MỤC LỤC
A. PHẦN MỞ ĐẦU.................................................................................................2
1. Tính cấp thiết của đề tài..................................................................................2
2. Mục đích nhiệm vụ nghiên cứu của đề tài......................................................3
3.Đối tượng, phạm vi nghiên cứu........................................................................4
4. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu......................................................4
5. Kết cấu của đề tài............................................................................................4
B. NỘI DUNG..........................................................................................................5
CHƯƠNG I : QUAN NIỆM CỦA HỒ CHÍ MINH VỀ DÂN CHỦ................5
1.1. Khái niện dân chủ.........................................................................................5
1.2. Dân chủ trong tư tưởng Hồ Chí Minh..........................................................5
1.3. Dân chủ trong các lĩnh vực đời sống xã hội.................................................6
CHƯƠNG II. SỰ VẬN DỤNG CẢ ĐẢNG TA TRONG XÂY DỰNG NHÀ
NƯỚC PHÁP QUYỀN XÃ HỘI CHỦ NGHĨA CỦA NHÂN DÂN, DO
NHÂN DÂN, VÌ NHÂN DÂN HIỆN NAY.......................................................11
CHƯƠNG III. MỘT SỐ GIẢI PHÁP TĂNG CƯỜNG PHÁT HUY DÂN
CHỦ Ở NƯỚC TA TRONG GIAI ĐOẠN HIỆN NAY..................................16
KẾT LUẬN............................................................................................................21
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO.............................................................22
1
A. PHẦN MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài.
Chủ tịch Hồ Chí Minh - Anh hùng giải phóng dân tộc, Danh nhân văn hóa
thế giới, Lãnh tụ vĩ đại của dân tộc ta, di sản tư tưởng của Người được thể hiện
sinh động với những nội dung khác nhau, trong đó vấn đề dân chủ được Người đặc
biệt quan tâm, bởi suốt cuộc đời hoạt động cách mạng của Chủ tịch Hồ Chí Minh
tất cả cũng vì tự do dân chủ và tiến bộ con người.
Xuất phát từ vị trí, vai trị của Nhân dân trong lịch sử: “Dân là quý nhất, là
quan trọng hơn hết”; “dân là gốc của nước”, “cách mạng là sự nghiệp của quần
chúng nhân dân”, với Chủ tịch Hồ Chí Minh, tin tưởng vào sức mạnh và trí tuệ của
Nhân dân, tơn trọng và phát huy quyền làm chủ của Nhân dân, vì Nhân dân tận
tâm, tận lực phục vụ là nguyên tắc tối cao, là sự nhất quán trong tư tưởng và hành
động của Người. Kế thừa và phát triển các quan điểm tiến bộ về dân chủ, Chủ tịch
Hồ Chí Minh lý giải khái niệm dân chủ một cách đơn giản, cô đọng, dễ hiểu, dễ
thực hiện và kiểm soát. Theo Chủ tịch Hồ Chí Minh, dân chủ có nghĩa “dân là
chủ”; đối lập với quan niệm “quan chủ”, thể hiện bản chất trong cấu tạo quyền lực
của xã hội. Việc lý giải này thường được Chủ tịch Hồ Chí Minh gắn với vấn đề
Nhà nước. Người nói: “Chế độ ta là chế độ dân chủ, tức là dân làm chủ”, “nước ta
là nước dân chủ, địa vị cao nhất là dân, vì dân là chủ”. Có thể coi quan niệm trên
đây là quan niệm chính thức về dân chủ và đó là quan niệm ngắn gọn nhất phản
ánh đúng bản chất và nội dung quan niệm của Người về dân chủ. Khơng những nói
một cách ngắn gọn súc tích, Người cịn giải thích thêm: “Nước ta là nước dân chủ;
bao nhiêu lợi ích đều vì dân; bao nhiêu quyền hạn đều của dân. Công việc đổi mới,
xây dựng là trách nhiệm của dân. Chính quyền từ xã đến Chính phủ do dân cử ra.
Đoàn thể từ Trung ương đến xã do dân tổ chức nên".
Trong mối quan hệ giữa dân và Đảng, Chủ tịch Hồ Chí Minh quan niệm:
2
dân là chủ và dân làm chủ thì Đảng, Chính phủ, cán bộ, đảng viên là đày tớ và làm
đày tớ cho dân. Dân chủ trong xã hội Việt Nam được thể hiện trên tất cả các lĩnh
vực chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội... Dân chủ thể hiện trên lĩnh vực chính trị là
quan trọng nhất, nổi bật nhất và được biểu hiện tập trung trong hoạt động của Nhà
nước. Chủ tịch Hồ Chí Minh coi dân chủ thể hiện ở việc bảo đảm quyền con người,
quyền công dân. Trong việc xây dựng nền dân chủ ở Việt Nam, Chủ tịch Hồ Chí
Minh chú trọng tới việc xây dựng Đảng với tư cách là Đảng cầm quyền, Đảng lãnh
đạo Nhà nước, lãnh đạo toàn xã hội. Xây dựng Nhà nước của dân, do dân, vì dân.
Xây dựng Mặt trận với vai trị là liên minh chính trị tự nguyện của tất cả các tổ
chức chính trị - xã hội vì mục tiêu chung của sự phát triển đất nước.
Vì lý do trên, em chọn vấn đề: “Tư tưởng Hồ Chí Minh nhà nước dân chủ
và sự vận dụng của Đảng ta trong xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ
nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân hiện nay” làm đề tài tiểu luận
môn Lãnh đạo và quản lý hoạt động báo chí, xuất bản. Tuy có nhiều cố gắng trong
việc tìm tịi và nghiên cứu tài liệu, song về mặt nhận thức còn hạn chế, em tiểu
luận rất mong nhận được nhiều ý kiến đóng góp của thầy cơ để có thế tiến bộ hơn
trong bước đường học tập và nghiên cứu tiếp theo.
