Tiểu luận
Phân tầng xã hội
Công cuộc đổi mới gần 2 thập kỷ qua đã làm thay đổi căn bản diện mạo đời sống
kinh tế - xã hội ở nước ta. Nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa - sản
phẩm của đổi mới đã phát huy hiệu quả của nó ở tốc độ tăng trưởng kinh tế cao và
ổn định cùng với việc nâng cao mức sống của hầu hết các tầng lớp dân cư. Nhưng
bên cạnh đó, kinh tế thị trường cũng làm nảy sinh ra không ít những hệ quả xã hội
mà chúng ta đang phải tập trung giải quyết. Một trong các hệ quả như vậy là sự
phân tầng xã hội, sự phân hóa giàu nghèo. Trong đề tài này chúng tôi sẽ phân tích
những nét cơ bản về đổi mới, tăng trưởng kinh tế và phân tầng xã hội. Nghiên cứu
về vấn đề này cho chúng ta thấy bức tranh tổng thể về sự phân tầng xã hội ở Việt
Nam cũng như các yếu tố có liên quan. Qua đó, góp phần định hướng các mục tiêu
và chiến lược giảm bất bình đẳng xã hội.
I. ĐỊNH NGHĨA VỀ PHÂN TẦNG XÃ HỘI
1. Khái niệm phân tầng xã hội:
Phân tầng xã hôi là một trong những khái niệm cơ bản của xã hội học. Tuy
nhiên ở nước ta khái niệm này mới chỉ được đề cập và nghiên cứu trong thời gian
cách đây không lâu.
a. Khái niệm tầng xã hội:
Tầng xã hôi là tổng thể , tập hợp các cá nhân có cùng một hoàn cảnh xã hội ,
họ giống nhau hay bẳng nhau về địa vị kinh tế, chính trị, xã hội về khả năng thăng
tiến cũng như giành được những ân huệ hay vị trí xã hội.
b. Phân tầng xã hội:
Có nhiều định nghĩa khác nhau về phân tầng:
Quan niệm của M.Weber:
M.Weber là nhà xã hội học người Đức, ông là người đầu tiên nói đến khái
niệm phân tầng. Ông đã đưa ra nguyên tắc tiếp cận ba chiều đối với vấn đề phân
tầng, coi khái niệm phân tầng xã hội bao gồm cả việc phân chia xã hội thành các
giai cấp. Ba chiều cạnh đó là địa vị kinh tế (tài sản), địa vị chính trị (quyền lực) và
địa vị xã hội (uy tín). Theo Weber, tài sản, quyền lực và uy tín có thể độc lập với
nhau song trong thực tế chúng có quan hệ chặt chẽ với nhau. Chúng có thể chuyển
hóa cho nhau hoặc củng cố chi phối lẫn nhau.
Quan niệm của T. Parsons:
T. Parsons (nhà xã hội học người Mỹ) coi phân tầng xã hội là sự sắp sếp các
cá nhân vào trong một hệ thống xã hội trên cơ sở phân chia những nghạch bậc và
những tiêu chuẩn chung về giá trị, phân tầng là kết quả trực tiếp của phân công lao
động xã hội và sự phân hóa của những nhóm xã hội khác nhau. Nó là kết quả tác
động của một hệ thống các giá trị trong xã hội, những tiêu chuẩn văn hóa xã hội
phổ biến đang thống trị trong xã hội, nhưng giá trị tiêu chuẩn này xác định ý nghĩa
của những hoạt động khác nhau, hình thành nên sự bất bình đẳng xã hội, mà sự bất
bình đẳng này được thể hiện trong các dạng thức hoạt động và phân phối vật chất,
tài sản. Cũng như các nhà chức năng luận khác, T.Parsons coi phân tầng xã hội là
phương tiện cần thiết cho mọi hoạt động trong xã hội và là vật kích thích những
cách thức hoạt động khác nhau của cá nhân và nhóm xã hội khác nhau. Ông đã đưa
ra 3 tiêu chuẩn để nhận diện phân tầng xã hội:
Một là, tư cách phẩm chất tức là ấn định cho những cá nhân những đặc tính và
những nhiệm vụ nhất định. Ví dụ: tinh thần trách nhiệm, uy tín, sự thành thạo trong
công việc
Hai là sự chấp hành nghĩa là sự đánh giá hoạt động của các cá nhân trong
quan hệ so sánh với những hoạt động của những người khác.
Ba là sự chiếm hữu các giá trị vật chất, tài năng, trình độ nghề nghiệp, tiềm
năng văn hóa. Ông cho rằng cần đánh giá một cách tổng hợp ba tiêu chuẩn chung
về giá trị của chuẩn mực xã hội.
Quan niệm của Tonny Billton
Theo Tonny Billton (nhà xã hội học người Mỹ) cho rằng xã hội được chia
thành một cấu trúc theo khuôn mẫu của những nhóm xã hội không bình đẳng và
lưu truyền bền vững từ thế hệ này sang thế hệ khác. “Phân tầng xã hội là một cơ
cấu bất bình đẳng ổn định giữa các nhóm xã hội và được duy trì bền vững qua các
thế hệ”.
Ông cũng đồng thời chỉ ra những điều kiện dẫn đến sự phân phối lợi ích
không đồng đều giữa các thành viên và các nhóm xã hội:
Một là, những cơ hội trong cuộc sống bao gồm những thuận lợi vật chất, của
cải và thu nhập, những lợi ích trong chăm sóc sức khỏe và an toàn công việc.
Hai là, địa vị xã hội tức là uy tín hay vị trí do quan niệm và sự đánh giá của
các thành viên khác trong xã hội.
Ba là, ảnh hưởng chính trị, tức là khả năng của một nhóm xã hội này thống trị
những nhóm xã hội khác, hay việc ra quyết định, cũng như viêc thu được nguồn lợi
từ các quyết định.
Theo B.Berber: “Phân tầng xã hội là sự bất bình đẳng được điều tiết về cấu
trúc, trong đó mọi người được xếp lớp theo thứ bậc từ đỉnh xuống đáy tương ứng
với giá trị và ý nghĩa xã hội của các vai trò xã hội và các dạng hoạt động khác
nhau”.
Theo A.Giddens: “Phân tầng xã hội là sự phân chia xã hội thành các tầng
lớp, khi nói về sự phân tầng là nói tới bất bình đẳng giữa các địa vị, vị trí của các
cá nhân trong xã hội”.
Theo H.P. Caroline: “Phân tầng xã hội là sự sắp xếp loại một cách ổn định
các vị trí trong cơ cấu xã hội dưới góc độ quyền lực hoặc đặc quyển, đặc lợi không
ngang bằng nhau”.
