tế hơn hẳn trớc đây mà nhiệm
đặt ra hiện nay là nớc ta cần xây dựng một nền kinh tế thị trờng hiện đại với
tính chất xà hội hiện đại. Mặc dù nền kinh tế nớc ta đang nằm trong tình
trạng lạc hậu và kém phát triển nhng khi nớc ta chuyển sang ph¸t triĨn nỊn
9


kinh tế hàng hoá, kinh tế thị trờng, thì thế giới đà chuyển sang giai đoạn kinh
tế thị trờng hiện đại. Bởi vậy, chúng ta không thể và không nhất thiết phải
trải qua giai đoạn kinh tế thị trờng tự do, mà đi thẳng vào phát triển kinh tế
thị trờng hịên đại. Đây là nội dung và yêu cầu của sự phát triển rút ngắn. Mặt

khác, thế giới vẫn đang nằm trong thời đại quá độ từ chủ nghĩa t bản lên chủ
nghĩa xà hội, cho nên sự phát triển kinh tế xà hội phải theo định hớng xà hội
chủ nghĩa là cần thiết, khách quan và cũng là nộ dung, yêu cầu của sự phát
triển rút ngắn. Sự nghiệp dân giàu, nớc mạnh, xà hội công bằng và văn
minhvừa là mục tiêu, vừa là nội dung, nhiệm vụ của việc phát triển kinh tế
thị trờng định hớng xà hội chủ nghĩa ở nớc ta.
Chúng ta đang phấn đấu xây dựng một nền kinh tế thị trờng định hớng xÃ
hội chủ nghĩa đạt trình độ kinh tế thị trờng phát triển với đặc trng:
Hệ thống thị trờng đợc phát triển đầy đủ: thị trờng hàng hoá, thị trờng
công nghệ, các dịch vụ thông tin, t vấn, tiếp thị, pháp lý, tài chính, ngân
hàng, kiểm toán, bảo hiểm, bảo lÃnh, thị trờng sức lao động, thị trờng khoa
học, kỹ thuật, công nghệ, thị trờng bất động sản, thị trờng vốn, thị trờng
chứng khoán...Tất cả các loại thị trờng đó liên kết chặt chẽ với nhau tạo
thành một chỉnh thể hữu cơ. Hệ thống thị trờng này trở thành đầu mối mọi
tác động qua lại của hoạt động kinh tế xà hội.
Mỗi thực thể kinh tế có lợi ích riêng và là chủ thể của thị trờng, tham gia
hoạt động của thị trờng và cạnh tranh với nhau.
Việc vận hành kinh tế xà hội đợc thực hiện trong sự kết hợp giữa đờng
lối, chủ trơng, chính sách, kế hoạch với việc sử dụng các loại tín hiệu kinh tế
mà thị trờng cung cấp, việc lu trữ tài nguyên đợc điều tiết bởi thông tin thị trờng và kế hoạch cân đối sản xuất.
Dựa trên quy luật thống nhất mà hình thành một trật tự thị trờng, sản xuất
xà hội, lu thông, hình thành mạng lới sản xuất xà hội có trật tự của kinh tế thị
trờng, chính phủ thực hiện việc điều chỉnh và khống chế vĩ mô cần thiết, hữu
hiệu, vận dơng chÝnh s¸ch kinh tÕ, ph¸p lt kinh tÕ, chØ đạo kế hoạch và phơng pháp hành chính cần thiết để hớng dẫn sự phát triển của kinh tế thị trờng.
ĐÃ là kinh tế thị trờng thì có cơ chế vận hàng vốn có của nó-cơ chế thị trờng. Cơ chế thị trờng chín là bộ máy kinh tế điều tiết toàn bộ sự vận động
của kinh tế thị trờng, điều tiết quá trình sản xuất và lu thông hàng hoá thông
10


qua sự tác động của các quy luật kinh tế trên thị trờng đặc biệt là quy luật giá

trị-quy luật kinh tế căn bản của sản xuất và lu thông hàng hoá.
Sự tồn tại và phát triển của cơ chế thị trờng là yêu cầu khách quan đối với
những xà hội còn tồn tại nền kinh tế hàng hoá. Coi nhẹ hay bỏ qua vai trò
của kinh tế thị trờng là một trong những nguyên nhân thất bại trên lĩnh vực
kinh tế.
Trong lịch sử cơ chế thị trờng có đợc không gian rộng lớn ở giai đoạn
cạnh tranh tự do t bản chủ nghĩa. Vì vậy tác đông của cơ chế thị trờng đợc
phát hiện khá sớm. Cơ chế thị trờng đợc coi là bàn tay vô hình điều tiết sự
vận động của nền kinh tế hàng hoá.