2. Mục đích nhiệm vụ nghiên cứu của đề tài
Qua việc vận dụng nghiên cứu mối quan hệ giữa lí luận và thực tiễn tư tưởng
Hồ Chí Minh về xây dựng nhà nước dân chủ và sự vận dụng của Đảng ta trong xây
dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì nhân
dân hiện nay, Từ đó đề ra các giải giải pháp nhằms khắc phục những hạn chế, và
đề xuất them những giải pháp tăng cường xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội
chủ nghĩa trong giai đoạn hiện nay.
3. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu.
Đây là một đề tài rộng được nhiều tác giả nghiên cứu. Tơi xin trình bày cơ
sở lý luận chung về dư luận xã hội, thực trang hiện nay. Từ đó tìm ra những mặt
3
tiêu cực, hạn chế còn tồn tại để đưa ra những giải pháp phù hợp.
4. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
4.1. Cơ sở lý luận
Đề tài được thực hiện trên cơ sở lý luận của chủ nghĩa Mác- Lênin, tư tưởng
Hồ Chí Minh, chủ trương và quan điểm của Đảng cộng sản Việt Nam về mối quan
hệ giữa cá nhân và xã hội, quan hệ giữa lợi ích cá nhân và lợi ích xã hội; về đấu
tranh khắc phục chủ nghĩa cá nhân, nâng cao đạo đức cách mạng; tham khảo và kế
thừa kết quả nghiên cứu của các cơng trình khoa học có liên quan đến đề tài của
các tác giả khác nhau.
4.2. Phương pháp nghiên cứu
Trong quá trình nghiên cứu, đề tài đã vận dụng phương pháp luận của chủ
nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử; phương pháp nghiên cứu tài
liệu; phương pháp phân tích – tổng hợp; phương pháp tổng kết rút kinh nghiệm;
phương pháp thống kê, logic,…để làm rõ thực trạng biểu hiện, rút ra kết luận phục
vụ mục đích nghiên cứu của đề tài.
5. Kết cấu của đề tài
Tiểu luận bao gồm: phần mở đầu; kết luận, danh mục ghi tài liệu tham khảo;
phần phụ lục và phần nội dung gồm có 3 chương
4
B. NỘI DUNG
CHƯƠNG I. QUAN NIỆM CỦA HỒ CHÍ MINH VỀ DÂN CHỦ
1.1. Khái niện dân chủ
Dân chủ là một hình thức tổ chức thiết chế chính trị của xã hội, trong đó thừa
nhận nhân dân là nguồn gốc của quyền lực. Trong học thuyết chính trị, dân chủ
dùng để mơ tả cho một số ít hình thức nhà nước và cũng là một loại triết học chính
trị. Mặc dù chưa có một định nghĩa thống nhất về dân chủ, có hai nguyên tắc mà
bất kỳ một định nghĩa dân chủ nào cũng đưa vào. Nguyên tắc thứ nhất là tất cả mọi
thành viên của xã hội (công dân) đều có quyền tiếp cận đến quyền lực một cách
bình đẳng và thứ hai, tất cả mọi thành viên (công dân) đều được hưởng các quyền
tự do được công nhận rộng rãi.
Theo định nghĩa trong từ điển, Dân chủ “là chính phủ được thành lập bởi
nhân dân trong đó quyền lực tối cao được trao cho nhân dân và được thực hiện bởi
nhân dân hoặc bởi các đại diện được bầu ra từ một hệ thống bầu cử tự do”. Theo
Abrham Lincoln, dân chủ là một chính phủ “của dân, do dân và vì dân”.
1.2. Dân chủ trong tư tưởng Hồ Chí Minh
Dân chủ là khát vọng mn đời của con người. Hồ Chí Minh quan niệm dân
chủ là “dân là chủ”. Khi xác định như thế, có lúc Hồ Chí Minh đem quan niệm
“dân là chủ” đối lập với quan niệm “quan chủ”. Đây là quan niệm được Hồ Chí
Minh diễn đạt ngắn, gọn, rõ, đi thẳng vào bản chất của khái niệm trong cấu tạo
quyền lực của xã hội. Mở rộng theo ý đó Hồ Chí Minh cịn cho rằng: “Nước ta là
nước dân chủ,, nghĩa là nước nhà do nhân dân làm chủ”, “Chế độ ta là chế độ dân
chủ, tức là nhân dân làm chủ”, “nước ta là nước dân chủ, địa vị cao nhất là dân, vì
dân là chủ”.
5
Nói tóm lại, quan niệm Hồ Chí Minh về dân chủ được biểu đạt qua hai mệnh
đề ngắn gọn: “Dân là chủ”, “Dân làm chủ”. Khi biểu đạt như thế, chúng ta có thể
hiểu rằng, dân là chủ, nghĩa là đề cập vị thế của dân; còn dân làm chủ, nghĩa là đề
cập năng lực và trách nhiệm của dân. Cả hai vế này luôn luôn đi đôi với nhau, và
thể hiện vị trí, vai trị, quyền và trách nhiệm của dân.
Quan niệm đó của Hồ Chí Minh phản ánh đúng nội dung bản chất về dân chủ.
Quyền hành và lực lượng đều thuộc về nhân dân. Xã hội nào đảm bảo cho điều đó
được thực thi thì đó là một xã hội thực sự dân chủ.
