Tải bản đầy đủ (.docx) (49 trang)

Những vấn đề lý luận chung về các nhân tố ảnh hưởng đến chi tiêu đầu tư và kích cầu đầu tư

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (498.46 KB, 49 trang )

Mục lục
CHƯƠNG I : NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CHUNG VỀ CÁC NHÂN TỐ
ẢNH HƯỞNG ĐẾN CHI TIÊU ĐẦU TƯ VÀ KÍCH CẦU ĐẦU TƯ
I. KHÁI NIỆM CHUNG VỀ ĐẦU TƯ
1. Khái niệm đầu tư
2.Phân loại đầu tư
II. CHI ĐẦU TƯ VÀ CÁC NHÂN TỐ ẢNH HƯỞNG ĐẾN CHI ĐẦU TƯ
1. Khái niệm chi đầu tư
2. Các nhân tố ảnh hưởng đến chi đầu tư
2.1. Lợi nhuận kỳ vọng
2.2. Lãi suất thực tế tiền vay
2.3. Sản lượng của nền kinh tế
2.4. Đầu tư của Nhà nước
2.5.Chu kỳ kinh doanh
2.6. Lợi nhuận thực tế
2.7. Các nhân tố thuộc môi trường vĩ mơ khác
2.7.1. Chính sách và thể chế của Nhà nước.
2.7.2. Thị trường các yếu tố đầu ra và đầu vào
2.7.3.Thị trường tài chính
2.7.4. Rủi ro bất khả kháng
III. KÍCH CẦU ĐẦU TƯ
1. Khái niệm kích cầu đầu tư
2. Ý nghĩa của việc kích cầu đầu tư
3. Các cơng cụ, phương pháp sử dụng để kích cầu đầu tư căn cứ vào các nhân
tố ảnh hưởng đến chi đầu tư
CHƯƠNG II
THỰC TRẠNG CÁC NHÂN TỐ ẢNH HƯỞNG ĐẾN CHI ĐẦU TƯ & TÌNH
HÌNH KÍCH CẦU ĐẦU TƯ Ở VIỆT NAM HIỆN NAY

Page 1 of 49



I. THỰC TRẠNG CÁC NHÂN TỐ ẢNH HƯỞNG ĐẾN CHI TIÊU ĐẦU TƯ Ở
VIỆT NAM HIỆN NAY
1. Tình hình các nhân tố ảnh hưởng đến chi tiêu đầu tư ở Việt Nam hiện nay
1.1. Lợi nhuận kỳ vọng
1.2. Lãi suất thực tế
1.3. Sản lượng của nền kinh tế
1.4. Đầu tư nhà nước
1.5. Chu kỳ kinh doanh.
II. THỰC TRẠNG KÍCH CẦU ĐẦU TƯ Ở VIỆT NAM HIỆN NAY
1. Tình hình kích cầu đầu tư ở Việt Nam hiện nay
2. Thành tựu và hạn chế của kích cầu đầu tư ở nước ta hiện nay
2.1. Thành tựu
2.2. Hạn chế
2.2.1. Tỷ lệ đầu tư tăng lên nhưng tốc độ phát triển kinh tế tổng thể khơng có sự
thay đổi căn bản.
2.2.2. Tình trạng đáng báo động về nợ đọng trong xây dựng.
3. Nguyên nhân của những hạn chế về tình hình kích cầu ở Việt Nam hiện nay
3.1. Những bất cập và tồn tại trong cơ chế đầu tư
3.2. Vấn đề quy hoạch đầu tư
3.3. Tình trạng phân tán dàn trải trong đầu tư
CHƯƠNG III
MỘT SỐ BIỆN PHÁP NHẰM TĂNG TÍNH HIỆU QUẢ CỦA CÁC NHÂN TỐ
ẢNH HƯỞNG ĐẾN CHI ĐẦU TƯ VÀ KÍCH CẦU ĐẦU TƯ Ở VIỆT NAM
I. NHỮNG THUẬN LỢI – THÁCH THỨC VÀ MỤC TIÊU ĐẦU TƯ CỦA
NƯỚC TA
1. Những thuận lợi khi tham gia đầu tư vào Việt Nam
2. Thách thức
3. Quan điểm của Đảng và mục tiêu đầu tư giai đoạn 2006-2010
II. MỘT SỐ ĐỊNH HƯỚNG HOẠT ĐỘNG ĐẦU TƯ VÀ KÍCH CẦU ĐẦU

TƯ 2008 ĐỐI VỚI VIỆT NAM
1. Về môi trường pháp lý
Page 2 of 49


2. Về công tác quản lý nhà nước
3. Về thủ tục hành chính
4. Về kết cấu hạ tầng
5. Về lao động, đào tạo nguồn nhân lực
6. Về xúc tiến đầu tư
7. Một số vấn đề khác

LỜI NÓI ĐẦU
Trong thời điểm hiện nay nền kinh tế thế giới nói chung và Việt Nam nói riêng
đang có những diễn biến hết sức phức tạp. Nền kinh tế đứng đầu thế giới Hoa kỳ đang
rơi vào thời kì suy thối, gây ảnh hưởng không nhỏ lên nền kinh tế thế giới.
Trong phạm vi một đề tài tiểu luận nhỏ, nhóm thảo luận chúng em xin trình bày một
khía cạnh của nền kinh tế đó là “ Các nhân tố ảnh hưởng đến chi đầu tư và tình hình
kích cầu đầu tư ở nước ta ”. trong bài viết có đề cập tới những vấn đề lí luận chung về
đầu tư, chi đầu tư, các nhân tố ảnh hưởng đến chi đầu tư; những vấn đề lí luận chung về
kích cầu đầu tư; đưa ra số liệu về các nhân tố ảnh hưởng đến chi đầu tư,tình hình kích
cầu đầu tư, từ đó rút ra được phương hướng giải quyết nhằm tăng tính hiệu quả của các
nhân tố ảnh hưởng đến chi đầu tư và tình hình kích cầu đầu tư ở nước ta.
Do cịn có những hạn chế về thời gian cũng như kiến thức nên bài viết của nhóm
chúng em khơng thể tránh khỏi sai sót, nhóm thảo luận chúng em rất mong nhận được
những góp ý của thầy để bài viết được hồn thiện hơn.
Nhóm thảo luận chúng em xin chân thành cám ơn PGS.TS Từ Quang Phương cùng
các thầy cô giáo trong bộ môn đầu tư đã giúp đỡ chúng em thực hiện bài viết này.