Theo I. Robersons: “Phân tầng xã hội là bất bình đẳng mang tính cơ cấu của
tất cả các xã hội loài người; là sự khác nhau về khả năng thăng tiến xã hội bởi địa
vị của họ trong thang bậc xã hội”.
Theo N. Smelser (nhà xã hội học người Mỹ) cho rằng: Phân tầng xã hội gắn
với những biện pháp mà nhớ nó, sự bất bình đẳng được lưu truyền từ thế hệ này
sang thế hệ khác, trong đó hình thành nên những tầng lớp khác nhau trong xã hội.
Quan niệm của Trung tâm xã hôi học, Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí
Minh đưa ra quan điểm như sau
1
:
Phân tầng xã hội là sự bất bình đẳng mang tính cơ cấu của mọi xã hội loài
người, trừ những tổ chức xã hội sơ khai. Phân tầng xã hội là sự phân chia, sắp xếp
và hình thành cấu trúc gồm các tầng xã hội. Đó là sự khác nhau về địa vị kinh tế
hay tài sản, về địa vị chính trị hay quyền lực, địa vị xã hội hay uy tín cũng như
khác nhau về trình độ học vấn, loại nghề nghiệp
Với quan điểm trên chúng ta có thể hiểu phân tầng xã hội theo ba đặc trưng
sau:
1
Nguyễn Đình Tấn. Cơ cấu xã hội và phân tầng xã hội. Nxb. Chính trị Quốc gia. Hà
Nội. 1999
Thứ nhất, phân tầng xã hội là sự phân hóa, sự sắp xếp các cá nhân thành
những tầng lớp, các thang bậc khác nhau trong cơ cấu xã hội (trong hệ thống phân
chia thành những tầng lớp cao và những tầng lớp thấp )
Thứ hai, phân tầng xã hội luôn gắn bất bình đẳng xã hội và sự phân công lao
động trong xã hội
Thứ ba, phân tầng thường được lưu truyền từ thế hệ này sang thế hệ khác,
song không phải là bất biến mà có những thay đổi nhất định.
2. Các hệ thống phân tầng xã hội trong lịch sử:
Phân tầng là một hiện tượng xã hội xuất hiện từ rất sớm và được thể hiện đa
dạng ở các quốc gia khác nhau, giai đoạn lịch sử khác nhau và nền văn hóa khác
nhau. Dựa vào tính cơ động của mỗi xã hội và kiểu xã hội chúng ta có thể chỉ ra
hai hệ thống phân tầng điển hình nhất: hệ thống phân tầng “đóng”- phân tầng trong
xã hội có đẳng cấp và hệ thống phân tầng “mở”- phân tầng trong xã hội có giai
cấp.
a. Hệ thống phân tầng “đóng”
trong hệ thống phân tầng này, ranh giới giữa các tầng xã hội hết sức rõ rệt và
được duy trì một cách nghiêm ngặt, địa vị của mỗi người bị ấn định ngay từ đầu,
bị quy định ngay từ lúc mới sinh bởi nguồn gốc, dòng dõi của cha mẹ mình.
Trong xã hội đẳng cấp, duy trì “nội giao” và cấm các thành viên thuộc các
đẳng cấp khác nhau kết hôn với nhau. Trong hệ thống phân tầng “đóng” trừ một số
bước tiến ngắn trong nội bộ các đẳng cấp( ví dụ các quý tộc, tăng lữ) còn tuyệt đại
đa số người còn lại sinh ra từ đẳng cấp nào thì cứ suốt đời ở trong đẳng cấp của
mình. Địa vị đẳng cấp dường như được coi là địa vị “tự nhiên” tức lạ địa vị được
“gán” cho con người mà không ai có thể lựa chọn hoặc tự kiểm soát được. Hệ
thống này điển hình nhất trước đây ở Ấn Độ và Nam Phi. Cho tới nay còn có thể
tìm thấy ở một số vùng biệt lập tại Bắc Phi, Trung Đông, châu Á.
b. Hệ thống phân tầng “ mở”
Đặc trưng của hệ thống phân tầng này là địa vị của con người chủ yếu phụ
thuộc vào địa vị của họ trong hệ thống kinh tế. Trong hệ thống phân tầng này, ranh
giới giữa các tầng không quá cứng nhắc và cách biệt như trong xã hội có đẳng cấp
mà mềm dẻo, uyển chuyển hơn. Một người từ tầng lớp thấp có thể chuyển lên vị
trí của một tầng xã hội cao hơn.
Trong một chừng mực nhất định, vị thế xã hội mà người ta đạt được là do nỗ
lực chủ quan( khả năng, ý chí, cơ may) chứ không phải là vị thế tự nhiên trong xã
hội đẳng cấp. Đặc trưng của các xã hội hiện đại là hệ thống phân tầng “ mở” tức là
hệ thống phân tầng trong xã hội có giai cấp mặc dù chúng có sự khác biệt từ xã hội
này sang xã hội khác. Trong xã hội nông nghiệp thường có hai giai cấp chủ yếu là
các chủ đất và nông dân. Trong xã hội công nghiệp thì sự phân chia có sự phức tạp
hơn, ngoài sự phân chia giai cấp còn phân chia thành các tầng lớp xã hội khác
nhau. Theo I.Robertsons, xã hội phương Tây hiện nay có thể phân làm 6 tầng lớp
mà theo cách gọi của ông là 6 giai cấp:
Giai cấp thượng lưu - tầng lớp quý tộc theo dòng dõi, là những nhà tư bản lớn,
những tỷ phú nhiều đời, có quyền lực và uy tín lớn trong xã hội.
Giai cấp thượng lưu tầng lớp dưới - những người có tiền, là những người buôn
bán bất động sản, các ông trùm hãng thức ăn nhanh, hãng máy tính
Giai cấp thượng lưu trên, gồm những gia đình thương gia và các doanh nghiệp
Giai cấp trung lưu tầng lớp dưới, gồm những người có thu nhập trung bình và
công việc của họ không phải là lao động chân tay. Đó là những thương nhân cỡ
nhỏ, đại lý buôn bán
Giai cấp lao động, bao gồm số đông những người da màu, được đào tạo ít hơn
so với giai cấp trung lưu và thượng lưu. Đó là những công nhân “cổ cồn xanh”-
những người bán hàng, nhân viên phục vụ Đặc trưng của họ là lao động chân tay,
hầu như không có uy tín và thường thiếu các khoản phúc lợi xã hội.
Giai cấp hạ lưu, bao gồm những người nghèo “không đáng kính trọng”. Họ
sống trong những ngôi nhà tồi tàn ở ngoại ô hay những vùng nông thôn nghèo khổ.
