Tải bản đầy đủ (.docx) (3 trang)

Phân tích đoạn trích: Chị em Thuý Kiều

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (72.52 KB, 3 trang )

Bi vn hay lp 9

Văn học trung đại Việt Nam

đề Bài
Phân tích đoạn trích: Chị em Thuý Kiều (Truyện Kiều của Nguyễn Du).

Bài làm
Đọc Truyện Kiều của Nguyễn Du không ai quên đợc chân dung của hai chị em Thuý
Kiều, Thuý Vân. Những bức chân dung chẳng những cho thấy cách hình dung ngời đẹp
của nghệ thuật thời xa, mà còn khơi gợi liên tởng tới số phận, tính cách của mỗi ngời.
Đồng thời hai bức chân dung cũng cho thấy nhiệt tình của nhà thơ Nguyễn Du đối với
mỗi ngời trong hai chị em.
Trình tự giới thiệu, miêu tả hai chị em của nhà thơ rất cổ điển: mở đầu giới thiệu
chung, sau đó tách ra miêu tả riêng, cuối cùng gộp lại kết luận chung.
Thuý Kiều và Thuý Vân trong Truyện Kiều là những nhân vật chính diện, nghĩa là
nhân vật lí tởng của tác giả. Do vậy, miêu tả chân dung cũng có nghĩa là ca ngợi sắc đẹp
và tài năng nhân vật. Sau câu giới thiệu vị trí hai chị em trong gia đình, nhà thơ liền ca
ngợi:
Mai cốt cách tuyết tinh thần,
Mỗi ngời một vẻ mời phân vẹn mời.
Đừng nghĩ rằng hễ bắt tay vào vẽ chân dung là ngời ta vẽ mặt, vẽ mắt, vẽ miệng
ngay đâu! Tác giả chú ý trớc hết đến cốt cách và tinh thần, sau đó mới dựa vào tinh
thần chung của mỗi ngời mà lựa chọn chi tiết cho bức chân dung. Mai cốt cách là cốt
cách, dáng vẻ thanh tú nh mai, tuyết tinh thần là tinh thần trong trắng, thanh sạch
nh tuyết. Khó mà nói tác giả chỉ ai là mai, chỉ ai là tuyết, chỉ biết rằng, nhìn chung thì:
Mỗi ngời một vẻ mời phân vẹn mời
Mấy chữ mời phân vẹn mời cho thấy ý thức lý tởng hoá cao độ của nhà thơ. Bởi ở
đời, mấy ai đà đ đợc mời phân vẹn mời?
Vẻ đẹp của Thuý Vân đợc giới thiệu vẻn vẹn trong bốn dòng, nhấn mạnh ở tính chất
trang trọng, đoan trang của nàng:


