Tải bản đầy đủ (.pdf) (22 trang)

TẤM GƯƠNG TỰ HỌC CỦA BÁC. Ý NGHĨA ĐỐI VỚI BẢN THÂN

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (472.23 KB, 22 trang )

lOMoARcPSD|15547689

TRƯỜNG ĐẠI HỌC KIẾN TRÚC THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
KHOA LÝ LUẬN CHÍNH TRỊ
BỘ MƠN TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH

TIỂU LUẬN

Đề tài: TẤM GƯƠNG TỰ HỌC CỦA BÁC.
Ý NGHĨA ĐỐI VỚI BẢN THÂN

GVHD: thầy Cao Đức Sáu
SVTH: Dương Trúc Anh
Lớp: KT19CLC
Mã lớp HP: 000015004
MSSV: 19510101255
TP. HCM, ngày 01 tháng 05 năm 2022


lOMoARcPSD|15547689

SVTH: Dương Trúc Anh

MỤC LỤC
PHẦN MỞ ĐẦU ………………………………………………………………… 3
PHẦN NỘI DUNG………………………………………………………………..4
I.
1.
2.
3.
4.


5.

CƠ SỞ LÝ LUẬN:
Quan niệm của Hồ Chí Minh về khái niệm ”tự học" …………………………4
Quan niệm về mục đích, động cơ tự học ……………………………………..8
Về môi trường, đối tượng tự học ……………………………………………..9
Về nội dung tự học……………………………………………………………10
Về nguyên tắc, phương pháp tự học ………………………………………….11

II.
VẬN DỤNG - LIÊN HỆ BẢN THÂN:
1. Vai trò của tự học đối với sinh viên …………………………………………..…15
2. Phương pháp giúp tự học ……………………………………………………..…15
3. Việc tự học của bản thân ……………………………………………………..….19

PHẦN KẾT LUẬN ……………………………………………………………...21
TÀI LIỆU THAM KHẢO ……………………………………………………...22

2


lOMoARcPSD|15547689

SVTH: Dương Trúc Anh

PHẦN MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài:
“Non sơng Việt Nam có trở nên tươi đẹp hay khơng, dân tộc Việt Nam có bước tới
đài vinh quang để sánh vai với các cường quốc năm châu được hay khơng, chính là
nhờ một phần lớn ở cơng học tập của các em”.

Đó là lời của Chủ tịch Hồ Chí Minh trích trong “Thư gửi học sinh nhân ngày khai
trường đầu tiên của nước Việt Nam Dân chủ cộng hịa”, ngày 15-9-1945.
Lenin cũng đã từng nói: “Tri thức là sức mạnh; ai có tri thức, người đó có sức mạnh.”
Qua những câu nói ấy và qua quãng đường học tập dài, chúng ta đã đủ nhận thấy tầm
quan trọng của tri thức. Và cách để tiếp nhận tri thức, khơng có biện pháp nào khác
ngồi việc học. Chúng ta có thể học ở trường lớp chính quy, qua vốn sống hằng ngày,
qua tương tác với bạn bè và mọi người xung quanh. Chúng ta có thể học ở bất kì nơi
nào, miễn là việc học ấy hiệu quả. Vậy học hiệu quả là như thế nào?
Người xưa có ví: “Con chiên ăn cỏ, đâu phải để mà nhả cỏ, mà là để biến thành những
bộ lông mướt đẹp. Con tằm ăn dâu đâu phải để mà nhả dâu, mà là để nhả tơ”. Học mà
khơng “tiêu hóa”, có khác nào con chim nhả cỏ, con tằm nhả dâu. Người ta rồi cũng
chẳng khác nào cái máy thu thanh, chỉ lặp lại những gì kẻ khác đã nói. Học như thế,
khơng có lợi ích gì cho mình mà cịn hạ phẩm cách của con người ngang hàng với
máy móc. Việc học từ trước tới nay không bao giờ là tiếp nhận kiến thức sng, một
chiều mà phải qua q trình thẩm thấu và “tiêu hóa” biến nó thành kiến thức của
mình, so sánh, kết hợp với các kiến thức trước đó thành một khối vốn sống chung. Có
như vậy thì mới nhớ dai và lâu.
Và một trong những phương pháp học hiệu quả đó chính là tự học.
Tấm gương sáng ngời trong việc tự học khơng ai khác ngồi chủ tịch Hồ Chí Minh –
vị lãnh tụ đáng kính của chúng ta. Đến đâu, Người cũng học, tìm mọi cách để học.
Bác đã học và làm rất nhiều nghề khác nhau, bắt đầu từ việc làm thợ đốt lò trên tàu
viễn dương, làm đầu bếp ở Mỹ, quét tuyết ở Anh, bốc thuốc ở Thái Lan, viết báo, viết
truyện, viết kịch, làm thợ chụp ảnh, thợ sửa đồng hồ… Mặc dù làm rất nhiều việc
nhưng nhờ tự học mà Bác làm việc gì cũng giỏi. Trong hành trình ra đi tìm đường cứu
nước, có thể nói việc tự học là chiếc đèn soi đường của Bác
Là sinh viên học tập mơn tư tưởng Hồ Chí Minh trước hết là học tập tấm gương tự
học học tập suốt đời của Bác. Do phương pháp học tập ở đại học khác cơ bản so với
phương pháp học ở phổ thông, ở đại học khơng có sự kiểm tra hàng ngày của giáo
viên nên việc học tập của sinh viên phần lớn là tự học.


3


lOMoARcPSD|15547689

SVTH: Dương Trúc Anh

Vì vậy, việc tự học ngồi lớp học đóng vai trị trọng yếu ở đại học và với bản thân
mỗi người. Đó cũng chính là lí do em chọn đề tài: “Tấm gương tự học của bác và ý
nghĩa đối với bản thân.”

PHẦN NỘI DUNG
1. Quan niệm của Hồ Chí Minh về khái niệm ”tự học"
1.1 Tự học là gì?
Nhà tâm lí học N.A.Rubakin xem q trình tự tìm lấy kiến thức có nghĩa là tự học.
Tự học là quá trình lĩnh hội tri thức, kinh nghiệm xã hội, lịch sử trong thực tiễn
hoạt động cá nhân bằng cách thiết lập các mối quan hệ cải tiến kinh nghiệm ban
đầu, đối chiếu với các mơ hình phản ánh hoàn cảnh thực tại, biến tri thức của loài
người thành vốn tri thức, kinh nghiệm, kĩ năng, kỹ xảo của chủ thể.
Theo Đặng Vũ Hoạt và Hà Thị Đức: “Tự học là một hình thức nhận thức của cá
nhân, nhằm nắm vững hệ thống tri thức và kĩ năng do chính người học tự tiến
hành ở trên lớp hoặc ở ngồi lớp, theo hoặc khơng theo chương trình và sách giáo
khoa đã được qui định”.
Theo từ điển Giáo dục học của tác giả Bùi Hiền (2001): “Tự học là quá trình hoạt
động lĩnh hội tri thức khoa học và rèn luyện kĩ năng thực hành…” .
Tự học thể hiện bằng cách tự đọc tài liệu giáo khoa, sách báo các loại, nghe radio,
truyền hình, nghe nói chuyện, báo cáo, tham quan bảo tàng, triển lãm, xem phim,
kịch, giao tiếp với những người có học, với các chuyên gia và những người hoạt
động thực tiễn trong các lĩnh vực khác nhau. Người tự học phải biết cách lựa chọn
tài liệu, tìm ra những điểm chính, điểm quan trọng trong các tài liệu đã đọc, đã

nghe, phải biết cách ghi chép những điều cần thiết, biết viết tóm tắt và làm đề
cương, biết cách tra cứu từ điển và sách tham khảo, biết cách làm việc trong thư
viện,… tự học đòi hỏi phải có tính độc lập, tự chủ, tự giác và kiên trì cao.
Tự học là một giải pháp khoa học giúp giải quyết mâu thuẫn giữa khối lượng kiến
thức đồ sộ với quỹ thời gian không nhiều khi học ở nhà trường. Tự học giúp tạo ra
tri thức bền vững cho mỗi người bởi lẽ nó là kết quả của sự hứng thú, sự tìm tịi,
nghiên cứu và lựa chọn.
1.2 Tấm gương về tự học của Bác
Tự học tập và học tập suốt đời là một luận điểm quan trọng trong tư tưởng Hồ Chí
Minh về giáo dục. Bác chính là một tấm gương sáng về tự học tập, tự rèn luyện để
chúng ta noi theo.
Bác Hồ đã dạy: “Học để làm việc, làm người, làm cán bộ; Học để phụng sự đồn
thể”. Học phải có ý chí quyết tâm để phục vụ nhân dân, chứ không phải học để
thăng quan, tiến chức. Đối với Bác, học tập chính là một nhu cầu mà ngay từ thời
4


