Họ tên: Vũ Hải Yến Lớp: Anh 3- khối 1 QTKD K49
PHẦN 1: LÝ LUẬN CHUNG VỀ TIỀN LƯƠNG
I. Các khái niệm cơ bản về tiền lương:
+ Tiền lương danh nghĩa: Là phần thu nhập người lao động nhận
được sau quá trình lao động của mình , tương ứng với hao phí sức lao động ;
năng suất lao động ; trình độ , kinh nghiệm nghiệm của người lao động
+ Tiền lương thực tế: Được hiểu là số lượng các loại hàng hóa tiêu
dùng và các loại dịch vụ cần thiết mà người lao động có thể mua được bằng
tiền lương danh nghĩa.
Tiền lương trả đúng theo hao phí sức lao động, có khả năng tái sản xuất
sức lao động và là động lực trực tiếp cho người lao động. Nó thúc đẩy người
lao động làm việc tốt hơn và góp phần nâng cao hiệu quả hoạt động sản xuất
kinh doanh của doanh nghiệp. Tóm lại “ tiền lương là giá cả hàng hoá sức lao
động, giá cả hàng hoá nãy xác định trên cơ sở sức lao động, trên cơ sở quan
hệ cung - cầu của thị trường sức lao động và các quy định của pháp luật Việt
Nam”.
II. Bản chất của tiền lương trong chủ nghĩa tư bản:
Theo C. Mac thì sức lao động là khả năng lao động của mỗi người gồm
cả thể lực và trí lực lao dộng là sự vân động của sức lao động đó. Nhưng
trong quá trình lao động, sức lao động đã tạo ra một giá trị mới lớn hơn giá trị
sức lao động, phần dôi ra này bị nhà tư bản chiếm không. Nhưng xã hội lại
cho rằng nhà tư bản không bóc lột công nhân vì nhà tư bản trả tiền cho công
nhân sau khi công nhân đã hao phí sức lao động để sản xuất ra hàng hoá. Mặt
khác, tiền công được trả theo thơì gian lao động (ngày, giờ, tuần, tháng) hoặc
theo số lượng hàng hoá đã sản xuất được. Như vậy tiền lương đã che dấu mất
thực chất bóc lột của CNTB. Nhưng bề ngoài thì dường như tòan bộ lao động
mà công nhân đã hao phí đều được nhà tư bản trả đầy đủ. Thực ra, tiền lương
mà nhà tư bản trả cho công nhân không phải là trả công lao động. Nếu lao
động bán được thì lao động phải là hàng hoá và phải có giá trị, nhưng lao
Vấn đề tiền lương ở Việt Nam
1
Họ tên: Vũ Hải Yến Lớp: Anh 3- khối 1 QTKD K49
động không phải hàng hóa, chỉ có sức lao động mới là hàng hoá, vì lao động
chỉ xuất hiện trong quá trình sản xuất sau khi đã mua bán giữa công nhân của
người bán với nhà tư bản là người mua. Khi công nhân lao động thì lao động
của công nhân được thực hiện trong xí nghiệp của nhà tư bản. Do đó kết quả
lao động thuộc về nhà tư bản chứ không thuộc về công nhân bởi vì công nhân
không thể bán cái mà anh ta không có. Công nhân chỉ có sức lao động nên chỉ
bán sức lao động. Như vậy, chỉ có sức lao động mới là hàng hóa. Trong
CNTB tiền lương là giá cả hàng hoá sức lao động chứ không phải là giá trị
sức lao động.
Vậy bản chất của tiền lương trong chủ nghĩa tư bản là hình thức biểu hiện
bằng tiền của giá trị sức lao động, hay giá cả của suacs lao động nhưng lại
biểu hiện ra bề ngoài thành giá cả của lao động.
Vấn đề tiền lương ở Việt Nam
2
Họ tên: Vũ Hải Yến Lớp: Anh 3- khối 1 QTKD K49
PHẦN 2: THỰC TRẠNG CHÍNH SÁCH TIỀN LƯƠNG Ở
VIỆT NAM
I. Hiện trạng:
1. Về chính sách tiền lương tối thiểu:
Tiền lương tối thiểu được xác định theo nhu cầu tối thiểu, khả năng nền
kinh tế, tiền lương trên thị trường sức lao động, chỉ số giá sinh hoạt. Nó làm
căn cứ để tính các mức lương trong hệ thống thang lương, bảng lương, phụ
cấp lương trong khu vực nhà nước, tính mức lương ghi trong hợp đồng lao
động và thực hiện chế độ khác cho người lao động theo quy định của pháp
luật. Trong Điều 56 của Bộ luật Lao động ghi: Mức tiền lương tối thiểu được
ấn định theo giá sinh hoạt, đảm bảo cho người lao động làm công việc giản
đơn nhất trong điều kiện lao động bình thường bù đắp sức lao động giản đơn
và một phần tiền lương tái sản xuất sức lao động mở rộng và được dùng làm
căn cứ để tính các mức lương cho các loại lao động khác.