Giai cấp này gồm những người thất nghiệp kinh niên, vô gia cư, vô nghề nghiệp.
Họ là những người bị xã hội khinh rẻ và mất “giá” trên thị trường lao động, họ
thực sự không có quyền gì trong xã hội.
Phân tầng xã hội trong xã hội có giai cấp được thể hiện khá đa dạng ở các
quốc gia khác nhau và các thời kỳ khác nhau. Tuy nhiên về cơ bản, những đặc
trưng chung nhất của phân tầng xã hội vẫn không thay đổi. Đó là xã hội phân chia
thành hai phe lớn: những người giàu bóc lột và những người nghèo bị bóc lột.
4. Các tháp phân tầng:
a. Tháp hình nón: phản ánh mức độ bất bình đẳng cao của các xã hội, nhóm
người giàu, có quyền lực (phần đỉnh tháp) chiếm tỷ lệ rất thấp; trong khi đa số là
nghèo khổ.
b.Tháp phân tầng xã hội hình thoi: trong tháp này nhóm xã hội giàu và nghèo
đều chiếm tỷ lệ nhỏ và nằm ở hai đầu của hình quả trám. Nhóm xã hội trung lưu
nằm ở giữa. Loại tháp này có tiến bộ hơn soi với tháp phân tầng hình chóp. Tuy
nhiên, khoảng cách của 2 nhóm đỉnh và đáy tháp còn khá xa.
c. Tháp phân tầng xã hội hình quả trứng: tầng lớp trung lưu chiếm đa số nằm
ở giữa hình quả trứng, bất bình đẳng xã hội vẫn còn tồn tại. Trong xã hội vẫn còn
người giàu người nghèo song không có những người quá nghèo hoặc không có tình
trạng một ít người nắm tuyệt đại bộ phận tài sản trong xã hội.
d. Tháp phân tầng xã hội hình giọt nước: đây là loại tháp phân tầng của một
số nước phát triển trên thế giới như kiểu các nước Đông Âu trước đây. Trong tháp
này thì khoảng cách giàu nghèo vẫn còn song không đáng kể. Tuyệt đại đa số
thành viên trong xã hội thuộc nhóm xã hội này có mức sống trung bình và khá.
đ. Tháp hình “đĩa bay” (thấp dẹt): có thể có 2 trạng thái là bình quân nghèo
khổ hoặc xã hội lý tưởng, thịnh vượng toàn dân, với tuyệt đại bộ phận các thành
viên của xã hội có mức sống trung lưu và khá giả (xã hội trung lưu).
5. Một số lý thuyết về phân tầng xã hội:
a. Lý thuyết chức năng:
Phân tầng xã hội là sự sắp xếp các cá nhân vào một hệ thống xã hội trên cơ sở
sự phân chia những ngạch bậc và những tiêu chuẩn chung về giá trị địa vị; là kết
quả trực tiếp của phân công lao động xã hội và sự phân hoá của các nhóm xã hội
khác nhau. Nó gắn liền với những biện pháp mà nhờ đó, sự bất bình đẳng được lưu
truyền từ thế hệ này sang thế hệ khác, từ đó hình thành nên những tầng lớp khác
nhau trong xã hội.
Thuyết này khẳng định, phân tầng xã hội và bất bình đẳng xã hội là những nét
thường trực tất yếu và không thể tránh khỏi trong xã hội loài người. Hiện tượng
này tồn tại trong quá khứ và sẽ tiếp tục tồn tại như một nét nổi bật trong xã hội
hiện tại và tương lai.
Những nhà xã hội học theo thuyết chức năng cho rằng, phân tầng xã hội và bất
bình đẳng xã hội tồn tại vì nó thực hiện một chức năng cần thiết và tích cực trong
xã hội. Sự bất bình đẳng là một di sản mà nhờ vào đó, xã hội đảm bảo những địa vị
quan trọng nhất phải do những người có tài năng nhất đảm nhiệm một cách có ý
thức. Trên cơ sở đó, dẫn tới sự khác nhau về mặt uy tín, thu nhập, khả năng thăng
tiến của các cá nhân trong xã hội và xã hội phải thiết chế hoá một số yếu tố của bất
bình đẳng.
Tức là, trong một xã hội, có những địa vị khác nhau thực hiện những chức
năng nhất định. Mức độ quan trọng của các địa vị là khác nhau tuỳ thuộc vào chức
năng của nó. Có những địa vị đặc biệt quan trọng, đòi hỏi phải có những kỹ năng
đặc biệt mà chỉ có một số ít người thực hiện được. Do vậy, những người thực hiện
được địa vị cao là không nhiều, họ phải trải qua một thời kỳ huấn luyện nhất định
để có những kỹ năng chuyên môn cần thiết. Từ đó, phải có hệ thống phần thưởng
bất bình đẳng gắn với một tổ chức ngạch bậc những địa vị xã hội, tuỳ theo mức độ
quan trọng của nó và tương xứng với tài năng, công sức, và chi phí học tập để có
kỹ năng cần thiết.
Với cách giải thích như vậy, lý thuyết này được coi là lý thuyết hợp thức hoá
và bảo vệ sự phân tầng và bất bình đẳng trong xã hội. Đồng thời, thuyết này cũng
có những hạn chế nhất định khi chỉ dựa vào tiêu chí giá trị địa vị xã hội, gạt bỏ
những yếu tố khác như kinh tế, chính trị trong quá trình phân tầng xã hội.
b. Lý thuyết xung đột:
Với những nhà xã hội học theo thuyết xung đột thì phân tầng xã hội liên quan
trực tiếp tới bất bình đẳng giai cấp. Do sự mâu thuẫn, xung đột, tranh giành quyền
thống trị giữa các giai cấp mà sinh ra bất bình đẳng và phân tầng xã hội.
Tức là, bất bình đẳng và phân tầng xã hội tồn tại do phần lớn đời sống của
chúng ta nằm trong những mối quan hệ quyền lực đã được thiết chế hoá và chúng
ta bị phụ thuộc trong đó. Những nhóm xã hội được ưu đãi có khả năng giữ một hệ
thống các giá trị thống trị để duy trì cơ cấu xã hội có lợi cho họ và là bất bình đẳng
với các giai cấp khác.
Những người theo thuyết này chủ yếu dựa vào yếu tố chính trị để phân tích về
phân tầng xã hội.
c. Lý thuyết dung hoà:
Theo Lenski: Trong xã hội, luôn có những động cơ thôi thúc người ta chiếm
giữ các vị trí xã hội, đồng thời, cũng diễn ra các quá trình mâu thuẫn, xung đột và
tranh giành quyền thống trị, từ đó sinh ra bất bình đẳng xã hội và phân tầng xã hội.