Page 3 of 49



CHƯƠNG I
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CHUNG VỀ CÁC NHÂN TỐ ẢNH HƯỞNG
ĐẾN
CHI TIÊU ĐẦU TƯ VÀ KÍCH CẦU ĐẦU TƯ
I. KHÁI NIỆM CHUNG VỀ ĐẦU TƯ
1. Khái niệm đầu tư
Trong thực tế có rất nhiều khái niệm về đầu tư, tuy nhiên để hiểu về đầu tư một
cách chính xác nhất, khách quan nhất, ta phải xem xét khái niệm về đầu tư trên nhiều
giác độ.
Khi đề cập đến khía cạnh rủi ro, bất trắc, đầu tư cịn được hiểu với nhiều khía cạnh
rộng lớn hơn. A.Samuelson đã quan niệm rằng “ Đầu tư là đánh bạc với tương lai”;
hay khi đề cập đến vai trò của tiết kiệm, các tác giả của “ Kinh tế học của sự phát triển”
lại cho rằng: “Đầu tư là một sự hy sinh tất cả các nguồn lực của cải của ngày hơm nay
để hy vọng đạt được những lợi ích lớn hơn trong tương lai”.
Đứng trên góc độ tài chính thì đầu tư là các hoạt động chi tiêu để chủ đầu tư nhận
về một chuỗi các dịng thu nhằm hồn vốn và sinh lời.
Trên góc độ người tiêu dùng: đầu tư là hạn chế tiêu dùng trong hiện tại để thu được
một mức tiêu dùng lớn hơn trong tương lai.
Như vậy, khái niệm đầu tư được hiểu khá rộng. Tuy nhiên đầu tư được quan niệm
một cách hoàn chỉnh phải bao gồm những đặc trưng sau: đầu tư bao giờ cũng là một
quá trình; khi tiến hành đầu tư nhà đầu tư luôn phải chỉ ra các nguồn lực ban đầu. Mỗi
công cuộc đầu tư đều nhằm đạt tới những lợi ích cụ thể xác định, trong đầu tư có yếu tố
trễ thời gian và độ rủi ro của kết quả đầu tư thường rất cao.
Hội tụ đầy đủ các đặc trưng trên, theo nghĩa rộng có thể hiểu đầu tư theo khái niệm
sau: Đầu tư là việc sử dụng phối hợp các nguồn lực ở hiện tại vào một hoạt động nào
đó nhằm đạt được một hay một tập hợp mục đích của nhà đầu tư trong tương lai.
Nguồn lực hiện tại có thể là: tiền, của cải vật chất hay sản phẩm của trí tuệ, “ hoạt động
” ví dụ như: gửi tiền tiết kiệm, xây dựng nhà xưởng, mua máy móc thiết bị, và học

hành,… “ các kết quả ” là: sự gia tăng về mặt tài sản, tài chính, tài sản vật chất, tài sản
trí tuệ và nguồn nhân lực. Kết quả có thể là một hoặc một tập hợp các mục tiêu của chủ
Page 4 of 49


đầu tư. Mục tiêu của chủ đầu tư đôi khi không chỉ là nhằm đạt được các kết quả về kinh
tế mà còn các mục tiêu về xã hội, đạo đức, chính trị.
2.Phân loại đầu tư
Thơng thường người ta phân loại đầu tư theo các tiêu thức sau:
Theo bản chất các đối tượng đầu tư, hoạt động đầu tư được chia thành đầu tư cho
các đối tượng vật chất; đầu tư tài chính và đầu tư cho các tài sản trí tuệ. Trong đó, đầu
tư cho các đối tượng vật chất tạo điều kiện ban đầu và có vai trị quyết định trong việc
làm tăng tiềm lực của nền kinh tế.
Theo cơ cấu tái sản xuất, đầu tư bao gồm đầu tư theo chiều rộng và đầu tư theo
chiều sâu. Đầu tư theo chiều rộng là đầu tư nhằm mở rộng sản xuất bằng kỹ thuật công
nghệ lặp lại như cũ. Đầu tư theo chiều sâu là đầu tư để mở rộng sản xuất bằng kỹ thuật
và công nghệ tiến bộ và hiệu quả hơn. Hai loại đầu tư này luôn bổ sung cho nhau và tuỳ
theo yêu cầu sản xuất, khả năng tài chính của chủ đầu tư mà lựa chọn đầu tư theo chiều
rộng, chiều sâu hoặc đầu tư kết hợp cả chiều rộng và chiều sâu cho phù hợp.
Theo phân cấp quản lý, đầu tư được phân chia thành ba nhóm: Đầu tư các dự án
nhóm A, nhóm B, nhóm C tuỳ theo quy mơ, theo tính chất phức tạp về mặt kỹ thuật và
mức độ quan trọng của hoạt động đầu tư. Cách phân loại này có thể giúp phân cấp quản
lý trong đầu tư nhằm nâng cao hiệu quả quản lý hoạt động đầu tư.
Theo chủ thể đầu tư, đầu tư được phân thành đầu tư của các cá nhân, đầu tư của
Nhà nước và đầu tư của các doanh nghiệp. Cách phân loại này cho chúng ta thấy được
những đóng góp và vai trị của từng chủ thể kinh tế trong quá trình đầu tư phát triển nền
kinh tế đất nước.
Theo quan hệ quản lý của chủ đầu tư, đầu tư bao gồm: đầu tư gián tiếp và đầu tư
trực tiếp. Nếu trong đầu tư gián tiếp, quyền sở hữu vốn tách rời với quyền sử dụng vốn
thì trong đầu tư trực tiếp, chủ đầu tư lại trực tiếp bỏ vốn, sử dụng vốn và quản lý vận

hành các kết quả đầu tư.
Theo bản chất và phạm vi lợi ích mà đầu tư mang lại ta có thể chia đầu tư thành đầu
tư tài chính, đầu tư phát triển, đầu tư thương mại.
- Đầu tư tài chính là loại đầu tư trong đó người có tiền bỏ tiền ra cho vay hoặc mua
các chứng chỉ có giá để hưởng lãi suất định trước( gửi tiết kiệm hoặc mua trái phiếu)
hay lãi suất và quyền sở hữu công ty tuỳ thuộc vào hoạt động sản xuất kinh doanh của
Page 5 of 49


công ty phát hành (cổ phiếu). Đầu tư vào tài sản tài chính khơng trực tiếp tạo ra tài sản
mới cho nền kinh tế mà chỉ làm tăng tài sản tài chính của tổ chức, cá nhân đầu tư.
- Đầu tư phát triển (ĐTPT): khác với đầu tư tài chính và đầu tư thương mại, ĐTPT
là hoạt động bỏ vốn và sử dụng các nguồn lực khác trong hiện tại nhằm tạo ra những
tài sản mới, năng lực sản xuất mới và duy trì những tiềm lực sẵn có của nền kinh tế.
ĐTPT là hoạt động cơ bản của đầu tư và chỉ có ĐTPT trực tiếp tạo ra tài sản mới cho
nền kinh tế mà không phải là hiện tượng chu chuyển tài sản giữa các thành viên trong
nền kinh tế.
- Đầu tư thương mại là loại đầu tư trong đó người có tiền bỏ tiền ra để mua hàng
hố và sau đó bán với giá cao hơn nhằm thu lợi nhuận do chênh lệch giá. Loại đầu tư
này cũng không tạo ra tài sản mới cho nền kinh tế. Tuy nhiên đầu tư thương mại có tác
dụng thúc đẩy q trình lưu thơng của cải vật chất do ĐTPT tạo ra.
Với những đặc điểm riêng, ĐTPT là hoạt động đầu tư có ý nghĩa quan trọng khơng
chỉ đối với chủ đầu tư mà cịn với tồn bộ nền kinh tế. ĐTPT được coi là “chìa khóa”
của tăng trưởng và phát triển kinh tế.
II. CHI ĐẦU TƯ VÀ CÁC NHÂN TỐ ẢNH HƯỞNG ĐẾN CHI ĐẦU TƯ
1. Khái niệm chi đầu tư
Chi đầu tư thực chất là các khoản chi cho nhu cầu đầu tư của các doanh nghiệp, các
đơn vị kinh tế, bao gồm đầu tư vốn cố định và đầu tư vốn lưu động.
Nguồn chi cho đầu tư được lấy từ khả năng tiết kiệm của các khu vực trong nền
kinh tế, trong đó đầu tư khơi phục tức là đầu tư bù đắp giá trị hao mòn được lấy từ quỹ

