B GIO DC V O TO
TRNG I HC TY NGUYấN
NGUYN C HO
Xác định tỷ lệ mắc và thực trạng sử dụng
thuốc tự điều trị sốt rét cho ngời ngủ rẫy
tại xã Đak r măng, huyện Đak glong,
tỉnh Đak nông năm 2010
LUN VN THC S Y HC
Buụn Ma Thut, nm 2010
B GIO DC V O TO
TRNG I HC TY NGUYấN
NGUYN C HO
Xác định tỷ lệ mắc và thực trạng sử dụng
thuốc tự điều trị sốt rét cho ngời ngủ rẫy
tại xã Đak r măng, huyện Đak glong,
tỉnh Đak nông năm 2010
Chuyờn ngnh : Ký sinh trựng Cụn trựng
Mó s : 60 72 65
LUN VN THC S Y HC
NGI HNG DN KHOA HC : TS. H VN HONG
Buụn Ma Thut, nm 2010
Những chữ viết tắt trong luận văn
ACT : Trị liệu artemisin phối hợp
(Artemisinin based combination Therapy)
BNSR : Bệnh nhân sốt rét
CI 95% : Khoảng tin cậy 95% (Confidence Interval 95%)
DCTD : Di cư tự do
DHA : Dihydroartemisinin
KAP : Knowlegde - Attitude - Practice
KST : Ký sinh trùng
KSTSR : Ký sinh trùng sốt rét
MT-TN : Miền Trung-Tây Nguyên
NVYT : Nhân viên y tế
PPQ : Piperaquin
P.f : Plasmodium falciparum
P.v : Plasmodium vivax
PCSR : Phòng chống sốt rét
PH : Phối hợp (P.f +P.v)
SL : Số lượng
SR : Sốt rét
SRLH : Sốt rét lưu hành
SRLS : Sốt rét lâm sàng
SRAT : Sốt rét ác tính
TDSR : Tiêu diệt sốt rét
TVSR : Tử vong sốt rét
WHO : Tổ chức y tế thế giới
XN : Xét nghiệm
YTTB : Y tế thôn bản
1
Biểu ñồ trong luận văn
Biểu ñồ 3.1. Tỷ lệ nhiễm KST SR ë cộng ñồng d©n ngñ rÉy
Biểu ñồ 3.2. Tỷ lệ giao bào và lách sưng qua ñiều tra tại ñiểm nghiên cứu
Biểu ñồ 3.3. Cơ cấu KST SR ở cộng ñồng dân ngủ rẫy
Biểu ñồ 3.4. Tỷ lệ biểu hiện sốt ở các trường hợp nhiễm KSTSR
Biểu ñồ 3.5. Tỷ lệ nhiễm KSTSR theo giới.
Biểu ñồ 3.6. Tỷ lệ ñến nhận thuốc tự ñiều trị của người dân ngủ rẫy
Biểu ñồ 3.7. Tỷ lệ các loại thuốc tự ñiều trị người dân nhận khi ngủ rẫy
Biểu ñồ 3.8. Tỷ lệ nam và nữ ñến nhận thuốc tự ñiều trị khi ngủ rẫy
Biểu ñồ 3.9. Nơi ñến nhận thuốc tự ñiều trị sốt rét của người dân khi ñi ngủ rẫy
Biểu ñồ 3.10. Nguyên nhân không uống thuốc tự ñiều trị ñủ liều
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các dữ
liệu và kết quả trong Luận văn là trung thực và chưa từng được công bố
trong bất kỳ công trình nghiên cứu nào khác.
Ký tên
Nguyễn Đức Hảo
1
ĐẶT VẤN ĐỀ
Bệnh sốt rét vẫn là một bệnh xã hội phổ biến ở nhiều nước trên thế giới
và những vùng nhiệt ñới như Việt Nam, ảnh hưởng lớn ñến sức khỏe con
người và thiệt hại to lớn về kinh tế, xã hội [23], [34], [36], [50], [51].
Hiện nay tình hình sốt rét nhiều vùng trên thế giới giảm, nhưng nguy cơ
mắc sốt rét ở một số khu vực có ảnh hưởng của xung ñột, ñói nghèo, ñặc biệt
tại các vùng có dân giao lưu với rừng hoặc có hoạt ñộng ñi rừng, ngủ rẫy là
rất ñáng quan tâm [8], [12], [30], [36], [39] .
Chương trình phòng chống sốt rét ở Việt Nam từ 1991 ñến nay mặc dù
có những thành công ñáng kể trong việc khống chế sự gia tăng cũng như giảm
thiệt hại do ảnh hưởng của bệnh sốt rét ñến sức khỏe con người, nhưng công
tác phòng chống sốt rét vẫn tiếp tục ñối mặt với một số khó khăn và thách
thức [23], [34], [36].
Trong những năm qua, tỷ lệ mắc sốt rét và tử vong do sốt rét ở Việt
Nam ñã giảm ñáng kể. Tuy vậy, kết quả phòng chống sốt rét là chưa bền vững
và bệnh sốt rét vẫn còn là vấn ñề y tế quan trọng và ñe doạ sức khỏe của
người dân vùng rừng núi, ñặc biệt ở vùng có dân di biến ñộng, ñi rừng, ngủ
rẫy. Di biến ñộng dân cư kết hợp với các yếu tố tự nhiên khác góp phần làm
cho sự lan truyền sốt rét vẫn tiếp tục duy trì một cách dai dẵng ở nhiều nơi,
ñồng thời làm cho sốt rét quay trở lại ở một số ñịa phương mà trước ñó không
còn sốt rét [24], [34], [36].
Theo thống kê của Viện Sốt rét KST-CT Trung ương, số bệnh nhân sốt
rét tăng từ 60.426 ca mắc năm 2008 lên 60.867 ca mắc năm 2009; số chết do
sốt rét năm 2009 tăng 1 ca so với năm 2008 (từ 25 ca tăng lên 26 ca tử vong),
số ký sinh trùng sốt rét ñược xác ñịnh năm 2009 là 16.130 ca tăng 42% so với
năm 2008 (11.355). Các số liệu trên cho thấy tình hình sốt rét có chiều hướng
2
gia tăng trở lại, nguy cơ dịch sốt rét có thể xảy ra nếu không có các biện pháp
khống chế tích cực [36]
So sánh với khu vực khác, công tác phòng chống bệnh sốt rét của miền
Trung-Tây Nguyên vẫn có nhiều khó khăn hơn. Tại khu vực này, năm 2009
số bệnh nhân sốt rét tăng 14,61%, tử vong tăng 2 ca, số ký sinh trùng sốt rét
tăng 55,72% so với năm 2008. Nhiều vùng ở khu vực miền Trung-Tây
Nguyên do các khó khăn về màng lưới y tế, giao lưu biên giới, di biến ñộng
dân số, hoạt ñộng ñi rừng, ngủ rẫy ñó làm cho tình hình sốt rét một số vùng
của khu vực không ổn ñịnh, có diễn biến phức tạp [32], [33], [34].