Theo Max Weber, phân tầng xã hội không chỉ dựa vào giá trị địa vị xã hội,
cũng như quan hệ kinh tế không phải là yếu tố đầu tiên và chủ yếu để giải thích (
như Marx), đó chỉ là cách giải thích một chiều, trong khi sự vận động, biến đổi xã
hội là rất rộng lớn và phức tạp. Từ đó, ông đưa ra nguyên tắc ba chiều về phân tầng
xã hội. Bên cạnh việc thừa nhận yếu tố kinh tế, ông cho rằng phân tầng và bất bình
đẳng xã hội có thể dựa trên yếu tố quyền lực và uy tín xã hội của các cá nhân.
Như vậy, phân tầng xã hội tồn tại bắt nguồn từ 3 yếu tố: địa vị kinh tế (của
cải, tài sản), địa vị chính trị (quyền lực) và địa vị xã hội (uy tín). Nhưng trong 3
yếu tố này, mặc dù về lý thuyết, Weber không tuyệt đối hoá yếu tố nào, nhưng qua
các lập luận và giải thích thì ông đề cao yếu tố địa vị xã hội và quyền lực chính trị.
Ông nhấn mạnh rằng, bất bình đẳng có thể không dựa trên quan hệ kinh tế, nhưng
dựa trên uy tín và quyền lực chính trị được huy động qua một đảng. Đồng thời, địa
vị và quyền lực chính trị có thể được hình thành từ quyền lực kinh tế nhưng không
phải là tất yếu, ngược lại, quyền lực kinh tế có thể có từ quyền lực chính trị và địa
vị xã hội.
Xét riêng về quyền lực kinh tế, nếu Marx đề cao quyền sở hữu tư liệu sản xuất
- là yếu tố chủ yếu hình thành giai cấp và bất bình đẳng trong xã hội tư bản thì Max
Weber lại nhấn mạnh đến tầm quan trọng của thị trường (khả năng chiếm lĩnh thị
trường của người lao động) và coi đây là nguyên nhân đầu tiên của bất bình đẳng
trong chủ nghĩa tư bản. Thị trường kỹ năng gắn liền với cơ may đời sống của
người lao động tạo ra hoàn cảnh giai cấp của các nhóm xã hội. Những người có
khả năng thị trường tương tự và do đó, có cơ may đời sống tương tự hợp thành giai
cấp nhất định.
d. Lý thuyết của Marx về phân tầng xã hội:
Marx phân tích phân tầng xã hội dưới khía cạnh giai cấp xã hội. Ông cho
rằng, phân tầng xã hội là do quyết định của nhân tố kinh tế (quyền sở hữu tư liệu
sản xuất thuộc về ai). Do vậy, có thể phân chia các tầng lớp trong xã hội tư bản
thành giai cấp tư sản và giai cấp vô sản trên cơ sở mối quan hệ của họ với tư liệu
sản xuất.
Theo Marx, mối lợi kinh tế, quyền lực chính trị, uy tín xã hội đều bắt nguồn từ
cấu trúc giai cấp và đấu tranh giai cấp là động lực thúc đẩy sự phát triển trong xã
hội . Đồng thời, đấu tranh giai cấp sẽ tạo ra những điều kiện xoá bỏ giai cấp cũng
như các nguyên nhân tạo nên bất bình đẳng và phân tầng xã hội.
Tóm lại, theo Weber, phân tầng xã hội là một hệ thống xếp hạng cấp bậc các
nhóm người vào những vị trí xác định, liên quan đến của cải (tài sản), quyền lực
chính trị, uy tín xã hội. Hệ thống này là một cơ cấu bất bình đẳng ổn định bền vững
qua các thế hệ.
e. Quan điểm của các nhà xã hội học Việt Nam:
Trên cơ sở tìm hiểu, phân tích, tổng hợp các quan điểm trên, các nhà xã hội
học Việt Nam cũng đưa ra quan điểm riêng của mình và cho rằng trong xã hội,
phân tầng xã hội tồn tại là do 2 nguyên nhân chủ yếu:
- Do có sự tồn tại một cách tự nhiên, phổ biến của hiện tượng bất bình đẳng về
mặt năng lực, thể chất, trí tuệ, điều kiện, cơ may giữa các thành viên trong xã hội.
- Do sự phân công lao động xã hội, bao gồm cả sự phân công về lao động
nghề nghiệp và sự phân công về những vị thế xã hội chiếm ưu thế.
Trên đây là một số quan điểm về phân tầng xã hội. Mỗi quan điểm có một lập
luận riêng khi đề cập đến phân tầng xã hội, trong đó có những ưu điểm và nhược
điểm nhất định. Ví như thuyết chức năng, lập luận của nó mắc phải tính tư biện,
thiếu khách quan trong việc xác định giá trị của các địa vị xã hội, đồng thời, cách
giải thích khiến người ta có thái độ bi quan về số ít người tài năng đảm nhiệm các
địa vị xã hội quan trọng, từ đó, ngăn cản, huỷ hoại sự phát triển của tài năng xã hội
và bênh vực đặc quyền của một số ít người được chu cấp đầy đủ các điều kiện giáo
dục để phát triển tài năng. Hay như lập luận của Max Weber khi nhấn mạnh rằng,
nguồn gốc của bất bình đẳng là cơ may của thị trường lao động (quan hệ giai cấp
được quy về quan hệ thị trường và sự cạnh tranh việc làm giữa các cá nhân và
người lao động), ông đã không thấy được sự cách biệt cố hữu trong quan hệ sản
xuất giữa ông chủ và người làm thuê, giữa sức sản xuất xã hội rộng lớn với quyền
lực sở hữu tư liệu sản xuất xã hội trong tay nhóm người ít ỏi. Từ đó, xoá nhoà ranh
giới giai cấp và thủ tiêu đấu tranh giai cấp Còn quan điểm của Marx về bất bình
đẳng và phân tầng xã hội là quan điểm rõ ràng nhất về bất bình đẳng và căn
nguyên cuối cùng của nó. Tuy nhiên, khi đánh giá về bất bình đẳng và phân tầng
xã hội, chúng ta không nên tuyệt đối hoá một lý thuyết nào đó mà phải biết kết hợp
những điểm hợp lý để có thể giải quyết vấn đề này trong các xã hội có giai cấp.
Tóm lại, phân tầng xã hội phản ánh bất bình đẳng xã hội và liên hệ mật thiết
tới các cơ may, vận hội trong cuộc đời của các cá nhân và nhóm xã hội.