lOMoARcPSD|15547689

SVTH: Dương Trúc Anh

trẻ đến mãi sau này, khi đã tuổi cao, sức yếu, Người vẫn thường xuyên học tập
không chút lơ là.
Ngày 5 tháng 6 năm 1911, người thanh niên yêu nước Nguyễn Tất Thành, lấy tên
là Văn Ba làm phụ bếp cho một tàu buôn của Pháp, rời bến Nhà Rồng ra nước
ngồi bắt đầu một hành trình lâu dài, gian khổ tìm đường cứu nước. Nguyễn Tất
Thành ra đi với hành trang trên vai là chủ nghĩa yêu nước, mang theo một chí
hướng lớn với một niềm tin sắt đá: Hẹn ngày trở về giải phóng Tổ quốc và đem lại
tự do cho đồng bào. Người đã đến nhiều đất nước khác nhau, đã gặp nhiều màu
da, tiếng nói khác nhau, đó là cuộc sống tăm tối cực khổ của nhân dân các nước

thuộc đia. Chính từ đây, những nhận thức về giai cấp, tình cảm giai cấp và tinh
thần quốc tế vô sản đầu tiên đã hình thành ở Người: "Dù màu da có khác nhau,
trên đời này chỉ có hai giống người: giống người bóc lột và giống người bị bóc lột.
Mà cũng chỉ có một mối tình hữu ái là thật mà thơi: tình hữu ái vơ sản". Lịng u
nước của Người được thể hiện qua q trình tìm tịi, nghiên cứu và hoạt động cách
mạng. Yêu nước, Người đã tự nguyện chấp nhận cuộc sống làm th với đồng tiền
cơng ít ỏi, rẻ mạt để kiếm sống, để hoạt động chính trị. Trong suốt hành trình tìm
đường cứu nước, tài sản duy nhất và quý báu nhất của Người lúc đó là hai bàn tay,
đơi mắt và con tim, khối óc cùng với khát vọng giải phóng dân tộc. Chính khát
vọng đó đã hun đúc cho người thanh niên mảnh khảnh một sức mạnh phi thường,
bền bỉ tự học, tự đào tạo để có đủ khả năng cứu nước, cứu dân. Đến đâu, Người
cũng học, tìm mọi cách để học. Người tìm hiểu phong tục tập quán ở những nơi
mình đi qua để nâng cao tri thức; học nghề để kiếm sống, kiếm sống để hoạt động
cách mạng. Bác đã học và làm rất nhiều nghề khác nhau, bắt đầu từ việc làm thợ
đốt lò trên tàu viễn dương, làm đầu bếp ở Mỹ, quét tuyết ở Anh, bốc thuốc ở Thái
Lan, viết báo, viết truyện, viết kịch, làm thợ chụp ảnh, thợ sửa đồng hồ… Làm rất
nhiều việc, nhưng nhờ tự học mà Bác làm việc gì cũng giỏi. Danh họa Picaso đã
nhận xét về những bức tranh do Bác vẽ trên báo “Người cùng khổ”: “Chỉ mấy nét
vẽ này thôi, ta đã thấy một tư tưởng lớn, một tâm hồn lớn tiềm ẩn bên trong. Nếu
tác giả tiếp tục con đường hội họa thì ắt sẽ trở thành một đại danh họa!”. Ngồi ra,
Chủ tịch Hồ Chí Minh đã để lại cho chúng ta một sự nghiệp văn chương phong
phú và vô giá, tiêu biểu là tập thơ “Nhật ký trong tù”. Như chúng ta đã biết, học
chữ Hán cực kỳ khó, để nắm vững nó và làm thơ thì lại khó hơn gấp bội. Chắc
chắn, nếu Bác khơng có q trình nỗ lực tự học thì sẽ khơng làm được điều đó.
Cuộc đời của Bác là một q trình vừa học tập vừa hoạt động cách mạng. Học tập
để hoạt động cách mạng, đạt được mục đích, lý tưởng của mình; qua hoạt động
cách mạng, khơng ngừng học tập, hồn thiện tri thức và nhân cách của bản thân.
Quá trình ấy đã tạo nên Hồ Chí Minh, một thầy giáo mẫu mực, một nhà giáo dục
vĩ đại. Người đã để lại tấm gương cao đẹp về tinh thần tự học và học tập suốt đời
mà chúng ta phải noi theo. Trong bản lý lịch đại biểu dự Đại hội Quốc tế Cộng sản

lần thứ VII tại Mát-xcơ-va vào tháng 8 năm 1935, Bác đã khai rõ trong lý lịch:
“Họ và tên: Lin. Trình độ học vấn: Tự học”. “Biết các thứ tiếng: Pháp, Anh, Trung
Quốc, Ý, Đức, Nga”. Trên thực tế, dựa vào những lần Bác đi thăm nước ngoài,
5


lOMoARcPSD|15547689

SVTH: Dương Trúc Anh

cũng như những lần đón tiếp các phái đồn ngoại giao tới thăm Việt Nam, chúng
ta cịn được biết vốn ngoại ngữ của Chủ tịch Hồ Chí Minh khơng dừng lại ở đó,
Người cịn có thể sử dụng thông thạo khá nhiều ngoại ngữ khác nữa như: Tiếng
Thái Lan, tiếng Tây Ban Nha, tiếng Ả Rập, tiếng của rất nhiều dân tộc thiểu số
Việt Nam… vốn ngoại ngữ đó của Bác khơng phải do tự nhiên mà có, mà chính là
cả một q trình khổ cơng rèn luyện, học tập của Người.
Việc tự học của Bác Hồ có mục đích cuối cùng là làm cách mạng, giải phóng dân
tộc và xây dựng đất nước. Người đã đưa cách mạng Việt Nam đến thắng lợi bằng
sự vận dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác – Lênin vào hoàn cảnh cụ thể ở Việt Nam.
Vận dụng sáng tạo chính là q trình tự thích nghi, tự tìm tịi thâm nhập thực tiễn,
đúc rúc kinh nghiệm, phát huy nội lực. Sâu xa hơn, đó là q trình tự học, tự giáo
dục để làm cho nhân cách và năng lực của mình phù hợp với mục tiêu, lý tưởng,
phù hợp với yêu cầu công việc. Việc tự học của Bác diễn ra suốt cả cuộc đời cách
mạng của mình, cho tới khi tuổi cao, sức yếu, Bác vẫn giữ được tinh thần tự học
như xưa. Đại tướng Hoàng Văn Thái lại, năm 1969, mỗi lần đến làm việc, ông
thường thấy trên chiếc bàn nhỏ cạnh giường của Bác để nhiều sách báo. Ông lo
lắng đến sức khỏe của Bác, nên đề nghị: “Thưa Bác, Bác mệt, Bác nên đọc ít, để
nhiều thời gian nghỉ ngơi thư thả cho lại sức”. Bác trả lời, giọng như tâm sự mà
dứt khoát từng lời: “Chú bảo Bác không đọc sách báo ư? Dù già yếu cũng phải
học, phải đọc sách báo nâng cao hiểu biết và nhất là vấn đề nắm vững tình hình

chứ!”.
Có thể nói, Chủ tịch Hồ Chí Minh là một tấm gương mẫu mực về tinh thần tự học,
lấy tự học làm cốt, làm phương thức chủ yếu để nâng cao trình độ mọi mặt của
bản thân. Song tự học ở Chủ tịch Hồ Chí Minh khơng phải là một sự ngẫu hứng,
tùy ý vô nguyên tắc… mà tự học ở Chủ tịch Hồ Chí Minh đã trở thành một khoa
học, một nghệ thuật, một triết lý nhân văn sâu sắc với một kế hoạch cụ thể, chặt
chẽ, khoa học; với một ý chí và quyết tâm bền bỉ, dẻo dai, tinh thần sáng tạo, tranh
thủ mọi lúc, mọi nơi để học. Đặc biệt, Người tự học với một động cơ trong sáng
với ý nguyện cao cả là tìm ra con đường cứu nước, cứu dân, làm cho đất nước độc
lập, nhân dân được tự do, ấm no, hạnh phúc. Tấm gương tự học của Chủ tịch Hồ
Chí Minh, soi xét trong thực tiễn đã qua, hiện nay và cả mai sau, vẫn cịn ngun
giá trị, có ý nghĩa giáo dục hết sức sâu sắc; đó mãi là một tấm gương sáng ngời,
một di sản vô giá đối với sự nghiệp đào tạo, bồi dưỡng, giáo dục của Đảng và
nhân dân ta. Mỗi cán bộ, đảng viên và quần chúng cần ghi sâu những lời dạy của
Bác, noi theo Người về nghị lực học tập, rèn luyện để có đủ đức, đủ tài phục vụ
nhân dân. Tấm gương tự học và những tư tưởng của Chủ tịch Hồ Chí Minh về vấn
đề tự giáo dục mãi mãi tỏa sáng, soi rọi cho mỗi chúng ta phấn đấu, rèn luyện, tự
vươn lên trong tu dưỡng bản thân để hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ được giao.

