Tải bản đầy đủ (.pdf) (8 trang)

16 Nguyen Duc Dong 120-127

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (322.56 KB, 8 trang )



ĐẤT ĐAI VÀ THẢM THỰC VẬT VÙNG VỊNH THÁI LAN - MỘT SỐ
QUAN ĐIỂM SỬ DỤNG ĐẤT CÓ HIỆU QUẢ

TS. Nguyễn Đức Đồng
Viện nghiên Phát triển cứu bền vững vùng Bắc Bộ

Vùng Vịnh Thái Lan bao gồm hai tỉnh Kiên Giang và Cà Mau, thuộc vùng Đồng
Bằng Sông Cửu Long, nằm ở cực Nam và Tây nam của Việt Nam. Toàn vùng có tổng
diện tích tự nhiên 1.154.119 ha, dân số 2.878.000 người. đây là vùng có vị trí đặc biệt
quan trọng về an ninh quốc phòng của đất nước. Trong lĩnh vực nông nghiệp vùng Vịnh
Thái Lan cũng đóng góp một phần to lớn cùng với các tỉnh Đồng Bằng Sông Cửu Long
về sản lượng lúa gạo và các loại thuỷ s
ản. Vùng Vịnh Thái Lan có vị trí địa lý:
- Phía Bắc giáp: Nước Campuchia;
- Phía Đông: Các tỉnh Cần Thơ, An Giang và Bạc Liêu;
- Phía Nam và Đông - Nam giáp: Biển Đông;
- Phía Tây giáp: Vịnh Thái Lan (Biển Tây).

1. Đất đai vùng Vịnh Thái Lan
Vùng Vịnh Thái Lan có 9 loại đất và đặc điểm nổi bật của đất vùng này là bị nhiễm
mặn và nhiễm phèn nghiêm trọng, gây ảnh hưởng không nhỏ tới sản xuất nông nghiệp.
1.1. Nhóm đất m
ặn
Tổng diện tích đất mặn toàn vùng Vịnh Thái lan có 271.352 ha, chiếm 23,51%
diện tích đất tự nhiên. Đất mặn phân bố chủ yếu ở khu vực Bán đảo Cà Mau (huyện
An Minh, huyện An Biên), phía ven biển Tây thuộc huyện Kiên Lương, Hòn Đất, thị
xã Hà Tiên, huyện Vĩnh Thuận của tỉnh Kiên Giang và phân bố trên toàn bộ các huyện
thành thị của tỉnh Cà Mau do ảnh hưởng mặn của biển Đông và biển Tây. Đất mặn
được hình thành và phát triển trên các tr


ầm tích biển, sông biển hỗn hợp và trầm tích
biển - đầm lầy, tuổi Helocence. Đất chịu ảnh hưởng mặn của nước biển do thuỷ triều
hoặc mặn ngầm mao dẫn.
- Đối với đất mặn nhiều và mặn sú vẹt đước: đất bị nhiễm mặn cả tầng sâu và
tầng mặt đất, do đó không thích hợp cho canh tác nông nghiệp. Hướng sử dụng
thích hợ
p là làm muối, nuôi trồng thuỷ sản nước mặn, nước lợ và trồng rừng
phòng hộ với các loại cây rừng chịu mặn như Mắm, Đước. Hiện nay 70% diện
tích đất mặn nhiều bà con nông dân đã sử dụng để nuôi tôm, phần còn lại là
rừng tự nhiên và rừng trồng mà phần lớn là rừng phòng hộ ven biển. Đây là loại
đất rất thích hợp cho nuôi tôm nước mặn, vì vậy ngoài diện tích bố
trí trồng
rừng phòng hộ ven biển ra nên bố trí nuôi chuyên tôm hoặc kết hợp tôm - rừng.
Ở vùng sâu trong nội địa nếu có điều kiện đắp bờ bao ngăn mặn và có hệ thống
kênh mương cung cấp nước ngọt vẫn có thể trồng lúa hoặc mô hình lúa - cá.
Tuyển tập báo cáo Hội thảo khoa học lần thứ 10 - Viện KH KTTV & MT
120
- Đối với đất mặn trung bình và ít: Chiếm diện tích lớn trong nhóm đất mặn, hàm
lượng chất dinh dưỡng khá, chỉ bị nhiễm mặn vào mùa khô trong thời gian
ngắn, nên thích hợp cho canh tác nông nghiệp, bố trí trồng lúa và rau màu các
loại. Đất có nền cứng, ổn định, tầng đất mặt ảnh hưởng mặn đã được giảm đáng
kể do hệ thống đê bao ngăn mặn và được rửa mặn vào mùa mư
a, do đó vẫn
thích hợp cho canh tác các loại cây trồng nông nghiệp.
1.2. Nhóm đất phèn
Nhóm đất phèn có diện tích lớn nhất: 623.116 ha, chiếm 53,99% diện tích đất tự
nhiên. Đất phèn hình thành và phát triển trên các trầm tích Đầm lầy - Biển và Sông -
Biển hỗn hợp, có đặc điểm bồi tụ chậm, vật liệu trầm tích chứa nhiều hữu cơ và chất
sinh phèn (FeS
2

