Tải bản đầy đủ (.docx) (15 trang)

THÂM HỤT THƯƠNG MẠI BÀI TOÁN NAN GIẢI Ở VIỆT NAM

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (192.91 KB, 15 trang )

TRƯỜNG ĐẠI HỌC NGÂN HÀNG TP. HỒ CHÍ MINH
LỚP: 111_T10
TIỂU LUẬN MÔN KINH TẾ VĨ MÔ
THÂM HỤT THƯƠNG MẠI
BÀI TOÁN NAN GIẢI Ở VIỆT NAM
TP.HỒ CHÍ MINH
Ngày 20/12/2011
TIỂU LUẬN MÔN KINH TẾ VĨ MÔ
THÂM HỤT THƯƠNG MẠI
BÀI TOÁN NAN GIẢI Ở VIỆT NAM
I. LỜI MỞ ĐẦU

Thâm hụt thương mại là một vấn đề kinh tế đã và đang được nhiều quốc gia hết
sức quan tâm và chú trọng bởi nó có những tác động to lớn tới nền kinh tế. Từ khi thực
hiện cải cách thị trường, Việt Nam đã bắt đầu thực hiện tự do hóa thương mại và đầu
tư, làm gia tăng sự liên hệ với chu kỳ kinh tế và sự dịch chuyển luồng vốn quốc tế. Đặc
biệt là sự kiện Việt Nam trở thành thành viên của Tổ chức Thương mại thế giới (WTO),
rất nhiều thách thức đặt ra đối với nền kinh tế khi mở cửa: cạnh tranh gay gắt cùng với
đó là đối mặt với cuộc khủng hoảng tài chính và suy giảm kinh tế thế giới.
Hệ quả tất yếu không chỉ riêng của Việt Nam mà đối với hầu hết các nền kinh
tế đó là thâm hụt thương mại tăng lên, dấy lên lo ngại về tính bền vững của chính sách
thương mại. Do đó, khi tìm hiểu nền kinh tế vĩ mô của nước ta không thể không nhắc
tới vấn đề đáng quan tâm này – một bài toán nan giải chưa tìm ra được giải pháp toàn
diện.
Người viết chọn vấn đề trên để nghiên cứu và viết bài tiểu luận nhằm mục
đích hình thành khái quát về cán cân thương mại và từ đó đi sâu hơn về tình trạng
thâm hụt cán cân thương mại của Việt Nam, giúp mọi người bổ sung thêm kiến thức và
có cái nhìn tổng quan về kinh tế vĩ mô.
Đề tài làm tiểu luận có phạm vi rộng, đòi hỏi nhiều kiến thức, nguồn tư liệu và
liên hệ thực tiễn. Đây là lần đầu nghiên cứu một vấn đề vĩ mô, kiến thức và sự am hiểu
của người viết về vấn đề còn nhiều hạn chế nên bài tiểu luận không tránh khỏi thiếu sót


vì vậy rất mong nhận được ý kiến đóng góp của thầy và các bạn để bài viết được hoàn
thiện hơn. Người viết bài tiểu luận xin chân thành cảm ơn.

II. NỘI DUNG
1. Cán cân thương mại là gì ?
2
Cán cân thanh toán quốc tế (The Balance Of Payments – viết tắt là BOP hoặc
BP) là một công cụ đo lường tất cả các giao dịch quốc tế phát sinh giữa người dân
trong nước và người nước ngoài qua một thời kỳ nhất định.
Cấu trúc cán cân thanh toán quốc tế :
• Tài khoản vãng lai (current account)
• Tài khoản vốn (capital account)
• Tài khoản tài chính (financial account)
• Sai số thống kê
• Dự trữ ngoại hối
Cán cân thương mại là một mục trong tài khoản vãng lai của cán cân thanh
toán quốc tế, phản ánh những thay đổi trong xuất khẩu và nhập khẩu hàng hóa của một
quốc gia trong một khoảng thời gian nhất định (quý hoặc năm) cũng như mức chênh
lệch (xuất khẩu trừ đi nhập khẩu) giữa chúng. Điểm lưu ý là cán cân thương mại là cán
cân hữu hình bởi các hàng hóa ở đây có thể quan sát bằng mắt khi di chuyển qua biên
giới.
Trạng thái của cán cân thương mại thường rơi vào 3 trạng thái :
• Khi mức chênh lệch là lớn hơn 0, thì cán cân thương mại có thặng dư.
• Khi mức chênh lệch nhỏ hơn 0, thì cán cân thương mại có thâm hụt.
• Khi mức chênh lệch đúng bằng 0, cán cân thương mại ở trạng thái cân bằng.
Vấn đề đặt ra là khi cán cân thương mại có thâm hụt có đồng hành với sự trì
trệ của GDP hay đó là dấu hiệu của sự tăng trưởng kinh tế. Thâm hụt thương mại
thường diễn ra ở nền kinh tế của các nước đang phát triển. Tuy nhiên, nếu nền kinh tế
hấp thụ vốn đầu tư tốt, đầu tư hiệu quả thì thâm hụt thương mại cao là tiền đề cho sự
tăng trưởng trong các giai đoạn phát triển tiếp theo và ngược lại.

2. Thực trạng cán cân thương mại Việt Nam
Để có một cái nhìn tổng quát nhất về cán cân thương mại Việt Nam, chúng ta
cần tìm hiểu từ khi đất nước tiến hành cải cách kinh tế và mở cửa đối với thương mại
quốc tế. Nhưng do có hạn chế về thời gian và kiến thức, bài tiểu luận sẽ tập trung chủ
yếu phân tích cán cân thương mại vào giai đoạn 2008 – 2011.
Bảng số liệu sau sẽ tóm lược lại thực trạng cán cân thương mại giai đoạn
2000-2007.
a. Giai đoạn 2000-2007
Bảng số liệu về kim ngạch, tốc độ tăng của xuất khẩu, nhập khẩu và cán
cân thương mại giai đoạn 2000-2007
Năm
Kim ngạch
xuất khẩu
Tốc độ tăng
xuất khẩu
Kim ngạch
nhập khẩu
Tốc độ tăng
nhập khẩu
Cán cân
thương mại
3
(tr.USD) (%) (tr.USD) (%) (tr.USD)
2000 14.482 25,5 15.636 33,2 -1.154
2001 15.027 3,8 16.162 3,4 -1.135
2002 16.705 11,2 19.733 21,8 -3.028
2003 20.176 20,8 25.226 27,8 -5.050
2004 26.500 31,3 31.516 24,9 -5.016
2005 32.230 21,6 36.880 17,0 -4.650
2006 39.600 22,8 44.410 20,4 -4.810