Một số nghiên cứu về sốt rét trong thời gian gần ñây cho thấy nhóm có
nguy cơ mắc sốt rét cao là những người thường xuyên có hoạt ñộng và ngủ
trong rừng, trong rẫy. Số tử vong và mắc bệnh do sốt rét sốt rét ở những
người ngủ rừng, ngủ rẫy chiếm tỷ lệ ñáng kể trong tổng số ca tử vong và bệnh
nhân sốt rét hàng năm trên toàn quốc. Các nghiên cứu mới ñây ở miền Trung
ñã chứng minh rằng những người thường xuyên ngủ trong rừng có nguy cơ
nhiễm sốt rét cao hơn 2-4 lần so với những người khác và mức ñộ tiếp xúc
giữa người với véc tơ sốt rét trong rừng cao hơn khoảng 10-20 lần so với
trong khu dân cư [10], [13], [26], [37].
Hoạt ñộng phun tồn lưu và tẩm màn với hoá chất diệt muỗi là các biện
pháp chính ñược sử dụng ñể phòng chống véc tơ sốt rét ở Việt Nam. Cả hai
biện pháp này ñều có hiệu quả cao trong phòng chống sốt rét cho những
người sinh sống cố ñịnh ở khu vực dân cư. Ngược lại, ñể phòng chống sốt rét
cho những người thường xuyên ngủ rừng, rẫy thì cả phun tồn lưu và tẩm màn
là rất khó thực hiện vì ở trong rừng họ thường ngủ trong những ngôi lều tạm
bợ hoặc ngủ ngoài trời. Vì vậy, cần phải tìm kiếm biện pháp phòng chống
khác, vừa ñơn giản vừa hiệu quả và phù hợp cho nhóm ñối tượng ngủ rừng,
ngủ rẫy.
3
Cấp thuốc tự ñiều trị sốt rét ñã ñược chương trình Quốc gia phòng
chống sốt rét ñề xuất từ năm 2003 nhằm hạn chế tử vong do sốt rét khi người
dân ở xa cơ sở y tế không có khả năng tiếp với hệ thống ñiều trị [2], [3], [4].
Tuy nhiên, cho ñến nay thực trạng sử dụng thuốc tự ñiều trị như thế nào
thì chưa ñược ñánh giá ñầy ñủ. Đề tài : “Xác ñịnh tỷ lệ mắc sốt rét và thực
trạng sử dụng thuốc tự ñiều trị sốt rét cho người ngủ rẫy tại xã Đak R
Mang, huyện Đak Glong, tỉnh Đak Nông năm 2010” là rất cần thiết trong
giai ñoạn hiện nay nhằm 2 mục tiêu:
1. Xác ñịnh tỷ lệ mắc sốt rét của người dân ngủ rẫy tại xã Đak R Mang,
huyện Đak Glong, tỉnh Đak Nông năm 2010.
2. Đánh giá thực trạng sử dụng thuốc tự ñiều trị sốt rét cho người ngủ
rẫy tại xã Đak R Mang, huyện Đak Glong, tỉnh Đak Nông năm 2010.
4
Chương 1
TỔNG QUAN TÀI LIỆU
1.1. Tình hình sốt rét và những khó khăn của công tác PCSR trên thế giới
hiện nay
Theo báo cáo của Tổ chức y tế thế giới (TCYTTG-WHO-2008), hiện
nay trên thế giới có khoảng 247 triệu ca mắc bệnh sốt rét (SR) trong số 3,3 tỷ
người sống trong vùng nguy cơ mắc bệnh, nguyên nhân của 1 triệu người
chết, phần lớn là trẻ em dưới 5 tuổi. Năm 2008 có 109 nước có sốt rét lưu, 45
nước thuộc khu vực Châu Phi-WHO. Các biện pháp kiểm soát bệnh sốt rét
tổng hợp ñang triển khai hiện nay bao gồm tẩm màn với hóa chất tồn lưu kéo
dài, hóa trị liệu phối hợp kết hợp với phun tồn lưu trong nhà và ñiều trị dự
phòng cho phụ nữ có thai [50], [51].
Mặc dù ñã có sự hỗ trợ rất lớn về màn tẩm, ñặc biệt cho Châu Phi,
nhưng vẫn còn lâu nữa mới ñáp ứng ñược cho toàn thế giới.
Việc cung cấp thuốc sốt rét thông qua các dịch vụ y tế công cộng ñã
tăng ñáng kể nhưng sự tiếp cận với ñiều trị, ñặc biệt với các thuốc phối hợp
(Artemisinin based combination Therapy-ACT) vẫn còn khó khăn.
Kết quả ñiều tra hộ gia ñình tại 18 quốc gia Châu Phi cho thấy chỉ 34%
hộ có 1 màn tẩm hóa chất, 23% trẻ em và 27% phụ nữ có thai ngủ màn, 38%
trẻ em sốt ñược ñiều trị với thuốc sốt rét nhưng chỉ có 3% với các thuốc ACT;
18% phụ nữ có thai ñược ñiều trị dự phòng. Chỉ có 5 quốc gia Châu Phi báo
cáo ñộ bao phủ phun tồn lưu bảo vệ cho 70% dân số trong vùng nguy cơ.
Ngoài Châu Phi, ñộ bao phủ của can thiệp khó ñánh giá ñược bởi vì các ñiều
tra hộ gia ñình không ñược thực hiện thường xuyên, các biện pháp bảo vệ chỉ
nhằm vào ñối tượng nguy cơ cao, Chương trình phòng chống sốt rét quốc gia
5
không báo cáo ñầy ñủ về chẩn ñoán và ñiều trị ở các cơ sở y tế tư nhân [50],
[51].
Trong khi mối liên kết giữa can thiệp và tác ñộng của kiểm soát sốt rét
không rõ ràng, ít nhất có 7/45 nước ở Châu Phi nơi có giám sát tốt và ñộ bao
phủ cao ñã làm giảm 50% hoặc hơn số mắc và chết vào năm 2006/2007 so với
năm 2000.
Báo cáo cũng cho thấy, trong 22 quốc gia khác số ca mắc sốt rét giảm
hơn 50% trong khoảng thời gian 2000-2006. Tuy nhiên cần có các ñiều tra cụ
thể hơn nữa ñể xác nhận tại 29 quốc gia này có các biện pháp kiểm soát bệnh
hiệu quả ñể giảm gánh nặng bệnh vào năm 2010 [51]
Mặc dù chương trình tiêu diệt sốt rét (TDSR) trong những năm ñầu có
những thành công ñáng kể, nhưng công cuộc chống bệnh SR ñã gặp những
thách thức và những khó khăn mới cản trở chương trình này. Chiến lược
phòng chống sốt rét (PCSR) mặc dù ñó khống chế số mắc và tử vong do sốt
rét nhưng hiện nay vẫn gặp nhiều khó khăn.