). Các loại đất phèn bị hạn chế bởi yếu tố chua phèn hoặc bị khống chế
đồng thời bởi cả hai yếu tố phèn và mặn, do đó thường có diễn biến nhanh theo chiều
hướng bất lợi cho sản xuất và sử dụng đất, vì vậy trong sử dụng và cải tạo đất cần chú
ý hạn chế tối đa những ảnh hưởng bất lợi này.
-
Đối với đất phèn tiềm tàng dưới rừng ngập mặn: phân bổ ở vùng ven biển hai
tỉnh Kiên Giang và Cà Mau, đất chịu ảnh hưởng cả hai yếu tố phèn và mặn
nặng, nên không có khả năng canh tác nông nghiệp. Hướng sử dụng chủ yếu là
nuôi trồng thuỷ sản và trồng rừng phòng hộ.
- Đất phèn tiềm tàng - mặn: chủ yếu có ở ven biển Tây thuộc các huyện Kiên
Lương và Hòn Đất của tỉ
nh Kiên Giang; hầu hết các huyện của tinht Cà Mau.
Đất có độ phì tiềm tàng khá cao, đất bị nhiễm mặn không nặng, tính chất vật lý
của đất đã tương đối thuần thục và phát triển xuống sâu, nền đất khá ổn định
thuận lợi cho việc thực hiện các biện pháp canh tác cho sử dụng đất trồng trọt
các loại cây nông nghiệp. Hướng sử dụng đất là trồng dứa và nuôi trồng thuỷ
s
ản nước lợ. Tuy nhiên do đất này phân bố ở địa hình thấp trũng và sâu trong
nội địa nên dễ bị ảnh hưởng bởi nước chua phèn trong kênh rạch từ phía An
Giang dồn xuống. Do đó trong canh tác nông nghiệp đòi hỏi điều kiện đủ nước
ngọt tưới vào mùa khô và tiêu thoát nước phèn nhanh vào đàu mùa mưa.
- Đối với các loại đất phèn hoạt động: Tập chung phía trong kênh Rạch Giá - Hà
Tiên của tỉnh Kiên Giang và phân bổ hầu hế
t ở các huyện tỉnh Cà Mau. Do hệ
thống đê bao ngăn mặn và kênh tưới tiêu nội đồng được tu bổ nạo vét và xây
dựng mới trong những năm gần đây nên mức độ ảnh hưởng mặn đối với đất
phèn hoạt động giảm đáng kể, nhiều khu vực đã thoát khỏi ảnh hưởng của mặn.
Tuy nhiên, khi yếu tố mặn giảm xuống thì độc tố phèn l
ại là một hạn chế lớn
đối với cây trồng được canh tác trên loại đất này. Hướng sử dụng thích hợp là