1.3 Quan niệm của Hồ Chí Minh về khái niệm tự học
6


lOMoARcPSD|15547689

SVTH: Dương Trúc Anh

Hồ Chí Minh là một tấm gương sáng, đồng thời là nhà lý luận về giáo dục, về tự
học. Trong quan niệm về tự học, Người định nghĩa “tự học” bằng một câu ngắn
gọn, súc tích nhưng đầy tính tư tưởng: Tự học là “tự động học tập”. Điều đặc biệt

là mặc dù câu nói đó ra đời cách đây rất lâu nhưng lại rất phù hợp với quan điểm
về tự học của giáo dục học hiện đại.
“Tự động học tập” có nghĩa là việc học tập do chính bản thân người học quyết
định, người học tự giác, tự chủ không cần sự nhắc nhở, giao nhiệm vụ của người
khác, tự mình nhận thấy nhu cầu của bản thân để rồi từ đó tiến hành việc tự học.
Hồ Chí Minh giải thích: “Tự động là khơng phải tựa vào ai, là tự mình biết biến
báo xoay xở, tự mình biết thực hành cơng tác theo nhiều hình thức mới mẻ, phong
phú”. Như vậy, theo Hồ Chí Minh, tự học là tự mình quản lý việc học tập, lĩnh hội
tri thức của bản thân. Người học tự vạch ra kế hoạch học tập cho chính mình, kiên
trì và nhẫn nại thực hiện kế hoạch đó một cách bài bản, sau đó người học tự kiểm
tra đánh giá kết quả đã đạt được, rút kinh nghiệm cho bản thân mình.
Như vậy, tự học là quá trình người học tự ý thức, tự nỗ lực chiếm lĩnh tri thức
bằng hành động của chính mình hướng tới mục đích nhất định. Nó cịn là q trình
tự giác, tích cực chiếm lĩnh tri thức, hình thành kỹ năng kỹ xảo của bản thân người
học. Trong q trình đó, người học thực sự là chủ thể của nhận thức, nỗ lực huy
động các chức năng tâm lý nhằm đạt được những mục tiêu đã định.Trong tư tưởng
Hồ Chí Minh, khái niệm tự học có nhiều điểm tương đồng với quan niệm của giáo
dục học hiện đại. Theo Từ điển Giáo dục học: “Tự học là một bộ phận không thể
tách rời của quá trình giáo dục, là quá trình mà người học tự mình hoạt động lĩnh
hội tri thức khoa học và rèn luyện kỹ năng thực hành mà khơng có sự hướng dẫn
trực tiếp của giáo viên và sự quản lý trực tiếp của cơ sở giáo dục, đào tạo. Đây là
phương thức học tập cơ bản của giáo dục khơng chính quy, giáo dục thường
xuyên, đồng thời còn là bộ phận khơng thể tách rời của q trình học tập có hệ
thống trong các trường học nhằm đào sâu, mở rộng để nắm vững kiến thức của
học sinh”.
Cốt lõi của tự học là tự ý thức của bản thân người học; trong quá trình tự học, vấn
đề quan trọng nhất là tự kiểm tra và đánh giá kết quả tự học. Bởi vì, nếu kiểm tra,
đánh giá khơng đúng sẽ dẫn đến tình trạng ảo tưởng về năng lực hay tình trạng tự
ti, không tin tưởng vào khả năng tự học, tự nghiên cứu của chủ thể tự học. Tự
đánh giá chính xác sẽ giúp người học thấy rõ mặt ưu, khuyết điểm của chính bản

thân mình, thấy rõ những nội dung cần phải bổ sung và từ đó tiếp tục hoạt động tự
học hiệu quả hơn. Thông qua tự kiểm tra đánh giá, năng lực tự học của người học
ngày càng phát triển và hồn thiện như chính q trình giải quyết mâu thuẫn bên
trong của bản thân người học. Tự đánh giá chỉ có thể trở thành động lực thúc đẩy
tự học phát triển khi người tự đánh giá (chủ thể của tự học) có thái độ khách quan,
trung thực với kết quả mà mình đã đạt được.
Tóm lại, trong tư tưởng Hồ Chí Minh, tự học là quá trình người học chủ động, tự
giác tiến hành hoạt động học của mình. Q trình đó có thể diễn ra dưới yêu cầu
7


lOMoARcPSD|15547689

SVTH: Dương Trúc Anh

của công việc, nhiệm vụ cách mạng hoặc diễn ra do chính nhu cầu hiểu biết của
bản thân người học. Cốt lõi của tự học là tự ý thức của chủ thể tự học. Vấn đề
quan trọng nhất của tự học là người học tự kiểm tra, tự đánh giá khách quan, trung
thực kết quả tự học của bản thân. Có thể nói, tự học là bộ phận không thể tách rời
của hoạt động giáo dục, là con đường để biến quá trình giáo dục thành quá trình tự
giáo dục.
2. Quan niệm về mục đích, động cơ tự học
Để tự học thành cơng, theo Hồ Chí Minh thì việc xác định mục đích, động cơ tự học
đúng đắn có tầm quan trọng hàng đầu. Mục đích chung của việc học tập được Hồ Chí
Minh đề cập tương đối toàn diện trong lời ghi ở trang đầu cuốn Sổ vàng tại Trường
Nguyễn Ái Quốc trung ương (nay là Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh) vào
tháng 9 năm 1949:
“Học để làm việc, làm người, làm cán bộ.
Học để phụng sự Đoàn thể, giai cấp và nhân dân, Tổ quốc và nhân loại.”
Có thể nói, mục đích của tự học khơng nằm ngồi mục đích chung cao cả và lớn lao

đó. Tuy nhiên trong khi bàn về tự học, Hồ Chí Minh cũng đã khẳng định tự học có
mục đích riêng nhằm thực hiện mục tiêu chung của việc học tập.
Trước hết, Người khẳng định mục đích của tự học là nhằm nâng cao sự hiểu biết của
bản thân mình để phát triển và hồn thiện nhân cách. Theo Hồ Chí Minh, tri thức của
nhân loại là vơ cùng vơ tận, vì vậy việc học hỏi là vơ cùng. Trên hành trình tìm đường
cứu nước giải phóng dân tộc, khơng có nhiều điều kiện để học tập chính quy, Hồ Chí
Minh phải tiến hành tự học để nâng cao hiểu biết của mình. Người quan niệm “học
hỏi là vơ cùng”, và theo Người, để có một trình độ hiểu biết uyên thâm thì nhất định
phải tiến hành tự học. Thông qua tự học, hiểu biết của người học ngày càng được
nâng cao. Nội dung của tự học phong phú và đa dạng, do vậy tự học làm cho kiến
thức của người học không những được nâng cao mà cịn góp phần hình thành và phát
triển nhân cách. Người cho rằng “học tập để phát triển ưu điểm, sửa chữa khuyết
điểm” hay “phải ra sức học tập, tu dưỡng, tự cải tạo để tiến bộ mãi”. Tự học trước hết
có mục đích là thúc đẩy và nâng cao tầm hiểu biết của bản thân người học, đồng thời
nó cũng là một trong những nhân tố góp phần thúc đẩy việc hình thành và phát triển
nhân cách .
Thứ hai, tự học để phục vụ sự nghiệp cách mạng. Thông qua q trình tự học, Hồ Chí
Minh cho rằng tầm hiểu biết của cá nhân không những được nâng cao mà năng lực
của người học cũng ngày càng được trau dồi. Thực tế Hồ Chí Minh khơng có nhiều
thời gian học chính quy về chính trị nhưng bản thân Người là một nhà chính trị kiệt
xuất; chưa từng học ở trường dạy viết báo nhưng Người là một nhà báo thiên tài. Để
đạt được những trình độ như vậy, Hồ Chí Minh đều nhờ vào q trình tự học, thơng
qua quá trình rèn luyện kỹ năng, năng lực của cá nhân ngày càng hoàn thiện. Sau này,
8


lOMoARcPSD|15547689

SVTH: Dương Trúc Anh


Người nhiều lần khẳng định tự học góp phần rất lớn trong việc trau dồi năng lực của
cá nhân, từ đó hướng tới mục đích cao nhất của việc tự học là phục vụ sự nghiệp cách
mạng, phục vụ công cuộc giành độc lập, tự do và xây dựng đất nước. “Mục đích học
là để làm kinh tế, chính trị, văn hóa đều tiến bộ, các dân tộc đều đồn kết với nhau.
Học để làm gì nữa? Để xây dựng chủ nghĩa xã hội”.
Sự khổ công tự học tập, chịu đựng gian khổ của Người đều nhằm mục đích như
Người nói: “Cả đời tơi chỉ có một mục đích, là phấn đấu cho quyền lợi Tổ quốc và
hạnh phúc của quốc dân. Những khi tôi phải ẩn nấp nơi núi non, hoặc ra vào chốn tù
tội, xông pha sự hiểm nghèo - là vì mục đích đó”. Làm cách mạng giải phóng dân tộc
chính là mục đích của tự học trong tư tưởng Hồ Chí Minh; sự nghiệp cách mạng của
dân tộc chính là trường học lớn của Người để Người hoàn thiện, trau dồi kỹ năng
phục vụ cách mạng.
Thứ ba, tự học để khẳng định mình. Trong tư tưởng Hồ Chí Minh, giải phóng con
người là mục tiêu cao nhất. Để giải phóng con người trước hết phải hình thành ở con
người năng lực làm chủ và khả năng tự giải phóng. Năng lực làm chủ chính là khả
năng tự khẳng định bản thân mình trong các mối quan hệ với tự nhiên, xã hội và với
chính mình. Theo Người, tự học là một biểu hiện sinh động của ý thức tự chủ; thông
qua tự học, người học khẳng định được giá trị của mình. Tự học chính là tự chủ vì “ý
thức làm chủ khơng phải chỉ tỏ rõ ở tinh thần hăng hái lao động mà còn phải tỏ rõ ở
tinh thần say mê học tập để không ngừng nâng cao năng lực làm chủ của mình”. Bằng
say mê tự học, tự nghiên cứu, người học có được sự hiểu biết về tự nhiên và xã hội, từ
đó có những hoạt động thích hợp đáp ứng yêu cầu của cuộc sống, khẳng định giá trị
của bản thân người học. Ý nghĩa nhân văn, quyền con người nằm ngay trong quan
điểm phát huy tính chủ thể ở người học. Muốn vậy, mỗi người phải biết khơng ngừng
tự học, tự đào tạo, tự khẳng định mình. Tư tưởng đó rất gần với tư tưởng giáo dục
hiện đại ngày nay: học để biết, học để làm, học để chung sống, học để khẳng định
mình.
3. Về mơi trường, đối tượng tự học
3.1. Môi trường tự học
Về môi trường tự học, theo Hồ Chí Minh là phải triệt để tận dụng mọi hồn cảnh, mọi