II. ĐỔI MỚI VÀ SỰ TĂNG TRƯỞNG KINH TẾ
Qua gần 25 năm đổi mới, Việt Nam đã đạt được những thành tích đầy ấn tượng
trong tăng trưởng kinh tế và xoá đói giảm nghèo.Điều này không chỉ góp phần
giúp đất nước khắc phục tình trạng kém phát triển, mà còn làm tiền đề để thực hiện
nhiều mục tiêu kinh tế - xã hội khác như giảm thất nghiệp, cải thiện cán cân thanh
toán, tăng thu ngân sách, phát triển giáo dục, y tế, văn hoá, xóa đói giảm
nghèo Về cơ bản, những thành tựu tăng trưởng đã đến được với đại bộ phận
người dân, thể hiện ở mức tăng rõ rệt về thu nhập và tiêu dùng của tất cả các nhóm
dân cư trong thời gian qua. Tuy nhiên, nền kinh tế cũng đang bộc lộ ngày càng rõ
những lo ngại về chất lượng và sự bền vững của quá trình tăng trưởng, xét cả về
trung hạn và dài hạn.
1. Những mặt tích cực của nền kinh tế trong quá trình đổi mới
Với phương châm “nhìn thẳng vào sự thật”, từ Đại hội VI đến Đại hội X của
Đảng, Đảng ta đã phân tích, đánh giá tình hình trong nước và thế giới một cách
khách quan, xác định các xu thế phát triển tất yếu của thế giới và đã thực hiện bước
chuyển đổi quan trọng cả về lý luận và thực tiễn: xóa bỏ cơ chế quản lý tập trung,
hành chính, quan liêu bao cấp, chuyển sang nền kinh tế thị trường định hướng xã
hội chủ nghĩa. Công cuộc đổi mới tiến hành 25 năm đã đạt được những thành tựu
to lớn và có ý nghĩa lịch sử.
1.1. Đất nước ra khỏi khủng hoảng, kinh tế đạt tốc độ tăng trưởng nhanh
Thực hiện đường lối đổi mới, với mô hình kinh tế tổng quát là xây dựng nền
kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, đất nước ta đã thoát khỏi khủng
hoảng kinh tế - xã hội, tạo được những tiền đề cần thiết để chuyển sang thời kỳ
phát triển mới - thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá.
1986-1990: GDP tăng 4,4%/năm. Việc thực hiện tốt ba chương trình mục tiêu
phát triển về lương thực - thực phẩm, hàng tiêu dùng và hàng xuất khẩu được đánh
giá là thành công bước đầu cụ thể hóa nội dung của CNH XHCN trong chặng
đường đầu tiên. Đây là giai đoạn chuyển đổi cơ bản cơ chế quản lý cũ sang cơ chế
quản lý mới, thực hiện một bước quá trình đổi mới đời sống KTXH và giải phóng
sức sản xuất.
1991-1995: Nền kinh tế khắc phục được tình trạng trì trệ, suy thoái, đạt được
tốc độ tăng trưởng tương đối cao liên tục và toàn diện.GDP bình quân năm tăng
8,2%. Đất nước ra khỏi thời kỳ khủng hoảng kinh tế, bắt đầu đẩy mạnh CNH -
HĐH đất nước.
Từ năm 1996-2000, là bước phát triển quan trọng của thời kỳ mới, đẩy mạnh
CNH, HĐH đất nước. Chịu tác động của khủng hoảng tài chính - kinh tế khu vực
cùng thiên tai nghiêm trọng xảy ra liên tiếp đặt nền kinh tế nước ta trước những thử
thách. Tuy nhiên, giai đoạn này, Việt Nam duy trì được tốc độ tăng trưởng tổng
sản phẩm trong nước 7%/năm.
Năm 2000-2005: nền kinh tế đạt được tốc độ tăng trưởng cao, liên tục, GDP
bình quân mỗi năm đạt 7,5%. Năm 2005, tốc độ tăng trưởng đạt 8,4%, GDP theo
giá hiện hành, đạt 838 nghìn tỷ đồng, bình quân đầu người đạt trên 10 triệu đồng,
tương đương với 640 USD.
Bảng 1: Tốc độ tăng trưởng GDP và GDP bình quân trên đầu người của
Việt Nam.
2
Năm Tốc độ tăng
trưởng
GDP/người(USD)
2000 6,79 319
2001 6,84 413
2002 7,20 440
2003 7,26 492
2004 7,70 552
2005 8.43 636
2006 8,17 723
2007 8,50 835
2008 6,23 994
2009 5,32 1.134
2010 6,78 1.168
Từ một nước thiếu ăn, mỗi năm phải nhập khẩu 50 vạn - 1 triệu tấn lương thực,
Việt Nam đã trở thành nước xuất khẩu gạo lớn trên thế giới. Năm 2005, nước ta
đứng thứ 2 trên thế giới về xuất khẩu gạo, thứ 2 về cà phê, thứ 4 về cao su, thứ 2 về
hạt điều, thứ nhất về hạt tiêu.
2005-2010: Tốc độ tăng trưởng kinh tế bình quân 5 năm đạt 7%. Mặc dù khủng
hoảng tài chính và suy thoái kinh tế toàn cầu, nhưng thu hút vốn đầu tư nước ngoài
vào nước ta đạt cao. Trong 5 năm, tổng vốn FDI thực hiện đạt gần 45 tỉ USD, vượt
77% so với kế hoạch đề ra. Tổng số vốn đăng ký mới và tăng thêm ước đạt 150 tỉ
2
Nguồn: Tính toán từ số liệu Niên giám thống kê VN, WB và IMF
USD, gấp hơn 2,7 lần kế hoạch đề ra và gấp hơn 7 lần so với giai đoạn 2001-2005.
Tổng vốn ODA cam kết đạt trên 31 tỉ USD, gấp hơn 1,5 lần so với mục tiêu đề ra;
giải ngân ước đạt khoảng 13,8 tỉ USD, vượt 16%. GDP bình quân đầu người đạt
1.168 USD
3
.
1.2. Cơ cấu kinh tế chuyển biến tích cực theo hướng công nghiệp hoá, hiện
đại hoá, gắn sản xuất với thị trường.
Cơ cấu để chỉ cách thức tổ chức bên trong của một hệ thống, biểu hiện sự
thống nhất của mối quan hệ qua lại vững chắc giữa các bộ phận của nó, khi coi nền
kinh tế quốc dân như một hệ thống với nhiều bộ phận cấu thành và các kiểu cơ cấu
hợp thành chúng. Theo thời gian khi nền kinh tế vận động tăng trưởng thì các bộ
phận và các kiểu cơ cấu của nó cũng thay đổi. Do đó, cơ cấu kinh tế được hiểu là
tổng thể những mối quan hệ về số lượng và chất lượng giữa các bộ phận cấu thành
đó trong một thời gian và trong những điều kiện kinh tế - xã hội nhất định
4
.