1.3. Dân chủ trong các lĩnh vực đời sống xã hội
1.3.1. Tư tưởng Hồ Chí Minh về dân chủ trong lĩnh vực chính trị
Trong thời đại của chúng ta, con người là một tài ngun, thậm chí là loại tài
ngun đặc biệt. Chính vì thế có thể nói, các nước đang phát triển với lợi thế về
nguồn nhân lực là những dân tộc có ưu thế. Nếu không phát huy được năng lực của
loại tài nguyên đặc biệt này thì các nước thế giới thứ ba khơng những khơng phát
triển mà thậm chí khơng tồn tại được. Tuy nhiên, cũng đã đến lúc các nước này
phải nhận ra rằng, sự đông dân, đồng thời, là một con dao hai lưỡi. Khơng có một
chế độ lãnh đạo hợp lý thì sự đơng dân là một gánh nặng. Nước Cộng hòa nhân
dân Trung Hoa là một ví dụ. Hơn một tỷ nhân dân Trung Quốc đã từng là gánh
nặng của nhà nước và đến nay vẫn thế; nhưng sau hơn 20 năm đổi mới thì sự đông
dân ấy đang trở thành một lợi thế. Chế độ chính trị giữ một vai trị cực kỳ quan
trọng trong việc giải quyết bài toán nhân lực này. Việt Nam cũng vậy. Do đó, nếu
khơng xây dựng chế độ dân chủ để tự do trở thành cảm hứng cơ bản khích lệ con
người tham gia một cách hiệu quả vào q trình cạnh tranh tồn cầu thì khơng thể
phát triển được.
Trong thời đại ngày nay, chúng ta phải trở thành thị trường vì chỉ có như vậy
6
mới có thể phát triển và làm tăng cả năng lực lẫn thu nhập của con người. Thu
nhập không tăng lên thì sức mua của cộng đồng khơng tăng và sức mua khơng tăng
thì chúng ta sẽ khơng có thị trường nào khác ngoài thị trường lao động đơn giản.
Tuy nhiên, cùng với sự phát triển nhanh chóng của khoa học kỹ thuật, những
ngành sản xuất đòi hỏi lao động giản đơn ít đi và thị trường lao động đơn giản sẽ
mất dần giá trị. Muốn nâng cao chất lượng của thị trường lao động thì phải đầu tư
vào giáo dục - đào tạo. Mặt khác, không thể tiếp tục chỉ vay mượn hay sử dụng đầu
tư nước ngoài để phát triển những nguồn nội lực. Những nhà nước phi dân chủ
khơng thể trốn tránh q trình dân chủ hóa xã hội. Người ta vẫn tưởng rằng, nhân
dân đang ủng hộ nhà nước bằng lao động của mình nhưng đến một lúc nào đấy,
các nhà nước phi dân chủ sẽ phải đối mặt với những cuộc cách mạng hay sự cướp
bóc dưới hình thức cách mạng. Những năm cuối thế kỷ XX, chúng ta đã chứng
kiến sự sụp đổ của các chế độ độc tài như Mohamed Suharto, Joseph Estrada,
Saddam Hussein... Rõ ràng, những phương pháp chun chính có thể kéo dài tuổi
thọ các thể chế chính trị độc tài nhưng khơng thể nào giúp nó tránh khỏi sự sụp đổ.
1.3.2. Tư tưởng Hồ Chí Minh về dân chủ trong lĩnh vực kinh tế
Lãnh đạo chính quyền thực hiện các chủ trương, nhiệm vụ phát triển kinh tế xã hội theo nghị quyết đại hội của đảng bộ, chi bộ xã và của cấp trên; phát triển
nông, lâm, ngư, diêm nghiệp, tiểu thủ công nghiệp và dịch vụ, tạo thêm việc làm
mới cho người lao động; không ngừng nâng cao đời sống vật chất và tinh thần của
nhân dân, động viên nhân dân làm tròn nghĩa vụ đối với Nhà nước; xây dựng nông
thôn giàu đẹp, văn minh.
Thực hiện nhiệm vụ cơng nghiệp hố, hiện đại hố nơng nghiệp, nơng thôn,
chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp, quản lý và sử dụng đất hợp lý, tích cực
chuyển đổi cơ cấu cây trồng, vật nuôi, áp dụng các tiến bộ khoa học kỹ thuật vào
sản xuất, tăng giá trị thu nhập trên một đơn vị diện tích; thực hiện nhiệm vụ xây
7
dựng cơ sở hạ tầng (điện, đường, trường, trạm...) theo phương châm Nhà nước và
nhân dân cùng làm; quản lý và sử dụng tốt các nguồn vốn vay, vốn nhân dân đóng
góp và các nguồn vốn khác; phát triển sự nghiệp văn hố, giáo dục, y tế, bảo vệ
mơi trường, thực hiện tốt các chính sách xã hội, xố đói, giảm nghèo.
1.3.3. Tư tưởng Hồ Chí Minh về dân chủ trong lĩnh vực văn hoá - xã hội
Về văn hoá
Tiếp tục mở rộng các hoạt động văn hoá, nhằm nâng cao đời sống văn hoá vui
tươi lành mạnh và trình độ văn hố của nhân dân để phục vụ nhiệm vụ củng cố
miền Bắc và đấu tranh thống nhất nước nhà. Tăng cường công tác xuất bản; chú
trọng xây dựng cơ sở đầu tiên cho nền điện ảnh Việt Nam; phát triển vững chắc
ngành sân khấu và ca vũ; lập thêm tủ sách và nhà văn hoá, câu lạc bộ ở các cơ sở
và tăng cường lãnh đạo sinh hoạt văn nghệ, văn hoá của quần chúng; đẩy mạnh và
lãnh đạo phong trào thể dục thể thao. Đồng thời phải nâng cao chất lượng của nền
văn học, nghệ thuật; đào tạo bồi dưỡng thêm nhiều tài năng mới, chú trọng khai
thác hơn nữa vốn cũ văn hoá dân tộc và tăng cường trao đổi văn hoá với các nước;
học tập kinh nghiệm các nước tiên tiến.
Về giáo dục
Tiếp tục đẩy mạnh phong trào thanh toán nạn mù chữ, đặc biệt chú trọng dạy
văn hoá cho các cán bộ cơ sở, có kế hoạch mở rộng phong trào học tập trong các
cơ quan, xí nghiệp, quân đội.