Vân xem trang trọng khác vời,
Khuôn trăng đầy đặn, nét ngài nở nang.
Hoa cời ngọc thốt đoan trang,
Mây thua nớc tóc tuyết nhờng màu da.
Khuôn mặt Thuý Vân tròn trịa, nh mặt trăng rằm, đầy đặn phúc hậu. Lông mày
nàng cong, đậm nh con ngài. Có ý kiến cho ngài là ngời, theo phơng ngữ Nghệ - Tĩnh,
nét ngài là chỉ vóc dáng ngời. Song ở đây cả ba dòng đều tả khuôn mặt: khuôn mặt, lông
mày, môi, tóc, nớc da, lẽ nào lại chen vào đó một nét tả ngời đợc? Lại nữa, mày ngài là
biểu trng chỉ lông mày phụ nữ, rồi chỉ phụ nữ nói chung, cũng nh biểu trng mày râu là
chỉ đàn ông vậy (xem Kho báu tri thức văn hoá Trung Quốc). Miệng nàng cời tơi thắm
nh hoa, tiếng nói trong và đẹp nh ngọc. Tóc nàng đen hơn mây và da trắng hơn tuyết.
Nét đẹp nào của nàng cũng hoàn hảo và đợc đem so với các thứ quý giá, cao đẹp trên đời,
tởng nh nàng là kết tinh của các thứ cao đẹp, quý giá ấy. Nhng tất cả các nét ®Đp Êy ®Ịu
biĨu hiƯn tÝnh c¸ch ®oan trang, phóc hËu mà đờng bệ, trang nghiêm và đứng đắn, một vẻ
đẹp khiến ngời ta kính nể, chấp nhận một cách êm ®Đp. ThËt vËy, cêi nãi “®oan trang” lµ
ngay thËt, ®óng mực, nghiêm trang, không quanh co, châm chọc làm ngời ta phật lòng.
Mây thua, tuyết nhờng cũng là vì vậy. Nguyễn Du không giới thiệu tài năng và tình
cảm của Thuý Vân, đặc biệt là không vẽ mắt cho nàng. Đây là điểm khác với chân dung
của Thuý Kiều đợc vẽ ra sau đó.
Nguyễn Du khắc hoạ chân dung Thuý Kiều trong mời sáu dòng còn lại. Nhà thơ giới
thiệu Kiều có vẻ đẹp sắc sảo, mặn mà, nghĩa là một vẻ đẹp nổi bật, có sức mạnh hấp
dẫn, cuốn hút ngời khác. Vẻ đẹp này thể hiện tập trung ở sắc và tài. Trớc hết, Nguyễn Du
vẽ đôi mắt, phần gợi cảm nhất trên khuôn mặt. Nhng đây là mét c¸ch vÏ kh¸c. NÕu nh


Bi vn hay lp 9

Văn học trung đại Việt Nam

khi vẽ Thuý Vân, nhà thơ có thể chỉ ra bộ phận này đẹp, bộ phận kia đẹp một cách dễ

dàng theo lối liệt kê, thì khi vẽ Thuý Kiều, nhà thơ chỉ vẽ lên một ấn tợng đẹp tổng hợp
mà không tài nào chỉ ra một cách cụ thể:
Làn thu thuỷ nét xuân sơn,
Hoa ghen thua thắm liễu hờn kém xanh.
Một hai nghiêng nớc nghiêng thành...
Suy ra có thể nói rằng Kiều có đôi mắt trong sáng, long lanh nh nớc mùa thu, đôi
lông mày thanh thanh nh nét núi mùa xuân, rất thanh tú và quyến rũ. Đôi môi đỏ thắm
và mái tóc xanh mợt. Nét xuân sơn là nét lông mày nh của nàng Trác Văn Quân xa:
Mày nh núi xa, đen nhạt. Nhng cái mà tác giả nhấn mạnh chỉ là làn và nét. Nguyễn
Du không chỉ chú ý tới nét đẹp mà còn chú ý tới ảnh hởng, tác động của vẻ đẹp. Đó là vẻ
đẹp của môi và tóc làm cho hoa ghen, liễu hờn. Và đôi mắt nàng, một khi nhìn ai, thì có
thể gây nên cảnh tai hoạ nghiêng nớc, nghiêng thành (theo điển tích ở bài ca ngợi ngời
đẹp của Lí Diên Niên, đời Hán). Ta có thể thấy khi tả sắc đẹp nàng Kiều, Nguyễn Du đặc
biệt nhấn mạnh tới tác động của đôi mắt. Chỉ đôi mắt là nói lên rõ rệt nhất cái sắc sảo,
mặn mà của nàng. Đó là bút pháp lựa chọn tinh vi, công phu của tác giả.
Thứ hai, Nguyễn Du đề cao sự toàn tài của Thuý Kiều, làm nền cho câu chuyện đố
tài (ghen với tài) về sau:
Thông minh vốn sẵn tính trời,
Pha nghề thi hoạ đủ mùi ca ngâm.
Cung thơng làu bậc ngũ âm,
Nghề riêng ăn đứt hồ cầm một trơng.
Kiều làm đợc thơ, vẽ đợc tranh, biết ca ngâm, thành thạo âm nhạc, đặc biệt là thạo
chơi hồ cầm (một thứ đàn tì bà nhập trăng). Tài của Thuý Kiều đợc giới thiệu lần lợt theo
lối liệt kê. Đáng chú ý là các chữ: Vốn sẵn tính trời, pha nghề, đủ mùi, làu, ăn
đứt, làm cho cái gì cũng có đủ và toàn vẹn. Ngoài ra Kiều còn có tài sáng tác nhạc, một
khúc đàn tì bà ai oán lấy tên Thiên bạc mệnh, ai nghe cũng buồn thảm, đau đớn. Các tài
của Kiều chung lại là tài biểu hiện tình cảm.
Nhng lời văn của Nguyễn Du đâu có đơn giản là lời giới thiệu tài năng của Kiều. Phải
nói rằng đó là lời tung hô nhân vật của mình thì đúng hơn. Khi thì ông đề cao đến tột
bậc: làu, ăn đứt cao vời, khi thì ông làm ra vẻ khiêm nhờng: pha nghề thi hoạ, tức là