Các khó khăn trong PCSR hiện nay là :
- Khó khăn về chuyên môn kỹ thuật: P.falciparum kháng chloroquin và
ña kháng với hóa liệu pháp chống SR [19], [20], [23], [44], [48]. Muỗi
Anopheles kháng hóa chất diệt, thay ñổi sinh lý sinh thái, trú ẩn ngoài nhà,
nhưng ñốt máu trong nhà. Kể từ 1960 khi P.falciparum kháng chloroquin
ñược công bố tại Nam Mỹ (Brasil), Đông Dương (Thái Lan, Việt Nam) thì
hiện tượng kháng lan rộng ngày càng nhanh. Về kháng hóa chất của muỗi
Anopheles, 1946 chỉ có 2 loài Anopheles kháng DDT nhưng 1991 có 55 loài
kháng hóa chất. Trong số 55 loài kháng có 53 loài kháng với DDT, 27 loài
kháng với phospho hữu cơ, 17 loài kháng carbamate và 10 loài với
6
pyrethroides, 16 loài cho thấy kháng với 3 hoặc 4 loại hóa chất. Hiện tượng
kháng của Anopheles xuất hiện ở cả Châu Á, Châu Phi và Châu Mỹ.
- Khó khăn về kinh tế, xã hội, tài chính: Do thiên tai, dịch bệnh, chiến
tranh, và nền sản xuất chậm phát triển ở những quốc gia có SR, ñặc biệt là ở
các nước chậm phát triển và ñang phát triển ñã khiến thu nhập của nhiều quốc
gia còn rất thấp, thiếu kinh phí cho PCSR. Tình hình kinh tế, xã hội bất ổn,
thay ñổi môi trường sinh thái với những phương án phát triển kinh tế phổ biến
khắp mọi nơi nhất là ở các nước ñang phát triển. Thủy lợi, nông nghiệp trồng
rừng làm thay ñổi môi trường, vi khí hậu biến ñổi những vùng trước ñây
không có SR hoặc ít nay lại quay trở lại. Sự di biến ñộng dân cư, chiến tranh,
di dân ñi khai hoang, kinh tế mới, lấn chiếm rừng, du canh du cư của ñồng
bào các dân tộc, khách du lịch, tìm trầm ñãi vàng khi không ñược bảo vệ làm
cho tình hình SR càng thêm nghiêm trọng. Nhiều nước phải chịu chấp nhận
SR quay trở lại.
- Kinh tế của nhiều quốc gia còn nghèo, thu nhập bình quân của người
dân còn thấp, môi trường sinh thái thay ñổi do chiến tranh, di biến ñộng dân
cư, du lịch, du canh, du cư của ñồng bào các dân tộc, khai thác lâm khoáng
sản ñược ñầu tư thực hiện ở nhiều vùng, nhất là ở các nước ñang phát triển,
nhưng việc thực hiện các biện pháp PCSR chưa ñược chủ ñộng, kém hiệu quả
làm cho tình hình SR càng thêm nghiêm trọng do ñó bệnh SR ñã quay trở lại
tại nhiều vùng, lãnh thổ của nhiều quốc gia trên thế giới .
- Hệ thống y tế, ñặc biệt y tế cơ sở còn thiếu và yếu, cán bộ làm công
tác vệ sinh phòng dịch cũng như PCSR của ñịa phương không ñủ về số lượng
và chưa ñạt về chất lượng. Đối với bệnh SR, cán bộ y tế cơ sở còn nhiều khó
khăn trong chẩn ñoán và ñiều trị, chỉ dựa chủ yếu vào triệu chứng lâm sàng ñể
chẩn ñoán, không có xét nghiệm (XN) hoặc XN chưa kịp thời ñể phát hiện
KSTSR trong máu của bệnh nhân, ñặc biệt khi gặp những trường hợp bệnh
7
SR có triệu chứng lâm sàng không ñiển hình thì rất khó khăn trong việc chẩn
ñoán và ra quyết ñịnh ñiều trị [15] .
- Hiện nay, một trong những khó khăn mà chương trình phòng chống
sốt rét các nước trên thế giới trong ñó có cả Việt Nam ñang gặp khó khăn ñó
là các biện pháp can thiệp áp dụng cho dân di biến ñộng (di cư tự do, ñi rừng,
ngủ rẫy). Các biện pháp thường quy áp dụng với cộng ñồng dân ổn ñịnh hầu
như không có hiệu quả ñối với những ñối tượng này. Hơn nữa, việc tiếp cận
với những ñối tượng này rất khó, người dân khi ñi rừng ngủ rẫy lại xa cơ sở y
tế nên việc chăm sóc sức khỏe cho họ là khó thực hiện ñược [23], [50], [51]
1.2. Tình hình sốt rét và những khó khăn trong chương trình PCSR tại
Việt Nam và khu vực miền Trung- Tây Nguyên:
1.2.1. Tình hình sốt rét những năm gần ñây.
Việt Nam ở trong vùng khí hậu nhiệt ñới gió mùa, thuộc Đông Nam Á,
ña số diện tích là rừng, núi ñồi có ñiều kiện thuân lợi cho bệnh SR phát triển,
có nhiều ñịa phương ở trong vùng sốt rét lưu hành (SRLH). Trong chiến lược
tiêu diệt sốt rét toàn cầu, chương trình TDSR ñã ñược tiến hành ở miền Bắc
và diệt trừ SR tại miền Nam từ 1958-1975. Sau ngày miền Nam ñược giải
phóng, cả nước thống nhất tiến hành thanh toán SR từ 1976-1990 và chuyển
sang chiến lựơc PCSR từ năm 1991 cho ñến nay [23].
So với các khu vực khác, miền Trung - Tây Nguyên (MT-TN) là khu
vực có sốt rét lưu hành nặng nhất so với các khu vực khác của cả nước, số
BNSR và TVSR của khu vực này thường chiếm tỷ lệ rất cao. Năm 1990,
thống kê cho thấy tại khu vực MT-TN có 137.435 bệnh nhân sốt rét (BNSR),
1.334 tử vong do sốt rét (TVSR). Số liệu thống kê cho thấy mặc dù BNSR,
TVSR giảm từ 1990 ñến nay nhưng tỷ lệ mắc và chết của khu vực này luôn
cao nhất so với các khu vực khác [23].
8
Trong giai ñoạn sau 1991 do tình hình SR quay trở lại và tăng cao trong
cả nước, ñặc biệt ở khu vực MT-TN, chiến lược PCSR ñược thực hiện ở Việt
Nam với mục tiêu là giảm mắc, giảm chết và khống chế dịch SR xảy ra.
Trong giai ñoạn này việc tích cực tổ chức thực hiện các biện pháp phát hiện,
chẩn ñoán và ñiều trị ñược xem là yếu tố quan trọng ñể giảm tử vong, thì
PCSR ñược xem là 1 nhiệm vụ chăm sóc sức khỏe ban ñầu của y tế cơ sở, vì
vậy xây dựng, củng cố y tế cơ sở, huấn luyện cho y tế cơ sở về SR ñược xem
là một nhiệm vụ rất quan trọng ñể ñạt ñược các mục tiêu của chương trình
PCSR [23].