khấu hao, còn đầu tư thuần túy được lấy từ các khoản tiết kiệm của khu vực nhà nước,
doanh nghiệp, và các hộ gia đình.
2. Các nhân tố ảnh hưởng đến chi đầu tư
2.1. Lợi nhuận kỳ vọng
Theo lý thuyết của Keynes, một trong hai nhân tố cơ bản ảnh hưởng đến quyết định
đầu tư của doanh nghiệp là lợi nhuận kỳ vọng(cái mong muốn có được). Nếu lợi nhuận
kỳ vọng cao sẽ thu hút các nhà đầu tư bỏ vốn ra sản xuất kinh doanh nhằm thu về khoản
lợi nhuận cao đó, bởi lợi nhuận chính là động lực đầu tư. Lợi nhuận cao sẽ kích thích
nhu cầu đầu tư.
Page 6 of 49


Nếu lợi nhuận kỳ vọng lớn hơn lãi suất tiền vay đầu tư thì nhà đầu tư mở rộng quy
mơ tức chi đầu tư tăng vì niềm tin của mọi người vào doanh số bán hàng và sản lượng
trong tương lai. Với các yếu tố khác giữ nguyên, mức sản lượng tương lai được kỳ vọng
cao hơn sẽ làm tăng mức lợi nhuận tương lai được kỳ vọng và do vậy làm tăng cầu đầu
tư vào các trang thiết bị mới (mở rộng quy mô đầu tư, tăng vốn đầu tư(VĐT)). Do đó
tăng chi tiêu đầu tư hiện tại. Và ngược lại, nếu lợi nhuận kỳ vọng thấp và nhỏ hơn lãi
suất tiền vay đầu tư thì nhà đầu tư cắt giảm quy mô đầu tư tức giảm chi đầu tư mà thay
vào đó họ gửi tiền vào ngân hàng.
Theo lý thuyết Keynes, hiệu quả biên của vốn phụ thuộc vào tỷ suất lợi nhuận VĐT
của số tiền đầu tư mới. Do đó VĐT càng tăng thì hiệu quả biên của vốn giảm dần.
Để rõ hơn ta theo dõi bảng số liệu sau:

Thời kỳ
1
2
3
4
5


VĐT

Lợi nhuận

(triệu đồng)
100
120
140
160
180

Tỷ suất lợi nhuận VĐT Tỷ suất lợi nhuận biên

(triệu đồng)
6
9
11.5
13.5
15.3

( %)

(%)
6
7.5
8.2
8.4
8.5


VĐTi

: là vốn đầu tư thời kỳ i.

Πii

: là lợi nhuận thời kỳ i.

Tỷ suất lợi nhuận VĐT thời kỳ i

Πii

=

15
12.5
10
9

x 100

VĐTi
Πii - Πii-1
Tỷ suất lợi nhuận biên thời kỳ i

x

=

100


VĐTi - VĐTi-1

Tỷ suất lợi nhuận biên bằng 15% có nghĩa là khi VĐT tăng thêm 1 đồng thì lợi
nhuận tăng thêm 0,15 đồng. Như vậy giả sử lãi suất tiền vay đầu tư i = 9,5%/năm thì
đến thời kỳ 5 do tỷ suất lợi nhuận biên là 9% < 9.5% ( tức lợi nhuận kỳ vọng khi tăng
thêm 1đồng VĐT nhỏ hơn lãi suất tiền vay đầu tư). Do đó tại thời kỳ 5 nhà đầu tư quyết
định sẽ không chi cho đầu tư nữa.
Page 7 of 49


Từ bảng trên ta thấy : Tỷ suất lợi nhuận biên của VĐT giảm dần khi VĐT tăng
Ta có thể giải thích điều này theo lý thuyết Cung – Cầu :



Đứng trên phương diện cầu VĐT. Khi đầu tư tăng làm cho nhu cầu VĐT

cũng tăng theo, khiến giá cả của “hàng hoá vốn” cũng tăng (tức lãi suất tiền vay đầu tư
tăng). Giả sử các khoản chi phí sản xuất khác khơng đổi thì giá cả của một đơn vị sản
phẩm không đổi. Khi lãi suất tiền vay tăng lên thì chi phí tiền vay tăng lên như vậy làm
lợi nhuận thu được trên một đơn vị sản phẩm giảm. Như vậy, tổng lợi nhuận tạo ra
giảm và tỷ suất lợi nhuận biên VĐT giảm theo.



Đứng trên phương diện cung VĐT. Kết quả của việc tăng cung VĐT (mở

rộng quy mô đầu tư) thể hiện ở kết quả sản phẩm hàng hoá – dịch vụ cung cấp cho thị
trường tăng lên; khi cung về hàng hoá – dịch vụ tăng( giả sử các khoản chi phí sản xuất

khác khơng đổi) thì làm cho giá của một đơn vị sản phẩm giảm. Như vậy kéo theo là lợi
nhuận thu được trên một đơn vị sản phẩm giảm => Tổng lợi nhuận thu được giảm nên
tỷ suất lợi nhuận biên VĐT cũng giảm.



Đứng trên góc độ yêu cầu khi vốn đầu tư tăng: khi vốn đầu tư tăng thì phải

tăng lao động, tăng đối tượng lao động, tăng tài nguyên dẫn đến giá cả của các yếu tố
sản xuất tăng, trong khi giá cả sản phẩm khơng có khả năng tăng, vì thế lợi nhuận sẽ
giảm dẫn đến hiệu suất biên của vốn giảm dần.
Ngồi ra cịn có thể giải thích vấn đề này qua một số khía cạnh khác như năng suất
lao động cận biên giảm dần hoặc hiệu quả biên của vốn…Có thể thấy tỷ suất lợi nhuận
vốn đầu tư là một đại lượng rất quan trọng đối với quyết định của nhà đầu tư, tuy nhiên
nó lại là một đại lượng rất khó xác định, nguyên nhân là vì đặc tính của hoạt động đầu
tư mang độ trễ thời gian nhất định, chịu sự tác động của nhiều yếu tố khách quan,
không ổn định như điều kiện tự nhiên, chính tri, kinh tế xã hội…Do đó lợi nhuận có khi
thấp khi cao, tùy vào độ rủi ro mà nhà đầu tư phải đối mặt, rủi ro càng cao thì lợi nhuận
thu được càng lớn. Đây chính là sức hấp dẫn, là động lực thúc đẩy các nhà đầu tư bỏ
vốn ra đầu tư.
2.2. Lãi suất thực tế tiền vay
Lãi suất là một trong những biến số được theo dõi một cách chặt chẽ nhất trong nền
kinh tế, nó trực tiếp ảnh hưởng đến đời sống hàng ngày của mỗi người chúng ta và có
những hệ quả quan trọng đối với sức khoẻ của nền kinh tế. Nó tác động đến những
Page 8 of 49


quyết định cá nhân và quyết định kinh tế của các doanh nghiệp hoặc của các gia đình
như: chi tiêu hay để dành, mua nhà hay mua chứng khoán hay gửi vốn vào một tài
khoản tiết kiệm, doanh nghiệp dùng vốn để đầu tư mua thiết bị mới cho các nhà máy…