2007 48.400 22,2 60.800 36,9 -12.400
Giá trị xuất nhập khẩu của nước ta tăng nhanh là kết quả của cải cách thị
trường được Việt Nam thực hiện từ giữa thập kỷ 90, thể hiện thông qua ký kết các hiệp
định thương mại song phương, gia nhập WTO, sức cạnh tranh hàng xuất khẩu tăng lên,
đầu tư trực tiếp nước ngoài chảy vào ở mức cao, nhập khẩu máy móc và công nghệ
cũng tăng mạnh. Giai đoạn này thâm hụt thương mại có chiều hướng gia tăng, đặc biệt
tăng mạnh trong năm 2007: thâm hụt gấp hơn 2,5 lần năm 2006.
b. Năm 2008
Đây là năm tình hình thế giới và trong nước có nhiều biến động phức tạp, khó
lường có tác động không nhỏ đến sự phát triển kinh tế-xã hội nước ta nói chung và cán
cân thương mại nói riêng. Giá dầu thô và giá nhiều loại nguyên liệu, hàng hóa khác
nhau trên thị trường tăng mạnh trong những tháng giữa năm kéo theo sự tăng giá ở
mức cao của hầu hết các mặt hàng trong nước; lạm phát xảy ra tại nhiều nước; khủng
hoảng tài chính toàn cầu dẫn đến nền kinh tế thế giới suy thoái trên quy mô sâu rộng;
thiên tai, dịch bệnh đối với cây trồng vật nuôi liên tiếp xảy ra trên địa bàn cả nước gây
ảnh hưởng đến sản xuất và đời sống dân cư.
Theo số liệu từ Tổng cục Thống kê, kim ngạch xuất khẩu cả năm 2008 đạt
62,9 tỷ USD, tăng 29,5% so với năm 2007, bao gồm khu vực có vốn đầu tư nước ngoài
(kể cả dầu thô) đạt 34,9 tỷ USD, tăng 25,7%, đóng góp 49,7% vào mức tăng chung của
xuất khẩu; khu vực kinh tế trong nước đạt 28 tỷ, tăng 34,7%, đóng góp 50,3%. Trong
tổng kim ngạch hàng hóa xuất khẩu năm 2008, nhóm hàng công nghiệp nặng và
khoáng sản chiếm tỉ trọng 31%, nhóm hàng nông sản chiếm 16,3%. Kim ngạch xuất
khẩu năm 2008 của các loại hàng hóa đều tăng so với năm 2007, chủ yếu là do sự tăng
giá trên thị trường thế giới.
Kim ngạch nhập khẩu hàng hóa năm 2008 ước tính 80,4 tỷ USD, tăng 28,3%
so với năm 2007, bao gồm khu vực kinh tế trong nước đạt 51,8 tỷ USD, tăng 26,5%;
khu vực có vốn đầu tư nước ngoài đạt 28,6 tỷ USD, tăng 31,7%. Trong tổng kim ngạch
4
hàng hóa nhập khẩu năm 2008, tư liệu sản xuất chiếm 88,8%; hàng tiêu dùng chiếm
7,8%; vàng chiếm 3,4% (năm 2007 tỷ trọng của 03 nhóm này tương ứng là: 90,4%;

7,5%; 2,1%). Nếu loại trừ yếu tố tăng giá của một số mặt hàng thì kim ngạch xuất khẩu
năm nay chỉ tăng 21,4% so với năm 2007.
Tuy tốc độ tăng trưởng xuất khẩu vượt tốc độ tăng trưởng nhập khẩu nhưng
nhập siêu năm 2008 là cao nhất từ trước đến nay, ước tính 17,5 tỷ USD, tăng 24,1% so
với năm 2007, bằng 27,8% tổng kim ngạch xuất khẩu. Báo động đối với Việt Nam là
thâm hụt thương mại đã đạt ở mức đỉnh điểm, đặc biệt là thâm hụt thương mại với
Trung Quốc. Trong tổng thâm hụt 17,5 tỷ USD hàng hóa của Việt Nam với thế giới thì
riêng thâm hụt với Trung Quốc đã lên tới 10,8 tỷ USD (cao hơn 1,7 tỷ USD so với năm
2007), tiếp đến là các nước ASEAN và Hàn Quốc… chỉ thặng dư với EU và Hoa Kỳ.
c. Năm 2009
Hoạt động thương mại năm 2009 chịu ảnh hưởng không nhỏ từ cuộc khủng
hoảng tài chính 2008, thị trường xuất khẩu bị thu hẹp đáng kể, nhu cầu nhập khẩu hàng
hóa của Việt Nam và giá cả quốc tế giảm sút mạnh.
Kim ngạch xuất khẩu hàng hóa năm 2009 đạt khoảng 56,6 tỷ USD, giảm 9,7%
so với năm 2008, bao gồm: khu vực kinh tế trong nước đạt 26,7 tỷ USD, giảm 5,1% ,
đóng góp 23,5% mức giảm chung của xuất khẩu hàng hóa cả năm; khu vực có vốn đầu
tư nước ngoài (kể cả dầu thô) đạt 29,9 tỷ USD, giảm 13,5%, đóng góp 76,5%. Nếu
không kể dầu thô thì kim ngạch xuất khẩu hàng hóa của khu vực có vốn đầu tư nước
ngoài giảm 2,2% so với năm 2008.
Kim ngạch nhập khẩu hàng hóa năm 2009 ước đạt 68,8 tỷ USD, giảm 14,7%
so với năm 2008; trong đó: khối doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài đạt 24,87 tỷ
USD, chiếm tỷ trọng 36,1% , giảm 10,8%; khu vực kinh tế trong nước đạt 43,9 tỷ
USD, giảm 16,8% so với năm 2008. Thị trường nhập khẩu của nước ta thì châu Á vẫn
chiếm tỉ trọng lớn nhất là 77,8% tổng kim ngạch nhập khẩu cả nước. Trong đó, từ
ASEAN chiếm hơn 19,8%, các nước Đông Á chiếm 53,9%, riêng Trung Quốc chiếm
hơn 23,2%.
Nhập siêu trở nên đáng chú ý hơn vào cuối năm khi tốc độ hồi phục của nhập
khẩu nhanh hơn nhiều so với xuất khẩu. Năm 2009 là năm mà cán cân thương mại
nghiêng về nhập khẩu, mặc dù mức độ sụt giảm xuất khẩu chậm hơn nhập khẩu, nhưng
năm 2009 Việt Nam vẫn nhập siêu với mức độ rất lớn, lên tới 12,2 tỷ USD, tuy giảm