phương tiện, mọi hình thức để tự học. Người thường đặt câu hỏi: Học ở đâu? và
khẳng định: “Học ở trường, học ở sách vở, học lẫn nhau và học nhân dân hay “Học
trong xã hội, học nơi công tác thực tế, học ở quần chúng”. Đó chính là mơi trường
tồn diện cho việc tự học.
Có thể nói, Hồ Chí Minh đạt được những thành cơng to lớn trong tự học chính là nhờ
việc Người rất chú tâm tích lũy cho mình một vốn sống, những kinh nghiệm phong
phú trong thực tiễn đấu tranh, thực tiễn đời sống của giai cấp công nhân và của nhân
dân các nước thuộc địa, đồng thời cũng nhờ những ngày miệt mài với sách báo, mà
phương tiện tốt nhất là dựa vào thư viện. Bác đã triệt để sử dụng thư viện để làm giàu
9


lOMoARcPSD|15547689

SVTH: Dương Trúc Anh

vốn kiến thức của mình, để trang bị cho mình một trình độ lý luận sắc bén nhằm giải
đáp những vấn đề mà thực tiễn cách mạng đặt ra.
Trong q trình tự học, ngồi thư viện, Hồ Chí Minh cịn triệt để tận dụng những câu
lạc bộ, các sách báo, các bài nói chuyện, các buổi hội thảo, các viện bảo tàng…; đồng
thời tự mình tạo ra các hình thức học tập mới, sinh động và bổ ích như: tranh thủ sự
giúp đỡ, sự hướng dẫn chỉ bảo của người khác, học trong khi giao tiếp, học trong
công tác vận động quần chúng mà Người gọi là “học trong nhân dân”. Người chỉ rõ:
“không học nhân dân là một thiếu sót lớn”. Trong suốt những năm tháng hoạt động
cách mạng và tự học của mình, Hồ Chí Minh đã học ở nhân dân rất nhiều.
Như vậy, để tự học có hiệu quả, theo Hồ Chí Minh cần có một mơi trường tự học mà
ở đó người học có thể tận dụng mọi điều kiện, mọi hồn cảnh, mọi phương tiện để
tiến hành tự học. Phải tìm ra cách học tập mới sinh động và hứng thú. Quan điểm này
hoàn toàn trùng hợp với triết lý giáo dục toàn diện của xã hội hiện đại - điều mà Hồ
Chí Minh đã nói và làm suốt từ đầu thế kỷ XX.

3.2. Đối tượng tự học
Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn xác định tự học là yêu cầu đối với tất cả mọi người,
không phân biệt già trẻ, trai gái, nghề nghiệp. Bởi lẽ, tri thức nhân loại thì vơ cùng vô
hạn và ngày càng phát triển, nếu tự bản thân mỗi người không tự học, không tự trau
dồi kiến thức thì sớm muộn cũng bị lạc hậu và thối bộ. Người nói: “Xã hội càng đi
tới, cơng việc càng nhiều, máy móc càng tinh xảo. Mình mà khơng chịu học thì lạc
hậu, mà lạc hậu là bị đào thải, tự mình đào thải mình. Điểm đặc sắc của Hồ Chí Minh
khi xác định chủ thể tự học ở đây chính là tất cả mọi người, khơng chỉ đối với những
người đang trực tiếp giảng dạy, học tập, không chỉ đối với thế hệ trẻ mà là tất cả mọi
tầng lớp, giới tính, tuổi tác, chức vụ,... đều phải ra sức tự học tập, tự đào tạo. Tư
tưởng này cũng trùng hợp với quan điểm ngày nay là : Xây dựng xã hội học tập, học
tập cho mọi người và học suốt đời.
Theo Hồ Chí Minh, tự học là yêu cầu, là nhiệm vụ của tất cả mọi người, không loại
trừ một đối tượng nào. Bởi lẽ, thế giới luôn luôn vận động và ngày càng đổi mới, tri
thức nhân loại ngày càng phong phú, khoa học kỹ thuật ngày càng phát triển,... Tất cả
tiến bộ rất nhanh, những ai khơng muốn mình bị đào thải, bị đẩy ra khỏi guồng quay
ấy thì phải học hỏi khơng ngừng. Hồ Chí Minh nhấn mạnh: “Học không bao giờ cùng.
Học mãi để tiến bộ mãi. Càng tiến bộ, càng thấy càng phải học thêm”.
4. Về nội dung tự học
Trong việc giáo dục, học tập, chú trọng đủ các mặt: đạo đức cách mạng, giác ngộ cách
mạng xã hội chủ nghĩa, văn hóa, kinh tế, lao động và sản xuất. Muốn xây dựng chủ
nghĩa xã hội thì nhất định phải có học thức. Cần phải học văn hóa, chính trị, kỹ
thuật”.Để có thể phát triển một cách tồn diện, có được một vốn tri thức phong phú,
Hồ Chí Minh yêu cầu phải tự học tất cả các lĩnh vực, cả chuyên môn nghiệp vụ lẫn lý
luận, đạo đức. Người nhấn mạnh: “Giáo dục, học tập lý luận Mác - Lênin theo Hồ Chí
10


lOMoARcPSD|15547689


SVTH: Dương Trúc Anh

Minh không phải giáo điều theo từng câu chữ mà là “học tập cái tinh thần xử trí mọi
việc, đối với mọi người và đối với bản thân mình; là học tập những chân lý phổ biến
của chủ nghĩa Mác - Lênin để áp dụng một cách sáng tạo vào hoàn cảnh thực tế của
nước ta” .
Đạo đức cách mạng là một nội dung tự giáo dục được Hồ Chí Minh đặc biệt quan
tâm. Đó là thứ đạo đức trong hành động, chứ không thể tách rời giữa đức với tài một
cách siêu hình. Hồ Chí Minh yêu cầu việc tự tu dưỡng, tự học tập đạo đức cách mạng
phải được tiến hành thường xuyên, liên tục như trong công tác hàng ngày, bởi lẽ “đạo
đức cách mạng khơng phải trên trời sa xuống. Nó do đấu tranh, rèn luyện bền bỉ hằng
ngày mà phát triển và củng cố. Cũng như ngọc càng mài càng sáng, vàng càng luyện
càng trong.
Trong nội dung học tập toàn diện, Hồ Chí Minh thường xuyên nhắc đến sự kết hợp
chặt chẽ giữa “học làm tính, học chính trị, học lịch sử, học khoa học thường thức”.
Người cho rằng : “Nếu không học tập văn hố, khơng có trình độ văn hố thì khơng
học tập được kỹ thuật, khơng học tập được kỹ thuật thì khơng theo kịp được nhu cầu
kinh tế nước nhà; nhưng phải chú ý học tập chính trị vì nếu chỉ học văn hố, kỹ thuật
mà khơng có chính trị thì như người nhắm mắt mà đi”.
Việc học tập các kinh nghiệm thực tế cũng được Hồ Chí Minh hết sức chú trọng.
Theo Người, kinh nghiệm là những tri thức rất quý, cần được khai thác,“đó là những
kinh nghiệm do những người đi học mang đến, kinh nghiệm thành công cũng như
kinh nghiệm thất bại. Những kinh nghiệm đó đem trao đổi, gom góp lại tức là những
bài học q, khơng phải cứ chờ đồng chí cấp trên đến nói chuyện thì mới là bài, là
học”.
Có thể nói, hơn ai hết, Hồ Chí Minh là một minh chứng điển hình, cụ thể về tự học tất
cả các lĩnh vực: tự học ngoại ngữ, tự học viết thơ, viết văn, viết báo, tự học cách tổ
chức cuộc sống theo khoa học, tự học lý luận, tự học chính trị, quân sự, tự học triết
học, tự học ngoại giao, tự học quan hệ quần chúng,… Kết quả là lĩnh vực nào Hồ Chí
Minh cũng thơng thạo, và Người trở thành Anh hùng giải phóng dân tộc, Nhà văn hóa

kiệt xuất.
5. Về nguyên tắc, phương pháp tự học
5.1. Lao động để tạo điều kiện cho việc tự học
Nguyên tắc này xuất phát từ mục đích của q trình tự học: Học để phục vụ Tổ quốc,
phục vụ cách mạng, phục vụ nhân dân. Muốn hoạt động cách mạng thì phải khơng
ngừng học và tự học. Điều kiện của tự học chính là lao động.
Đối với Hồ Chí Minh, muốn tự học hiệu quả thì cần phải có phương pháp tự học hợp
lý, phải biết lao động sản xuất để tạo điều kiện cho việc tự học. Khơng phải ai cũng có
điều kiện tự học thuận lợi, nhất là đối với người hoạt động cách mạng. Sự nghiệp cách
mạng đòi hỏi nhiều hy sinh, thử thách to lớn, cũng đòi hỏi người cách mạng phải có
kiến thức, có trí tuệ, có phương pháp đúng đắn. Muốn vậy, người cách mạng phải
11