Theo Keynes, lãi suất không phải là khoản lợi tức cho việc nhịn tiết kiệm hoặc chi
tiêu, vì nếu một người tích trữ tiền mặt thì người đó khơng thu được món lãi nào dù
người đó vẫn tiết kiệm như trước đây.Theo ông “ lãi suất là khoản thù lao cho việc mất
khả năng chuyển hoán trong một khoảng thời gian nhất định”, là phần thưởng cho việc
từ bỏ giữ tiền mặt. Nếu khoản thù lao cho việc không sử dụng tiền mặt giảm xuống thì
tổng khối lượng tiền mà dân chúng muốn giữ lớn hơn mức cung tiền mặt, nếu lãi suất
được tăng lên thì có một số dư tiền mặt mà không ai muốn giữ.
Lãi suất là tỷ lệ phần trăm giữa tiền lãi và người đi vay phải trả cho người cho vay
tính trên số vốn góp ban đầu. Lãi suất thường gắn với một kỳ hạn nhất định.
Lãi suất thực tế là lãi suất có thời đoạn phát biểu mức lãi và kỳ hạn ghép lãi là trùng
nhau.
Lãi suất danh nghĩa là lãi suất mà thời đoạn phát biểu mức lãi và kỳ hạn ghép lãi
khơng trùng nhau.
L·i st tríc hÕt ¶nh hëng tíi chi phí sử dụng vốn và sau đó đến hiệu quả đầu t. Nếu
lÃi suất cao sẽ có ít dự án thoả mÃn tiêu chuẩn đánh giá hiệu quả khi đầu t. Tuy nhiên
nếu mức lÃi suất nhỏ hơn lÃi suất trên thị trờng vốn quốc tế và trong bối cảnh mở cửa thị
trờng vốn thì dòng VT lại chảy ra nớc ngoài chứ cơ hội đầu t trong nớc không gia
tăng.
Cú hai nhõn t nh hng n lói sut:
Th nht là khối lượng tiền tệ. Nếu khối lượng tiền tệ đưa vào lưu thơng tăng thì lãi
suất giảm, việc dùng lãi suất để điều chỉnh nền kinh tế cũng là một trong những chủ
trương của Keynes.
Thứ hai là sự ưa thích giữ tiền mặt( ưu tiên chuyển hốn). Keynes cho rằng sự ưa
chuộng tiền mặt là xu hướng có tính hàm số xác định lượng tiền mà dân chúng muốn
giữ khi biết trước lãi suất. Theo đó thì đây là cách thức mà lượng tiền tham gia vào nền
kinh tế. Sự ưa chuộng tiền mặt là do các động cơ tâm lí quyết định. Động cơ tâm lí
muốn giữ một phần tài sản dưới hình thức tiền tệ được Keynes gọi là thị hiếu lưu động.
Trên thực tế, lạm phát cũng có tác động tới lãi suất.
Page 9 of 49



Tỷ lệ lạm phát: lạm phát có thể là rủi ro tiềm tàng làm suy giảm hiệu quả đầu t.
Tuy nhiên nếu nền kinh tế có giảm phát thì cũng ảnh hởng không nhỏ tới đầu t.
Vỡ vy, ta cn phân biệt một số loại lãi suất sau:
Lãi suất danh nghĩa (hay lãi suất Coupon) là lãi suất được nêu lên trong các hợp
đồng tín dụng hay lãi suất được nêu lên trong thuộc tính của các loại chứng khốn.
Lãi suất hiệu quả là lãi suất mà nhà đầu tư thực sự được hưởng tính trên số vốn
thực sự cho vay hay đầu tư.
Lãi suất hoàn vốn là lãi suất hiệu quả mà nhà đầu tư thực sự được hưởng khi mua
và nắm giữ trái phiếu cho tới ngày đáo hạn. Làm cân bằng giá trị hiện tại của dòng thu
nhập với thị giá trái phiếu.
Lãi suất thực tế là lãi suất được tính dưới dạng hiện vật, nó là lãi suất danh nghĩa đã
được điều chỉnh để loại bỏ tác động do mức giá biến đổi gây nên, do đó nó phản ánh
chính xác hơn chi phí thật của việc vay tiền. Lãi suất thực tế có tính đến tác động của
lạm phát.
Xét phương trình Fisher:
Lãi suất danh nghĩa (i) bằng mức lãi suất thực tế (i r) cộng với lạm phát dự tính (Πie)
i = ir + Πie

=>

ir = i - Πie

Lãi suất thực tế bao gồm hai loại là lãi suất thực dự kiến (không thể âm) và lãi suất
thực thực hiện (có thể âm).
Các nhà đầu tư thường vay vốn để đầu tư và lãi suất phản ánh giá của khoản vay
mượn đó. Khi lãi suất thực tế tiền vay (chi phí thực tế việc vay vốn đầu tư) lớn hơn tỷ
suất lợi nhuận vốn đầu tư thì nhà đầu tư sẽ cắt giảm quy mơ(chi tiêu đầu tư giảm)và
ngược lại nếu lãi suất thực tế tiền vay nhỏ hơn tỷ suất lợi nhuận VĐT thì nhà đầu tư sẽ
mở rộng quy mô đầu tư hay tăng chi tiêu đầu tư.