32,1% so với năm 2008 nhưng đã bằng 21,6% tổng kim ngạch xuất khẩu hàng hóa cả
năm 2009.
d. Năm 2010
Năm 2010, sự phục hồi của nền kinh tế thế giới, đặc biệt là của các thị trường
truyền thống, giá của nhiều nhóm hàng và nhu cầu thế giới tăng trở lại đã tạo điều kiện
tốt hơn cho hàng hóa xuất khẩu của Việt Nam, góp phần cải thiện cán cân thanh toán.
Năm 2010, kết quả xuất khẩu đạt mức tăng trưởng cao vượt mức kế hoạch; tốc độ tăng
5
xuất khẩu đã cao hơn tốc độ tăng nhập khẩu; kim ngạch xuất khẩu bình quân ước đạt
5,96 tỷ USD/tháng là mức cao nhất từ trước tới giờ.
Kim ngạch xuất khẩu hàng hóa năm 2010 đạt 71,6 tỷ USD, tăng 25,5% so với
năm 2009 và tăng 18% so với kế hoạch (kế hoạch là 60,54 tỷ USD). Trong đó khu vực
doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài tiếp tục đóng vai trò chủ đạo trong tăng trưởng
xuất khẩu và chiếm tỉ trọng ngày càng tăng, kim ngạch của khu vực vốn có đầu tư nước
ngoài (kể cả dầu thô) đạt khoảng 38,8 tỷ USD, chiếm 54% kim ngạch xuất khẩu cả
nước, tăng 27,8%, nếu trừ dầu thô đạt khoảng 33,9 tỷ USD, tăng 40,1%; khu vực kinh
tế trong nước đạt khoảng 32,8 tỷ USD, chiếm 46%, tăng 22,7% so với năm 2009.
Doanh nghiệp FDI tham gia xuất khẩu hầu hết các mặt hàng chủ lực và chiếm
tỉ trọng cao trong nhiều mặt hàng, đặc biệt là công nghiệp chế biến. Nhóm hàng nông,
lâm, thủy sản ước đạt 15,1 tỷ USD, chiếm 21% ; nhóm hàng khoáng sản ước đạt 7,9 tỷ
USD, chiếm 11,1%; nhóm hàng công nghiệp chế biến ước đạt 38,5 tỷ USD, chiếm
53,8% trong tổng kim ngạch xuất khẩu.
Thị trường xuất khẩu cũng tăng trên tất cả các khu vực thị trường, trong đó thị
trường châu Á – thị trường chiếm tỉ trọng lớn nhất trong cơ cấu thị trường xuất khẩu
Việt Nam, tăng 32,6%; tiếp đó đến thị trường châu Mỹ ước tăng 25,8%; thị trường
châu Âu ước tăng 18,2%; thị trường châu Phi – Tây Á – Nam Á ước tăng 45% và thấp
nhất là thị trường châu Đại Dương tăng 18,2%.
Kim ngạch nhập khẩu đạt 84 tỷ USD, tăng 20,1% so với năm trước, trong đó
khu vực kinh tế trong nước đạt 47,5 tỷ USD, chiếm 56%, tăng 8,3% so với năm 2009;
khu vực có vốn đầu tư nước ngoài đạt 36,5 tỷ USD, chiếm 43%, tăng 39,9% so với

năm 2009. Cơ cấu kim ngạch hàng hóa nhập khẩu năm 2010 không có sự thay đổi lớn
so với năm trước, trong đó nhóm tư liệu sản xuất vẫn chiếm tỉ trọng cao nhất 90,2%;
nhóm hàng vật phẩm tiêu dùng giảm từ 9,3% xuống 8,6%; nhóm vàng và các sản phẩm
vàng tăng từ 0,5% lên 1,2%.
Tốc độ tăng cao của kim ngạch hàng hóa xuất, nhập khẩu năm nay có phần đóng
góp khá lớn của khu vực có vốn đầu tư nước ngoài với mức tăng nhập khẩu 39,9% cao
hơn mức tăng xuất khẩu 27,8%. Kim ngạch xuất khẩu của khu vực này chiếm 54,2%
(nếu không kể dầu thô là 47,3%), kim ngạch nhập khẩu chiếm 43,4% tổng kim ngạch
nhập khẩu.
Nhập siêu hàng hóa năm 2010 ước đạt 12,4 tỷ USD, bằng 17,3% tổng kim
ngạch hàng hóa xuất khẩu, giảm 4,3% so với tỷ lệ nhập siêu so với tổng kim ngạch
hàng hóa xuất khẩu năm 2009. Một điểm đáng báo động trong cán cân thương mại đó
là nhập siêu từ Trung Quốc đã nâng lên mức báo động: ước đạt 12,7 tỷ USD, tăng gấp
8 lần trong 8 năm từ 2002 đến 2010.
Nhập siêu của Việt Nam giai đoạn 2000-2010
6
e. Năm 2011 (11 tháng đầu năm)
Kim ngạch xuất khẩu hàng hóa 11 tháng đầu năm đạt 87,2 tỷ USD, tăng
34,7% so với cùng kỳ năm 2010, bao gồm: khu vực kinh tế trong nước đạt 37,8 tỷ
USD, tăng 27,7%; khu vực có vốn đầu tư nước ngoài (kể cả dầu thô) đạt 49,4 tỷ USD,
tăng 40,7%. Tính đến hết tháng 11 có 23 nhóm/mặt hàng có kim ngạch xuất khẩu trên
1 tỷ USD, trong đó có 5 nhóm/mặt hàng có kim ngạch trên 5 tỷ USD, đó là: hàng dệt
may và may mặc ước đạt 12,8 tỷ USD; dầu thô ước đạt 6,7 tỷ USD; điện thoại các loại
và linh kiện ước đạt 6,2 tỷ USD; giầy, dép các loại ước đạt 5,7 tỷ USD; thủy sản ước
đạt 5,5 tỷ USD.
Về thị trường, xuất khẩu sang các thị trường đều có mức tăng trưởng khá cao:
xuất khẩu sang ASEAN tăng 30,6% và chiếm tỷ trọng 14,1%; xuất khẩu sang Nhật Bản
tăng 38,2% và chiếm tỷ trọng 11,0%; xuất khẩu sang thị trường Mỹ tăng 19,2% và
chiếm tỷ trọng hơn 17,6%; xuất khẩu sang EU tăng 48,2% và chiếm tỷ trọng 17,0%.
Kim ngạch nhập khẩu 11 tháng đầu năm đạt 96,1 tỷ USD, tăng 26,4% so với