Mối quan hệ về số lượng giữa các bộ phận cấu thành có thể biểu hiện qua tỷ
trọng của mỗi ngành trong GDP xét theo đầu ra qua đó ảnh hưởng tới tăng trưởng
kinh tế. Mối quan hệ số lượng còn thể hiện ở tỷ trọng trong tổng lao động hay tổng
vốn của nền kinh tế tại một thời điểm nào đó. Nếu xem xét theo thời gian và trong
mối quan hệ giữa các yếu tố đó sẽ phản ánh mối quan hệ về chất lượng mà thực
chất là sự chuyển dịch cơ cấu.
Về cơ cấu ngành kinh tế:
3
Tổng cục Thống kê, Số liệu thông kê Việt Nam thế kỷ XX, Tập 1, 2, Nxb Thống kê, Hà Nội, 2004.
Tổng cục Thống kê, Niên giám thống kê 2010, Nxb Thống kê, Hà Nội, 2011.
4
Vũ Tuấn Anh, Một số vấn đề lý luận về cơ cấu nền kinh tế quốc dân, Tạp chí Nghiên cứu Kinh tế, số 2/2982.
Biểu 1: Cơ cấu kinh tế Việt Nam theo ngành kinh tế (đơn vị:%)
5
Tỷ trọng nông nghiệp trong GDP giảm dần, năm 1990 là 38.1%, năm 2000 còn
24.5%, năm 2010 còn 20.6%. Trong nội bộ ngành nông nghiệp cơ cấu trồng trọt và
chăn nuôi đã chuyển dịch theo hướng tiến bộ, tăng tỷ trọng các sản phẩm có năng
suất và hiệu quả kinh tế cao, các sản phẩm có giá trị xuất khẩu.
Tỷ trọng công nghiệp và xây dựng tăng nhanh và liên tục. Năm 1990 là 22.7%,
năm 2000 lên 36.7% và năm 2010 là 41,1%. Công nghiệp và xây dựng phát triển
mạnh với thiết bị công nghệ ngày càng hiện đại.
5
Tổng cục Thống kê, Niên giám thống kê 2010, Nxb Thống kê, Hà Nội, 2011.
Tỷ trọng khu vực dịch vụ trong GDP đã tăng từ 38.6% năm 1990 lên 38.7%
năm 2000 và tăng lên 38,32% năm 2010. Các ngành dịch vụ đã phát triển đa dạng
hơn, đáp ứng ngày càng tốt hơn nhu cầu của sản xuất và đời sống. Ngành du lịch,
bưu chính viễn thông phát triển với tốc độ nhanh. Các ngành dịch vụ tài chính,
ngân hàng, tư vấn pháp lý có bước phát triển theo hướng tiến bộ, hiệu quả.
1.3. Thực hiện có kết quả chủ trương phát triển nền kinh tế nhiều thành
phần, phát huy ngày càng tốt hơn tiềm năng của các thành phần kinh tế
Kinh tế Nhà nước được sắp xếp, đổi mới, nâng cao chất lượng và hiệu quả, tập
trung hơn vào những ngành then chốt và những lĩnh vực trọng yếu của nền kinh tế.
Cơ chế quản lý doanh nghiệp nhà nước được đổi mới một bước quan trọng theo
hướng xoá bao cấp, thực hiện chế độ công ty, phát huy quyền tự chủ và trách
nhiệm của doanh nghiệp trong kinh doanh.
Kinh tế tư nhân phát triển mạnh, huy động ngày càng tốt hơn các nguồn lực và
tiềm năng trong nhân dân, là một động lực rất quan trọng thúc đẩy tăng trưởng và
phát triển kinh tế. Năm 2005, khu vực kinh tế ngoài nhà nước (kinh tế tập thể, kinh
tế tư nhân và kinh tế cá thể) đóng góp khoảng 45,61% GDP của cả nước. Đến năm
2010, tỷ lệ này tăng lên 47,54%.
Kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài có tốc độ tăng trưởng tương đối cao, từ
15,99% năm 2005 tăng lên 18,72% năm 2010. Khu vực kinh tế này đang trở thành
một bộ phận cấu thành quan trọng của nền kinh tế quốc dân; là cầu nối quan trọng
với thế giới về chuyển giao công nghệ, giao thông quốc tế, đóng góp vào ngân sách
nhà nước và tạo việc làm cho nhiều người dân.
1.4. Thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa dần dần được
hình thành, kinh tế vĩ mô cơ bản ổn định
Qua 25 năm đổi mới, hệ thống pháp luật, chính sách và cơ chế vận hành của
nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa được xây dựng tương đối đồng
bộ. Hoạt động của các loại hình doanh nghiệp trong nền kinh tế nhiều thành phần
và bộ máy quản lý của Nhà nước được đổi mới một bước quan trọng.
Với chủ trương tích cực và chủ động hội nhập kinh tế quốc tế, quan hệ kinh tế
của Việt Nam với các nước, các tổ chức quốc tế ngày càng được mở rộng. Việt
Nam đã tham gia Hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á, thực hiện các cam kết về
Khu vực mậu dịch tự do ASEAN (AFTA), Hiệp định thương mại Việt Nam - Hoa
Kỳ, gia nhập tổ chức thương mại thế giới (WTO)
Đến nay Việt Nam đã có quan hệ thương mại với hơn 200 nước và vùng lãnh
thổ, ký hơn 90 hiệp định thương mại song phương với các nước, tạo ra một bước
phát triển mới rất quan trọng về kinh tế đối ngoại.
1.5. Thực hiện gắn kết phát triển kinh tế với giải quyết các vấn đề xã hội,
đời sống của đại bộ phận dân cư được nâng lên rõ rệt.
Một thành công lớn đầy ấn tượng của nước ta qua 25 năm đổi mới là đã giải
quyết có hiệu quả mối quan hệ giữa tăng trưởng kinh tế với phát triển văn hoá,
thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội, các cơ hội phát triển được mở rộng cho mọi
thành phần kinh tế, mọi tầng lớp dân cư, tính tích cực, chủ động, sáng tạo của nhân
dân được nâng cao.
Trước hết, công tác giải quyết việc làm, xoá đói giảm nghèo đạt kết quả tốt,
vượt mục tiêu phát triển thiên niên kỷ của Liên hợp quốc. Từ năm 2000 đến năm
2005, tạo việc làm cho 7,5 triệu lao động. Năm 2005, thất nghiệp ở thành thị giảm
xuống còn 5,3%; thời gian sử dụng lao động ở nông thôn đạt 80%.