11


2.1.2.Tính định hớng xà hội chủ nghĩa trong nền kinh tế thị trờng.
Trong thời đại ngày nay, mọi nền kinh tế thị trờng đều có sự quản lý của
nhà nớc. Cho nên tính đặc thù của nền kinh tế mà chúng ta đang xây dựng so
với các nền kinh tế thị trờng đang có ở các nớc t bản chủ nghĩa không phải ở
chỗ có hay không có sự quản lý của nhà nớc mà là ở tính định hớng x· héi
chđ nghÜa cđa nã.
Kinh tÕ thÞ trêng ë ViƯt Nam sẽ đợc phát triển theo định hớng xà hội chủ
nghĩa. Đó là sự định hớng của một xà hội mà sự hùng mạnh của nó nhờ vào
sự giàu có và hạnh phúc của dân c xà hội không còn chế độ ngời bóc lột ngời, dựa trên cơ sở nhân dân lao động làm chủ, con ngời đợc giải phóng khỏi
áp bức, bóc lột, bất công, làm theo năng lùc, hëng theo lao ®éng, cã cuéc
sèng Êm no, tù do, hạnh phúc, có điều kiện phát triển toàn diện cá nhân. XÃ
hội có nền kinh tế phát triển cao trên cơ sở khoa học, công nghệ và lực l ợng
sản xuất hiện đại.
Định hớng xà hội chủ nghĩa nêu trên không chỉ phản ánh nguyện vọng và
lí tởng của Đảng ta, nhà nớc và nhân dân ta, mà còn là xu thế phát triển
khách quan của thời đại cũng nh quy luật tiến hoá của lịch sử.
Hiện nay tình hình thế giới đà và đang biến đổi phức tạp.Trong nhiều

thập kỷ vừa qua, các nớc t bản chủ nghĩa lợi dụng đợc những thành tựu của
khoa học công nghệ, tranh thủ và mở rộng phát triển nền kinh tế của
mình.Họ đà ra sức điều chỉnh để thích nghi, nên đà đa lại sự tăng trởng kinh
tế cao và có sự cải thiện nhất định về mặt xà hội. Song ®iỊu ®ã cịng cho thÊy
nh÷ng tiỊn ®Ị vỊ kinh tÕ và xà hội cho một xà hội tơng lai đợc chuẩn bị ngay
trong lòng chủ nghĩa t bản.
Lịch sử phát triển của chủ nghĩa t bản đà cho thấy khi hình thành những
yếu tố khẳng định quan hệ sản xuất t bản chủ nghĩa thì cũng đồng thời xuất
hiện những yếu tố tự phủ định nó. Sự tác động của những yếu tố này không
có tính nhất thời mà là cả một quá trình. Chủ nghĩa t bản không phải là cả
một hình thái kinh tế xà hội vĩnh viễn. Theo quy luật tiến hoá và lý luận về
hình thái kinh tế xà hội của Mác thì sớm hay muộn chủ nghĩa t bản cũng
phải nhờng chỗ cho một xà hội văn minh hơn đó là chủ nghĩa hội. Đúng nh
văn kiện Đại hội Đảng lần thứ VII, Đảng cộng sản Việt Nam đà khẳng định:
12