Trong những năm gần ñây, nhờ sự ñầu tư kinh phí và áp dụng các biện
pháp ñặc biệt là sự ra ñời của artemisinine và các dẫn xuất nên tình hình sốt
rét có xu hướng giảm xuống. Năm 2006, cả nước chỉ có 41 TVSR, khu vực
MT-TN có 25 TVSR [33], [35].
Mặc dù tình hình sốt rét giảm nhưng các số liệu thống kê và phân tích
cho thấy, số TVSR khu vực MT-TN luôn luôn cao so với các khu vực khác.
Từ năm 1997 ñến nay số TVSR khu vực này luôn chiếm tỷ lệ >70% so với
tổng số TVSR cả nước, riêng năm 2002 tỷ lệ này chiếm ñến 97,73%, năm
2003 chiếm 73,08% [32], [33], [34].
Như vậy sốt rét ở MT-TN, ñặc biệt các tỉnh Tây Nguyên vẫn là vấn ñề
ảnh hưởng ñến sức khoẻ cả người dân và sự phát triển kinh tế xã hội ở khu
vực này nếu không có các giải pháp ưu tiên.
Trong giai ñoạn 2001-2005, mặc dù có nhiều khó khăn như trên nhưng
công tác phòng chống sốt rét của khu vực MT-TN vẫn ñạt ñược các mục tiêu
ñề ra. So sánh với năm 2001, số BNSR năm 2005 giảm 62,47%; số SRAT
giảm 73,00%; TVSR giảm 82,89%, tỷ lệ KSTSR giảm 68,74%, không có dịch
sốt rét xảy ra từ 2001-2005. Đối chiếu với các chỉ số mục tiêu ñề ra năm 2001
9
thì cho ñến năm 2005, các chỉ số mục tiêu sốt rét ñều ñạt và vượt. Đặc biệt
không có dịch sốt rét xảy ra từ 2001-2005 [33].
Từ năm 2006 ñến 2007 tỷ lệ mắc bệnh và tử vong tại khu vực miền
Trung-Tây Nguyên tiếp tục giảm nhưng từ năm 2008-2009 do tác ñộng của
nhiều nguyên nhân khác nhau ñặc biệt là thiên tai, lũ lụt hạn hán kéo dài dưới
ảnh hưởng của biến ñổi khí hậu tình hình sốt rét có diễn biến phức tạp. Số
bệnh nhân sốt rét các năm 2007-2008-2009 có xu hướng tăng cao so với
những năm trước ñó. Thống kê cho thấy so với năm 2008 bệnh nhân sốt rét
toàn khu vực năm 2009 tăng 14,61%,, trong ñó miền Trung tăng 6,18%, Tây
Nguyên tăng 26,58%. Số tử vong năm 2009 là 16 trường hợp so với 14 ca
năm 2008. Như vậy sau nhiều năm khống chế số mắc và chết do bệnh sốt rét
những năm gần ñây bệnh sốt rét có xu hướng gia tăng trở lại. Chương trình
PCSR cần tìm các nguyên nhân và ñề xuất các giải pháp ñể dự phòng nguy cơ
gia tăng mắc bệnh và khả năng xảy dịch sốt rét [32], [33], [34].
1.2.2. Những khó khăn trong PCSR cho dân di biến ñộng tại khu vực MT-
TN
Tại khu vực MT-TN trong những năm qua mặc dù tỷ lệ mắc và tử vong
giảm, nhưng nguy cơ gia tăng sốt rét vẫn tiềm ẩn tại nhiều vùng, ñặc biệt là
tại các vùng sốt rét lưu hành nặng, vùng có dân di biến ñộng (di cư tự do, ngủ
rẫy và ñi rừng dài ngày), vùng kinh tế khó khăn. Tại những vùng này hệ thống
y tế thiếu về số lượng và yếu về chất lượng không ñủ khả năng phát hiện và
quản lý bệnh nhân. Trong khi ñó mầm bệnh và vectơ lan truyền vẫn tồn tại,
các biện pháp bảo vệ khó ñảm bảo hiệu quả tuyệt ñối bảo vệ cho các cộng
ñồng này [7], [8], [9], [10], [11].
Đây là một trong những khó khăn mà công tác PCSR ñang phải tìm các
giải pháp hiệu quả. Nhiều cộng ñồng người dân tộc của các tỉnh Bình Định,
Khánh Hoà, Quảng Nam, Gia Lai, Kon Tum, Đak Lak, Đak Nông vẫn còn
10
hoạt ñộng làm nương rẫy, làm nhà rẫy và ngủ lại ñó trong thời gian mùa vụ.
Một số lớn người dân do nhiều khó khăn khác nhau nên ñi vào rừng khai thác
lâm thổ sản, chặt cây, tìm vàng [32], [31], [32].
Ngủ rẫy là thói quen canh tác phổ biến hiện nay của ñồng bào dân tộc
thiểu số các tỉnh Tây Nguyên và các huyện miền núi Trung Bộ trong các dịp
mùa vụ, trong mùa rẫy ñồng bào thường kéo cả nhà lên chòi rẫy chỉ ñược làm
tạm bợ ñể tiện việc làm ăn hoặc thu hoạch trong thời gian từ một tuần ñến
một tháng, nên khả năng nhiễm bệnh cao.
Vấn ñề bảo vệ cho dân ngủ rẫy hết sức khó khăn vì các biện pháp phun
hóa chất diệt muỗi chỉ thực hiện ñược cho nhà ở cố ñịnh trong làng, biện pháp
tẩm màn cũng không phù hợp vì diện tích nhà rẫy quá nhỏ cho nên không thể
treo màn, biện pháp quản lý ñiều trị cũng rất khó thực hiện vì nhà rẫy rải rác
khắp nơi trong rừng sâu nên số mắc và số tử vong sốt rét ở dân ngủ rẫy chiếm
tỷ lệ cao [10], [11], [13], [16].
Những hoạt ñộng này làm gia tăng tỷ lệ nhiễm bởi vì hiệu quả bảo vệ
bằng các biện pháp cho ñối tượng này rất khó khăn:
- Phun tồn lưu hoá chất tại nhà, nhưng họ không ở nhà mà ñi ngủ trong
rẫy và trong rừng.
- Thói quen không ngủ màn tại nhà rẫy càng làm tăng thêm nguy cơ
nhiễm bệnh.
- Khi bị SRAT vận chuyển và cấp cứu rất khó khăn, nên tử vong rất cao.