Theo nguyên tắc của C.Mác, tiền lương phải đảm bảo tái sản xuất sức lao
động, mức chấp nhận tối thiểu của người lao động: “chi phí sản xuất của sức
lao động giản đơn quy thành chi phí sinh hoạt của người công nhân và chi phí
để tiếp tục duy trì nòi giống đó là tiền công. Tiền công được định như vậy là
tiền công tối thiểu” [2- tr 744]. Tức là giới hạn thấp nhất của tiền lương phải
đảm bảo khôi phục lại sức lao động của con người [3- tr259]. Và tiền lương
cũng được quyết định bởi những quy luật quyết định giá cả của tất cả các
hàng hoá khác…, bởi quan hệ của cung đối với cầu, của cầu với cung [2-
tr736-747].Đảng và Nhà nước ta luôn quan tâm, cải cách và đổi mới chính
sách tiền lương cho phù hợp sự phát triển của nền kinh tế. Từ khi ban hành
Nghị định 235/HĐBT tháng 9/1985 về cải cách tiền lương trong cán bộ công
chức, đến đầu năm 1993, Chính phủ đã 21 lần điều chỉnh tiền lương. Nên từ
1993 đến nay, chính sách tiền lương đã có sự thay đổi theo hướng tích cực,
khắc phục những hạn chế cơ bản của chính sách tiền lương theo Nghị định
Vấn đề tiền lương ở Việt Nam
3
Họ tên: Vũ Hải Yến Lớp: Anh 3- khối 1 QTKD K49
235/HĐBT (1985) tạo sự hài hòa hơn về lợi ích giữa người lao động với
người sử dụng lao động là Nhà nước, với 4 nội dung cơ bản: Mức lương tối
thiểu; quan hệ tiền lương giữa các khu vực; các chế độ phụ cấp tiền lương và
cơ chế quản lý tiền lương, thu nhập, trong đó xác định mức tiền công, tiền
lương tối thiểu là căn cứ nền tảng để xác định giá cả sức lao động. Hình
thành bốn hệ thống thang, bảng lương riêng cho 4 khu vực là:
− Tiền lương của khu vực sản xuất kinh doanh của Nhà nước căn cứ trên
năng suất lao động, hiệu quả sản xuất kinh doanh để định ra mức tiền lương,
tiền thưởng tương đối hợp lý, đồng thời cho phép các doanh nghiệp tuỳ theo
kết quả sản xuất kinh doanh có thể giải quyết tiền lương tối thiểu gấp 1,5 lần
mức quy định chung.
− Tiền lương của lực lượng vũ trang được tiền tệ hóa.
− Tiền lương của khu vực hành chính, sự nghiệp được thiết kế theo ngạch
công chức phù hợp với chức danh và tiêu chuẩn chuyên môn, mỗi ngạch lại
có nhiều bậc để khuyến khích công chức phấn đấu vươn lên.
− Tiền lương của khu vực dân cư và bầu cử đều thống nhất, mỗi chức vụ chỉ
có một mức lương, nếu được tái cử thì có phụ cấp thâm niên tái cử.