Lịch sử thế giới đang trải qua những bớc quanh co song loài ngời cuối cùng
nhất định sẽ tiến tới chủ nghĩa hội. Đó là quy luật tiến hoá của lịch sử.
Định hớng xà hội chủ nghĩa của nền kinh tế thị trờng ở nớc ta là cần thiết
và có tính khách quan. Xây dựng nền kinh tế thị trờng không có gì mâu
thuẫn với định hớng xà hội chủ nghĩa. Đại hội lần thứ VIII của Đảng ta đÃ
khẳng định: cơ chế thị trờng đà phát huy tác dụng tích cực to lớn đên sự
phát triển kinh tế xà hội. Nó chẳng những không đối dập mà còn là một nhân
tố khách quan cần thiết của việc xây dựng và phát triển đất nớc theo con đờng xà hội chủ nghĩa.
2.2.Nội dung giữ vững định hớng xà hội chủ nghĩa.
2.2.1.Thực hiện nhất quán, lâu lài chính sách phát triển nền kinh tế hàng
hoá nhiều thành phần.
Tìm mọi biện pháp để khuyến khích phát triển các thành phần kinh tế và
hình thức tổ chức kinh doanh. Các thành phần kinh tế tiến hành sản xuất

hàng hoá tuy có bản chất kinh tế khác nhau, nhng chúng đều là những bộ
phận của một cơ cấu kinh tế quốc dân thống nhất với các quan hệ cung-cầu,
tiền tệ, giá cả chung. Bởi vậy, chúng vừa hợp tác, vừa cạnh tranh với nhau.
Mỗi đơn vị kinh tế là một chủ thể độc lập, tự chủ và tất cả đều bình đẳng trớc
pháp luật.
Tuy nhiên, cần nhận thức rõ rằng mỗi thành phần kinh tế chịu sự tác
động của các quy luật kinh tế riêng. Chính sự tác động của các quy luật kinh
tế khác nhau này mà bên cạnh tính thống nhất của các thành phần kinh tế
còn có những khác nhau và mâu thuẫn khiến cho nền sản xuất hàng hoá ở nớc ta có khả năng phát triển theo những phơng hớng khác nhau. Vì vậy cùng
với sự khuyến khích làm giàu chính đáng của các doanh nghiệp thuộc các
thành phần kinh tế này, nhà nớc ta phải sử dụng nhiều biện pháp để ngăn
chặn và hạn chế những khuynh hớng tự phát, những hiên tợng tiêu cực, hớng
sự phát triển của các thành phần kinh tế này theo định hớng x· héi chñ
nghÜa.

13


2.2.2.Chủ động đổi mới, phát triển và nâng cao hiệu quả kinh tế nhà nớc, kinh tế hợp tác trong đó kinh tế nhà nớc đóng vai trò chủ đạo.
Tính chất nhiều thành phần kinh tế là nét đặc trng có tính quy luật của
nền kinh tế quá độ lên chủ nghĩa xà hội ở nớc ta. Mỗi thành phần kinh tế có
bản chất và những quy luật kinh tế hoạt động riêng, da trên một hình thức sở
hữu nhất định về lực lợng sản xuất, và có khả năng tái sản xuất một cách tơng đối độc lập lực lợng sản xuất và quan hệ sản xuất tơng ứng. Tuy nhiên,
các thành phần kinh tế không tồn tại một cách biệt lập, mà có mối liên hệ và
tác động qua lại, đan xen. Để đảm bảo nền kinh tế phát triển theo định hớng
xà hội chủ nghĩa, trong quá trình vận động vừa hợp tác vừa cạnh tranh với
các thành phần kinh tế khác, thành phần kinh tế nhà nớc phải tự vơn lên, làm
sao để cùng nới kinh tế hợp tác dần dần trở thành nền tảng cho chÕ ®é x· héi
míi, x· héi x· héi chđ nghÜa.
Kinh tế nhà nớc cần và có thể giữ vai trò chủ đạo vì những lý do sau:

Thứ nhất, kinh tế nhà nớc dựa trên chế độ sở hữu công cộng về t liệu sản
xuất, là chế độ sở hữu phù hợp với xu hớng xà hội hoá của lực lợng sản xuất.
Thứ hai, kinh tế nhà nớc nắm giữ những vị trí then chốt, yết hầu, xơng
sống của nền kinh tế, do đó nó có khả năng, có điều kiện chi phối hoạt động
của các thành phần kinh tế khác, bảo đảm cho nền kinh tế phát triển theo hớng đà định.
Thứ ba, kinh tế nhà nớc là lực lợng bảo đảm cho sự phát triển ổn định của
nền kinh tế, là lực lợng có khả năng can thiệp điều tiết, hớng dẫn giúp đỡ và
liên kết, tao điều kiện cho các thành phần kinh tế cùng phát triển.
Thứ t, kinh tế nhà nớc có thể tác động tới các thành phần kinh tế khác
không chỉ bằng các công cụ và đòn bẩy kinh tế, mà còn bằng con đờng gián
tiếp, thông qua những thiết chế và hoạt động của kiến trúc thợng tầng xà hội
chủ nghĩa.
Thứ năm, kinh tế nhà nớc dẫn đầu trong việc ứng dụng khoa học- công
nghệ hiện đại, tiên tiến, do đó nó có nhịp độ phát triển nhanh, đóng góp phần
lớn cho ngân sách nhà nớc, và tự tích tụ để có thể không ngừng tái sản xuất
và mở rộng.

14


Thứ sáu, kinh tế nhà nớc là lực lợng nòng cốt hình thành các trung tâm
kinh tế, đô thị mới, là lực lợng có khả năng đầu t vì đòi hỏi vốn quá nhiều mà
thời gian thu hồi vốn lại chậm...
2.2.3.Xác lập, củng cố và nâng cao địa vị làm chủ của ngời lao đông
trong nền sản xuất xà hội, thực hiện công bằng xà hội ngày một tốt hơn.
Đảng và nhà nớc phải có thiết chế tạo điều kiện cho mọi ngời dân, mọi
thành phần kinh tế chủ động tham gia phát triển kinh tế, làm giàu cho mình
và góp phần làm giàu cho đất nớc, phát huy dân chủ xà hội chủ nghĩa, thực
hiện tốt chủ trơng dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra trong lĩnh vwc
kinh tế xà hội.

Khẩn trơng xây dựng và ban hành quy chế bảo đảm quyền làm chủ của
nhân dân ở từng loại hình cơ sở. Phát huy quyền dân chủ đại diện và dân chủ
trực tiếp của nhân dân trong việc bàn, quyết định và giám sát việc thực hiện
những chủ trơng kinh tế, xà hội trực tiếp liên quan đến lợi ích của dân trong
việc xử lý theo đúng pháp luật những việc làm sai,những cán bộ vi phạm.
Đồng thời, đề cao kỷ luật, kỷ cơng của nhà nớc.
Các đoàn thể nhân dân cần đổi mới tổ chức và hoạt động của mình hớng
vào việc phát huy quyền làm chđ cđa nh©n d©n trong lÜnh vùc kinh tÕ x· hội,
thiết thực giúp dân phát triển sản xuất, kinh doanh, xoá đói, giảm nghèo,
nâng cao dân trí, tiến lên làm giàu góp phần tích cực vào sự nghiệp xây dựng
và bảo vệ đất nớc.
2.2.4.Trong nền kinh tế thị trờng định hớng xà hội chủ nghĩa, thực hiện
nhiều hình thức phân phối thu nhập: phân phối theo kết quả lao động và hiệu
quả kinh tế, phân phối dựa trên mức đóng góp các nguồn lực vào sản xuất
kinh doanh và phân phối thông qua các quỹ phúc lợi xà hội, trong đó phân
phối theo kết quả lao động giữ vai trò nòng cốt, đi đôi với chính sách điều
tiết thu nhập một cách hợp lý. Chúng ta không coi bất bình đẳng xà hội nh là
một trật tự tự nhiên, là điều kiện của sự tăng trởng kinh tế, mà thực hiên mỗi
bớc tăng trởng kinh tế gắn liền với cải thiện đời sống nhân dân, với tiến bộ và
công bằng x· héi.