nghề thêm, nhng lại chính là tài lỗi lạc nhất của Kiều tài thơ. Sau khi Kiều nằm mộng
làm thơ, đợc Đạm Tiên khen: Ví đem vào tập Đoạn trờng, Thì treo giải nhất chi nhờng
cho ai?. Đó là giọng ngợi ca, có phần tâng bốc của tác giả và của nhân vật khác dành cho
nhân vật thân yêu này của Nguyễn Du.
Mấy dòng giới thiệu chị em Thuý Kiều thuộc hạng phong lu cịng theo giäng ®Ị cao
®ã: “Phong lu rÊt mùc hång quân. Tuổi tuy đà đ đến độ lấy chồng (m ời lăm tuổi bắt đầu
cài cái kê (trâm) lên đầu, một dấu hiệu của con gái đến tuổi lấy chồng), nhng vẫn rất cao
giá, không săn đón, vồ vập một ai:
Êm đềm trớng rũ màn che
Tờng đông ong bớm đi về mặc ai
Êm đềm chỉ là t thế đài các, chứ không phải là vô cảm trớc những rạo rực của tuổi
trẻ. Mặc ai cũng là một thái độ điềm nhiên đài các, cao giá của ngời đẹp. Đây cũng là
cách ngợi ca kín đáo của nhà thơ.
Cả vẻ đẹp lẫn tài năng nhân vật, tuy đều đợc vẽ ra rất khéo léo, bút pháp đa dạng
(mỗi nhân vật có một cách vẽ riêng), nhng vẫn nằm trong khuôn khổ của nghệ thuật và
t tởng thời trung đại, với những đờng nét ớc lệ, cao quý, hoàn hảo, lí tởng. Nhng đáng chú
ý là dụng ý của tác giả khi phân biệt nét khác nhau của hai nhân vật, nhấn mạnh nét
này, bỏ qua nét kia, làm hiện rõ hai bức chân dung, dự báo số phận về sau của mỗi ngời.
Nàng Thuý Vân sẽ đợc hởng phúc đầy, còn nàng Thuý Kiều Kiều sẽ bị tạo hoá đố kị, ghen
ghét, làm cho đời nàng trôi dạt, tan nát suốt mời lăm năm. Đó là nghệ thuật tả ý tinh
vi, thâm thuý của thơ văn cổ điển.
Bố cục của đoạn thơ rất có lớp có lang mạch lạc, từ giới thiệu chung đến giới thiệu
riêng. Thuý Vân đợc giới thiệu trớc. Nếu giới thiệu sau thì mất thú, vì Vân kÐm KiÒu.


Bi vn hay lp 9

Văn học trung đại Việt Nam

Giới thiệu Thuý Kiều thì nói sắc đẹp trớc, vì tơng phản với Vân: Kiều càng sắc sảo mặn

mà, sau mới nói đến tài. Cuối cùng kết lại ở tuổi cập kê, đang đợi ngời xứng đáng. Đoạn
văn thể hiện một nghệ thuật giới thiệu, miêu tả bậc thầy.



×