Tình hình dân di biến ñộng nổi bật nhất tại khu vực miền Trung-Tây
Nguyên, số dân di cư diễn biến rất phức tạp ñã ảnh hưởng rất lớn ñến công tác
phòng chống sốt rét tại khu vực này. Từ năm 2000 ñến nay ñặc biệt năm
2003, tình hình dân di biến ñộng, rầm rộ nhất là sự DCTD của ñồng bào dân
tộc phía Bắc vào sống tại các vùng rừng núi Tây Nguyên cũng như hoạt ñộng
11
ñi rừng ngủ rẫy của người dân làm cho tình hình sốt rét càng phức tạp, ñặc
biệt số tử vong tăng cao ñáng kể [8], [9], [32]
Tình trạng dân di cư tự do ñó xảy ra nhiều năm trước nhưng rầm rộ
nhất trong những năm gần ñây. Trước ñây di biến ñộng dân thường có tổ chức
và ñược quản lý chặt chẽ trược khi ñi và khi ñến nơi ở, theo dạng dân ñi kinh
tế mới hoặc dân ñi vào các công, nông, lâm trường. Tuy nhiên thường nơi ñến
ñịnh cư hầu hết thuộc các vùng sốt rét lưu hành nặng nên nguy cơ mắc và xảy
dịch sốt rét rất cao.
Theo những số liệu mới ñây của Tổng cục ñịa chính và Bộ
NN&PTNN, từ năm 1991 ñến nay một số lượng lớn dân di cư tự do (DCTD)
sinh sống tại 3 tỉnh Tây Nguyên (Gia Lai, Kon Tum ,Đak Lak). Đối tượng
DCTD này chủ yếu là ñồng bào miền núi phía Bắc (36,7%), vùng ven biển
khu IV cũ (30,9%). Trong ñó tỉnh có dân DCTD nhiều nhất là là Cao Bằng
(9.710 hộ, 48.700 khẩu), Lạng Sơn (8.500 hộ, 41.550 khẩu), Thanh Hoá
(3.500 hộ, 19.200 khẩu), Lào Cai (3.200 hộ, 20.000 khẩu), Hà Giang (1.900
hộ, 6.600 khẩu), Tuyên Quang (860 hộ, 4.800 khẩu). Chia theo dân tộc:
Nùng: >100.000 người, Tày:>80.000 người, Dao: >31.000người, Thái:
>26.000 người, Mông: 134.000 người Ngoài ra thống kê còn có khoảng
5.000 nhân khẩu DCTD qua lại giữa Việt Nam và Lào [8], [9], [10], [11],
[28].
Trong ñó Đak Lak là tỉnh có số DCTD lớn nhất, hiện nay có 100.000
hộ, 463.000 người. Phần lớn dân DCTD sống trong rừng sâu, tránh sự kiểm
soát của chính quyền ñịa phương, và theo thông báo số 52/TB-VPCP ngày
25/3/2002 của Văn phòng Chính phủ thông báo kết luận của nguyên Phó Thủ
tướng Nguyễn Công Tạn tại Hội nghị bàn biện pháp giải quyết tình trạng dân
DCTD ñến các tỉnh Tây Nguyên nếu ñể dân DCTD sau thời ñiểm 13/3/2002
thì tỉnh phải ñến nhận về [8], [9], [10], [28].
12
Với lý do ñó hầu hết dân di cư tự do sống lẩn tránh trong rừng sâu nơi
có sốt rét lưu hành nặng, không thể tiếp cận với hệ thống y tế, nên nguy cơ
mắc bệnh và tử vong do sốt rét rất cao.
Tại các vùng biên giới (Việt-Lào, Việt-Campuchia) giao lưu biên giới
làm cho nguy cơ lan truyền sốt rét tiếp diễn và phức tạp. Việc kiểm dịch biên
giới tập trung tại các cửa khẩu, nhưng sự giao lưu và nhiễm bệnh lại chủ yếu
thông qua các ñường tiểu ngạch, nên rất khó khăn trong việc quản lý BNSR.
Phân tích số liệu BNSR nhiều năm tại huyện Hướng Hoá (Quảng Trị) nơi có
hoạt ñộng giao lưu giữa cộng ñồng người Việt và Lào cho thấy số mắc bệnh
do qua Lào là rất cao. Một số bệnh nhân mắc bệnh sau khi ñi qua Lào trở về,
một số là người Lào mắc bệnh ñược y tế xã quản lý, một số nhiễm từ các
vùng SRLH khác nhau [13], [21], [22], [34].
Tóm lại ñối với dân di biến ñộng (ñi rừng, ngủ rẫy, giao lưu biên
giới ), hệ thống y tế khó tiếp cận ñối với những ñối tượng này, giao thông ñi
lại khó khăn các biện pháp phòng chống hiện nay vẫn chưa hiệu quả, nguy cơ
gia tăng mắc và tử vong do sốt rét ở những ñối tượng này rất cao, cần nghiên
cứu những biện pháp có hiệu quả hơn.
1.3. Một số nghiên cứu sốt rét và phòng chống sốt rét cho dân di biến
ñộng, ñi rừng ngủ rẫy
Một số nghiên cứu trong những năm gần ñây cho thấy sự di biến ñộng
dân số ñó làm gia tăng nguy cơ mắc và lan truyền sốt rét trong cộng ñồng.
Báo cáo của Pim Martens and Lisbeth Hall năm 2000 về “Sốt rét ñang
di chuyển: Biến ñộng dân cư và lan truyền sốt rét “ cho thấy sốt rét ñang gia
tăng ở nhiều nước và ở một số vùng dù bệnh sốt rét ñã hết lưu hành. Một
trong những yếu tố góp phần vào sự gia tăng trở lại này là do sự di biến ñộng
dân ñến ñịnh cư ở những vùng ñất khác do nhiều lý do như: do kinh tế, do
13
xung ñột, do thiên tai Xác ñịnh và hiểu ñược ảnh hưởng của sự di dân này
có thể cải thiện ñược các biện pháp phòng chống sốt rét. Ở các nước ñang
phát triển di dân liên quan ñến nông nghiệp, ñào vàng và nguy cơ mắc , tử
vong sốt rét là rất cao [39], [41].
Cũng theo phân tích này cho thấy, sốt rét là một trong những nguyên
nhân tử vong cao ở ñối tượng di biến ñộng dân ở một số vùng của Thailand,
Sudan, Somalia, Burundi, Rwanda, Cộng Hòa Congo. Vụ dịch mới ñây nhất
xảy ra ở cộng ñồng dân Burundi di cư ñến ở Tây Bắc Tanzania, chết do sốt rét
và thiếu máu ở trẻ em dưới 5 tuổi tăng gấp 10 lần so với trước khi có dịch;
phản ảnh sự thiếu miễn dịch của nhóm tuổi này [39].
Tại Hội nghị Nam Phi (2003) về dân di cư tác giả Marcia Caldas de
Castro, Burton Singer ñã cho thấy sốt rét là bệnh có nguy cơ mắc và tử vong
cao nhất ở cộng ñồng dân di cư của Cambodia ñến Thailan, Mozambic ñến
Malawi, Ethiopi ñến Đông Sudan [40].