15


Nh đà biết, mỗi chế độ xà hội có một chế độ phân phối tơng ứng với nó.
Chế độ phân phối do quan hệ sản xuất thống trị, trớc hết là quan hệ sở hữu
quyết định. Phân phối có liên quan đến chế độ xà hội, đến chính trị. Dới chủ
nghĩa t bản, phân phối theo nguyên tắc giá trị: đối với ngời lai đông theo giá
trị sức lao động, còn đối với nhà t bản theo giá trị của t bản. Nh vậy, thu nhập
của ngời lao động chỉ giới hạn ở giá trị sức lao động mà thôi. Chủ nghĩa xÃ

hội có đặc trng riêng về sở hữu, do đó chế độ phân phối cũng có đặc trng
riêng, phân phối theo lao động là đặc trng của chủ nghĩa xà hội.Thu nhập của
ngời lao động không phải chỉ giới hạn ở giá trị sức lao động mà nó phải vợt
qua đại lợng đó, nó phụ thuộc chủ yếu vào kết quả lao động và hiệu quả kinh
tế.
Tuy nhiên việc đo lờng trực tiếp lao động là một vấn đề quá phức tạp và
khó khăn, nhng trong nền kinh tế thị trờng, có thể thông qua thị trờng để
đánh gía kết quả lao động, sự cống hiến thực tế và dựa vào đó để phân phối.
Nền kinh tế thị trờng định hớng xà hội chủ nghĩa ở nớc ta gồm nhiều
thành phần kinh tế. Vì vậy cần thực hiện nhiều hình thức phân phối thu nhập.
Chỉ có nh vậy mới khai thác đợc khả năng của cơ cấu kinh tế nhiều thành
phần, huy động đợc nguồn lực của đất nớc vào phát triển kinh tế.
2.2.5.Tăng cờng hiệu lực quản lý vĩ mô của nhà nớc.
Cơ chế vận hành nền kinh tế là cơ chế thị trờng có sự quản lý của nhà nớc theo định hớng xà hội chủ nghĩa. Điều đó có nghĩa là nền kinh tế thị trờng
định hớng xà hội chủ nghĩa ở nớc ta cũng vận động theo những quy luật kinh
tế nội tại của kinh tÕ thÞ trêng nãi chung, thÞ trêng cã vai trò quyết định đối
với việc phân phối các nguồn lực kinh tế của thị trờng, thực hiện các mục
tiêu xà hội, nhân đạo mà bản thân thị trờng không thể làm đợc.
Nền kinh tế thị t bản chủ nghĩa đà đa đến những hậu quả nghiêm trọng về
mặt xà hội. Ngay từ năm 1848, trong Tuyên ngôn của Đảng cộng sản, Mác
và Ăng-ghen đà chỉ ra rằng: xà hội t bản không để lại giữa loài ngời và ngời
một mối quan hệ nào khác ngoài mối lợi lạnh lùng và lối trả tiền ngay
không tình nghĩa. Ngày nay chính một nhà nghiên cứu phơng Tây Ê-gat
Mô-ring đà đa ra nhân xét chua chát : Trong các nền văn minh đợc gọi là
phát triển của chúng ta, tồn tại một tình trạng kém phát triển thảm hại về văn
16


hoá, trí nÃo, đạo đức và tình ngời. Vì vậy, nền kinh tế thị trờng ở nớc ta
không phải là kinh tế thị trờng tự do, thả nổi mà là nền kinh tế có định hớng