Đối với giáo dục phổ thông, chủ yếu là phát triển tuỳ theo khả năng, và nâng
cao chất lượng cấp 2 và 3, chú ý đào tạo và bồi dưỡng giáo viên, tăng cường số
lượng và chất lượng các sách giáo khoa, ban hành chính sách cụ thể đối với các
trường dân lập và tư thục, tăng cường lãnh đạo giáo dục miền núi, xúc tiến việc
8
nghiên cứu đặt chữ viết cho các dân tộc thiểu số, và có kế hoạch hướng dẫn các lớp
vỡ lịng.
Về đại học và chuyên nghiệp, cần củng cố những cơ sở đã có và phát triển
từng bước. Tăng cường việc giáo dục chính trị và tư tưởng chủ nghĩa Mác - Lênin,
ra sức bồi dưỡng và đào tạo giáo sư, chú ý rút kinh nghiệm cải tiến chương trình.
Xây dựng cơ sở nghiên cứu khoa học. Cải tiến việc bổ túc văn hố cho cán bộ cơng
nơng để đưa vào các trường đại học, chuyên nghiệp.
Về y tế
Mở rộng phong trào vệ sinh phòng bệnh, nâng cao chất lượng các cơ sở chữa
bệnh, kiện toàn việc đào tạo và bồi dưỡng cán bộ các cấp, cải tiến và tăng cường
việc sản xuất, nhập nội thuốc và sử dụng nguyên liệu trong nước. Đặc biệt chú ý
công tác y tế và vệ sinh ở miền núi, công tác bảo vệ sản phụ và hài nhi. Y tế công
trường, nông trường, xí nghiệp, cơ quan cần chú trọng để làm tốt hơn nữa nhiệm
vụ bảo vệ và bồi dưỡng sức khoẻ cho công nhân và cán bộ, nhất là phụ nữ. Việc
nghiên cứu đông y và sử dụng hợp lý, theo khả năng lực lượng đông y cũng như
học tập kinh nghiệm y học tiên tiến của các nước bạn và thế giới, cần được tổ chức
tích cực và chu đáo hơn, để xây dựng và phát triển nền y tế nhân dân.
Về lĩnh vực tơn giáo
Chính sách tơn giáo của Đảng và Nhà nước Việt Nam được xây dựng trên
quan điểm cơ bản của học thuyết Mác-Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh về tín
ngưỡng, tơn giáo và căn cứ vào đặc điểm tín ngưỡng, tơn giáo ở Việt Nam. Tư
tưởng nhất quán, xuyên suốt của Đảng và Nhà nước Việt Nam là tơn trọng quyền
tự do tín ngưỡng, tơn giáo của nhân dân; đồn kết tơn giáo, hịa hợp dân tộc. Tinh
thần đó được Đảng và Nhà nước Việt Nam thể hiện bằng hệ thống chính sách phù
9
hợp với từng giai đoạn cách mạng và đã có từ khi mới thành lập Đảng.
Trong quá trình lãnh đạo cách mạng Việt Nam, Đảng ta ln có quan điểm, thái
độ rõ ràng về tín ngưỡng, tơn giáo. Báo cáo chính trị tại Đại hội đại biểu tồn quốc
lần thứ VII của Đảng năm 1991 đã khẳng định: "Tín ngưỡng, tôn giáo là nhu cầu
tinh thần của một bộ phận nhân dân. Đảng và Nhà nước ta tôn trọng quyền tự do
tín ngưỡng và khơng tín ngưỡng của nhân dân, thực hiện bình đẳng, đồn kết
lương giáo và giữa các tơn giáo. Khắc phục mọi thái độ hẹp hịi, thành kiến, phân
biệt đối xử với đồng bào có đạo, chống những hành vi lợi dụng tôn giáo phá hoại
độc lập dân tộc và đoàn kết dân tộc, chống phá chủ nghĩa xã hội, ngăn cản tín đồ
làm nghĩa vụ cơng dân". Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên
chủ nghĩa xã hội cũng ghi rõ: "Tín ngưỡng, tôn giáo là nhu cầu tinh thần của một
bộ phận nhân dân. Thực hiện nhất qn chính sách tơn trọng và đảm bảo quyền tự
do tín ngưỡng, đồng thời chống việc lợi dụng tín ngưỡng để làm tổn hại đến lợi ích
của Tổ quốc và nhân dân".
Những quan điểm của Đảng ta từ ngày thành lập đến nay chứng minh rằng
Đảng coi quyền tự do tín ngưỡng là một nhu cầu quan trọng của con người, là một
trong những quyền cơng dân, quyền chính đáng của con người. Vì vậy, Đảng và
Nhà nước ta luôn luôn tôn trọng đức tin của đồng bào theo tín ngưỡng, tơn giáo
khác nhau; tôn trọng quyền được theo bất cứ tôn giáo nào cũng như quyền không
theo tôn giáo nào, mong muốn cho người dân theo tôn giáo được "phần hồn thong
dong, phần xác ấm no".
10
CHƯƠNG II. SỰ VẬN DỤNG CẢ ĐẢNG TA TRONG XÂY DỰNG NHÀ NƯỚC
PHÁP QUYỀN XÃ HỘI CHỦ NGHĨA CỦA NHÂN DÂN, DO NHÂN DÂN, VÌ
NHÂN DÂN HIỆN NAY
Các văn kiện của Đảng ta trước thời kỳ đổi mới hầu như chưa sử dụng thuật
ngữ “nhà nước pháp quyền”. Nhưng trên thực tế trong các bản Hiến pháp năm
1946, Hiến pháp năm 1959 và Hiến pháp năm 1980 (là những Hiến pháp ban hành
trước thời kỳ đổi mới) đã chứa đựng những đặc trưng, những giá trị phổ biến của
nhà nước pháp quyền. Đó chính là kết quả của việc vận dụng tư tưởng về nhà nước
kiểu mới của chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh vào thực tiễn cách
mạng Việt Nam.