cùng kỳ năm 2010, bao gồm: khu vực kinh tế trong nước đạt 52,6 tỷ USD, tăng 23%;
khu vực có vốn đầu tư nước ngoài đạt 43,5 tỷ USD, tăng 30,8% so với cùng kỳ, chiếm
tỷ trọng 45,3% tổng kim ngạch nhập khẩu cả nước.
Như vậy, nhập siêu 11 tháng ước tính 8,9 tỷ USD, chiếm 10,22% tổng kim
ngạch xuất khẩu; trong đó, khối doanh nghiệp có vốn đầu tư nước (không kể dầu thô)
nhập siêu hơn 862 triệu USD. Tỷ lệ nhập siêu giảm dần, chủ yếu từ các nước như:
ASEAN 59,0%; Trung Quốc 126,6%; Hàn Quốc 167,5%; Đài Loan 371,0%;… Tỷ lệ
xuất siêu từ Mỹ 74,3%; Ôxtrâylia 15,5%; Đức 32,8%; Pháp 40.0%; Hồng Kông 51,5%;
Nhật Bản 2,15%; …
Dự báo xuất khẩu tháng 12 tiếp tục tăng, nếu không có yếu tố đột biến, khả
năng tổng kim ngạch xuất khẩu năm 2011 đạt khoảng 96 tỷ USD, tăng 33% so với năm
2010, tăng 33% so với năm 2010, vượt chỉ tiêu Quốc hội đề ra (tăng 10%); nhập siêu
năm 2011 khoảng 10 tỷ USD, bằng 10,4% kim ngạch xuất khẩu, thấp hơn chỉ tiêu
Quốc hội (không vượt quá 18% kim ngạch xuất khẩu) cũng như của Chính phủ (không
quá 16% kim ngạch xuất khẩu).
Trong mấy năm gần đây, nền kinh tế nước ta đã trải qua những thăng trầm do
ảnh hưởng của cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu, nền kinh tế tăng trưởng cao
nhưng chưa ổn định, lạm phát tăng cao (năm 2008) và đặc biệt là tình trạng thâm hụt
thương mại luôn ở mức đáng báo động, khi mà tỷ lệ thâm hụt thương mại so với GDP
vượt trên 10%. Nội dung tiếp theo sẽ trình bày nguyên nhân của thâm hụt thương mại
và những giải pháp để cải thiện cán cân thương mại ở Việt Nam.
3. Nguyên nhân
7
a. Nguyên nhân khách quan
Đối với nước ta hiện nay, Công nghiệp hóa-Hiện đại hóa là nhiệm vụ, ưu tiên
hàng đầu của Đảng và nhà nước với mục tiêu đặt ra là đến năm 2020 đưa nước ta cơ
bản thành một nước công nghiệp. Việt Nam là nước đang phát triển, nền kinh tế chưa
đủ tiềm lực để sản xuất các mặt hàng về công nghiệp hay những mặt hàng đòi hỏi kỹ
thuật cao, để có thể đổi mới và phát triển phải phụ thuộc khá nhiều vào nguồn vốn,
công nghệ của nước ngoài. Bởi vậy, việc chúng ta nhập siêu liên tục từ năm 1986 đến