canh tác nông nghiệp, trồng lúa 1 hoặc 2 vụ với các giống chịu phèn, trồng các
loại cây công nghiệp ngắn ngày như dứa, mía... và các loại rau màu thích hợp
khác. Đồng thời có thể kết hợp nuôi cá, các loại thuỷ sản nước ngọt và nước lợ.
Trong cải tạo đất cần chú ý đến độ sâu xuấ
t hiện của tầng phèn kết hợp với các
biện pháp cải tạo đất phù hợp để tránh đưa tầng sinh phèn từ dưới lên trên mặt
đất, gây độc tố cho cây trồng. Tiêu phèn và tưới đủ nước ngọt là biện pháp hữu
hiệu nhất để cải tạo các loại đất này, tuy nhiên đòi hỏi chi phí đầu tư cao.
1.3. Nhóm đất cát
Do sự phá huỷ đá bởi sóng biển và bồi tích cát từ các dòng chảy dốc, ng
ắn, đát
Tuyển tập báo cáo Hội thảo khoa học lần thứ 10 - Viện KH KTTV & MT
121
cát được hình thành theo những dải dài dọc Duyên hải của huyện Phú Quốc, tỉnh Kiên
Giang và ở khu vực bãi Khai Long, xã Đất Mũi huyện Ngọc Hiển, tỉnh Cà Mau. Tổng
diện tích đất cát vùng Vịnh Thái Lan là 9.277 ha, chiếm 0,80% diện tích đất tự nhiên.
Đất này có tỷ lệ cát cao, rời rạc, độ liên kết và co dãn kém, thấm nước nhanh, không
giữ được nước, thoáng khí, khả năng giữ mùn kém, hàm lượng SiO
2
giàu, các chất
dinh dưỡng rất nghèo. Thực vật trên đất này chủ yếu là tràm, ổi, bùng, khẳng khiu
phân nhánh sớm không có khả năng tạo rừng.
Đất cát có yếu tố hạn chế là thành phần cơ giới nhẹ, tỷ lệ cát cao, mùn, đạm và
các chất dinh dưỡng khác thấp, khae năng giữ nước kém. Nhưng cũng có yếu tố thuận
lợi là đất tơi xốp, dễ thoát nước, ít bị nhiễm mặn và có địa hình cao, thu
ận lợi cho việc
trồng các loại cây trồng cạn, rau màu và nhất là các loại cây ăn quả có giá trị nếu có
khả năng đầu tư tốt.
1.4. Nhóm đất phù sa
Đất phù sa toàn vùng Vịnh Thái Lan có 78.460,81 ha, chiếm 6,80% diện tích