mục tiêu xà hội-xà hội chủ nghĩa. Sự phát triển nền kinh tế thị trờng đợc xem
là phơng thức, con đờng thực hiện mục tiêu của chủ nghĩa xà hội: dân giàu,
nớc mạnh, xà hội công bằng văn minh.
Vai trò quản lý của nhà nớc trong nỊn kinh tÕ thÞ trêng hÕt søc quan
träng. Sù quản lý của nhà nớc đảm bảo cho nền kinh tế tăng trởng ổn định,
đạt hiệu quả, đặc biệt là đảm bảo sự công bằng và tiến bộ xà hội. Không có
ai ngoài nhà nớc lại có thể giảm bớt đợc sự chênh lệch giữa giàu và nghèo,
giữa thành thị và nông thôn, giữa công nghiệp và nông nghiệp, giữa các vùng
của đất nớc. Tuy vậy, cần nhấn mạnh rằng sự can thiệp của nhà nớc vào kinh
tế phải sao cho tơng hợp với thị trờng. Vì vậy, nhà nớc sử dụng biện pháp
kinh tế là chính để điều tiết nền kinh tế.
2.2.6.Giữ vững độc lập, chủ quyền và bảo vệ lợi ích quốc gia dân tộc
trong quan hệ kinh tế với bên ngoài.
Nền kinh tế thị trờng ở nớc ta lµ nỊn kinh tÕ më, héi nhËp víi kinh tế thế
giới và khu vực, thị trờng trong nớc gắn với thị trờng thế giới, thực hiện
những thông lệ trong quan hệ kinh tế quốc tế, nhng vẫn giữ đợc độc lập chủ
quyền và bảo vệ lợi ích quốc gia, dân tộc trong quan hệ kinh tế đối ngoại.
Thực ra, đây không phải là đặc trng riêng của nền kinh tế thị trờng định hớng, mà là xu hớng chung cđa nỊn kinh tÕ trªn thÕ giíi hiƯn nay. Trong ®iỊu
kiƯn hiƯn nay, chØ cã më cưa kinh tÕ, héi nhËp vµo nỊn kinh tÕ thÕ giíi vµ
khu vùc míi thu hút đợc vốn, kỹ thuật công nghệ hiện đại, kinh nghiệm quản
lý tiên tiến để khai thác tiềm năng và thế mạnh của nớc ta, thực hiện phát
triển kinh tế thị trờng theo kiểu rút ngắn. Thực hiện mở cửa kinh tế theo hớng
đa phơng hoá và đa dạng hoá các hình thức kinh tế đối ngoại, hớng mạnh về
xuất khẩu, đồng thời thay thế nhập khẩu những sản phẩm mà trong nớc sản
xuất có hiệu quả.

17


3.Khả năng giữ vững định hớng xà hội chủ nghĩa

trong phát triển kinh tế ở Việt Nam.
3.1.Nền kinh tế thị trờng hiện đại, một bớc tiến nhằm khắc phục
những nhợc ®iĨm lÞch sư cđa nỊn kinh tÕ thÞ trêng.
NỊn kinh tế thị trờng hiện đại có đặc điểm là vai trò của nhà nớc ngày
càng đợc coi trọng đúng với vị trí của nó, là yếu tố cơ bản đảm bảo cho sự
phát triển xà hội. Tuy nhiên phải khắc phục đợc hai nhợc điểm chính của hệ
thống kinh tế thị trờng tự do là cạnh tranh vô chính phủ và bất bình đẳng về
xà hội. Các nhà kinh tế và chính phủ ở các nớc có nền kinh tế thị trờng đÃ
nhận ra rằng đẻ khắc phục đợc hai nhợc điểm đó cần phải có một nhà nớc
mạnh-một nhà nớc thực thi dân chủ, đề ra các nguyên tắc, luật lệ kinh tế rõ
ràng và kiểm tra nghiêm chỉnh các hoạt động kinh tế trong trật tự của nền
kinh tế thị trờng. Lý thuyết tổng quát của Keynes đà trở thành lý thuyết về
bàn tay hữu hình, bàn tay công cộng của nhà nớc trong việc điều tiết nền
kinh tế thị trờng hỗn hợp. Nhà nớc tham gia phân phối lại thu nhập của các
tầng lớp dân c thông qua hệ thống thuế khoá, xây dựng các bộ luật quan
trọng để xác dập khuôn khổ phấp lý, trật tự của nền kinh tế thị trờng, tổ chức
các hình thức bảo hiểm quan trọng trong xà hội. Chi tiêu ngân sách của
chính phủ đợc đề cao trong việc xây dựng và phát triển các doanh nghiệp nhà
nớc trong các ngành sản xuất hàng hoá và dịch vụ công cộng, những lÜnh vùc
then chèt cđa nỊn kinh tÕ nh tiỊn tƯ, tài chính, công nghiệp nặng, cơ sở hạ
tầng... đợc coi là công cụ can thiệp trực tiếp và chủ yếu dể giải quyết việc
làm và thu nhập, kích thích tăng nhu cầu tiêu dùng, bảo đảm duy trì tốc độ
tăng trởng ổn định nền kinh tế và giải quyết đợc về cơ bản các chính sách xÃ
hội trong hàng chục năm qua ở các nớc này.
Việc phát triển có định hớng nền kinh tế không thể không gắn với nấn đề
tăng trởng lâu bền nền kinh tế. Khi xem xét kinh nghiệm của các nớc đà giải
quyết thành công vấn đề tăng trởng thì một trong những bài học bổ ích có thể
học hỏi đợc đối với Việt Nam là sự kết hợp và duy trì một tơng quan hợp lý
giữa khu vực kinh tế nhà nớc và khu vực kinh tế t nhân, giữa sự điều tiết bởi
bàn tay hữu hình của nhà nớc và bàn tay vô hình của thị trờng. Rõ ràng