nay là điều không thể tránh khỏi. Không thể nói nhập siêu là điều không tốt, nếu như
chúng ta sử dụng nhập siêu để cải tiến máy móc, thiết bị; phát triển cơ sở hạ tầng kỹ
thuật… phục vụ cho công cuộc kiến thiết đất nước. Khi mà một đất nước nhập khẩu
những hàng hóa có thể sản xuất được, hay là cho nhập khẩu những sản phẩm không
cẩn thiết và nhập với tỉ lệ quá lớn hoặc quá phụ thuộc vào một thị trường thì điều đó là
rất đáng lo ngại.
Một nhân tố khác góp phần không nhỏ trong việc gia tăng thâm hụt thương mại
những năm gần đây là cuộc khủng hoảng tài chính và suy thoái kinh tế toàn cầu năm
2008. Kim ngạch xuất khẩu sang các thị trường xuất khẩu chính đồng loạt giảm mạnh
trong năm 2009, trong đó có Mỹ-thị trường xuất khẩu lớn nhất củaViệt Nam, kinh tế
Mỹ suy thoái đã có những tác động không nhỏ tới hoạt động xuất khẩu của Việt Nam.
Cuộc khủng hoảng tài chính và suy thoái kinh tế gây ra những biến động chưa từng có
về giá cả xuất nhập khẩu, gây ra áp lực tămg chi phí nhập khẩu, xuất khẩu gặp nhiều
khó khăn. So với năm 2008, kim ngạch xuất khẩu năm 2009 có sự sụt giảm rõ rệt ở các
thị trường chính: thị trường Mỹ giảm 5,5%, EU giảm 14,4%, ASEAN giảm 16,4%,
Nhật Bản giảm 27,7%. Những thị trường này mới bắt đầu có dấu hiệu phục hồi từ năm
2010.
Hơn hai thập kỷ hội nhập, Việt Nam vẫn đang tiếp tục đẩy mạnh tự do hóa đa
phương thương mại và đầu tư, gia nhập Hiệp hội các nước Đông Nam Á (ASEAN),
tham gia hiệp định mậu dịch tư do ASEAN, Diễn đàn kinh tế châu Á-Thái Bình Dương
(APEC), ký hiệp định thương mại song phương với Hoa Kỳ (BTA)…và đặc biệt là sự
kiện gia nhập tổ chức thương mại thế giới WTO vào năm 2006. Sự kiện này mở ra
những cơ hội mới cho sự phát triển đất nước nhưng cùng với đó là những thách thức to
lớn. Việt Nam đang trong thời kỳ thực hiện các cam kết về giảm thuế quan và các hạn
chế thương mại, mở cửa thị trường theo các cam kết quốc tế. Một số thay đổi quan
trọng tác động tới cán cân thương mại là: mức thuế nhập khẩu bình quân đối với hàng
nông sản từ mức hiện hành là 23,5% giảm xuống còn 20,9% thực hiện trong vòng 5-7
năm, trong khi đó mức thuế suất bình quân chung của nền kinh tế giảm từ mức hiện
hành là 17,4% xuống còn 13,4%, mức thuế ngành công nghiệp giảm tương ứng từ
16,8% hiện hành xuống 12,6%. Hệ quả tất yếu là kim ngạch nhập khẩu tăng nhanh hơn

xuất khẩu trong ngắn hạn và xu hướng này sẽ còn tiếp tục gia tăng khi Việt Nam thực
hiện đầy đủ các cam kết khi gia nhập WTO.
Các doanh nghiệp Việt Nam vốn quen với vệc sản xuất những hàng hóa phục vụ
thị trường nội địa trong điều kiện có bảo hộ bằng thuế quan hoặc hàng rào phi thuế
8
quan thì nay phải chịu áp lực cạnh tranh với các doanh nghiệp nước ngoài, đây là một
thách thức không nhỏ trong việc tìm kiếm thị trường, nâng cao chất lượng sản phẩm…
Không chỉ cạnh tranh ở thị trường ngoài nước, thị trường nội địa cũng chịu sức ép cạnh
tranh khốc liệt. Các mặt hàng xuất khẩu sẽ gặp khó khăn do chưa ứng phó một cách
hiệu quả các rào cản thương mại và biến động khó lường của thị trường thế giới, các
mặt hàng nhập khẩu ồ ạt tràn vào thị trường nội địa sẽ dẫn tới thâm hụt cán cân thương
mại, nhập siêu gia tăng nhanh chóng nếu không có những sự thích nghi kịp thời.
b. Nguyên nhân chủ quan
Thâm hụt thương mại ở Việt Nam không chỉ do những nguyên nhân khách quan
mà còn có sự đóng góp không nhỏ của những nguyên nhân nội tại của nền kinh tế cũng
như các chính sách kinh tế chưa phù hợp với những biến động của thị trường.
Thực trạng đầu tiên cần được xét đến đó là nước ta vẫn là một nước xuất thô,
nhập tinh. Hiện nay, các mặt hàng có tiềm năng xuất khẩu hàng đầu của Việt Nam là
các mặt hàng từ tài nguyên thiên nhiên, nông sản và công nghiệp nhẹ, sử dụng lao động
trình độ thấp. Những sản phẩm này chủ yếu là ở dạng thô hoặc chỉ được sơ chế, chất
lượng thấp và sản phẩm không đa dạng. Hệ quả tất yếu đó là sẽ hạn chế khả năng tăng
giá trị của sản phẩm, giảm sức cạnh tranh. Trong khi đó, nước ta lại nhập khẩu phần
lớn mặt hàng thiết yếu, dù giá cả hàng nhập khẩu từ nước ngoài không hề rẻ nhưng vẫn
phải nhập để phục vụ sản xuất.
Các số liệu trong cán cân thương mại thể hiện rằng cơ cấu và giá trị các mặt
hàng xuất khẩu của Việt Nam có khả năng thu ngoại tệ không cao, giá cả biến động
phụ thuộc rất nhiều vào giá cả thị trường thế giới. Các mặt hàng như than đá, dầu thô,
gạo, cà phê, cao su, hàng may mặc, giày dép là những mặt hàng xuất khẩu chủ lực của
nước ta. Nhiều mặt hàng đã phát huy hết công suất sản xuất và không thể khai thác tiếp
nhằm đảm bảo tính bền vững dài hạn (như dầu thô, tân đá,…) hay một số nhóm hàng