Trong Văn kiện Đại hội ĐBTQ lần thứ VI của Đảng đã khẳng định “quản lý
nhà nước bằng pháp luật, chứ không phải bằng đạo lý” 7, đồng thời từng bước bổ
sung và hoàn chỉnh hệ thống pháp luật để bảo đảm cho bộ máy nhà nước được tổ
chức và hoạt động theo pháp luật.
Đến Đại hội ĐBTQ lần thứ VII, Đảng ta bổ sung nội dung: “Nhà nước Việt
Nam thống nhất ba quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp, với sự phân công rành
mạch ba quyền đó”8. Như vậy, qua hai kỳ Đại hội đầu tiên của Đảng từ thời kỳ đổi
mới, tư duy về đổi mới nhà nước theo hướng xây dựng mô hình nhà nước pháp
quyền của Đảng ta có những bước tiến quan trọng. Đến Hội nghị ĐBTQ giữa
nhiệm kỳ khóa VII (năm 1994) chủ trương xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội
chủ nghĩa được chính thức khẳng định và thuật ngữ “nhà nước pháp quyền” lần
đầu tiên được sử dụng trong Văn kiện của Đảng.
Xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa trong điều kiện chuyển
đổi từ nền kinh tế kế hoạch hóa tập trung, bao cấp sang nền kinh tế thị trường định
hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta là việc làm mới mẻ, chưa có tiền lệ trong lịch sử,
có nhiều việc phải vừa làm, vừa tìm tịi, rút kinh nghiệm. Do đó, trong Văn kiện
11
Đại hội ĐBTQ lần thứ VIII (năm 1996), Đảng ta coi xây dựng nhà nước pháp
quyền như một trong năm quan điểm cần quán triệt trong việc tiếp tục cải cách, đổi
mới nhà nước, xây dựng và hoàn thiện Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt
Nam. Đến Đại hội ĐBTQ lần thứ IX của Đảng, qua tổng kết những thành tựu
nghiên cứu lý luận, cũng như thực tiễn quá trình từng bước xây dựng nhà nước
pháp quyền, Đảng khẳng định “xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa
dưới sự lãnh đạo của Đảng” 9 là một nhiệm vụ có tính chiến lược và xun suốt,
trong “đẩy mạnh cải cách tổ chức và hoạt động của nhà nước, phát huy dân chủ,
tăng cường pháp chế”10.
Đến Văn kiện Đại hội ĐBTQ lần thứ X của Đảng (năm 2006), qua tổng kết
lý luận và thực tiễn 20 năm tiến hành sự nghiệp đổi mới, Đảng ta khẳng định: “...
nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân
dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản” 11 là một đặc trưng của mô hình chủ nghĩa xã
hội mà nhân dân ta đang xây dựng.
Sau quá trình cải cách, đổi mới “việc xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội
chủ nghĩa được đẩy mạnh, hiệu lực và hiệu quả hoạt động được nâng lên” 12. Tuy
nhiên, so với yêu cầu của Đảng thì việc tiếp tục xây dựng và hoàn thiện Nhà nước
pháp quyền xã hội chủ nghĩa vẫn là nhiệm vụ phức tạp và khó khăn đã đang đặt ra.
Đảng ta nhấn mạnh: “xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa chưa theo
kịp yêu cầu phát triển kinh tế và quản lý đất nước” 13; “Chưa chế định rõ, đồng bộ,
hiệu quả cơ chế phân cơng, phối hợp và kiểm sốt quyền lực nhà nước ở các cấp.
Tổ chức bộ máy và cơ chế hoạt động của các thiết chế cơ bản trong bộ máy nhà
nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa như Quốc hội, Chủ tịch nước, Chính phủ, hệ
thống tư pháp còn những điểm chưa thực sự hợp lý, hiệu lực, hiệu quả. Chưa khắc
phục được sự chồng chéo, vướng mắc về chức năng, nhiệm vụ giữa các thiết chế,
làm ảnh hưởng tới sự thống nhất quyền lực nhà nước và hiệu quả hoạt động của
Nhà nước”14. Vì vậy, Đảng nhấn mạnh cần “tiếp tục đẩy mạnh việc xây dưng Nhà
12
nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa thực sự là của nhân dân, do nhân dân và vì nhân
dân, do Đảng lãnh đạo”15.
Khẳng định xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa là một bước
đột phá trong tư duy về xây dựng nhà nước trong thời kỳ đổi mới của Đảng ta. Đó
là cơ sở chính trị cho việc tiếp tục đẩy mạnh việc nghiên cứu về nhà nước pháp
quyền và thúc đẩy việc đổi mới một cách căn bản, có hệ thống tổ chức và phương
thức hoạt động của nhà nước ở nước ta hiện nay, được thể hiện ở những nội dung
sau: một là, sửa đổi và tăng cường công tác xây dựng pháp luật để đảm bảo tính hệ
thống, đồng bộ, phù hợp với tình hình kinh tế - xã hội và yêu cầu của công cuộc
xây dựng đất nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa trong điều kiện hội nhập kinh
tế quốc tế; hai là, đổi mới căn bản thiết chế tổ chức và cơ chế hoạt động của Nhà
nước, sao cho toàn bộ tổ chức và hoạt động của Nhà nước dựa trên cơ sở pháp luật,
tuân thủ pháp luật, đồng thời thực hiện quản lý điều hành xã hội bằng pháp luật; ba
là, xây dựng các thiết chế cơ chế bảo đảm sự phân công và phối hợp giữa các cơ
quan nhà nước trong thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp. Tiến hành
những bước đổi mới căn bản đó vừa đáp ứng địi hỏi của nhà nước pháp quyền,
vừa giải quyết được những vấn đề bức xúc; khắc phục tình trạng chủ quan, tùy tiện
trong tổ chức và hoạt động, cũng như tình trạng chồng chéo, bỏ sót chức năng,
nhiệm vụ của các cơ quan nhà nước.