Mức lương tối thiểu luôn được điều chỉnh theo sự biến động của giá trên thị
trường, cụ thể: mức tiền lương tối thiểu áp dụng chung từ 01/01/1993 là
120.000 đồng/tháng/người; từ 01/07/1997 là 144.000 đồng/tháng; từ
01/01/2000 là 180.000 đồng/tháng; từ 01/01/2001 là 210.000 đồng/tháng; từ
01/01/2002 là 290.000 đồng/tháng. Theo Nghị định số 118/2005/NĐ-CP
ngày 15/09/2005 của Chính phủ là 350.000 đồng/tháng (từ ngày 01/10/2005)
và từ 01/10/2006 theo Nghị định 94/2006/NĐ-CP là 450.000 đồng/tháng. Dự
kiến giai đoạn 2008 – 2012 điều chỉnh từ 450.000 đồng lên 990.000
đồng/tháng (từ ngày 01/01/2008 đã điều chỉnh từ 450.000đồng lên 540.000
đồng/tháng theo Nghị định 166/2007/NĐ-CP ngày 16/11/2007 quy định mức
lương tối thiểu chung)
Vấn đề tiền lương ở Việt Nam
4
Họ tên: Vũ Hải Yến Lớp: Anh 3- khối 1 QTKD K49
2. Về tiền lương tối thiểu trong doanh nghiệp
− Đối với các loại hình doanh nghiệp, tiền lương tối thiểu hiện nay được quy
định là khác nhau. Chính sách tiền lương đối với các doanh nghiệp được quy
định tại Bộ luật Lao động và các văn bản dưới luật như: Nghị định số
114/2002/NĐ-CP ngày 31/12/2002 của Chính phủ quy định chi tiết và hướng
dẫn thi hành một số điều của Bộ luật Lao động về tiền lương; Nghị định số
205/2004/NĐ-CP, Nghị định số 206/2004/NĐ-CP, Nghị định số
207/2004/NĐ-CP ngày 14/12/2004 của Chính phủ, Nghị định 94/2006/NĐ-
CP ngày 07/09/2006, Nghị định 03/2006/NĐ-CP ngày 06/01/2006 của Chính
phủ, Nghị định 167/2007/NĐ-CP ngày 16/11/2007, Nghị định 168/2007/NĐ-
CP ngày 16/11/2007 và các Thông tư hướng dẫn của Bộ Lao động – Thương
binh và Xã hội… Cụ thể:
− Đối với doanh nghiệp nhà nước, áp dụng mức thấp nhất bằng tiền lương tối
thiểu chung và cao nhất bằng 3 lần mức lương tối thiểu chung, cụ thể là từ
450.000 đến 1.350.000 đồng/tháng theo Nghị định 94/2006/NĐ-CP ngày
07/09/2006 của Chính phủ.
− Đối với doanh nghiệp tư nhân, công ty trách nhiệm hữu hạn, công ty cổ
phần, doanh nghiệp hợp tác xã có thuê lao động, doanh nghiệp gia đình có
thuê lao động là 450.000 đồng/tháng (từ ngày 01/10/2006).
− Đối với doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài được trả thấp hơn 710.000
đồng đến 870.000 đồng/tháng, tùy theo khu vực, lãnh thổ do Nhà nước quy
định (Nghị định 03/2006/NĐ-CP ngày 06/01/2006 của Chính phủ)[6- tr4-5].
Như vậy, đối với doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài thì mức
lương tối thiểu được quy định cao hơn. Và theo Nghị định 168/2007/NĐ-CP
ngày 16/11/2007, quy định mức lương tối thiểu vùng dùng để trả công đối
với người lao động làm công việc đơn giản nhất trong điều kiện lao động
bình thường cho doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài, cơ quan, tổ chức
nước ngoài, tổ chức quốc tế và cá nhân người nước ngoài tại Việt Nam (gọi
Vấn đề tiền lương ở Việt Nam
5
Họ tên: Vũ Hải Yến Lớp: Anh 3- khối 1 QTKD K49
chung là doanh nghiệp) thực hiện từ ngày 01/01/2008 theo các vùng như sau:
Mức 1.000.000 đồng/tháng áp dụng đối với doanh nghiệp hoạt động trên địa
bàn các quận thuộc thành phố Hà Nội, thành phố Hồ Chí Minh. Mức 900.000
đồng/tháng áp dụng đối với doanh nghiệp hoạt động trên địa bàn các huyện
thuộc thành phố Hà Nội, thành phố Hồ Chí Minh; các quận thuộc thành phố
Hải Phòng; thành phố Hạ Long thuộc tỉnh Quảng Ninh; thành phố Biên Hoà,
thị xã Long Khánh, các huyện Nhơn Trạch, Long Thành, Vĩnh Cửu và Tràng
Bom thuộc tỉnh Đồng Nai; thị xã Thủ Dầu Một, các huyện: Thuận An, Dĩ An,
Bến Cát và Tân Uyên thuộc tỉnh Bình Dương; thành phố Vũng Tàu thuộc
tỉnh Bà Rịa- Vũng Tàu. Mức 800.000 đồng/tháng áp dụng đối với doanh
nghiệp hoạt động trên địa bàn còn lại.