Để hiểu rõ hơn vấn đề này ta theo dõi bảng số liệu sau:
Dự án
A
B
C
D
E

Vốn đầu tư
(tỷ đồng)
1
4
10
10
5

Tỷ suất
lợi nhuận/VĐT
1500
220
160
130
110

Chi phí trả lãi / 1000đ Lợi nhuận / 1000đ
Lsuất 10% Lsuất 5% Lsuất 10% Lsuất 5%
100
100
100
100

100
Page 10 of 49

50
50
50
50
50

1400
120
60
30
10

1450
170
110
80
60


F
G
H

15
10
20


90
60
40

100
100
100

50
50
50

-10
-40
-60

40
10
-10

Nếu lãi suất là 10% thì chủ đầu tư sẽ không đầu tư vào các dự án F, G, H vì các dự
án này đều chịu lãi suất lớn hơn tỉ suất lợi nhuận bình quân. Tuy nhiên khi lãi suất thực
tế hạ xuống 5% thì chủ đầu tư vẫn có thể đầu tư vào các dự án F và G nhưng vẫn không
thể đầu tư vào dự án H. Như vậy tỉ lệ lãi suất thực tế có ảnh hưởng đến việc tăng giảm
qui mô đầu tư.
Vậy các khoản chi tiêu cho đầu tư có mối quan hệ tỷ lệ nghịch với lãi suất thực tế.
Lãi suất thực tế cao hơn làm tăng chi phí của tư bản mà các doanh nghiệp đã đầu tư vào
nhà xưởng, thiết bị; làm tăng chi phí vay tiền để mua nhà và chi phí để đầu tư vào hàng
tồn kho. Khi lãi suất thực tế tăng lên tạo ra áp lực đối với các nhà đầu tư và họ sẽ buộc
phải suy nghĩ có nên tiếp tục đầu tư nữa hay gửi tiền vào ngân hàng.

Bên cạnh đó, ta cũng có thể thấy mối quan hệ chặt chẽ giữa lãi suất tiền vay thực tế,
tỷ suất lợi nhuận bình quân và quy mô vốn đầu tư. Ta thấy rằng lãi suất thực tế tiền vay
tỉ lệ nghịch nhu cầu VĐT ở mỗi mức lãi suất không đổi. Khi mức lãi suất càng thấp thì
số dự án thỏa mãn được yêu cầu của chủ đầu tư càng cao, làm cho khối lượng VĐT
tăng và ngược lại. Mối quan hệ giữa lãi suất thực tế tiền vay và tỉ lệ hoàn vốn cũng là
mối quan hệ tỉ lệ nghịch, khi lãi suất tiền vay tăng thì lợi nhuận trên một đơn vị sản
phẩm giảm và lợi nhuận trên VĐT sẽ giảm. Nếu lãi suất vốn vay nhỏ hơn IRR của dự
án thì nhà đầu tư sẽ mở rộng qui mô đầu tư và ngược lại.
Nếu mức lãi suất tăng từ i0 lên i1 thì thu nhập biên giảm dần dẫn đến giảm số lượng
dự án đầu tư, cầu đầu tư giảm từ I0 đến I1 làm qui mô VĐT giảm. Khi IRR tăng lên làm
đầu tư tăng kéo theo qui mô VĐT tăng, lãi suất giảm làm tiết kiệm giảm, đầu tư lại tăng
lên và ngược lại.

Page 11 of 49


IRR

i

IRRA
IRRB

Đường cầu về VĐT

i1

i
IRRC


i2

0

I1

I2

I

A
B
C
I
Mối quan hệ giữa lãi suất tiền vay và
tỉ lệ hoàn vốn IRR

Mối quan hệ giữa lãi suất và qui mô VĐT

Mối quan hệ tỷ lệ thuận giữa tỷ suất lợi nhuận trên VĐT và qui mô VĐT được thể
hiện trong hình sau :
IRR
π
IRR1
IRR2

0

I0


I1

I

Mối quan hệ giữa IRR và qui môVĐT

Hàm lợi nhuận π biểu hiện mối quan hệ tỷ lệ thuận giữa IRR và qui mô VĐT. Tỷ lệ
lãi suất thực tế của vốn vay là một trong những nhân tố quan trọng ảnh hưởng đến sự
tăng giảm qui mơ đầu tư, do đó để kích cầu đầu tư trong trường hợp này cần phải có
những cơng cụ lãi suất và chính sách tiền tệ thích hợp.
2.3. Sản lượng của nền kinh tế
Sản lượng nền kinh tế là yếu tố quan trọng quyết định đến tăng trưởng kinh tế.
Quan hệ giữa ĐTPT và tăng trưởng kinh tế là mối quan hệ có ý nghĩa đặc biệt quan
trọng đối với các quá trình phát triển. ĐTPT và tăng trưởng kinh tế có mối quan hệ
tương tác chặt chẽ với nhau. VĐT tăng thì về mặt lý thuyết sẽ dẫn đến gia tăng mức sản
Page 12 of 49


lượng kinh tế và tăng trưởng kinh tế cao sẽ làm cho khả năng tích lũy tăng và kéo theo
nguồn vốn để đầu tư sẽ tăng => chi đầu tư tăng.
Đầu tư

Hình 1: Minh hoạ mối quan hệ đầu tư và tăng trưởng kinh tế (sản lượng nền kinh tế)

GDP

Nhìn vào đồ thị trên cho thấy VĐT và sản lượng của nền kinh tế phát triển cùng
chiều, quy mô và mức độ biến động của VĐT và sản lượng kinh tế (tăng trưởng kinh tế)
tương đối song hành. Khi sản lượng sản phẩm tăng tức nền kinh tế tăng trưởng mạnh
sẽ tạo điều kiện để tăng quy mô VĐT. Nhưng đến một lúc nào đó tốc độ tăng trưởng

kinh tế tăng chậm hơn tốc độ tăng VĐT. Vì thế quan hệ giữa VĐT và tăng trưởng có
điểm nút hay điểm “ngưỡng”, nhà hoạch định chính sách ln cần biết điểm ngưỡng đó
là ở đâu và trị số tối đa khi nào để có những quyết định điều chỉnh mối quan hệ này cho
có lợi nhất, giảm thiểu VĐT nhưng vẫn có thể đạt được kết quả và hiệu quả mong muốn
nhất định.
Khi phân tích về mối quan hệ này chúng ta cần xem xét đến khái niệm số nhân đầu
tư. Số nhân đầu tư phản ánh mức sản lượng thay đổi bao nhiêu lần khi đầu tư thay đổi
một đơn vị.
Công thức:

k = ΔY / ΔI Y / ΔY / ΔI I

Trong đó

k

: số nhân đầu tư

∆I : mức gia tăng đầu tư
∆Y : mức gia tăng sản lượng
Từ phương trình trên ta có thể suy ra : ∆Y = k * ∆I
Như vậy ta thấy rõ rằng nếu đầu tư tăng 1 lần thì sản lượng tăng k lần.
Nguyên nhân của sự tăng sản lượng khi đầu tư tăng chính là ở quan hệ dây chuyền
giữa đầu tư và sản lượng. Một sự đầu tư sơ khởi đều kéo theo việc gia tăng bổ sung lao
Page 13 of 49


động, nguyên vật liệu, gia tăng tiêu dùng và việc làm từ đó làm tăng thu nhập cho chủ
đầu tư và cho những người khác. Việc gia tăng cầu lại làm tăng đầu tư mới. Gia tăng
đầu tư mới lại tạo ra việc gia tăng thu nhập mới. Cứ như vậy, với một lượng gia tăng

tổng hợp ban đầu, nó hình thành một chuỗi biến hóa giữa đầu tư và sản lượng mang tính
dây chuyền, mỗi một hoạt động đầu tư đều tạo ra nhiều sản phẩm mới cho xã hội. Đây
cũng chính là lí do vì sao khi tăng đầu tư thì sản lượng lại tăng theo cấp số nhân.
Lý thuyết số nhân của Keynes đã thể hiện vai trò rất quan trọng của đầu tư với tăng
trưởng và phát triển kinh tế. Kết luận cuối cùng của Keynes với lí thuyết này là : “ Đầu
tư tăng lên sẽ dẫn đến việc làm tăng lên và kết quả là tổng sản phẩm tăng lên ”.
Lý thuyết gia tốc đầu tư phản ánh mối liên hệ giữa tăng sản lượng sẽ làm tăng đầu
tư như thế nào. Tương quan giữa sản lượng và VĐT có thể được biểu diễn như sau:
x = Kt / Yt