Do đó, để đảm bảo sự lãnh đạo một cách hiệu quả, Đảng ta phải đổi mới
phương thức lãnh đạo, trên cơ sở giải quyết đúng đắn quan hệ và chức năng giữa
Đảng và Nhà nước, cần phân định một cách khoa học, rõ ràng. Cụ thể, Văn kiện
Đại hội ĐBTQ lần thứ VI của Đảng đã đặt ra nhiệm vụ đổi mới sự lãnh đạo của
Đảng đối với Nhà nước. Đến nay, chúng ta đã đạt được một số kết quả quan trọng
trong đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng đối với Nhà nước. Tuy nhiên, kết
quả vẫn chưa đáp ứng yêu cầu đề ra, như Văn kiện Đại hội ĐBTQ lần thứ XII của
Đảng chỉ rõ: “Sự phân định giữa vai trò lãnh đạo của Đảng và vai trò quản lý, điều
13
hành của Nhà nước còn những nội dung chưa rõ; phương thức và cơ chế lãnh đạo
của Đảng đối với Nhà nước ở các cấp còn nhiều điểm chưa được chế định rõ và
phù hợp với nguyên tắc của Nhà nước pháp quyền. Tổ chức thực hiện pháp luật và
pháp chế xã hội chủ nghĩa chưa nghiêm”16.
Vì vậy, nhiệm vụ đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng đối với Nhà nước
vẫn được tiếp tục đặt ra. Trên cơ sở quán triệt tinh thần của chủ nghĩa Mác - Lênin
và tư tưởng Hồ Chí Minh, Đảng ta nhấn mạnh: “Hồn thiện thể chế, chức năng,
nhiệm vụ, phương thức và cơ chế vận hành, nâng cao hiệu lực, hiệu quả của Nhà
nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa” 17; “Tập trung rà soát, bổ sung, điều chỉnh, ban
hành mới, xây dựng đồng bộ hệ thống các quy chế, quy định, quy trình cơng tác để
tiếp tục đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng đối với hoạt động của hệ thống
chính trị. Khắc phục tình trạng Đảng bao biện, làm thay hoặc buông lỏng lãnh đạo
các cơ quan quản lý nhà nước”18; “Tiếp tục hoàn thiện chức năng, nhiệm vụ, quyền
hạn, tổ chức của Nhà nước theo quy định của Hiến pháp năm 2013, đáp ứng các
đòi hỏi của Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa trong điều kiện phát triển kinh
tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và hội nhập quốc tế”19.
Trong dự thảo Báo cáo chính trị trình Đại hội ĐBTQ lần thứ XIII của Đảng Đại hội tổng kết 35 năm thực hiện đường lối đổi mới - đã nhấn mạnh phải “Kiên
định và vận dụng, phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí
Minh” để “Tiếp tục xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa
Việt Nam của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân do Đảng lãnh đạo là nhiệm vụ
trọng tâm của đổi mới hệ thống chính trị. Nâng cao năng lực, hiệu lực, hiệu quả
hoạt động của Nhà nước. Xác định rõ hơn vai trị, vị trí, chức năng, nhiệm vụ và
quyền hạn của các cơ quan nhà nước trong việc thực hiện các quyền lập pháp, hành
pháp, tư pháp trên cơ sở các nguyên tắc pháp quyền, bảo đảm quyền lực nhà nước
là thống nhất, có sự phân cơng rành mạch, phối hợp chặt chẽ và tăng cường kiểm
soát quyền lực nhà nước. Xây dựng hệ thống pháp luật đồng bộ, thống nhất, khả
14
thi, công khai, minh bạch, ổn định, lấy quyền và lợi ích hợp pháp, chính đáng của
người dân, doanh nghiệp làm trọng tâm thúc đẩy đổi mới sáng tạo, bảo đảm yêu
cầu phát triển nhanh, bền vững”.
Xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của Nhân dân, do Nhân
dân, vì Nhân dân ở nước ta theo đúng tinh thần tư tưởng Hồ Chí Minh về nhà nước
pháp quyền là một q trình lâu dài, khó khăn và phức tạp, song nhất định sẽ thành
cơng. Với quyết tâm chính trị cao của Đảng ta và sự đoàn kết, đồng thuận của cả
dân tộc Việt Nam trong những năm qua, việc xây dựng Nhà nước pháp quyền xã
hội chủ nghĩa đã đạt được những thành tựu to lớn. Tuy nhiên, u cầu của thời kỳ
đẩy mạnh cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập quốc tế đang đặt ra cho toàn
Đảng và toàn thể nhân dân ta cần phải tiếp tục đẩy mạnh nghiên cứu, tổng kết, rút
kinh nghiệm trong q trình xây dựng và hồn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội
chủ nghĩa Việt Nam, vì mục tiêu “dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn
minh”./.
15
CHƯƠNG III. MỘT SỐ GIẢI PHÁP TĂNG CƯỜNG PHÁT HUY DÂN CHỦ Ở
NƯỚC TA TRONG GIAI ĐOẠN HIỆN NAY
Một là, tiếp tục phát huy dân chủ rộng rãi trong Đảng.
Để phát huy dân chủ trong Đảng đòi hỏi các cấp ủy, mỗi cán bộ, đảng viên,
nhất là người đứng đầu phải quán triệt sâu sắc, nhận thức đầy đủ và toàn diện hơn
nữa các quan điểm, đường lối của Đảng về phát huy dân chủ; đồng thời, đẩy mạnh
công tác tổng kết thực tiễn và nghiên cứu lý luận về phát huy quyền làm chủ; giải
quyết tốt mối quan hệ hữu cơ giữa “Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý, nhân dân
làm chủ”; tạo điều kiện cần và đủ để nhân dân làm chủ thực chất, hiệu quả.