lOMoARcPSD|15547689

SVTH: Dương Trúc Anh

không ngừng tự học, tự trau dồi, tự làm giàu tri thức của mình bằng vốn tri thức
phong phú của nhân loại. Nói chuyện với giáo viên, học sinh Trường Thanh niên xã
hội chủ nghĩa, Hồ Chí Minh bộc bạch: “Trước đây lúc tuổi thanh niên, Bác hoạt động
ở Pháp, cũng vừa lao động, vừa học tập, nhưng lúc đó lao động là lao động nơ lệ cho
đế quốc. Bác phải làm thế để tự kiếm sống, nhưng vẫn dành thì giờ để học tập, ngày
lao động, đêm học tập, chứ Bác không được đến trường học đâu. Vì vậy, Bác khuyên
các cháu lao động tốt để trở thành người lao động xã hội chủ nghĩa”.
Bản thân Hồ Chí Minh ln coi lao động là điều kiện cho việc tự học. Hành trình tìm
đường cứu nước của Chủ tịch Hồ Chí Minh cho thấy Người đã đi rất nhiều nơi, làm
rất nhiều việc, nhiều nghề, và ở đâu Người cũng vừa làm, vừa tự học.
5.2. Có kế hoạch tự học hợp lý, kiên trì, bền bỉ, sáng tạo
Tự học là quá trình lâu dài, tự học suốt đời, địi hỏi sự kiên trì, bền bỉ, nỗ lực của

người học. Để tự học thành cơng phải có kế hoạch, đồng thời phải kiên trì thực hiện
kế hoạch đến cùng, không lùi bước trước mọi trở ngại.
Đối với Hồ Chí Minh, muốn tự học thành cơng phải có kế hoạch, phải sắp xếp thời
gian học tập khoa học, phải bền bỉ kiên trì thực hiện kế hoạch đến cùng. Trong tác
phẩm “Sửa đổi lối làm việc”, Hồ Chí Minh chỉ rõ: “Sắp xếp thời gian và bài học...
phải cho khéo, phải có mạch lạc với nhau, mà khơng xung đột với nhau”. Người yêu
cầu: học phải có quyết tâm; muốn có quyết tâm thì phải có tinh thần, “phải tự nguyện,
tự giác, xem công tác học tập cũng là một nhiệm vụ mà người cán bộ cách mạng phải
hoàn thành cho được”.
Với một hoàn cảnh hết sức đặc biệt, Hồ Chí Minh phải vừa kiếm sống, vừa hoạt động
cách mạng, vừa tự học nhưng Người luôn đặt kế hoạch học tập và tìm mọi cách thực
hiện đúng kế hoạch đặt ra.
Thành công lớn trong việc tự học của Hồ Chí Minh là nhờ tích lũy cho mình được
vốn sống, kinh nghiệm phong phú trong thực tiễn đấu tranh, thực tiễn đời sống của
nhân dân lao động thế giới. Sự thành cơng của Hồ Chí Minh trong việc tiếp thu và vận
dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin, đề ra các chiến lược, sách lược đấu tranh cách
mạng đúng đắn ở một nước thuộc địa nửa phong kiến, là kết quả của cả một quá trình
tự học bền bỉ, gian khổ trong suốt quá trình đấu tranh cách mạng kiên cường. Người
đã tổng kết những kinh nghiệm quý báu về tự học suốt đời và đã để lại cho chúng ta
những bài học vô giá.
5.3. Tự học mọi lúc, mọi nơi, bằng mọi phương tiện, mọi hình thức
Anhxtanh - nhà khoa học lớn của thế kỷ XX đã từng khẳng định: "Ai khơng cịn tị
mị người đó sẽ chết", V.I.Lênin sau này cũng nói: "Học, học nữa, học mãi".
Nhận thức được tầm quan trọng của tri thức đối với sự phát triển của mỗi con người,
mỗi dân tộc, Chủ tịch Hồ Chí Minh căn dặn chúng ta trong mọi hoạt động cách mạng
đều có thể và đều cần phải học tập, “cịn sống thì cịn phải học”. Và chính Người là
12


lOMoARcPSD|15547689


SVTH: Dương Trúc Anh

một tấm gương lớn về tinh thần học tập thường xuyên mọi lúc mọi nơi trong suốt quá
trình sống và hoạt động cách mạng, trong bất kỳ hoàn cảnh nào, dù sống trong lao tù,
nơi con người chỉ mong được tồn tại thì Người vẫn bằng nghị lực của mình tự học tập
để nâng cao tri thức, vun đắp ý chí cách mạng để cứu nước cứu dân.
Theo Hồ Chí Minh, tự học là một dịng chảy liên tục, phát triển không ngừng, người
học không được để cho nó gián đoạn, khơng ngắt qng, dù cơng việc cuộc sống có
bộn bề đến đâu. Sau này dù bận trăm cơng nghìn việc ở cương vị đứng đầu nhà nước
ta, Người vẫn thường xuyên tự học, tự bồi dưỡng, bổ sung tri thức cho bản thân, là
một tấm gương sáng về tiếp thu và sáng tạo tri thức.
Trả lời cho câu hỏi: Học ở đâu?, Người đã nói: “học ở trường, học ở sách vở, học lẫn
nhau và học nhân dân...”, tức là ở bất kỳ nơi đâu mọi người cũng có thể tự học.
Khơng phải chỉ học ở trường lớp mà con người phải học trong lao động, trong công
tác thực tiễn, không chỉ học ở thầy giáo mà còn học ở những người khác với thái độ
kiên trì, bền bỉ tiếp thu mọi nguồn tri thức có thể để hoạt động một cách hiệu quả.
Tri thức có ở rất nhiều nguồn khác nhau nhưng theo Hồ Chí Minh, trước hết người
học phải biết “học ở sách vở”. Mặt khác, cuộc sống luôn là một kho tàng tri thức vơ
tận. vì thế, Người đã dạy: “Ngồi cách học ở trường, ở lớp, học trên sách, báo…,có
một cách học rất tốt ai cũng có thể tham gia hằng ngày. Đó là cách học tập ngay trong
sản xuất, học tập những người, những tổ, những đơn vị tiên tiến”. Và chính Người đã
ln coi cuộc sống là trường học lớn của mình. Từ khi cịn là một thiếu niên, Nguyễn
Tất Thành đã chú ý quan sát những sự việc ở ngồi đời và trong đầu ln có nhiều
câu hỏi, nhiều thắc mắc muốn được hiểu tường tận đến ngọn nguồn. Sau này, trên
hành trình tìm đường cứu nước, từ Sài Gòn qua Pháp, qua châu Phi rồi sang Mỹ, sang
Anh…, Nguyễn Tất Thành đã học được rất nhiều điều trong cuộc sống và rút ra được
những kết luận quan trọng đầu tiên về bạn và thù, về cuộc sống của nhân dân ở các
nước thuộc địa, về bản chất của chủ nghĩa đế quốc, v,v..
Thứ nữa là học ở bạn bè, ở đồng nghiệp, “học lẫn nhau”. Ông cha ta đã đúc kết “học

thầy khơng tày học bạn”. Hồ Chí Minh cho rằng một người phải biết học ở nhiều
người, hơn nữa phải làm cho món ăn tinh thần phong phú, khơng nên bắt mọi người
chỉ được ăn một món thôi, cũng như vào vườn hoa cần cho mọi người được thấy
nhiều hoa đẹp. Người lấy đó để nhắc nhở cán bộ đảng viên không được tự cao, tự đại,
cho mình là tài giỏi hơn mọi người, trái lại phải học hỏi điều hay, điều tốt ở mọi
người.
Hồ Chí Minh không những triệt để tận dụng những tổ chức, hoạt động có sẵn trong xã
hội như thư viện, câu lạc bộ, sách báo, các buổi nói chuyện, hội thảo, viện bảo tàng…,
mà cịn tự tạo ra những hình thức học tập mới, sinh động và bổ ích, như tranh thủ sự
giúp đỡ chỉ bảo của người khác, học trong khi đi giao thiệp, trong vận động quần
chúng mà Người gọi là học trong nhân dân. Người kết luận: “không học nhân dân là
một thiếu sót lớn”.
5.4. Học đi đơi với hành, lý luận gắn với thực tiễn
13


lOMoARcPSD|15547689

SVTH: Dương Trúc Anh

Học đi đôi với hành, lý luận gắn với thực tiễn là một nguyên tắc cơ bản trong hoạt
động nhận thức và thực tiễn theo quan điểm của Triết học Mác - Lênin, cũng là
phương châm sống và hoạt động của Hồ Chí Minh. Ở đâu, việc gì, lời nói và việc làm
của Người ln thống nhất và gắn kết với nhau chặt chẽ.
Chúng ta đều biết lý luận được khái quát từ thực tiễn, trên nền tảng thực tiễn, khơng
có thực tiễn cách mạng thì khơng có lý luận cách mạng; ngược lại, khơng có lý luận
cách mạng thì khơng có phong trào cách mạng. Hồ Chí Minh đã chỉ rõ: “Thực tiễn
khơng có lý luận hướng dẫn thì thành thực tiễn mù quáng. Lý luận mà không liên hệ
với thực tiễn là lý luận suông”. Ở Người, nói đi đơi với làm, nói với làm là một.
Trong tất cả các cơng việc, Hồ Chí Minh luôn lấy lý luận để soi rọi vào thực tiễn, và