(1)

=> Kt = x * Yt

(2) (x = const)

Kt : VĐT tại thời kỳ nghiên cứu
x : hệ số gia tốc đầu tư
Yt : sản lượng tại thời kỳ nghiên cứu
Như vậy, nếu x không đổi thì ở thời kì trước (t-1) giữa sản lựợng và đầu tư cũng có
mối quan hệ tương tự, tức là :

Kt-1 = x * Yt-1

(3)

Lấy (2) – (3) được Kt – Kt-1 = x * ( Yt - Yt-1 )
Hay

∆K


= x * ∆Y

I

= x * ∆Y

Trong đó, K là tổng vốn tư bản đầu tư (tổng nguồn lực) còn I chỉ là đầu tư thuần
(I>0) là phần gia tăng của vốn tư bản trong 2 thời kỳ và I = ∆K. Vậy đầu tư phụ thuộc
vào mức gia tăng của sản lượng đầu ra ∆Y. Nếu sản lượng tăng, đầu tư ròng lớn hơn 0.
Sản lượng càng tăng, đầu tư ròng sẽ tăng theo.
Mỗi sự biến động của sản lượng nền kinh tế đều kéo theo sự biến động cùng chiều
của quy mô VĐT. Tuy nhiên sự biến động của quy mô VĐT lớn hơn nhiều lần so với
sự biến động của sản lượng của nền kinh tế.
2.4. Đầu tư của Nhà nước
Ta biết rằng tổng VĐT xã hội bằng VĐT của Nhà nước cộng VĐT tư nhân.
Σ VĐTXH = VĐTNN +

VĐTTN

=> VĐTTN = Σ VĐTXH - VĐTNN
Page 14 of 49


Khi tổng VĐT xã hội tăng thì kéo theo VĐT của tư nhân tăng. Mặt khác, khi VĐT
nhà nước tăng thì cũng làm cho VĐT của tư nhân tăng lên v ngc li.
Tình hình thâm hụt ngân sách dn tới việc chính phủ đi vay nhiều n, điều này có
thể ¶nh hëng tíi møc l·i st c¬ b¶n cđa nỊn kinh tế và sau đó là chi phí vốn và hiệu quả
đầu t. Khi thõm ht ngõn sỏch nh nc, chính phủ phải dùng các chính sách để huy
động vốn và tích lũy vốn có thể bằng cách Chính phủ đi vay nợ như phát hành trái

phiếu chính phủ, đồng thời cùng với đó, chính phủ cắt giảm nguồn VĐT nhà nước chi
cho đầu tư. Làm cho mức lãi suất cơ bản của nền kinh tế tăng, điều này gây áp lực đối
với các nhà đầu tư, vì khi đó chi phi vốn tăng lên đồng thời hiệu quả đầu tư cũng cũng
giảm (có thể lãi suất lớn hơn tỷ suất lợi nhuận VĐT). Nên các nhà đầu tư sẽ cắt giảm
quy mô VĐT (nguồn VĐT tư nhân giảm) và chi tiêu đầu tư giảm.
Ngược lại viƯc nhµ níc qut định giành bao nhiêu % ngân sách để chi cho đầu t
phát triển cũng ảnh hởng không nhỏ tới đầu t. Bởi nó không chỉ trực tiếp tăng đầu t ở
các dự án của nhà nớc mà nó còn gián tiếp làm tăng những nguồn đầu t khác nữa. Vy
khi VĐT nhà nước tăng lên làm cho VĐT tư nhân cũng tăng theo. Nhà nước tăng chi
tiêu đầu tư gián tiếp làm tăng chi tiêu đầu tư trong tư nhân có thể do yếu tố kỳ vọng vào
mơi trường đầu tư ổn định và tốt; nhà đầu tư lạc quan trong nền kinh tế tăng trưởng
mạnh đang phát triển vững mạnh và được nhà nước đầu tư một cách đáng kể.
Giả sử VĐT nhà nước khơng đổi thì khi tổng VĐT xã hội tăng lên làm cho VĐT tư
nhân tăng lên và từ đó chi tiêu đầu tư của tư nhân cũng tăng lên. Và ngược lại VĐT xã
hội giảm làm giảm VĐT tư nhân và chi đầu tư giảm.
2.5.Chu kỳ kinh doanh
Chu kỳ kinh doanh là sự biến động của tổng sản lượng trong ngắn hạn xung quanh
đường xu thế của nó.
Đường xu thế của sản lượng là một tiến trình đều đặn của sản lượng dài hạn khi
mà những biến động trong ngắn hạn đã được tính bình quân.
Sản lượng xu thế tăng đều theo thời gian do tiềm năng sản xuất tăng. Sản lượng thực tế dao
động xung quanh đường xu thế này. Điểm A là trạng thái đình trệ, hay là đáy của chu kỳ. tại B nền
kinh tế bắt đầu phục hồi và tiếp tục đạt tới đỉnh chu kỳ tại điểm C. Tại C, nền kinh tế có mức sản
lượng cao nhất. Sau đó là một thời kỳ suy thoái cho tới khi nền kinh tế lại đình trệ tại E. Thường
mất khoảng 5 năm để nền kinh tế chuyển từ một điểm trong chu kỳ tới một điểm tương đương trong
chu kỳ tiếp ví dụ như A, E.
Page 15 of 49


Chu kỳ kinh doanh


Sản lượng

Sản lượng thực tế

C
E
A

B

Sản lượng xu thế

Thời gian

Trong thực tế, tổng sản lượng và năng suất không tăng trưởng đều. Trong một số
năm, chúng tăng trưởng nhanh, nhưng trong một số năm khác thì chúng lại giảm xuống.
Mặc dù chu kỳ khơng phải là hồn tồn diễn ra đều đặn nhưng có một khn mẫu biến
động gồm các giai đoạn đình trệ, phục hồi, bùng nổ và suy thối.
Vào thời kì đi lên của chu kì kinh doanh, cả nền kinh tế và các doanh nghiệp tư
nhân sẽ cần nhiều VĐT để mua sắm thêm các yếu tố đầu vào, tư liệu sản xuất để chuẩn
bị cho một chu kì sản xuất mới. Đối với các doanh nghiệp đã hoạt động một thời gian
thì cần phải có một lượng vốn nhất định dành cho mua sắm nguyên vật liệu cho quá
trình sản xuất mới, sửa chữa, thay thế máy móc, thiết bị hư hỏng, lắp đặt, mua sắm mới
trang thiết bị mở rộng sản xuất, trả lương cho người lao động… Đối với các doanh
nghiệp mới thành lập thì càng cần nhiều vốn để tạo lập cơ sở vật chất ban đầu, và vốn
để duy trì hoạt động sau đó. Khi chu kì kinh tế đang ở vào thời điểm đi xuống, nhu cầu
đầu tư của nền kinh tế cũng sẽ đi xuống theo vì đó là thời điểm cuối của mỗi chu kì sản
xuất. Các hãng sẽ khơng mua thêm máy móc, thiết bị hay nguyên vật liệu vì vẫn đủ các
yếu tố đầu vào cho q trình sản xuất.