Và theo Nghị định 167/2007/NĐ-CP ngày 16/11/2007 quy định mức
lương tối thiểu vùng đối với người lao động làm việc ở công ty, doanh
nghiệp, hợp tác xã, tổ hợp tác, trang trại, hộ gia đình, cá nhân và các tổ chức
khác của Việt Nam có thể thuê mướn lao động. Với mức lương tối thiểu vùng
để trả công đối với người lao động làm công việc đơn giản nhất trong điều
kiện lao động bình thường ở các doanh nghiệp quy định tại Điều 1 Nghị định
được thực hiện từ ngày 01/01/2008 theo các vùng như sau: Mức 620.000
đồng/tháng áp dụng đối với doanh nghiệp hoạt động trên địa bàn các quận
thuộc thành phố Hà Nội, thành phố Hồ Chí Minh. Mức 580.000 đồng/tháng
áp dụng đối với doanh nghiệp hoạt động trên địa bàn các huyện thuộc thành
phố Hà Nội, thành phố Hồ Chí Minh; các quận thuộc thành phố Hải Phòng;
thành phố Hạ Long thuộc tỉnh Quảng Ninh; thành phố Biên Hoà, thị xã Long
Khánh, các huyện Nhơn Trạch, Long Thành, Vĩnh Cửu và Tràng Bom thuộc
tỉnh Đồng Nai; thị xã Thủ Dầu Một, các huyện: Thuận An, Dĩ An, Bến Cát và
Tân Uyên thuộc tỉnh Bình Dương; thành phố Vũng Tàu thuộc tỉnh Bà Rịa-
Vũng Tàu. Mức 540.000 đồng/tháng áp dụng đối với doanh nghiệp hoạt động
trên địa bàn còn lại.
Vấn đề tiền lương ở Việt Nam
6
Họ tên: Vũ Hải Yến Lớp: Anh 3- khối 1 QTKD K49
Như vậy, chính sách tiền lương trong doanh nghiệp đã có sự điều
chỉnh để đáp ứng với những biến động trên thị trường, nhằm đảm bảo cuộc
sống tối thiểu cho người lao động dưới tác động của các yếu tố chỉ số giá sinh
hoạt, điều kiện lao động…
II. Những hạn chế, bất cập trong chính sách tiền lương ở Việt Nam:
1. Tiền lương hiện nay chưa trả đúng sức lao động .
Việc trả đúng sức lao động không chỉ thể hiện trả đúng hao phí sức lao
động trong quá trình lao động mà thể hiện việc bố trí lao động đúng người ,
đúng việc đảm bảo trả lương đúng năng lực của người lao động cũng như
đúng năng suất , chất lượng và hiệu quả công việc .Thực trạng hiện nay, có
rất ít các sinh viên ra trường kiếm được việc làm ngay , nếu kiếm được việc
thì đa số là công việc tạm bợ ,công việc không phù hợp với cái họ được học ở
trường ,điều này thực sự là một sự lãng phí nguồn lực quốc gia . Những
người đáng lẽ làm công việc phù hợp với trình độ của mình thì bố trí cho họ
làm công việc qúa cao hay quá thấp với trình độ của họ và đương nhiên thì
mức lương trả cho họ cũng không phù hợp. Nếu so với mức lương của công
nhân ,viên chức trực tiếp sản xuất thì mức lương của viên chức chuyên môn ,
nghiệp vụ là thấp ,chưa khuyến khích họ nghiên cứu , học tập ,trau dồi kiến
thức chuyên môn nghiệp vụ .Ví dụ một kỹ sư sau khi học hết 12 năm học phổ
thông và qua 5 năm đại học chỉ được xếp mức lương hệ số 1,78 , trong khi
đó một công nhân qua học phổ thông và với thời gian đào tạo nghề khoảng
một năm , khi ra trường được xếp bậc hai, nhưng thông thường xếp bậc có hệ
số lương 1,62 , rõ ràng mức chênh lệch về trình độ, chuyên môn giữa hai đối
tượng là khá lớn nhưng chênh lệch về hệ số lương là không đáng kể .
2. Tiền lương có xu hướng tăng nhưng mức sống của người lao động
lại không tăng .
Điều này tưởng chừng là mâu thuẫn, nhưng lại không mâu thuẫn chút
nào bởi chỉ số giá sinh hoạt luôn luôn biến động qua các năm, đặc biệt giá
Vấn đề tiền lương ở Việt Nam
7
Họ tên: Vũ Hải Yến Lớp: Anh 3- khối 1 QTKD K49
hàng lương thực , thực phẩm và một số nhu yếu phẩm tăng cao , nên tiền
lương nói riêng và thu nhập của người hưởng lương giảm sút mạnh .
Vấn đề tiền lương ở Việt Nam
8
Họ tên: Vũ Hải Yến Lớp: Anh 3- khối 1 QTKD K49
Nếu lấy tháng 12/1993 (thời điểm thực hiện chế độ tiền lương mới với
mức lương tối thiểu là : 120.000 đồng / tháng ) để so sánh thì chỉ số giá sinh
hoạt tăng lên như sau :14,4% (Năm1994 ) ; 12,7% ( Năm 1995 ) ; 4,5% (Năm
1996 ).