bị tác động nhiều của thời tiết (như nông sản, thủy sản,…); cùng với đó là yêu cầu khắt
khe của thị trường và sự cạnh tranh tăng lên.
Các rào cản ngày càng nhiều với hàng hóa xuất khẩu củaViệt Nam: kể từ vụ
kiện chống bán phá giá đầu tiên đối với gạo vào năm 1994 do Clombia khởi sự, tính
đến nửa đầu năm 2010 Việt Nam đã vướng phải 39 vụ, đứng thứ 7 trong số 100 nước
bị kiện nhiều nhất; xu hướng này có chiều hướng gia tăng khi nước ta gia nhập WTO.
Ngoài ra còn những nguyên nhân như: số lượng các doanh nghiệp xuất khẩu còn ít,
kinh nghiệm còn ít, thiếu sự đoàn kết và thống nhất, thiếu liên kết với nguồn cung xuất
khẩu; đội ngũ cơ quan, chuyên gia, phương tiện kỹ thuật, tiền bạc đầu tư để có được
kết quả, ý kiến tư vấn dự báo thị trường chưa thật sự tương xứng…
Không chỉ xuất khẩu, nhập khẩu cũng không ít những yếu kém và bất cập.
Trong cơ cấu nhập khẩu, nước ta nhập khẩu một lượng lớn tư liệu sản xuất, nhóm hàng
nguyên nhiên, vật liệu chiếm phần lớn còn lại là nhóm hàng máy móc, thiết bị. Thực tế
cho thấy hiện nay các ngành được xem là thế mạnh trong xuất khẩu của Việt Nam như:
dệt may, giày da, chăn nuôi thủy sản, công nghiệp chế biến … đều phải nhập khẩu một
lượng lớn nguyên liệu.
9
Nguyên nhân là do công nghệ lạc hậu, năng suất và chất lượng hàng hóa thấp
hoặc chưa thể sản xuất được để đáp ứng nhu cầu trong nước buộc lòng phải nhập khẩu
để đáp ứng nhu cầu của doanh nghiệp và người sản xuất. Điều này càng bộc lộ rõ khi
mà yêu cầu của thị trường thế giới ngày càng khắt khe hơn đối với hàng hóa nước ta:
trong khi cá tra, cá ba sa của người dân bán không hết mà doanh nghiệp lại thiếu hụt
nguồn nguyên liệu, nhiều nguyên liệu để sản xuất thức ăn chăn nuôi phải nhập khẩu
100% hay với vị thế là nước xuất khẩu gạo thứ 2 thế giới mức giá gạo Việt Nam vẫn
thấp hơn rất nhiều hay trong ngành da giày trên thị trường thế giới gần nhhư không
xuất hiện bóng dáng một đôi giày mang nhãn hiệu Việt Nam do nước ta hiện chỉ làm
gia công xuất khẩu mà chưa thể tự sản xuất.
Đầu tư tăng, nhập khẩu tăng theo, nhưng nhập khẩu mà không sử dụng hiệu quả
vừa không bù đắp được cho chi phí bỏ ra vừa gây thất thoát nguồn lực trong nước, tăng
trưởng kinh tế dưới mức tiềm năng. Việc ưa thích sử dụng hàng hóa xa xỉ cũng là một

nguồn đóng góp cho nhập khẩu gia tăng, khi thu nhập người dân tăng lên thì từ phương
tiện đi lại đến nội thất, phương tiện giải trí đều có xu hướng dùng hàng hóa của nước
ngoài với chi phí không hề nhỏ dù cho có hàng rào thuế quan.
Bên cạnh những nguyên nhân do nội tại nền kinh tế, các chính sách kinh tế chưa
phù hợp với biến động thị trường cũng có những tác động mạnh đến cán cân thương
mại gồm có: chính sách thương mại, chính sách thu hút đầu tư và chính sách tỷ giá.
Chính sách thương mại: chính sách phát triển xuất khẩu quá chú trọng đến chỉ
tiêu số lượng mà chưa thật sự quan tâm đúng mức đến chất lượng và hiệu quả xuất
khẩu. Chúng ta chưa khai thác một cách hiệu quả lợi thế cạnh tranh xuất khẩu dựa vào
công nghệ, trình độ lao động, quản lý để tạo ra các nhóm hàng xuất khẩu có khả năng
cạnh tranh cao, có nhiều hàm lượng khoa học công nghệ, có khả năng thích ứng nhanh
với sự biến đổi của môi trường kinh doanh quốc tế. Nhập khẩu đang chủ yếu là nhập
khẩu công nghệ trung gian, nhập khẩu hàng tiêu dùng xa xỉ còn chiếm tỉ trọng đáng kể,
chưa có biện pháp dài hạn để kiềm chế nhập siêu. Bảo hộ quá cao hàng nhập khẩu làm
cho tăng tiêu thụ nội địa, làm tăng chi phí những hàng hóa phi thương mại giảm tính
cạnh tranh hàng xuất khẩu cùng với đó là mức thuế nhập khẩu và biểu thuế quan phức
tạp làm hạn chế nhập khẩu cạnh tranh…
Chính sách thu hút đầu tư: những năm qua, với cơ chế và chính sách thông
thoáng hơn, lượng vốn đầu tư của nước ngoài đổ vào Việt Nam gia tăng mạnh mẽ. Tuy
nhiên, việc sử dụng vốn thì hiệu quả thì chưa cao, đầu tư dàn trải, thiếu trọng tâm và
định hướng. Cơ chế quản lý lỏng lẻo gây tham nhũng, thất thoát; phân bổ vốn không
đồng đều và hợp lý giữa các khu vực và các ngành gây mất cân đối và đảm bảo sự tăng
trưởng bền vững của nền kinh tế. Hệ quả tất yếu là kim ngạch nhập khẩu và nhập siêu
gia tăng.
Chính sách tỷ giá: việc cán cân thương mại của Việt Nam bị thâm hụt ngày càng
lớn đặc biệt sau khi gia nhập WTO xuất phát từ nhiều nguyên nhân khác nhau, và tỷ
giá là một trong những nguyên nhân quan trọng hàng đầu. Khi muốn tạo lợi thế cạnh
tranh về giá cả, thúc đẩy các doanh nghiệp trong nước tăng cường xuất khẩu hàng hóa
10
ra nước ngoài, chính phủ sẽ thực hiện chính sách làm tỷ giá đồng nội tệ tăng lên, nghĩa