Tiếp tục bổ sung các quy chế, quy định về dân chủ để thực hiện thống nhất
trong toàn Đảng. Trước hết, quy định rõ hơn Đảng phục vụ nhân dân, chịu sự giám
sát của nhân dân, chịu trách nhiệm trước nhân dân về những quyết định của mình.
Bổ sung quy định về phát huy dân chủ trong công tác cán bộ đi đôi với kiểm sốt
quyền lực trong cơng tác cán bộ. Đảng thống nhất lãnh đạo công tác cán bộ và
quản lý cán bộ. Bảo đảm nguyên tắc tập trung dân chủ, mọi quyết định về công tác
cán bộ phải được thảo luận tập thể và quyết định theo đa số. Công khai, minh bạch
về chỉ tiêu, về kế hoạch tuyển dụng, đào tạo, bồi dưỡng, quy hoạch cán bộ, thi
nâng ngạch, nâng bậc, xét danh hiệu thi đua, xét nâng hạng; tiêu chuẩn, điều
kiện, số lượng, cơ cấu, quy trình luân chuyển, điều động, bổ nhiệm, giới thiệu cán
bộ ứng cử. Thực hiện bỏ phiếu kín đối với những nội dung cần biểu quyết trong
cơng tác cán bộ, có quy chế cạnh tranh lành mạnh trong công tác cán bộ.
Mỗi cán bộ đủ điều kiện, tiêu chuẩn trong diện quy hoạch đều có cơ hội như
nhau để thể hiện phẩm chất, năng lực của mình trong tuyển dụng, tuyển chọn vào
các chức danh lãnh đạo, quản lý. Thực hiện bầu cử có số dư, bổ nhiệm cán bộ có
cạnh tranh, thơng qua thi tuyển hoặc bảo vệ chương trình hành động. Đi đôi với
16
phát huy dân chủ trong công tác cán bộ phải có quy định về kiểm sốt, giám sát
quan hệ lợi ích trong công tác cán bộ để công tác cán bộ thực sự khách quan, công
tâm. Tiếp tục thực hiện tốt chế độ Bộ Chính trị báo cáo cơng việc và hoạt động của
mình trước mỗi kỳ họp của Ban Chấp hành Trung ương; ban thường vụ báo cáo
công việc và hoạt động của mình trước mỗi kỳ họp cấp ủy; cấp ủy báo cáo trước tổ
chức đảng hoặc cơ quan bầu ra mình. Nâng cao chất lượng, hiệu quả quy định hoạt
động chất vấn và trả lời chất vấn trong sinh hoạt đảng, đưa hoạt động này thành
chế độ nền nếp.
Hai là, Đảng lãnh đạo Nhà nước thể chế hóa các quan điểm, đường lối của
Đảng về phát huy dân chủ thành chính sách, pháp luật và tăng cường xây dựng,
củng cố, hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do
nhân dân, vì nhân dân.
Trên cơ sở cụ thể hóa các quy định của Hiến pháp năm 2013, thể chế hóa
Nghị quyết Hội nghị Trung ương 6 khóa XII “Về tiếp tục đổi mới, sắp xếp tổ chức
bộ máy của hệ thống chính trị, tinh gọn, hoạt động hiệu lực, hiệu quả” để thực
hiện đổi mới tổ chức và hoạt động của Quốc hội, Chính phủ. Bộ máy phải được tổ
chức gọn nhẹ, rõ về chức năng, quyền hạn và trách nhiệm, tổ chức và hoạt động
của bộ máy nhà nước từ Trung ương đến địa phương phải tạo điều kiện để người
dân tiếp cận, dễ đối thoại, dễ kiểm tra, giám sát; huy động được tài năng, trí tuệ,
sáng tạo của người dân tham gia quản lý nhà nước và xã hội. Nhà nước phải bảo
đảm và phát huy được quyền làm chủ thực sự của người dân, nhất là quyền tham
gia xây dựng chính quyền, lựa chọn người đại diện cho mình và quyền sở hữu tài
sản hợp pháp. Mở rộng đối thoại giữa Nhà nước với người dân và doanh nghiệp
bằng nhiều hình thức, tăng cường trách nhiệm giải trình và lắng nghe nhân dân.
Tăng cường dân chủ ở cơ sở, mở rộng các hình thức dân chủ trực tiếp để
người dân tham gia công việc của Nhà nước một cách thiết thực, phù hợp. Các cơ
quan hành chính nhà nước, chính quyền các cấp tiếp tục nâng cao hiệu lực, hiệu
17
quả quản lý nhà nước, bảo đảm chính sách, pháp luật được thực thi có hiệu quả.
Tập trung chỉ đạo, điều hành thực hiện các mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội,
không ngừng nâng cao đời sống vật chất và tinh thần của các tầng lớp nhân dân,
thực hiện tốt chính sách an sinh xã hội. Đẩy mạnh cải cách hành chính, tạo điều
kiện thuận lợi để nhân dân thực hiện các thủ tục hành chính.
Ba là, Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các đồn thể chính trị - xã hội phát
huy vai trị, vị trí của mình theo quy định của Đảng và các văn bản pháp luật để
thực hiện tốt chức năng giám sát, phản biện xã hội, nhất là những vấn đề liên quan
đến phát huy dân chủ, đến quyền và lợi ích của các thành viên, đoàn viên, hội viên.
Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các đồn thể chính trị - xã hội thực hiện
quyền giám sát và phản biện xã hội của mình trên nhiều lĩnh vực, trong đó có lĩnh
vực phát huy dân chủ; vừa vận động, tập hợp, động viên các tầng lớp nhân dân, các
đoàn viên, hội viên của mình thực hiện tốt nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội,
quốc phòng - an ninh, vừa tham gia xây dựng Đảng, xây dựng chính quyền trong
sạch, vững mạnh. Động viên đội ngũ nhân sĩ, trí thức, các chuyên gia, nhà khoa
học tham gia góp ý xây dựng các văn bản quy phạm pháp luật, các đề án phát triển
kinh tế - xã hội quan trọng của đất nước. Tập hợp kịp thời các đề xuất, kiến nghị,
nguyện vọng chính đáng của đồn viên, hội viên, của cử tri để phản ánh cho Đảng,
Nhà nước xem xét lãnh đạo, chỉ đạo giải quyết.