Như vậy đến tháng 12/1996 chỉ số giá sinh hoạt tăng 43,73%, tiền
lương thực tế theo chế độ (kể cả một số chế độ Nhà nước giải quyết thêm cho
một số ngành ) chỉ còn xấp xỉ 76%so với tháng 12/1993.
Tiền lương phải đảm bảo những nhu cầu thiết yếu của bản thân, gia
đình người lao động và phải điều chỉnh kịp thời khi giá cả biến động quá giới
hạn cho phép .Chỉ có như vậy họ mới yên tâm, tận tụy với công việc .Đồng
thời ,đó cũng là tiền đề xóa bỏ tình trạng tham ô, hối lộ, rồi cơ quan, đơn vị
“bòn rút” tiền của nhà nước ,một tình trạng phổ biến và coi như quốc nạn .
3. Tỷ trọng tiền lương trong thu nhập thấp .
Trong điều kiện tiền lương và thu nhập thực tế của người lao động
giảm mạnh và tiền lương chiếm bộ phận nhỏ trong trong thu nhập của họ, hầu
hết,cơ quan đơn vị ,đoàn thể đều bằng cách này hay cách khác tìm nguồn
thu để trợ cấp thêm cho cán bộ, viên chức với mức phổ biến là từ 100.000
đồng đến 200.000 đồng /tháng, có nơi đến 700.000 đồng đến 800.000
đồng/tháng .Suy cho cùng các khoản này đều có nguồn gốc từ ngân sách nhà
nước , nhưng lại nằm ngoài quản lý của các cơ quan chức năng của nhà nước,
nằm ngoài ngoài kiểm soát của ngân sách nhà nước .
Tình hình đó làm cho tiền lương mất tác dụng, không tương xứng với
sức lao động bỏ ra, không còn là động lực thúc đẩy, khuyến khích người lao
động làm việc Nghiêm trọng hơn là dẫn đến tình trạng “chảy máu chất xám” ,
khá nhiều người có trình độ chuyên môn, có năng lực, có kinh nghiệm đã
rời bỏ các cơ quan đơn vi, tổ chức của mình để làm cho các doanh nghiệp
liên doanh hay các văn phòng đại diên của nước ngoài, với mức lương hậu
hĩnh , có một vị trí phù hợp và có cơ hội thăng tiến .
Vấn đề tiền lương ở Việt Nam
9
Họ tên: Vũ Hải Yến Lớp: Anh 3- khối 1 QTKD K49
Nguyên nhân của thực trạng trên có thể xuất phát từ việc tăng biên chế
(mặc dù nhà nước có chủ trương giảm biên chế, thực tế biên chế vẫn tăng )
Chỉ tính riêng khối quản lý Nhà Nước, Đảng, đoàn thể năm 1993 chỉ có
khoảng 200.000 người, năm 1998 tăng lên 300.000 người .
Mặc dù thời gian làm việc giảm xuống còn 5 ngày trong tuần, nhưng
thời gian lao động vẫn còn lãng phí . Việc tinh giản biên chế là một chủ
trương đúng của Đảng và Nhà Nước bởi, giảm biên chế là một biện pháp
nhằm giảm gánh nặng cho ngân sách nhà nước và làm cho bộ máy nhà nước
gọn nhẹ hơn hoạt động hiệu quả hơn .Tuy nhiên trong quá trình thực thi này
sinh nhiều vấn đề phức tạp (vấn đề trợ cập xã hội, thất nghiệp, ) . Mặt khác
tỷ lệ về hưu, nghỉ trước tuổi không lớn và điều quan trọng hơn là số cán bộ
công chức có đủ năng lực , trình độ không nhiều . Một cơ quan đơn vị muốn
hoạt động hiệu quả thì vẫn thương xuyên tuyển lực lượng lao động mới có
trình độ để đáp ứng mục tiêu sản xuất kinh doanh . Do vậy thực tế biên chế
không giảm .
Một nguyên nhân có thể kể đến là cơ chế lương, cơ chế phân phối,sử
dụng quỹ khen thưởng, phúc lợi và việc xác định đơn giá tiền lương, quản lý
lương chưa hợp lý, chưa phù hợp.