là làm giảm giá trị đồng nội tệ để kích thích xuất khẩu vừa hạn chế bớt nhập khẩu.
Nhưng thực tế ở nước ta, chính sách này ít có ảnh hưởng theo lý thuyết kể trên do sản
phẩm xuất khẩu của nước ta chủ yếu là sản phẩm thô, sản lượng phụ thuộc vào điều
kiện tự nhiên về cơ bản ít co dãn nguồn cung ứng khi có sự thay đổi giá cả tương đối,
nhất là trong ngắn hạn; sản phẩm công nghệp chế biến thì phụ thuộc nguyên liệu nhập
khẩu hoặc có tỷ trọng khiêm tốn nên ít khai thác được lợi thế từ thay đổi tỷ giá. Cơ chế
tỷ giá của Việt Nam rất tiếc đã không đảm nhiệm được chức năng điều hòa cán cân
thương mại. Do tỷ giá chính thức về cơ bản là cố định nên trong hầu hết quãng thời
gian các năm 2006, 2007 và 2009 tốc độ nhập siêu ngày càng tăng mạnh nhưng tỷ giá
thì hầu như không đổi; ngược lại trong giai đoạn cuối nửa năm 2008, bất chấp tốc độ
nhập siêu giảm dần, VND vẫn mất giá rất nhanh. Cơ chế tỷ giá áp đặt chính thức đã
làm cho các tín hiệu về giá trị tương đối của hàng hóa trong nước và ngoài nước, ngoại
tệ và bản tệ phản ánh không khách quan và trung thực. Những dấu hiệu tích cực của sự
vận dụng chính sách này mới dần bộc lộ trong giai đoạn gần đây.
4. Kiến nghị và giải pháp
Với những yếu kém và bất cập trong cán cân thương mại, Việt Nam cần có
những thay đổi nhanh chóng để khắc phục dần tình trạng thâm hụt thương mại ở mức
cao như hiện nay.
Để đẩy mạnh xuất khẩu, nước ta cần tiến hành việc chuyển dịch cơ cấu hàng
hóa xuất khẩu theo hướng nâng cao chất lượng lẫn mẫu mã, tuân thủ nghiêm ngặt các
quy định, yêu cầu của thị trường quốc tế. Tiếp tục đẩy mạnh phát triển sản xuất dựa
vào nguồn lao động dồi dào và kỹ thuật trung bình để tăng lợi thế về quy mô đồng thời
đẩy nhanh chóng chuyển dần sang phát triển các ngành sản xuất dựa vào công nghệ,
vốn và kỹ thuật cao để gia tăng giá trị. Các doanh nghiệp xuất khẩu cần chú trọng xây
dựng thương hiệu, đầu tư nâng cấp cơ sở hạ tầng kỹ thuật, khoa học và công nghệ, đào
tạo nguồn nhân lực có trình độ cao.
Một vấn đề tiêu cực đang có chiều hướng gia tăng trong thời gian gần đây là
việc các doanh nghiệp Việt Nam bị các nước khác khởi kiện về bán phá giá và sản
phẩm không đáp ứng chất lượng. Để chủ động phòng chống và giải quyết vấn đề này,
chính phủ và doanh nghiệp xuất khẩu có thể thực hiện các biện pháp:

• Tích cực triển khai đàm phán song phương, đa phương để tranh thủ sự
thừa nhận nước ta là nước có nên kinh tế thị trường.
• Dự báo danh mục các sản phẩm có khả năng bị kiện trên cơ sở rà soát, tín
hiệu của tình hình xuất nhập khẩu và cơ chế chống bán phá giá của từng
thị trường để có sự phòng tránh cần thiết và chủ động.
• Xây dựng chiến lược đa dạng hóa sản phẩm và đa dạng hóa thị trường
xuất khẩu để phân tán rủi ro, tránh tập trung xuất khẩu khối lượng lớn
vào một nước. Bên cạnh đó các doanh nghiệp cần thai thác tối đa tiềm
năng to lớn của thị trường nội địa để tránh những hậu quả do biến động
thị trường ngoài nước.
11
• Chính phủ cần xây dựng các cơ sở dữ liệu thông tin về thị trường, luật
thương mại quốc tế, quy định của các nước về chống bán phá giá, phổ
biến và hướng dẫn cho doanh nghiệp để tránh thiệt hại do thiếu thông tin.
Ngoài ra, chính phủ cần có những biện pháp hỗ trợ cần thiết cho các doanh
nghiệp xuất khẩu như: cung cấp thông tin để doanh nghiệp tìm được những thị trường
thuận lợi, tránh rủi ro; cắt giảm những khâu thủ tục rườm rà gây trở ngại cho doanh
nghiệp; tạo điều kiện tối đa và thuận lợi cho các doanh nghiệp tiếp cận nguồn tín dụng
cho sản xuất kinh doanh với lãi suất hợp lý và ưu đãi; phối hợp với các hiệp hội kinh
doanh và cơ quan hữu quan để nâng cao sức cạnh tranh, tăng cường hợp tác của các
doanh nghiệp.
Trong điều kiện nhập siêu gia tăng, kiểm soát và hạn chế nhập khẩu là một trong
những biện pháp có ý nghĩa để cải thiện cán cân thương mại. Một trong những giải
pháp được coi là dài hạn đó là đầu tư phát triển các ngành công nghiệp phụ trợ như:
nhanh chóng xây dựng chiến lược phát triển và tầm nhìn rõ ràng, dài hơi cho các ngành
công nghiệp phụ trợ; điều chỉnh chính sách thuế để khuyến khích các doanh nghiệp đầu
tư vào; từng bước cắt giảm bảo hộ đối với các mặt hàng nguyên nhiên liệu sản xuất
trong nước để đưa các doanh nghiệp vào môi trường cạnh tranh, thích ứng với môi
trường tự do hóa.
Chính phủ cũng cần mạnh tay trong kiểm soát chặt chẽ các mặt hàng nhập khẩu