đất tự nhiên, phân bố ở địa hình vàn thấp ở huyện đảo Phú Quốc, huyện Giồng Riềng,
Châu Thành tỉnh Kiên Giang. Đất được hình thành từ các trầm tích trẻ Aluvi, có nguồn
gốc Sông - Đầm lầy không chứa vật li
ệu sinh phèn. Đất phù sa có độ phì tiềm tàng khá
cao, thành phần cơ giới nặng, điều kiện tưới tiêu thuận lợi do đó rất thích hợp cho
trồng lúa cao sản, thâm canh tăng vụ và trồng xen các loại hoa màu và cây ăn quả
khác.
Mặc dù đất phù sa có nhiều ưu điểm là không bị phèn, không bị mặn nhưng đa
phần đất phù sa ở Vịnh Thái Lan (Kiên Giang) bị glây mạnh. Vì vậy cải tạo đất phù sa
là cải tạ
o độ chua, glây và thành phần cơ giới. Nâng cao độ pH bằng hình thức bón
vôi, bón phân Apatic. Cày sâu, phơi ải để tăng khả năng ôxy hoá cho đất. Sử dụng
phân chuồng, phân xanh bón cho đất để cải tạo thành phần cơ giới và nâng cao nguồn
dinh dưỡng cho đất.
1.5. Nhóm đất than bùn
Tổng diện tích nhóm đất than bùn có 24.553,37 ha, chiếm 2,13% diện tích tự
nhiên, tập trung ở khu vực U Minh Thượng (huyện An Minh, huyện Vĩnh Thuận) và
vùng tứ giác Long Xuyên (huyện Kiên Lương, huyện Hòn Đấ
t) của tỉnh Kiên Giang và
khu vực rừng tràm phía nam huyện U Minh và phía bắc huyện Trần Văn Thời của tỉnh
Cà Mau. Đất này phát triển trên địa hình thấp khó thoát nước, có hệ thống kênh rạch
thông với biển nên vừa nhiễm mặn lại vừa nhiễm phèn.
Các vùng trũng than bùn phèn mặn cũng là nơi phát triển rừng Tràm, tạo thành
vùng sinh thái ngập nước khá đặc trưng như rừng tràm U Minh Thượng. Do đó các
vùng đất này cần được duy trì và bảo v
ệ để bảo tồn tính đa dạng sinh học của dạng đất
ngập nước điển hình của Đồng bằng Sông Cửu Long. Việc khai thác than bùn cho các
mục đích sử dụng khác cần được hạn chế tối đa, đồng thời tăng cường các biện pháp
bảo vệ chống cháy rừng và cố gắng bảo đảm mực thuỷ cấp cao trong vùng.
1.6. Nhóm đất xám

Đất xám (sialit - feralit) được hình thành t
ại chỗ trên mẫu đất phù sa cổ hoặc đá
mẹ (đá cát hoặc macma axit) có diện tích 25.659,55 ha, chiếm 2,22% diện tích đất tự
nhiên, phân bổ ở huyện Kiên Lương, thị xã Hà Tiên và ở huyện đảo Phú Quốc thuộc
Tuyển tập báo cáo Hội thảo khoa học lần thứ 10 - Viện KH KTTV & MT
122
tỉnh Kiên Giang (ở tỉnh Cà Mau không có loại đất này). Lượng mưa hàng năm lớn, hầu
hết các cation kiềm, kiềm thổ (Ca
2+
, Mg
2+
, Mn
2+
, ...) và các chất dinh dưỡng khác bị
rửa trôi, vì vậy sialit được tích luỹ một cách tương đối, sự tích luỹ sắt, nhôm xảy ra
yếu. Nhìn chung trên đất xám, thực vật kém phát triển, nhiều nơi có hiện tượng bạc
màu. Đất hình thành trên sản phẩm phù sa cổ có độ phì cao hơn. Đất chua (pH < 4,0),
nghèo dinh dưỡng, tầng đất > 70 cm, thành phần cơ giới cát pha, thịt nhẹ đến trung
bình, cấu tượng rời rạc, đất có màu xám sáng, hơi vàng nhạt.
-
Hướng sử dụng đối với đất xám trên đá macma axít hình thành trên những triền
núi, đồi núi dốc thì tốt nhất nên trồng các loại cây lâu năm như tiêu, dừa và một
số loại cây ăn quả khác để chống hiện tượng xói mòn.
- Đất xám trên phù sa cổ thì có thể phát triển các loại cây họ đậu, bón vôi để làm
giảm độ chua của đất, tăng lượng cation trao đổi trong đất, giảm sự cố định lân,
làm cho đất có kết cấu tốt, thuận lợi cho một số vi sinh vật hoạt động.
- Chống xói mòn bằng cách trồng cây và làm luống theo đường bình độ, làm
ruộng bậc thang... Tăng nguồn phân hữu cơ bồi dưỡng đất. Sử dụng nguồn phân
chuồng, trồng cây phân xanh phủ đất vừa có tác dụng chống xói mòn.
1.7. Nhóm đất đỏ vàng