Thu nhập bình quân đầu người tăng mạnh từ 200 USD năm 1990 lên
khoảng 1168 USD năm 2010.
Công tác chăm sóc sức khoẻ nhân dân được chú trọng và có nhiều tiến bộ.
Mạng lưới y tế được củng cố và phát triển, y tế chuyên ngành được nâng cấp, ứng
dụng công nghệ tiên tiến; việc phòng chống các bệnh xã hội được đẩy mạnh; tuổi
thọ trung bình từ 68 tuổi năm 1999 đến nay nâng lên trên 72 tuổi.
2. Một số mặt hạn chế cần khắc phục
Dưới góc độ xã hội – môi trường, cùng với quá trình tăng trưởng kinh tế, sự
phân hoá giàu nghèo ngày càng rõ nét và có chiều hướng gia tăng; chất lượng
nguồn nhân lực cũng chưa theo kịp yêu cầu tăng trưởng và phát triển của nền kinh
tế; tỷ lệ thời gian lao động không được sử dụng ở nông thôn vẫn còn cao; tốc độ
xoá đói giảm nghèo bắt đầu chững lại trong những năm gần đây; tốc độ suy thoái
và ô nhiễm môi trường diễn ra nhanh chóng Đây là những biểu hiện đáng báo
động về chất lượng tăng trưởng kinh tế của Việt Nam.
Xóa đói giảm nghèo
Mặc dù Việt Nam đã hoàn thành sớm kế hoạch toàn cầu “giảm một nửa tỷ lệ
nghèo vào năm 2015” mà Liên hợp quốc đề ra, nhưng thành tựu xoá đói giảm
nghèo vẫn chưa vững chắc. Số hộ có mức thu nhập bình quân đầu người nằm ngay
cận trên của chuẩn nghèo còn khá nhiều và nguy cơ bị tổn thương của các hộ này
trước những đột biến bất lợi còn lớn và khả năng tái nghèo còn cao. Điều này thể
hiện ở việc nếu so với mức “chuẩn” cũ của Việt Nam, năm 2008 người nghèo
chiếm khoảng 13,5%; còn nếu theo chuẩn mới, tỷ lệ người nghèo sẽ tăng lên 20%.
Nhưng, nếu tính theo cách của thế giới thì tỷ lệ này còn cao gấp 2-3 lần
6
.
Điều dễ nhận thấy là người nghèo đang gặp nhiều hạn chế trong việc tiếp cận
và hưởng thụ các dịch vụ xã hội cơ bản. Khả năng tiếp cận các dịch vụ, lợi ích của
tăng trưởng và thành quả do sự phát triển mang lại cho mọi công dân một cách
khách quan và công bằng chưa cao. Chẳng hạn, trong lĩnh vực y tế và giáo dục,
báo cáo của Chương trình Phát triển Liên hợp quốc về an sinh xã hội cho biết
6
Tổng cục Thống kê (2009), Niên giám thống kê 2008, Nxb. Thống kê, Hà Nội.
nhóm 20% giàu nhất hưởng 45% các trợ cấp y tế, nhóm 20% nghèo nhất chỉ nhận
được 7%; nhóm 20% giàu nhất hưởng 35% các trợ cấp giáo dục, trong khi nhóm
20% nghèo nhất chỉ nhận có 15%
7
. Bởi vậy, chỉ số đói nghèo HPI (tỷ lệ người
sống dưới ngưỡng các phương diện phát triển con người) của Việt Nam rất cao,
xếp thứ 36/177 quốc gia trong năm 2008. Những người thiếu thốn nhất tại Việt
Nam phải chịu cảnh đói nghèo ở nhiều phương diện nhất.
Công bằng xã hội và sự phân hóa giàu nghèo
Thực tế cho thấy khoảng cách nông thôn – thành thị, sự chênh lệch về trình độ
phát triển giữa các vùng trong cả nước ngày càng lớn. Điều này cho thấy, một là
chênh lệch chính của một bộ phận người giàu và tình trạng nghèo khó của một bộ
phận người nghèo; hai là sự điều tiết của Nhà nước bằng nhiều biện pháp như thuế
thu nhập, chính sách phân phối, chính sách xã hội cần làm tốt hơn.
Phân tích sâu hơn, chúng ta có thể thấy mặc dù kinh tế có bước tăng trưởng cao
trong những năm qua, nhưng hiệu quả của nó tác động đến người nghèo lại giảm
tương đối so với các tầng lớp có thu nhập cao. Theo một kết quả nghiên cứu, người
nghèo không được hưởng đầy đủ các kết quả của quá trình tăng trưởng. Nếu tăng
trưởng kinh tế tăng 10 điểm phần trăm, thì người nghèo chỉ có thể được hưởng lợi
trong số đó. Trái lại, nhóm các hộ giàu có thể khai thác nhiều hơn cơ hội tăng
trưởng cho phúc lợi của mình. Kết quả là, trong khi tăng trưởng kinh tế góp phần
to lớn vào xóa đói giảm nghèo, thì chính nó lại gia tăng thêm khoảng cách chênh
lệch giàu nghèo, do thành quả tăng trưởng không được chia sẻ một cách đồng đều
mà theo hướng có lợi cho nhóm người vốn đã có cuộc sống dư dật, khá giả hơn. ở
đây có sự đánh đổi giữa mục tiêu tăng trưởng và công bằng xã hội. Sở dĩ có tình
trạng trên là do tốc độ tăng trưởng kinh tế ngày càng tập trung vào các ngành đòi
7
Trần Hải Hạc (2008), Tăng trưởng “vì người nghèo” - WB và Việt Nam,
[
hỏi vốn cao, ít lao động và lao động có trình độ cao, điều này chắc chắn tác động
trực tiếp đến người nghèo, những người mà bản thân ít vốn liếng, tri thức và trình
độ cao để tham gia vào các ngành sản xuất đó. Các chính sách bảo hộ, thay thế
nhập khẩu sẽ làm tăng chi phí sản xuất và giá cả sản xuất đối với hàng triệu người
nghèo. Cơ hội việc làm, thu nhập, tiếp cận thông tin, tri thức của người nghèo vì
thế ngày càng thấp – điều này ảnh hưởng trực tiếp đến tăng trưởng kinh tế và công
bằng xã hội trong những năm tiếp theo.