4. Hệ thống thang lương là chưa hợp lý .
Trong các doanh nghiệp Nhà Nước hệ thống bảng lương thiết kế phức
tạp, nhiều thang, bảng lương, nhiều mức lương nhưng bội số của nhiều thang
bảng lương còn mang tính bình quân, độ giãn cách 2 bậc lương còn nhỏ, chưa
có tác dụng khuyến khích công nhân, viên chức nâng cao tay nghề để nâng
bậc nâng lương . Hiện nay có 21 thang lương áp dụng đối với 63 nhóm ngành
, nghề ; 24 bảng lương của công nhân viên trực tiếp sản xuất kinh doanh áp
dụng đối với 179 chức danh nghề; một bảng lương của viên chức chuyên
môn nghiệp vụ thừa hành thiết kế thành 6 ngạch lương ; một bảng lương viên
chức quản lý doanh nghiệp cho 3 chức danh: Giám đốc, Phó giám đốc và Kế
toán trưởng.
Vấn đề tiền lương ở Việt Nam
10
Họ tên: Vũ Hải Yến Lớp: Anh 3- khối 1 QTKD K49
Bội số ở thang lương cơ khí, điện, điện điện tử tin học chỉ có 2,35 (bậc
thấp nhất 1,16 bậc cao nhất 2,73 ) .Ví dụ : Thang lương A12 của công nhân
sợi dệt bậc 3, bậc 4 là số đông và cấp bậc công việc thường ở loại này nhưng
hệ số lương bậc 3 so với bậc 2 chỉ tăng 7%, hệ số lương bậc 6 so với bậc 5
tăng 14%.
5. Mức tiền lương tối thiểu hiện nay là chưa phù hợp .
Bất kỳ Nhà Nước nào cũng phải thường xuyên quan tâm cải cách và
hoàn thiện chính sách tiền lương . ở nước ta trong những năm qua, chính sách
tiền lương cũng thường xuyên được cải tiến và đổi mới Nhà Nước ta đã phải
điều chỉnh tiền lương 21 lần .Tháng 4 năm 1993 thực hiện cải cách tiền lương
, ban hành nghị định 25/CP và 26/CP về chế độ tiền lương cho công nhân
viên chức khu vực hành chính sự nghiệp và sản xuất kinh doanh .
Từ đó tới nay mặc dù thang lương bảng lương và cơ chế quản lý chưa
thay đổi, nhưng mức lương tối thiểu thay đổi : 1/1/1993 là 120.000 đ ;
1/1/1997 là 144.000 đ;1/1/2000 là 180.000 đ và đến 01/01/2001 là 210.000 đ.
Mức lương tối thiểu là : 120.000 đ được áp dụng từ ngày 1/4/1993 là phù hợp
với thời điểm đó . Nhưng đến nay sản xuất đã phát triển, thu nhập quốc dân
tăng khá nhanh, nhu cầu đời sống của người dân tăng lên rõ rệt . Hơn nữa, giá
cả từ đó đến nay biến động nhiều .Việc tăng lương tối thiểu những năm qua
chưa tương xứng . Mặt khác việc xác định mức tiền lương tối thiểu năm 1993
chưa bao hàm hết các yếu tố của nhu cầu mức sống . Đối với các yếu tố đã
xác định thì mức thì mức còn thấp, mức lương tối thiểu hiện nay 210.000 đ
là rất thấp, không phù hợp với nhu cầu mức sống, không bảo đảm các yêu cầu
tái sản xuất giản đơn sức lao động .
6. Tiền lương chênh lệch quá lớn giữa các khu vực, ngành và các
doanh nghiệp .
Tiền lương và thu nhập giữa các doanh nghiệp có xu hướng chênh lệch
khá lớn . Nếu lấy số liệu kiểm tra tiền lương và thu nhập năm 1995 của 340
doanh nghiệp kể cả doanh nghiệp lỗ và lãi . Để so sánh thì thu nhập bình
Vấn đề tiền lương ở Việt Nam
11
Họ tên: Vũ Hải Yến Lớp: Anh 3- khối 1 QTKD K49
quân là : 1.100.000 đồng /tháng, doanh nghiệp có thu nhập bình quân cao
nhất là : 4.560.000 đồng /tháng, thấp nhất là : 104.000 đồng /tháng, chênh
lệch 44! lần .Trong khu vực hành chính sự nghiệp khi tiền lương thấp, tiền
lương thực tế bị giảm sút mạnh, không đủ sống nhiều Bộ, ngành, địa phương
từ cơ quan Đảng, đoàn thể, chính quyền đến các đơn vị sự nghiệp tùy theo
điều kiện, lợi thế của mình đã tìm mọi cách tạo nguồn thu để trợ cấp thêm
cho công nhân, viên chức với mức độ khác nhau . Nơi thấp nhất là 20.000
đồng đến 30.000 đồng /tháng, ở các cơ quan Trung ương, các thành phố lớn
phổ biến từ 100.000 đến 200.000 đồng /tháng, cá biệt có nơi 700.000 đồng
đến 800.000 đồng /tháng .