là nhờ đó, các nớc này đà sử dụng và huy động đợc tất cả các lùc lỵng kinh tÕ
18


thuộc khu vực nhà nớc và khu vực t nhân, các mối quan hệ quốc tế có lợi
cho quá trình tích luỹ vốn và chuyển giao công nghệ nh các kiến thức, kỹ
năng lao động và quản lý hiện đại.

19


3.2.Cấu trúc lại sở hữu nhà nớc là đòi hỏi khách quan để phát triển
nền kinh tế thị trờng.
Trớc hết, cần phải có sự đổi mới và cơ cấu lại khu vực kinh tế nhà nớc để
củng cố vai trò chủ đạo đích thực của nó và khắc phục tình trạng quốc
doanh vô chủ hiện nay đang gây nên sự lÃng phí thất thoát nghiêm trọng tài
sản của nhà nớc. Việc cơ cấu lại khu vực kin tế nhà nớc có thể theo hớng chỉ
nên có mặt ở những lĩnh vực có vai trò quyết định đến sự ổn định và phát
triển nền kinh tế. Có thể nêu ra một số quan điểm cơ bản nhằm cấu trúc lại
khu vực kinh tế nhà nớc để bảo đảm vai trò chủ đạo và định hớng của nó
trong nền kinh tế thị trêng wor níc ta.
Khu vùc kinh tÕ nhµ níc chØ nên thu hẹp ở những lĩnh vực có vai trò
quyết định đến sự ổn định và phát triển nền kinh tế.
Phạm vi và quy mô của khu vực kinh tế nhà nớc đợc sử dụng một cách
kinh hoạt trong các lĩnh vự, các ngành, các doanh nghịêp cụ thể tuỳ theo mục
tiêu định hớng của nhà nớc.
Sở hữu nhà nớc trong các doanh nghiệp ở những ngành những kĩnh vực
trong từng giai đoạn xét thấy không cần thiết có sự can thiệp của nhà nớc thì
đợc tiến hành chuyển đổi sở hữu bằng việc đa dạng hóa và cổ phần hoá toàn
bộ hay từng phần để nâng cao hiệu quả kinh tế nói chung và nhà nớc có điều

kiện thu hồi vốn để đầu t vào các lĩnh vực khác.
Nh vậy, có thể nhận thấy nét đặc trng của quá trình cổ hần hoá là hình
thành các công ty cổ phần hỗn hợp nhà nớc, t nhân trong và ngoài nớc, hoạt
động trên cơ sở thị trờng và luật pháp của nhà nớc. Nhng các công ty quốc
doanh đợc đổi mới thành các công ty cổ phần hỗn hợp nhà nớc-t nhân sẽ góp
phần quan trọng làm cho các hoạt động sản xuất kinh doanh ở các đơn vị này
trở nên năng động, nâng cao đợc doanh lợi và khả năng cạnh tranh với các
công ty cổ phần t nhân. Có thể nói, sự chuyển đổi cơ cấu sở hữu nhà nớc
thông qua quá trình cổ phần hoá và đa dạng hoá, sự hợp tác và xâm nhập lẫn
nhau giữa các khu vực kinh tế nhà nớc và khu vực kinh tế t nhân, kể cả ở cấp
tập đoàn công ty quốc gia để vơn ra thị trờng thế giới là một trong những
con đờng nâng cao hiệu quả kinh tế thị trờng ở nớc ta trong giai đoạn hiện
nay.

20



×