Tham gia việc phát hiện, lựa chọn, giới thiệu những người đủ đức, đủ tài,
thật sự xứng đáng làm đại biểu nhân dân trong Quốc hội và hội đồng nhân dân các
cấp. Dưới sự lãnh đạo của các cấp ủy đảng, tăng cường chức năng giám sát có
trọng tâm, trọng điểm đối với các cơ quan hành chính nhà nước, chính quyền
các cấp và đội ngũ cán bộ, đảng viên, nhất là người đứng đầu. Trong tình hình hiện
nay cần tăng cường giám sát việc lãnh đạo và thực hiện Quy chế Dân chủ ở cơ sở,
việc tổ chức tiếp công dân, đối thoại với công dân và giải quyết đơn, thư khiếu nại,
tố cáo của cơng dân đối với chính quyền các cấp. Tăng cường công tác giáo dục,
18
nâng cao đạo đức công vụ và tinh thần trách nhiệm của công chức, viên chức với
nhân dân.
Bốn là, phát huy vai trò và trách nhiệm của người đứng đầu cấp ủy; chính
quyền các cấp và các cơ quan, đơn vị của cả hệ thống chính trị về phát huy dân
chủ xã hội chủ nghĩa.
Trong bối cảnh đẩy mạnh việc phát triển nền kinh tế thị trường định hướng
xã hội chủ nghĩa và chủ động, tích cực hội nhập quốc tế, một trong những yếu tố
quyết định đến chất lượng, hiệu quả của việc phát huy dân chủ, chính là vai trị của
người đứng đầu cấp ủy, chính quyền, các cơ quan, đơn vị trong cả hệ thống chính
trị. Ở đâu người đứng đầu có nhận thức sâu sắc, đầy đủ về quyền làm chủ của nhân
dân, về thực hiện Quy chế Dân chủ ở cơ sở và luôn luôn nêu gương về đạo đức, lối
sống, về thượng tôn pháp luật thì ở đó dân chủ được thực hiện tốt. Từng đồng chí
bí thư cấp ủy từ Trung ương đến cơ sở, lãnh đạo chủ chốt các cơ quan nhà nước,
chính quyền các cấp, các cơ quan, đơn vị phải thật sự phát huy dân chủ trong
Đảng, công khai, minh bạch trong điều hành của chính quyền, đề cao vai trị, tính
tiên phong, gương mẫu của cán bộ, đảng viên, chống quan liêu, cửa quyền, tham
nhũng, lãng phí và các hành vi xâm phạm quyền làm chủ của nhân dân. Trong thực
tiễn việc lựa chọn và bố trí người đứng đầu có đức, có tài, biết vận dụng một cách
sáng tạo những thành tựu của khoa học - công nghệ vào lãnh đạo, quản lý, biết tạo
ra môi trường dân chủ để phát huy trí tuệ, sáng tạo, đóng góp của đội ngũ cán bộ,
công chức, viên chức là hết sức quan trọng gắn với kết quả thực hiện nhiệm vụ
chính trị.
Theo quy định của Đảng, người đứng đầu các cấp, các ngành phải định kỳ
trực tiếp tiếp công dân, đối thoại với cơng dân; có như vậy mới nắm được và đủ
thẩm quyền chỉ đạo giải quyết kịp thời những kiến nghị, đề xuất hợp pháp, chính
đáng của nhân dân; đồng thời, chỉ đạo giải quyết đơn, thư khiếu nại, tố cáo của
công dân, không để phát sinh các “điểm nóng”, vụ, việc phức tạp kéo dài.
19
Năm là, lãnh đạo, chỉ đạo các cơ quan truyền thông làm tốt công tác tuyên
truyền, phổ biến các chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của
Nhà nước về phát huy dân chủ, tạo sự chuyển biến về nhận thức trong các tầng lớp
nhân dân.
Báo chí và các phương tiện truyền thơng đại chúng giữ vai trị đặc biệt quan
trọng trong việc phổ biến, truyên truyền sâu rộng các chủ trương, đường lối, nghị
quyết của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước. Nhân dân rất quan tâm đến
việc cơng khai các chế độ, chính sách liên quan trực tiếp đến nhân dân, như các
chính sách an sinh xã hội (việc làm, lao động, tiền lương, trợ cấp, bảo hiểm...).
Chính quyền các cấp phải cơng khai rộng rãi cho nhân dân biết các đề án quy
hoạch phát triển kinh tế - xã hội, quy hoạch đô thị, kết cấu hạ tầng, quy hoạch sử
dụng đất đai... Công khai để nhân dân biết, góp ý và giám sát việc tổ chức thực
hiện khi được cấp có thẩm quyền phê duyệt. Các cấp ủy đảng, chính quyền phát
huy vai trị của báo chí, các phương tiện truyền thơng đại chúng để phát động nhân
dân đấu tranh mạnh mẽ chống tham nhũng, tiêu cực. Trong điều kiện Đảng cầm
quyền, đấu tranh với những hiện tượng tiêu cực của những cán bộ, đảng viên có
chức, có quyền mà khơng sử dụng vũ khí cơng luận, khơng phát huy được vai trị
làm chủ của quần chúng thì khó có kết quả, hiệu quả. Từ đó, đấu tranh thực hiện
dân chủ, kịp thời phê phán những biểu hiện cực đoan, lợi dụng dân chủ để xun
tạc, kích động, lơi kéo quần chúng phục vụ cho “lợi ích nhóm”, lợi ích cá nhân vị
kỷ...; đồng thời, phải khắc phục, chấm dứt những việc làm mang tính dân chủ hình
thức trên các lĩnh vực của đời sống xã hội.
20