từ thực tiễn khái quát thành lý luận. Lý luận được Hồ Chí Minh diễn đạt rất trong
sáng, giản dị, cô đọng, hàm súc, dễ hiểu, dễ nhớ, dễ làm và rất gần gũi với thực tiễn.
Ngôn từ của Người đạt tới sự gặp gỡ, gần gũi giữa người nói với người nghe, người
viết và người đọc, giữa lãnh tụ và quần chúng. Hồ Chí Minh khơng viết nhiều, khơng
hay nói dài mà lại làm nên sự nghiệp lớn lao là vì, Người nói ít mà mọi người hiểu
nhiều, nói ít mà mọi người nghe nhiều, tin nhiều, chỉ một lời vắn tắt dễ hiểu đã đi vào
trái tim, khối óc cuả quần chúng, biến thành sức mạnh phi thường. Phương pháp Hồ
Chí Minh là đi vào thực tiễn, qua hoạt động thực tiễn đúc kết thành kinh nghiệm, từ
đó nâng lên thành lý luận.
Mối quan hệ biện chứng giữa lý luận và thực tiễn, giữa học và hành được Hồ Chí
Minh nhiều lần nhấn mạnh. Người chỉ rõ: “Lý luận như cái kim chỉ nam, nó chỉ
phương hướng cho chúng ta trong cơng việc thực tế. Khơng có lý luận thì lúng túng
như nhắm mắt mà đi. Lý luận phải đem ra thực hành. Thực hành phải nhằm theo lý
luận. Lý luận cũng như cái tên (hoặc viên đạn). Thực hành cũng như cái đích để bắn.
Có tên mà khơng bắn, hoặc bắn lung tung, cũng như khơng có tên. Người nhấn mạnh:
”Lý luận cốt để áp dụng vào cơng việc thực tế... Có kinh nghiệm mà khơng có lý luận,
cũng như một mắt sáng, một mắt mờ”.
Có thể khẳng định trong tư tưởng tự học Hồ Chí Minh, học đi đôi với hành, lý luận
gắn với thực tiễn, học tập kết hợp với lao động sản xuất là một phương châm căn bản,
vừa là nguyên tắc, vừa là phương pháp tự học, đó cũng chính là phương châm của nền
giáo dục Việt Nam.

14


lOMoARcPSD|15547689

SVTH: Dương Trúc Anh

II.

VẬN DỤNG
1. Vai trò của tự học đối với sinh viên
Do phương pháp học tập ở đại học khác cơ bản so với phương pháp học ở phổ thơng, ở
đại học khơng có sự kiểm tra hàng ngày của giáo viên nên việc học tập của SV phần lớn
là tự học. Đó là hoạt động diễn ra liên tục, trong một phạm vi lớn nhằm lĩnh hội rất nhiều
tri thức. Có thể nói: Bản chất của cơng việc tự học của sinh viên đại học là quá trình nhận
thức một cách tự giác, tích cực, tự lực khơng có sự tham gia hướng dẫn trực tiếp của giáo
viên nhằm đạt được mục đích, nhiệm vụ dạy học. Nói khác đi, việc tự học ngồi lớp học
đóng vai trị trọng yếu ở đại học.
Bên cạnh đó, tự học còn giữ vai trò lớn lao trong việc nâng cao khả năng hiểu biết và tiếp
thu tri thức mới của sinh viên, nhiều nhà giáo dục nổi tiếng đã nêu lên sự cấp thiết phải
khéo léo tổ chức việc tự học cho sinh viên. Tự học với sự nỗ lực, tư duy sáng tạo đã tạo
điều kiện cho việc tìm hiểu tri thức một cách sâu sắc, hiểu rõ bản chất của chân lý.Trong
quá trình tự học, sinh viên sẽ gặp nhiều vấn đề mới và việc đi tìm giải đáp cho những vấn
đề ấy là cách tốt nhất để kích thích hoạt động trí tuệ cho sinh viên. Nếu thiếu đi sự nỗ lực
tự học của bản thân sinh viên thì kết quả khơng thể cao cho dù có điều kiện ngoại cảnh
thuận lợi đến mấy (thầy giỏi, tài liệu hay). Theo Aditxterrec: "Chỉ có truyền thụ tài liệu
của giáo viên mà thơi thì dù có nghệ thuật đến đâu chăng nữa cũng không đảm bảo được
việc lĩnh hội tri thức của học sinh. Nắm vững kiến thức thực sự lĩnh hội chân lý, cái đó
học sinh phải tự mình làm lấy bằng trí tuệ của bản thân".
Khơng chỉ có vậy, tự học cịn có vai trị to lớn trong việc giáo dục, hình thành nhân cách
cho sinh viên. Việc tự học rèn luyện cho sinh viên thói quen độc lập suy nghĩ, độc lập
giải quyết vấn đề khó khăn trong nghề nghiệp, trong cuộc sống, giúp cho họ tự tin hơn
trong việc lựa chọn cuộc sống cho mình. Hơn thế, tự học thúc đẩy SV lòng ham học, ham
hiểu biết, khát khao vươn tới những đỉnh cao của khoa học, sống có hồi bão, ước mơ.
Qua đó có thể nói rằng tự học của sinh viên khơng chỉ là một nhân tố quan trọng trong
lĩnh hội tri thức mà cịn có ý nghĩa to lớn trong việc hình thành nhân cách sinh viên.
Tự học giúp cho mọi người có thể chủ động học tập suốt đời, học tập để khẳng định năng
lực phẩm chất và để cống hiến. Tự học giúp con người thích ứng với mọi biến cố của sự
phát triển kinh tế - xã hội. Bằng con đường tự học mỗi cá nhân sẽ không cảm thấy bị lạc

hậu so với thời cuộc, thích ứng và bắt nhịp nhanh với những tình huống mới lạ mà cuộc
sống hiện đại mang đến, kể cả những thách thức to lớn từ mơi trường nghề nghiệp. Do
đó, việc tự học không nên chỉ giới hạn trong các giờ học trên lớp, với sự hướng dẫn trực
tiếp của giáo viên. Nếu rèn luyện cho người học có được phương pháp, kĩ năng tự học,
biết linh hoạt vận dụng những điều đã học vào thực tiễn thì sẽ tạo cho họ lịng ham học,
nhờ đó kết quả học tập sẽ ngày càng được nâng cao.
2. Phương pháp giúp tự học
Có câu “Nói thì dễ làm mới khó”. Thế nên tự học tuy là một phương pháp học tập hiểu
quả đặc biệt là với bậc học đại học khi mà việc học của chúng ta khơng có ai đốc thúc,
nhưng đây khơng phải phương pháp dễ dàng với tất cả mọi người. Việc tự học thực chất
15


lOMoARcPSD|15547689

SVTH: Dương Trúc Anh

khơng đơn giản, vì để tự học, sinh viên cần phải thành thục nhiều kỹ năng khác, chẳng
hạn như:
2.1 Kỹ năng xây dựng kế hoạch tự học:
Hồ Chí Minh chỉ rõ: “Sắp xếp thời gian và bài học... phải cho khéo, phải có mạch lạc với
nhau, mà không xung đột với nhau”. Người yêu cầu: học phải có quyết tâm; muốn có
quyết tâm thì phải có tinh thần, “phải tự nguyện, tự giác, xem công tác học tập cũng là
một nhiệm vụ mà người cán bộ cách mạng phải hoàn thành cho được”.
Lập kế hoạch tự học là việc xây dựng kế hoạch cho những hoạt động cụ thể nhằm thực
hiện được các nhiệm vụ mà mục tiêu đề ra. Mỗi cá nhân khi xây dựng kế hoạch học tập
cụ thể cần phải hiểu rõ mục tiêu và tính tốn những bước đi thích hợp. Khi lập kế hoạch
cần phải suy nghĩ về những gì sẽ làm, chuẩn bị tốt nhất để đạt được hiệu quả học tập cao
và phải đặt câu hỏi là tại sao chúng ta phải làm như thế. Đây chính là q trình lập kế
hoạch học tập, là quá trình lập kế hoạch học cách học, mỗi cá nhân phải tính tốn cách

thức và thời gian để hồn thành các cơng việc. Hiện nay, đa số sinh viên thực hiện các
nhiệm vụ học tập cịn mang tính tùy tiện, gặp đâu học đó, chưa hình dung được tồn bộ
cơng việc mình đang và sẽ làm như thế nào. Trong khi đó một khối lượng cơng việc lớn
mà sinh viên phải hồn thành lại chỉ thực hiện trong một thời gian hạn chế. Vì vậy người
học cần phải sử dụng thời gian một cách tiết kiệm và hiệu quả, bằng cách phân phối công
việc một cách khoa học, đặc biệt chú ý đến thời gian tự học.
Khi xây dựng kế hoạch sinh viên cần nắm vững một số yêu cầu sau:
a)
b)
c)
d)
e)

Xác định đầy đủ các công việc cần làm
Xác định yêu cầu của từng công việc
Phân phối thời gian hợp lý cho từng công việc
Sắp xếp các công việc một cách hợp lý
Nắm được yêu cầu của kế hoạch

2.2 Kỹ năng đọc sách và tài liệu tham khảo
Để việc đọc sách có chất lượng và hiệu quả, cần đọc theo một quy trình nhất định, nếu
không chúng ta sẽ mất thời gian mà không thu được nhiều kết quả và không lưu giữ
được những thơng tin cần thiết. Vì vậy, việc đọc sách cần được thực hiện nghiêm túc
và tuân theo các yêu cầu sau:
a) Đọc có suy nghĩ:
Muốn hiểu những điều sách viết, người đọc phải hết sức tập trung tư tưởng khi đọc,
nhiều khi cịn phải ngưng lại để ơn những đoạn cần biết, chưa nắm vững, đến khi
thông suốt rồi mới đọc tiếp.
Đọc sách để hiểu những điều tác giả nói và cả những điều tác giả khơng nói, mà
người đọc tự suy nghĩ, mở rộng đến những điều liên quan mà sách không đề cập đến.