Đáng lẽ những nơi vùng sâu, vùng xa hoặc những nơi có điều kiện
khó khăn thì nên có chính sách về lương hợp lý hay có mức trợ cấp thỏa đáng
hơn . Đây không chỉ là đơn thuần là vấn đề tiền lương mà nó liên quan đến
vấn đề chính sách xã hội, vừa đảm bảo công bằng xã hội và thu hút được
người lao động có trình độ tham gia vào quá trình xóa đói giảm nghèo ở
những vùng kinh tế còn kém phát triển .
Mặt khác khác đó là vấn đề cân đối nguồn lao động giữa các ngành,
lĩnh vực trong phạm vi cả nước, có ngành thì ngày càng phình ra, có ngành
lại thu hẹp lại (thường là những ngành có lợi nhuận thấp) .
Tất cả những bất cập về tiền lương hiện nay là khó tránh khỏi, mỗi bất
cập hiện nay đều xuất phát từ nhiều nguyên nhân khác nhau và rồi đều có một
hậu quả là tiền lương không đảm bảo được chức năng cơ bản của nó và phát
sinh ra nhiều vấn đề phức tạp cần xã hội cần giải quyết . Do vây, để giải
quyết tốt vấn đề tiền lương không chỉ là vấn đề của các doanh nghiệp mà là
của cả các cơ quan nhà nước (với các chính sách xã hội ).
Vấn đề tiền lương ở Việt Nam
12
Họ tên: Vũ Hải Yến Lớp: Anh 3- khối 1 QTKD K49
PHẦN 3: NHỮNG GIẢI PHÁP VÀ KIẾN NGHỊ NHẰM
HOÀN THIỆN CHÍNH SÁCH TIỀN LƯƠNG Ở VIỆT NAM
I. Cơ sở giải quyết vấn đề:
Xuất phát từ các nguyên nhân gây ra sự bất cập đó để giải quyết các vấn
đề của tiền lương . Chính sách tiền lương hợp lý cần đạt các mục tiêu Tiền
lương phải thực sự là nguồn sống chính, đảm bảo cuộc sống của cán bộ, công
chức, viên chức và phải khuyến khích người lao động nỗ lực làm việc, trau
dồi kiến thức, phát huy sáng kiến, đóng góp nhiều hơn cho doanh nghiệp
.Mặt khác nâng cao hiệu lực quản lý, giám sát của Nhà Nước trong lĩnh vực
lao động và tiền lương ; tăng tính cạnh tranh của tiền lương giữa các khu vực,
các vùng lãnh thổ, các ngành, nghề trong nước, thúc đẩy quá trình hội nhập
của Việt Nam vào thị trường lao động trong khu vực và thế giới .
II. Các giải pháp:
− Một là, hoàn thiện chính sách tiền lương, tiền công theo hướng thị
trường. Tiền lương phải được coi là giá cả sức lao động, được hình thành
theo quy luật thị trường, dựa trên cung- cầu về sức lao động, chất lượng,
cường độ lao động và mức độ cạnh tranh việc làm. Thực hiện tốt, phấn đấu
rút ngắn lộ trình điều chỉnh tiền lương và trợ cấp xã hội giai đoạn 2008- 2012
đi đôi với kiểm soát lạm phát để đảm bảo thu nhập thực tế ngày càng tăng
cho người hưởng lương.
− Hai là, cần có chế độ, chính sách về tiền lương và phụ cấp đối với cán
bộ, công chức cơ sở cho phù hợp sự phát triển kinh tế thị trường. Các khoản
lương, thưởng, phụ cấp của người lao động phải được đảm bảo trở thành
những công cụ hữu hiệu để điều tiết quan hệ lao động, phản ánh đúng giá trị
sức lao động. Đó là những nguồn thu nhập để nuôi sống người lao động và
gia đình họ, từ đó mới tạo động lực khuyến khích họ làm việc có hiệu quả.
Mức lương tối thiểu phải đảm bảo nhu cầu sinh hoạt cần thiết để tái sản xuất
sức lao động và sự vận động của thị trường sức lao động.