Cũng như nhiều vùng trên thế giới, tại Việt Nam, hoạt ñộng ñi rừng,
ngủ rẫy cũng như tình hình di biến ñộng dân là một trong những thách thức
cho phòng chống sốt rét ở nhiều vùng.
Những nghiên cứu của Vũ Thị Phan cho thấy nguy cơ xảy dịch rất cao
khi dân di biến ñộng từ các vùng không có sốt rét vào vùng sốt rét lưu hành,
do chưa có miễn dịch ñi vào vùng sốt rét ñể xây dựng kinh tế mới, khai thác
vàng, trầm, ñá quý Trong quá khứ các vụ dịch xảy ra: Nông trường LT,NM
(Đồng Hỷ, Bắc Thái) tháng 3/1964; Hợp tác xã khai hoang Quỳnh Lưu, Nghệ
An; Hợp tác xã khai hoang TĐ Kỳ Anh, Hà Tĩnh tháng 11/1964; Hợp tác xã
HS, Hà Trung, Thanh Hóa tháng 4/1965. Tổng kết 512 vụ dịch sốt rét xảy ra ở
miền Bắc từ 1971-1985 thì các vụ dịch xảy ra ở vùng kinh tế mới chiếm 46 vụ
(9%) [23].
14
Nghiên cứu các vụ dịch xảy ra ở khu vực miền Trung-Tây Nguyên cho
thấy tại khu vực này từ 1976-1996 có 155 vụ dịch, trong ñó dịch vùng kinh tế
mới có 28 vụ (17,53%), Tây Nguyên có 25/53 vụ, miền Trung 3/102 vụ [23].
Bên cạnh nguy cơ sốt rét ở nhóm dân di cư tự do, hoạt ñộng ñi rừng ngủ
rẫy khó kiểm soát là một trong những thách thức ñối với công tác phòng
chống sốt rét trong giai ñoạn hiên nay và thời gian ñến. Mặc dù tỷ lệ mắc và
tử vong giảm, nhưng nguy cơ gia tăng sốt rét vẫn tiềm ẩn tại nhiều vùng vẫn
còn cao, ñặc biệt là tại các vùng có dân có hoạt ñộng ñi rừng ngủ rẫy. Tại
những vùng này hệ thống y tế không thể tiếp cận ñược, không ñủ khả năng
phát hiện và quản lý bệnh nhân. Trong khi ñó mầm bệnh và vectơ lan truyền
vẫn tồn tại, các biện pháp bảo vệ khó ñảm bảo hiệu quả tuyệt ñối bảo vệ cho
các cộng ñồng này.
Kết quả ñiều tra của Viện sốt rét-KST-CT Quy Nhơn tại một số cộng
ñồng dân ngủ rẫy ở xã Đak Rin, Ngọc Lây (Kon Tum); Ia O (Gia Lai); Sơn
Thái, Khánh Thượng (Khánh Hòa); xã Thanh (Quảng Trị) cho thấy tỷ lệ
nhiễm từ trên 6,80% có nơi ñến 29,77%. Tại những vùng này ñều phát hiện có
mặt các vectơ chính lan truyền bệnh như An.minimus, An.dirus [10], [13].
Một nghiên cứu khác nhằm xác ñịnh tỷ lệ nhiễm ký sinh trùng sốt rét
ở cộng ñồng dân ngủ rẫy và ñánh giá tỷ lệ người ngủ rẫy nhận thuốc và sử
dụng thuốc tự ñiều trị ñược tiến hành tại 3 xã (Thanh-Quảng Trị, Trà Don-
Quảng Nam, Ia O-Gia Lai) cho thấy tỷ lệ nhiễm ký sinh trùng sốt rét ở người
dân ngủ rẫy rất cao: 9,90% (95% CI: 7,66%-12,54%). Tại xã Thanh
P.falciparum chiếm 75%, xã Ia O loài P.falciparum chiếm 86,36% và tại xã
Trà Don loài P.falciparum chiếm tỷ lệ là 52,63% [13].
Như vậy cho ñến nay tỷ lệ nhiễm KSTSR ở nhóm dân ngủ rẫy là rất
cao, hơn nữa các biện pháp hiện nay ñể bảo vệ cho người ñi rừng ngủ rẫy
chưa ñược xác ñịnh rõ và cũng chưa ñược ñánh giá ñầy ñủ.
15
Nghiên cứu của Annette Erhart (2004) về sốt rét rừng ở Bình Thuận,
Việt Nam cho thấy hoạt ñộng ñi rừng và ngủ trong rừng là yếu tố nguy cơ
chính của nhiễm bệnh sốt rét. Sử dụng màn ñể ngủ (kể cả màn chưa tẩm hóa
chất) có thể bảo vệ 60% dân bảo vệ mắc sốt rét [37].
Báo cáo của Ron Marchand về nguy cơ của người dân ñi rừng và ngủ
rẫy cho thấy nhóm dân này có nguy cơ nhiễm sốt rét rất cao, ñặc biệt khi họ
ngủ tại những vùng có An.dirus. Tuy nhiên báo cáo này cũng nêu lên những
khó khăn của việc phòng chống sốt rét cho nhóm ñối tượng này và cũng ñề
xuất cần nghiên cứu những nguyên nhân mắc bệnh và biện pháp phòng chống
có hiệu quả [17], [18].
Trước năm 2003 ñó có một số thử nghiệm hiệu quả biện pháp cấp
thuốc tự ñiều trị. Trong 2 năm 2001 và 2002, một nghiên cứu can thiệp có ñối
chứng ñã ñược tiến hành nhằm so sánh hiệu quả biện pháp cấp thuốc tự ñiều
trị. Kết quả cho thấy người ñi rừng ngủ rẫy nhiễm bệnh cao (13,1%) so với
nhóm không ñi rừng ngủ rẫy (8,3%). Nghiên cứu ñó so sánh 2 loại thuốc sử
dụng cấp tự ñiều trị là CV8 (liều 3 ngày) và artesunat (liều 7 ngày), kết quả
nghiên cứu này cho thấy nếu cấp thuốc tự ñiều trị có thể giảm tỷ lệ mắc bệnh,
giảm sốt rét nặng, hạn chế sự lây lan trong cộng ñồng. Đối với nhóm ñược
cấp artesunate, sau 5 lần ñiều tra tỷ lệ nhiễm KSTSR nhóm ngủ rẫy giảm từ
28,4% xuống còn 4,1%. Đối với nhóm sử dụng CV8 tỷ lệ KSTSR giảm từ
14,6% xuống còn 0,6%, nhóm ñi rừng [7].