16


lOMoARcPSD|15547689

SVTH: Dương Trúc Anh

Ở mức độ này, người đọc không chỉ tiếp thu kiến thức từ sách mà còn rèn luyện được
phương pháp tư duy.
Khi đọc và suy nghĩ mãi nhưng vẫn khơng hiểu được những gì sách viết, thì phải tìm
và đọc những sách khác có liên quan. Bởi lẽ, đôi khi cùng một kiến thức nhưng với
cách diễn giải của tác giả này ta chưa hiểu nhưng với cách trình bày khác ở sách khác
ta có thể hiểu được. Đọc nhiều sách cũng giống như đàm đạo giúp chúng ta hiểu sâu
thêm vấn đề, làm phong phú thêm vốn kiến thức.
b) Đọc có hệ thống:
Khi đọc bất kỳ cuốn sách nào, người ta thường đọc theo các bước sau:
Đọc lướt nhanh toàn bộ phần tổng quát của sách để nắm sơ bộ nội dung cuốn sách;
Đọc kỹ, tùy theo mục đích đọc mà có thể đọc kỹ một lần hoặc nhiều lần. Khi đọc
kỹ các lần sau, chỉ cần đọc lại những điều cơ bản hoặc các nội dung mà lần đầu
chưa hiểu, chưa nắm vững. Những lần đọc sau sẽ làm người đọc nắm sâu hơn,
hiểu kỹ hơn.
- Đọc nhanh, cần tự rèn luyện cách đọc nhanh để tập trung được sự chú ý, sự suy
nghĩ diễn ra liên tục và dễ dàng xác lập được mối quan hệ giữa các đoạn với nhau
khiến ta dễ nắm được nội dung tài liệu.
c) Đọc có chọn lọc:
-

Đọc có chọn lọc là đọc để tìm những điểm cốt lõi, chọn ý tưởng hay nhất, đúng nhất
và có ích cho việc học sẽ rèn được tư duy phê phán, làm tiền đề cho năng lực giải
quyết vấn đề sau này. Sinh viên phải hết sức tập trung suy nghĩ và phải tinh lọc được

những kiến thức cơ bản cần thiết cho mình, đồng thời nêu được các vấn đề cũng như
giải quyết được những vấn đề mà tài liệu đề cập.
d) Đọc có ghi nhớ:
- Đọc sách là học tập tích cực nên cần kèm theo việc ghi chép để nhớ lâu;
- Đọc để tìm tài liệu bổ sung, cần ghi chép phần bổ sung đó ra, đồng thời đánh dấu
để tra cứu khu cần thiết;
- Đọc sách hoặc tài liệu tham khảo cần ghi các dàn ý và diễn tiến nội dung. Các ý
chính cần ghi chép cẩn thận, gạch chân hoặc tơ màu vì đó là ý cơ bản mà từ đó có
thể suy luận ra các ý khác liên quan. Những phần chưa hiểu hoặc chưa nắm vững
cũng cần đánh dấu để tiếp tục suy nghĩ, tìm người giải đáp.
- Một biện pháp đọc để nhớ lâu là mơ hình hóa các nội dung đã đọc bằng cách sắp
xếp chúng theo bản đồ tư duy (mind map). Khi xây dựng được bản đồ tư duy có
nghĩa là chúng ta đã hệ thống hóa tồn bộ nội dung đã đọc và giải thích được mối
liên hệ giữa chúng với nhau.
- Tóm lại, với kỹ năng đọc sách và tài liệu tham khảo cần có các kỹ năng chính sau:
+ Biết chọn đúng sách cần đọc
+ Biết lập danh mục tài liệu cần đọc
+ Biết chọn cách đọc phù hợp với mục đích đề ra
+ Biết ghi theo phiếu tư liệu
17


lOMoARcPSD|15547689

SVTH: Dương Trúc Anh

+ Biết ghi theo đề cương chi tiết
+ Biết tóm tắt nội dung chính những điều đã đọc
+ Biết lưu trữ những điều đã đọc theo vấn đề
2.3 Kỹ năng nghe giảng, ghi chép

Nghe giảng và ghi chép tưởng chừng đơn giản nhưng không phải ai cũng biết cách
nghe giảng và ghi chép. Để nghe giảng bài tốt, ghi chép tốt cũng cần kỹ năng. Nghe
giảng viên giảng bài là một trong những hoạt động cơ bản của quá trình học tập trên
lớp. Một số SV nghe giảng tốt, ghi tốt giúp cho quá trình tiếp nhận kiến thức hiệu quả
hơn, SV đó mất ít thời gian hơn trong việc học bài, làm bài sau đó. Ngược lại, có rất
nhiều SV nghe thầy giảng viên giảng nhưng không hiểu bài, không nắm bắt được
thông tin bài học dẫn tới việc học tập kém hiệu quả. Như thế có thể thấy nghe giảng,
ghi chép tốt khơng phải đơn giản, cũng cần phải có kỹ năng mới có thể nghe giảng
một cách hiệu quả. Có thể thấy rằng muốn ghi tốt, khi nghe giảng sinh viên cần chú ý
đến những điểm sau đây:
Tập trung nghe, hiểu vấn đề rồi diễn đạt (ghi) theo ý hiểu của mình.
Chú ý ghi dàn bài để nhìn được khái quát cấu trúc chung của bài giảng.
Tập trung vào những nội dung chính, những điểm quan trọng nhất mà giảng viên
thường nhấn mạnh qua ngữ điệu, qua việc nhắc lại nhiều lần.
- Chú ý đến các bảng tóm tắt, các sơ đồ và các tài liệu trực quan khác mà giảng viên
đã giới thiệu, vì đây là lúc người thầy hệ thống hóa, so sánh, phân tích... để đi đến
kết luận và rút ra cái mới.
- Khi gặp chỗ khó, khơng hiểu hãy tạm thời gác lại và sẽ cố gắng tìm hiểu những
điều đó sau để q trình nghe giảng khơng bị gián đoạn.
- Khi bài giảng dừng lại, có thể nêu câu hỏi để đào sâu kiến thức, liên hệ thực tiễn
và làm rõ những chỗ chưa hiểu.
2.4 Kỹ năng làm việc theo nhóm
-

Khi trở thành sinh viên, các bạn có rất nhiều cơ hội để các bạn rèn luyện kỹ năng làm
việc nhóm, thơng qua các bài tập hay đề tài trên lớp cũng như các hoạt động tình
nguyện hay tham gia các CLB. Đây là cơ hội rất tốt cho các bạn sinh viên được học
hỏi rèn luyện và cọ xát, tuy nhiên, để làm việc nhóm hiệu quả, các bạn cần lưu ý:
Khi làm việc nhóm, sinh viên cần hiểu rõ những điều cơ bản trong xây dựng nhóm:
-


-

18

Trau dồi kỹ năng và rèn luyện tinh thần tự chủ trong học tập. Chủ động và tích cực
để hấp thụ được tối đa sự truyền đạt, hướng dẫn của giảng viên.
Sinh viên cần phải thay đổi lại cách tư duy, cách suy nghĩ trong học tập. Để làm
được điều đó thì cần có sự nhìn nhận, đóng góp ý kiến thẳng thắn của nhóm
trưởng, các thành viên tích cực ở trong nhóm.
Mọi thành viên trong nhóm cần phải có một sự tơn trọng khi ai đó trình bày quan
điểm, ý kiến. Giữa các thành viên với nhau nên có sự động viên, sự khen ngợi khi
ai đó làm được gì hay, kể cả các bạn đóng góp ít thì cũng tìm cách khen ngợi
khích lệ nhau.


lOMoARcPSD|15547689

SVTH: Dương Trúc Anh

2.5 Kỹ năng khái quát hoá, hệ thống hoá kiến thức
Khái quát hoá, hệ thống hoá kiến thức là một trong các biện pháp, thao tác tư duy logic
quan trọng, đạt hiệu quả cao trong học tập và nghiên cứu. Nó có tác dụng làm phong phú
thêm kiến thức đã học bằng một tư tưởng mới, xem xét các vấn đề đã học dưới góc độ
mới. Giúp người học không chỉ cũng cố những điều đã học mà cịn có thể sắp xếp chúng
thành hệ thống chặt chẽ và lý giải được ý nghĩa sâu xa của kiến thức. Bởi vậy rèn luyện
kĩ năng hệ thống hóa trong tự học có vị trí quan trọng trong phát triển năng lực tư duy
cho người học.
Một số kỹ năng khái quát hoá, hệ thống hoá kiến thức:
-


Xác định nhiệm vụ học tập.
Phân tích, xác định nội dung kiến thức cần hệ thống hóa.
Xác định mối liên hệ giữa các kiến thức.
Hồn thiện sơ đồ,bảng hệ thống hóa kiến thức.