Tuy nhiên khơng phải lúc nào sự tăng hay giảm chi tiêu đầu tư của các doanh
nghiệp cũng thuận chiều với xu hướng lên xuống của chu kì kinh doanh của nền kinh tế.
Bởi vì mặc dù nền kinh tế suy thoái nhưng các doanh nghiệp vẫn đầu tư phát triển sản
phẩm mới thay thế sản phẩm cũ đã mất chỗ đứng trên thị trường hoặc đã kết thúc chu

Page 16 of 49


trình sống, cần phải thay thế, hoặc cũng có một số doanh nghiệp đầu tư vào các thị
trường nước ngoài trong khi nền kinh tế của quốc gia đang trên đà suy thối.
Theo kinh tế học vĩ mơ, “ các biến động kinh tế thường được gọi là các chu kì kinh
tế hay chu kì kinh doanh ”, nhưng thuật ngữ này có phần khơng chính xác vì nó hàm ý
rằng các biến động kinh tế diễn ra theo qui luật và có thể dự đốn được. Nhưng trên
thực tế thì các biến động kinh tế thường diễn ra bất ngờ và khó dự đốn.
2.6. Lợi nhuận thực tế
Lợi nhuận thực tế cũng là một trong các yếu tố tác động đến quyết định qui mô đầu
tư của doanh nghiệp. Để làm sáng tỏ tác động của lợi nhuận thực tế đến qui mơ đầu tư,
ta đi tìm hiểu bản chất của lợi nhuận thực tế và nguồn VĐT của doanh nghiệp thơng
qua lí thuyết quĩ nội bộ đầu tư.
Ta đã biết lợi nhuận thực tế của doanh nghiệp là khoản còn lại của tổng doanh thu
sau khi đã trừ đi tổng chi phí và thuế mà doanh nghiệp phải nộp. Một phần lợi nhuận đó
được giữ lại khơng phân phối được gọi là lợi nhuận để lại( lợi nhuận không chia của
doanh nghiệp). Phần lợi nhuận để lại này cùng với các khoản trích khấu hao tài sản cố
định tạo thành quĩ nội bộ của doanh nghiệp.
Lợi nhuận thực tế cao, thu nhập giữ lại cho đầu tư sẽ lớn hơn và mức chi đầu tư sẽ
cao hơn. Ta biết rằng nguồn vốn huy động cho đầu tư của doanh nghiệp có thể huy
động từ nguồn nội bộ như thu nhập giữ lại, tiền trích khấu hao và nguồn từ bên ngồi
như đi vay các loại trong đó bao gồm cả việc phát hành trái phiếu và bán cổ phiếu.
Trong điều kiện bình thường, nguồn vốn tài trợ chủ yếu cho doanh nghiệp là nguồn vốn
nội bộ. Đối với vay nợ thì phải trả nợ ngồi ra cịn kèm theo rủi ro tín dụng: tức là khi

lãi suất trên thị trường biến động kéo theo chi phí cũng biến động vì vậy nếu vay nhiều
doanh nghiệp sẽ khơng có điều kiện để tái đầu tư. Mặt khác trường hợp nền kinh tế rơi
vào tình trạng khủng hoảng, suy thối thì doanh nghiệp có thể khơng trả nợ được và lâm
vào tình trạng phá sản. Cũng tương tự tăng VĐT vào phát hành cổ phiếu ra công chúng;
mặc dù là một biện pháp huy động vốn hấp dẫn nhưng đồng thời cũng phải chấp nhận
chia sẻ lợi ích; các lợi ích phi vật chất (quyền bỏ phiếu, tính minh bạch công khai hơn)
và tỷ phần tương đối của những người đã hoạt động trong doanh nghiệp cũng bị giảm.
Vì vậy theo lý thuyết quỹ đầu tư nội bộ này thì các doanh nghiệp thường chọn biên
pháp tài trợ cho đầu tư từ các nguồn vốn nội bộ và chính sự gia tăng của lợi nhuận sẽ
Page 17 of 49


làm cho mức đầu tư của doanh nghiệp lớn hơn. Khi lợi nhuận thực tế của doanh nghiệp
tăng tức là quỹ nội bộ tăng. Quỹ nội bộ là một yếu tố quan trọng để xác định lượng
VĐT mong muốn, vậy nên quỹ nội bộ tăng dẫn đến chi đầu tư tăng. Q trình tái đầu tư
được mở rộng. Cịn chính sách tài khố mở rộng khơng có tác dụng trực tiếp làm tăng
đầu tư theo lý thuyết này.
2.7. Các nhân tố thuộc mơi trường vĩ mơ khác
2.7.1. Chính sách và thể chế của Nhà nước.
Sự ổn định về chính trị cũng như những đảm bảo về mặt pháp lý liên quan đến
quyền sở hữu và tài sản có ý nghĩa quan trọng ảnh hưởng rất lớn đến ý định và hành vi
của nhà đầu tư. Theo báo cáo của WB năm 2006 thì mức độ tin tưởng của doanh nghiệp
vào tương lai kể cả độ tin cậy trong chính sách của nhà nước sẽ quyết định việc doanh
nghiệp có đầu tư hay không và sẽ tiếp tục đầu tư như thế nào. Cũng trong báo cáo này,
các doanh nghiệp và giới đầu tư tại các nước đang phát triển xếp sự bất định về chính
sách là mối lo ngại hàng đầu của họ. Theo đánh giá việc nâng cao khả năng tiên liệu
chính sách có thể làm tăng khả năng thu hút đầu tư mới lên hơn 30%.
Những quy định ưu đãi đầu tư, quy định ưu đãi giữa các ngành các cấp để giải
quyết nhanh các thủ tục hành chính đối với các dự án đầu tư, chính sách ưu đãi đầu tư
cho các dự án đổi mới công nghệ, đa dạng hóa các hình thức ĐTPT có ảnh hưởng lớn