Một nghiên cứu khác nhằm khắc phục sốt rét gia tăng ở người dân ñi
rừng ngủ rẫy (Lê Khánh Thuận, Lê Thành Đồng-2002), cho thấy ñi rừng ngủ
rẫy là một trong những vấn ñề rất khó khăn ñối với công tác phòng chống sốt
rét. Nghiên cứu ñó cho thấy 77,4% ñối tượng này ñã từng bị sốt rét, chỉ có
57,1% người khi vào rừng mang theo màn. Đề tái áp dụng biện pháp uống dự
16
phòng bằng Fansidar, mefloquine, phát thuốc tự ñiều trị (artemisinine+
mefloquine) ñều có tác dụng giảm tỷ lệ nhiễm bệnh [6], [7], [8], [27] .
Từ năm 2003 ñến nay, Chương trình PCSR Việt Nam ñề nghị biện
pháp cấp thuốc tự ñiều trị cho người ñi rừng ngủ rẫy xa cơ sở y tế, biện pháp
này ñó ñược Bộ y tế ban hành trong hướng dẫn phác ñồ chẩn ñoán và ñiều trị
sốt rét năm 2003 [2], [3], [4].
Sau năm 2003 ñó có một số nghiên cứu về hiệu quả của biện pháp
này. Năm 2006-2007, một ñiều tra nhằm bước ñầu ñánh giá thực trạng sử
dụng thuốc tự ñiều trị tại một số xã thuộc khu vực miền Trung-Tây Nguyên
cho thấy tỷ lệ nhận thuốc tự ñiều trị là 58,12%. Phân tích cho thấy CV8 ñược
cấp với tỷ lệ 61,73%, artesunat ñược cấp với tỷ lệ 25,59%, chloroquin ñược
cấp với tỷ lệ 12,29% ; người dân ñi ngủ rẫy ñến nhận thuốc ở y tế thôn bản
chiếm tỷ lệ 72,07% cao hơn so với ñến Trạm y tế xã (27,93%). Tỷ lệ người
dân ngủ rẫy có uống thuốc tự ñiều trị là 37,11%. Đối với CV8 và chloroquine:
25,26% uống ñủ 3 ngày, với artesunat không có trường hợp nào uống thuốc
ñủ 7 ngày. Nguyên nhân không uống ñủ liều: 50,56% không uống tiếp do hết
sốt, 26,97% trở về nhà uống tiếp ; 14,61% không nhớ và 7,87% không muốn
uống tiếp [13], [14].
Một số nước trên thế giới có sốt rét lưu hành, biện pháp tự ñiều trị tại
nhà cũng ñược áp dụng những người khó tiếp cận y tế.
Tự ñiều trị là biện pháp quan trọng ñể quản lý sốt rét, và rất cần thiết
tại các khu vực nông thôn Ethiopia. Một ñánh giá về sử dụng thuốc tự ñiều trị
và tự quản lý bệnh sốt rét trên 630 hộ gia ñình có bệnh nhân sốt rét trong 6
tháng từ tháng 1-9 năm 1999 ñược chọn ngẫu nhiên ở huyện Butajira,
southern Ethiopia, cho thấy >97% hộ quản lý sốt rét ở nhà, 17.8% hộ sử dụng
thuốc sốt rét ở nhà, 46.7% hộ ñến cơ sở y tế sau khi uống thuốc ở nhà, 33,3%
hộ ñưa bệnh nhân ñến cơ sở y tế khi chưa có ñiều trị ở nhà. Thuốc sử dụng
17
bao gồm chloroquine (457, 73.5%) and sulfadoxine–pyrimethamine (377,
60.6%). Thuốc từ chương trình PCSR là chủ yếu, trong ñó chloroquine và
sulfadoxine-pyrimethamine chiếm 60.6% thông qua cán bộ y tế cộng ñồng,
hợp tác của các bà mẹ, người bán thuốc. Khảo sát ñó ñưa ra kết luận tự ñiều
trị là biện pháp chủ yếu, nhưng cần cải thiện việc cung cấp thuốc ñến các
vùng nông thôn có sốt rét, ñặc biệt thông qua nhân viên y tế cộng ñồng, hợp
tác của các bà mẹ, người bán thuốc, chủ hiệu thuốc [38].
Tự ñiều trị là rất phổ biến ở Tây Kenya. Một báo cáo kết quả nghiên
cứu kiến thức người dân về sốt rét, sử dụng thuốc sốt rét và thói quen tìm ñến
cơ sở ñiều trị khi bị bệnh ở vùng nông thôn Tây Kenya cho thấy sốt rét ñược
xem như là bệnh tương ñối nhẹ, không trầm trọng so với so với AIDS, sởi,
khó thở và ỉa chảy, vì vậy tự ñiều trị sốt rét là rất thông thường. Trong số 138
người có sốt ñược khảo sát, 60% ñược ñiều trị ở nhà với thảo dược hoặc y học
cổ truyền mua ở hiệu thuốc ñịa phương, chỉ 18% ñến ñiều trị ở cơ sở y tế hoặc
ở bệnh viện; số còn lại không có ñiều trị gì. Thuốc chloroquine ñược xem là
thuốc có hiệu quả hơn các thuốc chống sốt hoặc thảo dược khác ñể ñiều trị sốt
rét. Choloroquin ñược sử dụng tự ñiều trị cho 58% các trường hợp sốt, nhưng
chỉ 12% sử dụng ở liều ñiều trị 25 mg/kg [42]
Như vậy cho ñến nay do nhiều khó khăn trong công tác phòng chống
bệnh sốt rét cho những người di biến ñộng, ñi rừng, ngủ rẫy, ñi du lịch vào
vùng sốt rét lưu hành nên biện pháp tự ñiều trị ñược xem là giải pháp hạn chế
nguy cơ mắc bệnh cho những ñối tượng này.
1.4. Cấp thuốc tự ñiều trị sốt rét
Việc áp dụng biện pháp cấp thuốc tự ñiều trị sốt rét cũng ñược thực
hiện ở một số nước trên thế giới, chủ yếu cho ñối tượng khách du lịch vào
vùng có sốt rét lưu hành.
18
Trong tài liệu hướng dẫn dự phòng cho những người ñi du lịch của
nước Anh ñề cập ở trên người ta ñề nghị nên hướng dẫn sử dụng thuốc sốt rét
cho những người ñi du lịch ñến vùng sâu, vùng xa không thể tiếp cận với cán
bộ y tế trong vòng 24 giờ. Thuốc tự ñiều trị ñược cấp cho những người ñi du
lịch ñể tự ñiều trị khi họ nghi mình bị sốt rét. Họ nên ñược thông tin ñầy ñủ
ñể ñiều chỉnh khi sử dụng thuốc tự ñiều trị sốt rét [43]
Tổ chức y tế thế giới cũng có hướng dẫn sử dụng thuốc khẩn cấp cho
những người ñi du lịch khi họ nghi mình bị nhiễm sốt rét. Trong hướng dẫn
này nếu 1 người có biểu hiện sốt 1 tuần hoặc hơn sau khi vào vùng sốt rét nên
ñược bác sỹ tư vấn hoặc xét nghiệm máu ñể có chẩn ñoán ñúng và ñiều trị an
toàn, hiệu quả Nhiều người ñi du lịch không thể tiếp cận ñược dịch vụ y tế,
ñặc biệt nếu họ tiếp tục ở lại (1tuần hoặc hơn sau khi vào vùng sốt rét) ở vùng
sâu, xa, trong những trường hợp như vậy, nên mang theo thuốc sốt rét ñể tự
ñiều trị. Sự lựa chọn tùy theo từng vùng có kháng hay không [43], [47], [49].