3. Việc tự học của bản thân
Trên con đường 12 năm học tập ở cấp tiểu học, trung học cơ sở, trung học phổ thơng, em
đã từng tự tin rằng mình có một phương pháp học tập tốt và hiệu quả bởi em ln đạt kết
quả tốt trong các kì thi và phong độ học tập vững vàng sau 2 lần chuyển cấp. Trước khi
lên đại học, em từng có suy nghĩ học đại học sẽ nhẹ nhàng và chủ động hơn nhiều và
mình sẽ có thể chủ động trong việc sắp xếp lịch học. nhưng sau khi thực tế học tập trải
nghiệm thì suy nghĩ em cũng đã có nhiều thay đổi.
Đại học là một môi trường tự do, cởi mở hơn nhưng cũng đồng nghĩa với “tự lực cánh
sinh” hơn. Mọi việc đều phải do tự bản thân quyết định khiến em cũng có nhiều bối rối.
Và cũng do quan niệm học đại học “nhàn” hơn, có thể tự ý nghỉ học vào những ngày
mình khơng muốn nên sau kì học đầu tiên, em đã khơng thể đạt kết quả tốt như mình
mong đợi. Tất cả kỹ năng học tập ở các cấp trung học mà em nghĩ là đủ cho mơi trường
hóa ra là khơng hề đủ và sau kì học đầu tiên, em quyết tâm thử các phương pháp học tập
mới chủ động hơn. Cụ thể là tự học.
Đầu tiên, trước mỗi kì học, em sẽ tìm hiểu trước về yêu cầu các môn học, tài liệu, số buổi
học và đề cương theo từng buổi. Mỗi buổi học em sẽ đọc trước các tài liệu của buổi đó và
ghi sẵn các câu hỏi vào tập. Trước khi làm đồ án, em sẽ lập danh sách việc cần làm.
Những việc nhỏ đó là bước đầu tiên để em có thể chủ động hơn trong học tập và làm
quen dần với môi trường đại học. Dần dần, em lại càng thấy u thích vì đây khơng
những là mơi trường giúp em có thể theo đuổi ngành nghề mình thích mà cịn là mơi
trường lí tưởng để phát triển bản thân qua tự học. Không những học tập trong trường một
cách hiệu quả hơn, em cịn có thể tự học các kỹ năng khác.
Tự học không chỉ đem lại cho chúng ta những hiểu quả, những kiến thức về bài học mà
tự học còn giúp chúng ta rèn luyện được rất nhiều những thành quả xoay quanh nó.

19


lOMoARcPSD|15547689

SVTH: Dương Trúc Anh

Tự học sẽ giúp bạn định hướng, hoạch định được kết quả học tập tích cực và hiệu quả, nó
giúp chúng ta chiếm lĩnh được nguồn kiến thức một cách chủ động.
Tự học đem lại cho chúng ta những đức tính tốt: Người tự học sẽ ln cảm thấy bản thân
chủ động trong mọi việc khác, đem lại cho bản thân tinh thần khao khát được chiếm lĩnh
tri thức, khơng ngần ngại trước khó khăn, thử thách trong học tập. Tự học giúp bản thân
chúng ta đánh giá và chọn lọc được phần tri thức quan trọng, hữu ích, trau dồi năng lực
của mình. Bởi thế, những người tự học thường rất khiêm nhường. Lúc nào họ cũng mong
muốn được hiểu biết nhiều hơn.
Thực tế có rất nhiều người nhờ tự học có thành quả khơng chỉ cho cá nhân người học mà
còn để lại cho cộng đồng, xã hội nhiều giá trị to lớn.
Với khát vọng tìm kiếm con đường cứu nước, giải phóng dân tộc, hơn 30 năm bơn ba
nước ngồi, Bác Hồ đã biết tự học, tự hồn thiện bản thân. Người có thể nói được nhiều
thứ tiếng và am hiểu sâu sắc nền văn hóa của nhiều dân tộc trên thế giới. Kết quả đó là
nhờ có tinh thần tự học khơng mệt mỏi.
Nhiều thủ khoa các khóa thi có hồn cảnh khó khăn, vừa học vừa phụ giúp gia đình khiến
ta càng thêm cảm phục về tinh thần tự học của con người.
Nhà bác học Edison đã tự học mà trở thành nhà chế tạo vĩ đại nhất thế kỉ. Thiên tài
Anhxtanh (Albert Einstein) đã tự học mà phát minh ra học thuyết tương đối và nhiều
cơng trình khác. Nhà sinh lý, bác sĩ Paplop đã học ở nhà suốt quãng đời tuổi thơ. Nhà vật
lý Faraday từng làm phụ tá phòng thí nghiệm trước khi trở thành nhà phát minh lừng
danh. Họ trở nên vĩ đại bởi vì đã biết tự học.
Những tấm gương sáng ngời ấy luôn là nguồn cảm hứng bất tận, là nguồn sức mạnh dồi
dào thúc giục chúng ta không ngừng tiến lên trên con đường học vấn.


20


lOMoARcPSD|15547689

SVTH: Dương Trúc Anh

KẾT LUẬN
Trong cuộc sống ngày này nguồn kiến thức luôn là vô tận, kiến thức của chúng ta chỉ là
một giọt nước trong đại dương mênh mông mà thôi. Trưởng học chỉ là con đường ngắn
nhất đưa ta đến nguồn kiến thức chính thống nhất, đương nhiên sẽ cịn nhiều thiếu sót. Vì
vậy chúng ta phải có ý thức tự học, học từ chính cuộc sống hằng ngày quanh ta. Bác Hồ
cũng đã từng răn dạy rằng: “cịn sống thì cịn phải học”, “học ở trường, học ở sách vở,
học lẫn nhau và học nhân dân...”, tức là ở bất kỳ nơi đâu mọi người cũng có thể tự học.
Và giống như Bác đã nói, học phải đi đơi với hành” có như vậy thì học mới nhớ lâu và
hiệu quả. Rèn luyện được phương pháp tự học, tự nghiên cứu là rất quan trọng cho người
học khơng những khi cịn ngồi trên ghế nhà trường mà kể cả khi ra ngồi xã hội, nó tạo
cho người học có khả năng học suốt đời, khả năng tự lực giải quyết các vấn đề thực tiễn
một cách chủ động.
Như vậy, ngoài việc rèn luyện phong cách học tập, phương pháp học tập, người học còn
biết cách khám phá ra các bí mật – những kiến thức chưa được khám phá trong cuộc
sống, trong công việc: đây là điều hết sức cần thiết cho người lao động sáng tạo.
Đối với các ngành nghề sáng tạo với đặc thù thay đổi và “làm mới” mỗi ngày, việc trang
bị kĩ năng tự học là vô cùng cần thiết để luôn luôn cập nhật những xu hướng, trào lưu
mới nhất phục vụ cho việc hành nghề. Có tinh thần say mê học tập, tự học tốt thì mới có
thể thành cơng và phát triển và đi lâu với nghề.
Như Lenin đã từng nói: “Học, học nữa, học mãi”.
Học tập là cốt lõi của sáng tạo, là nền tảng của sự phát triển. Từ đó có thể thấy tự học
cũng ảnh hưởng sâu sắc đến nền tri thức nhân loại, đến sự phát triển của dân tộc, của

quốc gia. Đặc biệt là đất nước trong giai đoạn cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa như hiện
nay, để có thể đưa đất nước sánh vai với các cường quốc năm châu, mỗi chúng ta cần cố
gắng học tập trao dồi bản thân hơn nữa. Có như vậy thì Việt Nam mới càng phát triển
hơn, văn minh hơn.

21


lOMoARcPSD|15547689

SVTH: Dương Trúc Anh

TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Giáo trình Tư tưởng Hồ Chí Minh, Nhà Xuất Bản Chính Trị Quốc Gia Sự Thật
(2021)
2.
3.
4.
5.

Hồ Chí Minh Tồn tập
Sách “Tơi tự học”, Nguyễn Duy Căn
/> />Avaitrotuhoc&catid=5399%3Avaitrotuhoc&Itemid=9265&lang=zh&site=34
6. />7. />8. />3%A0%20l%C3%A0m,l%C3%A0m%20vi%E1%BB%87c%20g%C3%AC%20c
%C5%A9ng%20gi%E1%BB%8Fi.
9. />10. />Avaitrotuhoc&catid=5399%3Avaitrotuhoc&Itemid=9265&lang=fr&site=34#:~:te
xt=T%E1%BB%B1%20h%E1%BB%8Dc%20gi%C3%BAp%20ng%C6%B0%E1
%BB%9Di%20h%E1%BB%8Dc,nhi%E1%BB%87m%20v%E1%BB%A5%20h
%E1%BB%8Dc%20t%E1%BA%ADp%20m%E1%BB%9Bi.


22



×