Nền kinh tế Việt Nam lựa chọn là nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ
nghĩa. Vì vậy tăng trưởng kinh tế mà Đảng và Nhà nước đã xác định là tăng trưởng
có chất lượng, tăng trưởng bền vững, tăng trưởng vì con người, vì một xã hội ngày
càng công bằng hơn, dân chủ hơn, tăng trưởng gắn với bảo vệ môi trường. Tuy
nhiên, kinh nghiệm của chính nền kinh tế đổi mới của nước ta trong những năm
gần đây cho thấy rằng tốc độ tăng trưởng cao không nhất thiết đi liền với xu hướng
tạo ra một nền kinh tế mạnh. Bằng việc xác định rõ định hướng phát triển trong dài
hạn, Việt Nam cần có sự lựa chọn thứ tự ưu tiên các mục tiêu phát triển phù hợp
với điều kiện kinh tế, xã hội, tài nguyên, môi trường trong từng giai đoạn nhất
định, từ đó thực sự có những bước phát triển bền vững
8
.
III. TĂNG TRƯỞNG KINH TẾ VÀ PHÂN TẦNG XÃ HỘI
1. Một số quan điểm lý luận về phân tầng xã hội và sự phát triển
Phân tầng xã hội là sự phân hoá xã hội theo chiều dọc tạo nên cấu trúc xã hội
tầng lớp trong đó tầng đỉnh chiếm vị thế và vai trò quyết định đối với sự vận động,
biến đổi của các tầng lớp khác và cả hệ thống xã hội. Phân tầng xã hội tạo ra các
8
/>
tầng lớp trên dưới, cao thấp khác nhau về kinh tế, chính trị, văn hoá, giáo dục, y tế,
xã hội và nhiều đặc điểm, tính chất khác.
Học thuyết Marx-Lenin nhấn mạnh các nguyên nhân kinh tế của sự phân tầng
xã hội. Quan điểm này cho rằng quá trình tích lũy của chủ nghĩa tư bản là nguyên
nhân chính dẫn đến sự phân tầng xã hội. Khi vận dụng học thuyết Marx-Lenin vào
đánh giá thực trạng và vạch ra xu hướng biến đổi sự phân tầng xã hội cần chú ý tới
những yếu tố phi kinh tế như xu hướng hành động của các giai cấp, các tầng lớp xã
hội với trình độ nhận thức, tính tự giác và sự tiến bộ khoa học, công nghệ. Học
thuyết Marx chỉ rõ rằng cùng với yếu tố kinh tế đóng vai trò quyết định, nhưng
không phải là duy nhất, các yếu tố như các thiết chế chính trị, văn hoá, xã hội cũng
đóng những vai trò rất quan trọng đối với sự vận động, biến đổi của sự phân tầng
xã hội.
Lý thuyết của Max Weber, một nhà xã hội học người Đức, vạch ra các nhân tố
kinh tế, phi kinh tế và tình huống thị trường của sự phân tầng xã hội. Theo Weber,
lĩnh vực kinh tế không còn đóng vai trò quan trọng đối với sự phân chia giai cấp và
tầng lớp xã hội trong xã hội tư bản hiện đại. Cấu trúc xã hội nói chung và sự phân
tầng xã hội nói riêng chịu sự tác động của cả hai nhóm yếu tố cơ bản: nhóm yếu tố
kinh tế (vốn, tư liệu sản xuất…) và nhóm yếu tố phi kinh tế (vị thế xã hội, năng
lực, cơ may, quyền lực…). Có thể nói rằng, một mặt, Weber thừa nhận vai trò
quyết định của các yếu tố kinh tế, mặt khác ông chỉ ra vai trò quan trọng của các
yếu tố văn hoá, đạo đức xã hội và các đặc điểm thuộc về năng lực của cá nhân, các
đặc điểm thuộc về sự đầu tư của gia đình và cả các yếu tố thuộc về bối cảnh xã hội
cụ thể. Đặc biệt, Weber nhấn mạnh vai trò của sự tương tác giữa các yếu tố trong
việc tạo ra những động lực thúc đẩy hoặc kìm hãm sự phân tầng xã hội. Theo
Weber sự phân tầng xã hội biến đổi từ kiểu truyền thống sang kiểu hiện đại: sự
phân tầng trong xã hội truyền thống dựa vào sự phân công lao động đơn giản, thủ
công, sự phân tầng trong xã hội hiện đại dựa vào sự phân công lao động phức tạp,
lao động cơ khí. Trong xã hội truyền thống, sự phân tầng xã hội phụ thuộc nhiều
vào yếu tố kinh tế gia đình và di truyền xã hội kiểu thừa kế. Trong xã hội hiện đại,
dưới tác động của thị trường, sự phân hoá giàu nghèo và sự phân tầng xã hội không
chỉ phụ thuộc vào yếu tố kinh tế như sở hữu, tài sản, thu nhập, chi tiêu mà còn phụ
thuộc vào những yếu tố cá nhân và xã hội như trình độ học vấn, chuyên môn, nghề
nghiệp và những yếu tố xã hội như quyền lực, vị thế, vai trò xã hội, hệ giá trị văn
hoá, chuẩn mực xã hội và các nguồn vốn phi kinh tế khác.
Kết quả của sự phân hoá giàu nghèo là người nghèo bị rơi xuống tầng đáy của
thang bậc phân tầng xã hội và người giàu nổi lên tầng trên, nắm giữ phần lớn
quyền lực, uy tín và của cải của toàn xã hội. Trong quá trình này, rất có thể một số
người bị mất tài sản trở nên nghèo đói, nhưng những người đó không nhất thiết bị
rơi xuống tầng đáy của xã hội bởi vì tình trạng đó có thể chỉ mang tính tạm thời.
Người nghèo kinh niên có thể may mắn có tài sản, ví dụ do trúng số độc đắc,
những vẫn có thể bị nghèo do không biết sử dụng số tiền kiếm được nhất thời đó.
Những người có uy tín xã hội hoặc nắm giữ quyền lực đều có thể trở nên giàu có,
nhưng những người giàu chưa chắc đã có uy tín và vị thế cao trong hệ thống phân
tầng xã hội. Điều này cho thấy tính phức tạp và năng động của các quá trình di
động, cơ động của sự phân tầng xã hội.
Bất bình đẳng xã hội là sự phân hoá xã hội đến mức làm tăng lợi ích của tầng
lớp xã hội này với cái giá của sự phương hại lợi ích của nhóm xã hội khác trong
cấu trúc phân tầng xã hội nhất định. Sự phân hoá xã hội luôn dẫn đến sự khác nhau
thậm chí sự phân tầng xã hội nhưng không phải sự phân hoá nào, cũng không phải
sự phân tầng xã hội nào cũng là sự bất bình đẳng xã hội. Ví dụ, sự khác nhau về
năng lực và trình độ học vấn, tay nghề có thể dẫn đến sự khác nhau về thu nhập
giữa các nhóm người. Nhưng đây chưa chắc đã là sự bất bình đẳng xã hội bởi vấn