Tại Việt Nam cấp thuốc tự ñiều trị ñã ñược khuyến cáo sử dụng trong
chương trình phòng chống sốt rét từ năm 2003 ñể giảm tác hại của bệnh sốt
rét ở ñối tượng ñi rừng, ngủ rẫy. Tuy nhiên hiện nay chưa có nhiều ñánh giá
thực trạng sử dụng và hiệu quả của biện pháp này cho ñối tượng là người ñi
rừng ngủ rẫy.
Trong phác ñồ hướng dẫn năm 2003, Bộ y tế cho phép sử dụng thuốc tự
ñiều trị như là giải pháp khống chế thiệt hại và giảm số tử vong cho người
ngủ rẫy khi mắc bệnh sốt rét. Biện pháp này là “Cấp thuốc tự ñiều trị cho
người vào vùng sốt rét lưu hành và xa cơ sở y tế ñể họ tự ñiều trị khi bị sốt
nghi sốt rét (dân ñi rừng ngủ rẫy, cán bộ, bộ ñội ñi công tác vào vùng sốt rét
lưu hành ), cán bộ y tế hướng dẫn ñiều trị khi cấp thuốc, theo dõi kết quả sử
dụng khi họ trở về”. Tuy nhiên trong hướng dẫn năm 2003, chưa nêu cụ thể
19
tuyến nào ñược phép cấp thuốc, cũng như cấp loại thuốc nào chưa ñược nêu
lên rõ ràng [2], [3], [4].
Đến năm 2007, Bộ y tế có mở rộng ñịnh nghĩa “ Cấp thuốc cho phụ nữ
có thai vào vùng SRLH., khách du lịch, người ñi vào vùng sốt rét trong vòng 6
tháng. Đi rừng, ngủ rẫy, qua lại biên giới”. Mặc dù có mở rộng ñối tượng
nhưng cũng như năm 2003, hướng dẫn năm 2007 chưa nêu cụ thể tuyến nào
ñược phép cấp thuốc, cũng như cấp loại thuốc nào cũng chưa ñược nêu lên rõ
ràng.
Năm 2009, Bộ y tế hướng dẫn cấp thuốc tự ñiều cụ thể hơn. Hướng dẫn
nêu rỏ: “Cán bộ y tế từ tuyến xã trở lên mới ñược cấp thuốc tự ñiều trị cho
các ñối tượng ñi vào vùng sốt rét lưu hành nặng trên 1 tuần (khách du lịch,
người ñi rừng, ngủ rẫy, người qua lại biên giới vùng sốt rét lưu hành) và phải
hướng dẫn cho họ biết cách tự chẩn ñoán, tự ñiều trị, theo dõi sau khi trở
về”. Thuốc sốt rét ñược cấp ñể tự ñiều trị là dihydroartemisinin-piperaquine,
liều theo tuổi trong 3 ngày [4].
1.5. Thuốc artemisinin và Arterakin ñiều trị sốt rét.
Artemisinin hay Qinghaosu ("ching-how-soo") là thành phần chính của
thảo dược Trung Quốc có tên là Artemisia annua. Người Trung Quốc sử dụng
thảo dược này ñể ñiều trị sốt trên 1000 năm trước.
Các nhà khoa học Trung Quốc ñó chiết xuất thành công artemisin bằng
dung môi n_hecxan và lấy tên thuốc là Quinghaosu. Tuy nhiên, artemisinin
vẫn chưa ñược biết ñến rộng rãi cho ñến khi nó xuất hiện trên một tạp chí
khoa học về thuốc của Trung Quốc vào gần chục năm sau ñó. Ban ñầu,
artemisinin bị hoài nghi về hoạt tính ñiều trị sốt rét của nó do các thí nghiệm
chứng minh kết quả này chưa ñược công nhận. Bên cạnh ñó, với lý do về cấu
trúc hóa học không bền vững (chứa vòng peroxide –O-O-) nên artemisinin
20
không ñược sử dụng ñể sản xuất như một loại thuốc chính thức. Tổ chức Y tế
thế giới -WHO ñã xác ñịnh tính ưu tiên hàng ñầu ñể phát triển các dẫn xuất có
tác dụng nhanh của artemisinin nhằm ñiều trị sốt rét ác tính thể não cũng như
kiểm soát các trường hợp sốt rét P. falciparum ña kháng thuốc [45], [46],
[50], [51].
Đến năm 2004, Tổ chức y tế thế giới mới chính thức công nhận
artemisinin là loại thuốc kỳ diệu, thay thế ñược nhiều loại thuốc sốt rét không
còn tác dụng chữa bệnh sốt rát ác tính. Hiện nay, artemisinin ñược sử dụng
trên toàn thế giới, ñặc biệt là Châu Phi, nơi hàng năm có gần 1 triệu người
chết vì bệnh sốt rét.
Hiện nay tình hình sốt rét kháng thuốc lan rộng với một số thuốc sốt rét
vốn lâu nay rất ñặc hiệu (mefloquine, chloroquin, quinine,…) không những
một vùng ñơn thuần mà lan rộng khắp toàn cầu; ngay cả thuốc có hiệu quả
nhất hiện nay trong ñiều trị sốt rét là artemisinine và các dẫn suất cũng ñó
sớm bắt ñầu có hiện tượng giảm nhạy, và ñó có một số báo cáo trên thế giới
về sự xuất hiện một số ca không còn ñáp ứng thuốc artesunate nữa. Trước tình
hình nguy cơ sốt rét kháng thuốc ñe dọa toàn cầu, Tổ chức y tế thế giới ñề
nghị không nên quảng cáo, sản xuất thuốc sốt rét loại artesunate dưới dạng
ñơn trị liệu nữa và chuyển sang dùng phác ñồ thuốc phối hợp dựa trên nền có
gốc artemisinin Một trong số các phối hợp ñó, Tổ chức y tế thế giới ñánh giá
cao hoặc khuyến cáo dùng loại thuốc ACT gồm thuốc artemisinine +
piperaquine hoặc dihydroartemisinin + piperaquine với các biệt dược hiện
ñang có mặt trên thị trường là Artequick, Artekin, Arterakine, CV
artecan,…[20], [44], [45], [48].
Hợp chất có artemisinin là một nhóm thuốc sốt rét mới có ñặc ñiểm
sinh ra một ñáp ứng rất nhanh trong cơ thể bệnh nhân, chống lại sốt rét do ký
sinh trùng P.falciparum ña kháng thuốc, thuốc dung nạp tốt và có tiềm năng