không thiết yếu, những sản phẩm trong nước sản xuất được bằng các biện pháp về thuế
quan và phi thuế trong khuôn khổ pháp luật và những cam kết mà Việt Nam đã cam kết
đồng thời nghiên cứu lộ trình cắt giảm thuế quan nhập khẩu đối với các nhóm hàng có
tỷ trọng kim ngạch lớn và cần thiết, doanh nghiệp cần tận dụng sử dụng những máy
móc, thiết bị có thể sản xuất được trong nước. Hạn chế vay thương mại để nhập khẩu
hàng tiêu dùng và hàng xa xỉ, nâng cao hiệu quả các dự án sử dụng vốn vay nước
ngoài, tranh thủ các nguồn tài trợ nước ngoài và có chính sách thu hút lâu dài kiều hối
để tài trợ cho thâm hụt cán cân thương mại. Cải thiện môi trường đầu tư, tăng cường
xúc tiến và cung cấp dịch vụ đầu tư, giảm đầu tư không hiệu quả từ ngân sách nhà
nước, cần có các quy định và cơ chế kiểm tra, giám sát chống thất thoát đầu tư, đặc biệt
là đầu tư xây dựng cơ bản.
Chính sách tỷ giá hối đoái của Việt Nam cần được điều chỉnh linh hoạt theo
hướng thị trường hơn, với các ngoại tệ chủ chốt thì cấn duy trì sự ổn định hợp lý. Vai
trò quản lý vĩ mô là phải điều tiết sự thay đổi tỷ giá hợp lý sao cho vừa thu hút vốn đầu
tư nước ngoài vừa khuyến khích đầu tư hướng tới xuất khẩu, hạn chế nhập khẩu phục
vụ cho tăng trưởng kinh tế mà vẫn kiểm soát được lạm phát ở mức hợp lý. Thực hiện
chính sách tỷ giá phải đồng bộ với các biện pháp để có thể hỗ trợ cho xuất khẩu như
nâng cao hiệu quả đầu tư sản xuất, chất lượng hàng hóa và năng lực cạnh tranh.
Trên đây là những kiến nghị và giải pháp để nhằm phần nào giảm nhập siêu, cải
thiện cán cân thương mại nước ta nhưng để thực hiện một cách có hiệu quả và bền
vững nhất thì cần có sự quyết tâm của chính phủ, chung tay của doanh nghiệp và sự
đồng lòng, ủng hộ của toàn dân.
12
III. KẾT LUẬN
Trong những năm tới, Việt Nam sẽ gia nhập sâu rộng hơn nữa vào kinh tế quốc
tế cùng với đó là sự đẩy nhanh sự nghiệp Công nghiệp hóa-Hiện đại hóa hơn nữa. Yêu
cầu về phát triển kinh tế và mở cửa hội nhập sẽ làm gia tăng thâm hụt thương mại, đây
có thể coi là một bài toán nan giải chưa có biện pháp toàn diện và triệt để. Những giải
pháp và kiến nghị nêu trên chỉ giải quyết được khía cạnh nào đó của vấn đề nan giải
này. Cán cân thương mại của mỗi nước có đặc thù riêng, những nhân tố ảnh hưởng

khác nhau, vì thế ngoài những giải pháp mang tính phổ biến, Việt Nam cũng cần dựa
vào tình hình thực tế để đưa ra chính sách phù hợp, linh hoạt, vận dụng sáng tạo, phối
hợp hài hòa và đồng bộ các giải pháp với nhau, có như vậy chúng ta mới có thể ổn định
cán cân thương mại trong thời gian tới, từ đó thúc đẩy kinh tế tăng trưởng, xã hội phát
triển, cải thiện đời sống người dân.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
PGT.TS Nguyễn Văn Lịch 2006, CÁN CÂN THƯƠNG MẠI trong sự nghiệp
CNH,HĐH Ở VIỆT NAM, Viện Nghiên cứu Thương mại, Bộ Thương mại, Hà Nội.
Peter Naray; Paul Baker, Trương Đình Tuyển; Đinh Văn Ân; Lê Triệu Dũng; Ngô
Chung Khang 10/2009, BÁO CÁO Phân tích thâm hụt thương mại của Việt Nam và
các điều khoản về cán cân thanh toán của WTO, Hà Nội.
Phạm Duy Kiên; Ngô Văn Minh; Nguyễn Việt Đức; Nguyễn Quang Đông; Ngô Quốc
Hưng; Phạm Hồng Dung 1/2009 Báo cáo phân tích kinh tế Việt Nam 2008, Hà Nội.
TS Phạm Văn Hà 4/2010, Tổng quan kinh tế Việt Nam năm 2009, Trường Đại học Kinh
tế, Đại học Quốc gia Hà Nội.
PGS.TS Nguyễn Văn Tiến, TÀI CHÍNH QUỐC TẾ, Hà Nội.
Các tài liệu ở các trang web:
Chưa hết lo về xuất nhập khẩu 2011. Truy cập ngày 15 tháng 12 năm 2011 từ
/>menuid=4&id=67663&catid=1219&tab=&title=&lang=vi-vn
Quỳnh Dung 2011, Thiếu nguyên liệu sức cạnh tranh yếu. Truy cập ngày 15 tháng
12 năm 2011 từ />lieu-suc-canh-tranh-yeu.htm
Vì sao thâm hụt thương mại của Việt Nam ngày càng tăng 2011. Truy cập ngày 17
tháng 12 năm 2011 từ />cua-viet-nam-ngay-cang-tang/ct-439702
Tổng cục thống kê
13
Kim Liên 2011, Chính sách thương mại nhằm phát triển bền vững ở Việt Nam 2011-
2020. Truy cập ngày 18 tháng 12 năm 2011 từ
/>nham-phat-trien-ben-vung-o-viet-nam-thoi-ky-20112020.htm
Hoạt động thương mại tháng 11 và 11/2011. Truy cập ngày 15 tháng 12 năm 2011 từ
/>va-11-thang2011.html

Đánh giá hoạt động xuất nhập khẩu năm 2009. Truy cập ngày 15 tháng 12 năm
2011 từ />khu-nm-2009.html
Đánh giá hoạt động xuất nhập khẩu năm 2010. Truy cập ngày 16 tháng 12 năm
2011 từ />nhap-khau-nam-2010.aspx
Gia nhập WTO, cơ hội - thách thức và hành động của chúng ta 2006. Truy cập ngày
16 tháng 12 năm 2011 từ
thach-thuc-va-hanh-dong-cua-chung-ta.html
Đề tài nghiên cứu: Khủng hoảng Tài chính và tác động đến FDI, xuất khẩu của Việt
Nam 2011. Truy cập ngày 16 tháng 12 năm 2011 từ
/>65649
Phạm Huyền 2010, Choáng ngợp với nhập siêu từ Trung Quốc. Truy cập ngày 17
tháng 12 năm 2011 từ />quoc-
Tổng thể về hoạt động xuất, nhập khẩu năm 2009. Truy cập ngày 15 tháng 12 năm
2011 từ />dong-xuat-nhap-khau-nam-2009/3690413.epi
Mạnh Quân 2010, Xuất khẩu khó tăng mạnh. Truy cập ngày 16 tháng 12 năm 2011 từ
/>Cùng một số nguồn tư liệu tham khảo khác.
14



15

×