Đất đỏ vàng toàn vùng Vịnh Thái Lan có 15.856 ha, chiếm 1,37% diện tích tự
nhiên, phân bổ chủ y
ếu ở các dãy núi sót dọc Vịnh Thái Lan thuộc huyện Kiên Lương,
thị xã Hà Tiên, huyện đảo Phú Quốc, huyện đảo Kiên Hải của tỉnh Kiên Giang và ở
các đảo nhỏ như Hòn Khoai, Hòn Chuối, Hòn Bương, Hòn Seo, Hòn Go và Hòn Đá
Bạc ở tỉnh Cà Mau. Bao gồm :
+ Đất đỏ vàng trên đá macma axít (ký hiệu Fa): 4.495 ha
+ Đất đỏ vàng trên đá cát (ký hiệu Fq): 11.361 ha
Nhóm đất này hình thành từ sự phong hoá đá cát và đá macma axít, sự phá huỷ
kèm theo rửa trôi các cation kiềm bởi nhiệt
độ, lượng mưa và các axít hữu cơ, sự di
động theo mùa của sắt, nhôm... theo chiều từ trên xuống và từ dưới lên phụ thuộc
nhiều vào quá trình ôxy hoá khử, độ pH. Trong quá trình phát triển của thực vật, tầng
mặt chứa một lượng axít hữu cơ mặt đáng kể làm hoà tan Ca
2+
, Mg
2+
, Fe
3+
, Al
3+

trôi xuống sâu. Fe, Al đã được tích luỹ tại tầng B, ở đó điều kiện ôxy hoá và pH thuận
lợi cho chúng kết tủa, bởi thế đất có màu vàng đỏ của Fe.
Hướng sử dụng: ở vùng đồi núi huyện Phú Quốc có lượng mưa lớn, quá trình bào
mòn và rửa trôi mạnh nên việc đưa vào sản xuất cây trồng ngắn ngày thường gặp khó
khăn, có nơi chỉ sau 2, 3 năm canh tác đất đã trở nên kiệ
t quệ. Vì vậy đối với loại đất này
trồng cây lâu năm có ý nghĩa hơn, có thể sử dụng một cách triệt để nguồn thức ăn đã được
rửa trôi xuống tầng sâu và đó cũng là biện pháp chống xói mòn khá hiệu quả. Trồng tiêu

cho năng xuất cao, chất lượng tốt, một số nơi có thể trồng cây ăn quả, tiêu, dừa... Đối với
các khu vực khá bằng ph
ẳng, ít bị xói mòn có thể trồng hoa màu (lạc, rau, đậu...).
Hướng cải tạo loại đất này là chống xói mòn, trồng cây theo đường bình độ, tu
bổ, trồng mới rừng, ngăn chặn tình trạng cháy, đốt rừng. Cháy rừng gây một tác hại vô
cùng to lớn, làm cho đát khô, chai cứng, huỷ diệt các vi sinh vật có lợi cho đất, khả
năng giữ ẩm của đất kém. Bón vôi để nâng cao độ pH của đất. Bón phân chuồng, phân
Tuyển tập báo cáo Hội thảo khoa học lần thứ 10 - Viện KH KTTV & MT
123
xanh để nâng cao độ phì cho đất.
1.8. Nhóm đất bãi bồi (Bb)
Đất bãi bbồi chỉ có ở Cà Mau với diện tích 3.525 ha, chiếm 0,68% diện tích
toàn tỉnh và 0,31% diện tích toàn vùng Vịnh Thái Lan. Phân bố tập trung ở vành mép
bờ biển phía tây nam Mũi Cà Mau, tạo thành giải đất hẹp kéo dài song song với mép
nước Biển Tây thuộc các huyện Ngọc Hiển, Năm Căn và Phú Tân.
Bãi bồi ở Cà Mau là một đơn vị đất rất non trẻ, mới nhô lên khỏi mức trung
bình củ
a mực nước biển trong vòng mươi năm trở lại đây. Toàn bộ cột đất là lớp bùn
non chưa thuần thục, mềm yếu, thành phần chủ yếu là thịt pha cát mịn, lẫn nhiều xác
bã hữu cơ và mảnh vỡ của sinh vật giáp xác. Đúng ra chưa đựoc gọi là đất, mà chỉ là
các lớp mẫu chất chưa biến đổi. Trong những năm 1988 - 1990 khu vực bãi bồi này đã
được bà con nông dân đị
a phương khai phá bằng tầu quốc để tạo thành các vuông nuôi
tôm, tuy nhiên do nền đất còn yếu nên bờ đắp dễ bị sóng biển phá vỡ, mặt khác khu
vực bãi bồi nằm trong vành đai phòng hộ ven biển nên UBND tỉnh đã ra Quyết định
cấm khong cho nuôi tôm mà thay vào đó là trồng rừng phòng hộ bảo vệ môi trường
sinh thái Mũi Cà Mau.
1.9. Nhóm đất xói mòn trơ sỏi đá
Nhóm đất này chỉ có ở Kiên Giang với diện tích 5.571 ha, chiếm 0,89% diện
tích toàn t