Vấn đề tiền lương ở Việt Nam
13
Họ tên: Vũ Hải Yến Lớp: Anh 3- khối 1 QTKD K49
− Ba là, tăng cường phối hợp cơ chế 3 bên trong ban hành chính sách
tiền lương, hình thành cơ chế thỏa thuận tiền lương. Tăng cường sự tham gia
của đại diện người lao động và người sử dụng lao động vào hoạch định chính
sách, kế hoạch phát triển thị trường sức lao động. Cải thiện các điều kiện liên
quan đến sự phát triển của thị trường sức lao động như các thông lệ và luật
pháp quốc tế, môi trường hợp tác giữa đại diện của người lao động (tổ chức
công đoàn) và đại diện người sử dụng lao động (Phòng Thương mại và công
nghiệp Việt Nam, Liên minh Hợp tác xã Việt Nam) trong cơ chế 3 bên. Sự
tham gia của các đối tác xã hội khác như các hiệp hội nghề nghiệp, các tổ
chức chính trị – xã hội…
− Bốn là, cần quy định các nguyên tắc xây dựng thang lương, bảng lương
để người lao động và người sử dụng lao động có cơ sở xác định tiền lương,
đồng thời tăng cường công tác kiểm tra, thanh tra để đảm bảo quyền lợi của
người lao động.
− Năm là, hoàn thiện môi trường pháp lý, gắn cải cách tiền lương với cải
cách kinh tế, tạo sự gắn kết đồng bộ giữa các loại thị trường để thúc đẩy nhau
phát triển lành mạnh. Đẩy mạnh hoạt động tư pháp, củng cố cơ quan bảo vệ
luật pháp, thực hiện nghiêm túc công tác điều tra, thanh tra và xét xử nghiêm
minh, tạo môi trường lành mạnh cho phát triển kinh tê – xã hội.
− Sáu là, tăng cường sự quản lý và giám sát của Nhà nước đối với thị
trường sức lao động. Nâng cao hiệu lực và hiệu quả hoạt động của các cơ
quan quản lý nhà nước đối với hoạt động của thị trường này. Xử lý tốt các
trường hợp tranh chấp, bảo đảm lợi ích chính đáng của người lao động và
người sử dụng lao động.
− Bảy là, tạo cung lao động đáp ứng thị trường về số lượng, chất lượng
và cơ cấu ngành nghề, đặc biệt là tỷ lệ lao động đã qua đào tạo. Tăng cầu lao
động thông qua phát triển kinh doanh sản xuất dịch vụ trong các thành phần
kinh tế.
Vấn đề tiền lương ở Việt Nam
14
Họ tên: Vũ Hải Yến Lớp: Anh 3- khối 1 QTKD K49
KẾT LUẬN
Để tiền lương thực hiện hai chức năng cơ bản, đảm bảo cuộc sống cho
người lao động và tạo động lực cho người lao động là rất khó, song không
có nghĩa là không thực hiện được. Hiểu được bản chất tiền lương có lẽ là
cách tiếp cận những giải pháp nhanh chóng và đúng hơn cả. Tuy nhiên,
những nghiên cứu trên đây chỉ mang tính lý thuyết và khái quát theo quan
điểm chủ quan của cá nhân tôi, còn áp dụng vào thực tiễn là cả một vấn đề.
Nhưng có một cái nhìn bao quát thì dễ đi vào các vấn đề chi tiết, cụ thể. Đó
có lẽ là một hướng nghiên cứu mới mang tính thực tiễn, khó khăn hơn nhưng
lại rất thú vị .
Vấn đề tiền lương ở Việt Nam
15
Họ tên: Vũ Hải Yến Lớp: Anh 3- khối 1 QTKD K49
Danh mục tài liệu tham khảo:
1. C.Mác và F.Angghen tuyển tập, tập 1, NXB Sự thật, H1980.
2. C.Mác và F.Angghen toàn tập, tập 23, NXB Chính trị quốc gia,
H1993.
3. Nguyễn Tiệp, Chính sách tiền lương trong doanh nghiệp và cơ chế
thỏa thuận về tiền lương, Tạp chí Nghiên cứu kinh tế số 344/01-2007.
4. GS., TS. Nguyễn Công Nghiệp (chủ biên), Phân phối trong nền kinh tế
thị trường định hướng XHCN, NXB Chính trị quốc gia, H2006.
5. Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Hội nghị VI, Ban Chấp hành
Trung ương Khóa X, NXB Chính trị quốc gia, H2008.
6. Tạp chí lao động xã hội.
7. Tạp chí lao động và công đoàn.
8. Tạp chí thị trường lao động.
9. Tạp chí kinh tế và phát triển.
Vấn đề tiền lương ở Việt Nam
16
Họ tên: Vũ Hải Yến Lớp: Anh 3- khối 1 QTKD K49
Vấn đề tiền lương ở Việt Nam
17