đến việc các doanh nghiệp có ĐTPT hay khơng.
Các chính sách thuế tác động tới động cơ tích lũy tư bản theo nhiều cách khác nhau.
Đôi khi các nhà hoạch định chính sách thay đổi luật thuế để thay đổi hàm đầu tư và tác
động đến tổng cầu. Chúng ta xem xét hai điều khoản quan trọng nhất trong thuế công
ty, doanh nghiệp như thuế thu nhập doanh nghiệp và quy định về miễn giảm thuế đầu
tư.
Thuế thu nhập doanh nghiệp là một loại thuế đánh vào lợi nhuận của doanh
nghiệp. Doanh nghiệp phải chia sẻ với chính phủ một phần lợi nhuận của mình, nhưng
đối với họ đầu tư vẫn hợp lý, vẫn tiếp tục tăng đầu tư khi giá thuê tư bản (lãi suất thực
tế của vay vốn tư bản đầu tư) cao hơn chi phí tư bản và sẽ cắt giảm đầu tư khi giá thuê
thấp hơn chi phí tư bản. Tuy loại thuế đánh vào lợi nhuận theo cách này không làm thay
đổi động cơ đầu tư. Thuế thu nhập doanh nghiệp cản trở đầu tư vì các doanh nghiệp
phải trích khấu hao dựa trên chi phí lịch sử. Nghĩa là phần trích khấu hao được tính trên
Page 18 of 49


cơ sở giá mua tư bản ban đầu. Trong thời kỳ lạm phát, chi phí thay thế lớn hơn chi phí
lịch sử nên thuế thu nhập doanh nghiệp có xu hướng đánh giá thập chi phí khấu hao và
đánh giá quá cao lợi nhuận. thậm chí vẫn đánh thuế ngay cả khi lợi nhuận kinh tế của
doanh nghiệp bằng không, qua đó làm cho việc chi tiêu vào đầu tư trở nên ít hấp dẫn
hơn. Vì vậy, thuế thu nhập doanh nghiệp cản trở đầu tư.
Ngược lại, miễn thuế đầu tư là một quy định trong luật thuế nhằm mục tiêu
khuyến khích đầu tư. Phần miễn thuế đầu tư làm giảm mức thuế mà doanh nghiệp phải
nộp khi chi tiêu cho đầu tư. Do doanh nghiệp thu lại được một phần tiền chi tiêu để mua
hàng đầu tư mới nhờ mức thuế thấp hơn, quy định miễn thuế đầu tư làm giảm chi phí
đầu tư thực tế của mỗi đơn vị tư bản. Vậy miễn thuế đầu tư làm giảm chi phí đầu tư và
tăng chi tiêu đầu tư.
Ngồi ra việc nhà nước quyết đình giành bao nhiêu % ngân sách để chi cho ĐTPT
cũng ảnh hưởng không nhỏ tới đầu tư. Bởi nó khơng chỉ trực tiếp tăng đầu tư ở các dự
án của nhà nước mà nó cịn gián tiếp làm tăng những nguồn đầu tư khác nữa.

2.7.2. Thị trường các yếu tố đầu ra và đầu vào
Các nhân tố đầu vào của dự án là điều kiện quan trọng để xác định chi phí cho dự
án. Tiềm năng sẵn có về tài nguyên thiên nhiên, lao động, tài chính, có thể khai thác để
có thể chiếm lĩnh được chỗ trống trong sản xuất và tiến hành các hoạt động dịch vụ
trong nước và thế giới. Những lợi thế so sánh trên thị trường trong nước cũng như ngồi
nước. Sự phong phú hay khơng của các yếu tố đầu vào và giá cả của nó sẽ quyết định
lớn đến chi phí cũng như sản phẩm của dự án.
Thị trường các yếu tố đầu ra cuả dự án thì quan trọng hơn nhiều. Nó quyết định xem
dự án sẽ sản xuất cái gì, khối lượng là bao nhiêu.
Bởi vì khi phân tích về thị trường, chúng ta giả định đã biết chắc chắn về chi phí và
cầu thị trường,mỗi hãng đều có thể biết trước các hãng khác sẽ ứng xử như thế nào.
Trong thực tế, đời sống kinh doanh chứa đầy sự rủi ro và bất định. Bản chất của kinh
doanh là đầu tư hôm nay để tăng sản lượng trong tương lai, thực chất đó là việc dùng
vận may làm con tin cho những bấp bênh trong tương lai. Đời sống kinh tế là một vụ
kinh doanh đầy rủi ro, mạo hiểm.
2.7.3.Thị trường tài chính
Page 19 of 49


Hoạt động tài chính tác động đến mọi lĩnh vực của nền kinh tế: kinh tế, xã hội; mọi
phạm vi: vi mơ, vĩ mơ. Tài chính tác động mạnh mẽ đối với sự phát triển của nền kinh
tế quốc dân.
Sự thịnh vượng cũng như suy thoái của thị trường tài chính ảnh hưởng trực tiếp đến
việc huy động vốn của doanh nghiệp. Doanh nghiệp huy động vốn chủ yếu thông qua
hệ thống ngân hàng, thị trường chứng khoán và thị trường cho thuê tài chính. Việc các
thị trường này phát triển sẽ làm cho các doanh nghiệp dễ dàng hơn trong việc huy động
vốn và kích thích đầu tư. Hơn nữa khi thị trường tài chính phát triển có thể làm giảm
chi phí sử dụng vốn cho doanh nghiệp.
Nếu có suy thối ở một trong những “mắt xích” của thị trường tài chính thì do tác
động lây lan rất lớn của thị truờng này mà ảnh hưởng đến toàn bộ hệ thống tài chính

tiền tệ. Từ đó ảnh hưởng đến tồn bộ nền kinh tế như vậy nó ảnh hưởng đến mọi hành
vi của ĐTPT .
2.7.4. Rủi ro bất khả kháng
Khi quyết định bỏ vốn ra đầu tư luôn muốn tối thiểu hóa chi phí và đạt được lợi
nhuận tối đa, do vậy trong quá trình chuẩn bị đầu tư, các yếu tố bất định sẽ được tính
tốn đến. Song khơng phải lúc nào chúng ta cũng tính tốn hết được các rủi ro đầu tư có
thể xảy ra và ảnh hưởng của nó đến dự án đầu tư. Bản chất của kinh doanh là đầu tư
hôm nay để tăng sản lượng trong tương lai, thực chất đó là việc dùng vận may làm con
tin cho những bấp bênh trong tương lai. Đời sống kinh tế là một vụ kinh doanh đầy rủi
ro và mạo hiểm. Vì vậy các quyết định đầu tư phụ thuộc rất nhiều vào các dự đốn
mang tính chủ quan tiềm ẩn rủi ro, mặc dù các doanh nghiệp ln cố gắng phân tích
nhằm giảm thiểu rủi ro một cách tối đa.
Trong thực tế có thể chia làm hai loại rủi ro :
- Rủi ro có thể đa dạng hóa : là rủi ro có khả năng loại trừ được bằng cách đầu tư
vào nhiều dự án hoặc giữ các cổ phiếu của nhiều công ty khác nhau.
- Rủi ro khơng thể đa dạng hóa : là rủi ro khơng có khả năng loại trừ được bằng
cách trên.
Chỉ rủi ro khơng thể đa dạng hóa mới tác động đến chi phí cơ hội về vốn(chi phí
này phải cao hơn lãi suất) và phải đưa vào mức trả rủi ro, cần tính thêm mức trả rủi ro
vào tỷ lệ chiết khấu của dự án đầu tư. Khi kinh tế thị trường tăng trưởng mạnh, lợi
Page 20 of 49



×