ỉnh và 0,48% diện tích tự nhiên toàn vùng Vịnh Thái Lan. Tập trung nhiều ở
Phú Quốc thuộc các xã Hàm Ninh và Dương Tơ. Trong quá trình sử dụng đất, việc
khai thác quá mức làm mất đi lớp phủ thực vật đã thúc đẩy tình trạng xói mòn cơ học
và hoá học của hầu hết các vùng đất đồi núi trên địa bàn tỉnh Kiên Giang, đất bị suy
thoái dần và nhiều nơi mất hẳn độ phì nhiêu tự nhiên do tầng đất mặt đã bị
rửa trôi
mất, đất chỉ còn đá lẫn, đá lộ đầu, không có tầng đất. Đất trở nên chua, chai cứng và
khô hạn. Dạng đất này không có ý nghĩa nhiều đối với canh tác nông nghiệp, nhưng
cần hết sức quan tâm trong vấn đề tạo lớp phủ thực vật, chống xói mòn nhằm giữ
nguồn nước ngầm trên đảo.

2. Thảm thực vật vùng Vịnh Thái Lan
Thảm thực v
ật rừng phong phú là thế mạnh của vùng Vịnh Thái Lan với tổng
diện tích 244.917 ha ( Kiên Giang: 122.722ha, Cà Mau 122.195 ha), chiếm 21,22%
diện tích đất tự nhiên toàn vùng. Ngoài các giá trị về bảo vệ môi trường, hiệu quả kinh
tế, nhiều khu vực còn có giá trị rất cao về du lịch và di tích lịch sử như U Minh, Phú
Quốc, Hòn Đất, Hòn Chông ở Kiên Giang hay Xóm Mũi ở Cà Mau.
Lớp phủ thực vật tự nhiên nguyên thuỷ đã góp phần cố định và tạo đi
ều kiện
bồi đắp lớp phủ thổ nhưỡng. Ở các khu vực thấp trũng sâu trong nội địa, sự tích luỹ
lớp xác bã thực vật trong đất diễn ra trong điều kiện môi trường thích hợp đã hình
thành các vùng đất phèn rộng lớn với sự hiện diện các tầng đất chứa vật liệu sinh phèn.
Tuy tỷ lệ đất có rừng là không cao nhưng vùng Vịnh Thái Lan vẫn là nơi có
nhiều r
ừng nhất so với các khu vực khác của Đồng bằng Sông Cửu Long, kiểu rừng
còn duy trì được lại có tính chất đặc trưng cho thảm thực vật của miền sông nước, đó
là rừng ngập mặn và rừng ngập lợ chua phèn, chúng phân bố trên các khu vực khác
Tuyển tập báo cáo Hội thảo khoa học lần thứ 10 - Viện KH KTTV & MT
124

Tài liệu bạn tìm kiếm đã sẵn sàng tải về

Tải bản đầy đủ ngay
×