TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
MƠN: VĂN HỌC VIỆT NAM THẾ KỶ XX
ĐỀ TÀI: CẢM NHẨN VỀ TÁC PHẨM “MẢNH ĐẤT LẮM NGƯỜI
NHIỀU MA” CỦA NGUYỄN KHẮC TRƯỜNG
MỤC LỤC
I. GIỚI THIỆU CHUNG..................................................................................3
1.1. Tác giả Nguyễn Khắc Trường ....................................................................3
1.2. Tác phẩm “Mảnh đất lắm người nhiều ma”................................................4
1.3. Tóm tắt nội dung truyện..............................................................................5
1.4. Các nhân vật trong truyện.........................................................................6
II. NỘI DUNG......................................................................................................9
2.1. Bức tranh hiện thực cuộc sống nông thôn trong Mảnh đất lắm người nhiều
ma.......................................................................................................................9
2.2. Con người và những mâu thuẫn trong Mảnh đất lắm người nhiêu ma...10
2.2.1. Thân phận của những con người nghèo khổ....................................10
2.2.2. Những người có chức quyền. Mâu thuẫn của dịng họ Trịnh Bá-Vũ
Đình
2.2.3. Số phận người phụ nữ trong tác phẩm..............................................16
2.2.4. Những ảnh hưởng của đời trước đối với thế hệ sau.........................17
2.3. Hình tượng “ma” trong Mảnh đất lắm người nhiều ma..........................19
2.3.1. Những chi tiết kì ảo trong tác phẩm.................................................19
2.3.2. Những con người đội lốt ma.............................................................22
III. NGHỆ THUẬT...........................................................................................24
3.1. Sử dụng thành ngữ....................................................................................24
3.2. Ngôn ngữ mang đậm tính chất khẩu ngữ, từ địa phương và lối chửi thề
chửi đổng..........................................................................................................26
3.3. Bút pháp tả thực.......................................................................................26
3.4. Nghệ thuật đối lập...................................................................................27
3.5. Lối kể chuyện.........................................................................................27
IV. Ý NGHĨA.....................................................................................................27
4.1. Ý nghĩ truyền tải đến người đọc................................................................27
4.2. Ý nghĩ của tác phẩm đối với nền văn học Việt Nam thế kỷ XX...............28
V. TỔNG KẾT.................................................................................................28
VI.
TÀI LIỆU THAM KHẢO.......................................................................30
2
I.
GIỚI THIỆU CHUNG
1.1. Tác giả Nguyễn Khắc Trường
Nguyễn Khắc Trường (06-07-1946) tại Đơng Hy, Thái Ngun. Ơng là nhà
văn qn đội, bước vào làng văn ở tuổi 20 với bút danh là Thao Trường - một
cái tên đậm chất quân đội. Nguyễn Khắc Trường là một tác giả tiêu biểu và có
nhiều đóng góp cho của văn học thời kì đổi mới, nhất là từ những năm đầu thập
niên 90.
Đầu những năm 70 từ người lính kỹ thuật của binh chủng Phịng khơng
khơng qn, Thao Trường trở thành phóng viên mặt trận viết cho tờ in của báo
binh chủng này, rồi ơng viết đều đều cho tạp chí của qn đội. Ông là một trong
số những nhà văn trưởng thành từ cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước, nhiều
năm sau Thao Trường trở thành tác giả viết bút ký, truyện ngắn về chiến tranh,
hậu phương quân đội và nông thôn.
Năm 1986, ông được trao giải nhất cuộc thi bút ký của tuần báo Văn nghệ và
Đài tiếng nói Việt Nam phối hợp tổ chức.Sau này, ơng được tạp chí Văn nghệ
giới thiệu đi học trường Viết văn Nguyễn Du (khóa 1) cho đến năm 1983. Sau
khi tốt nghiệp xong, ông chuyển về làm biên tập viên, nhà văn tạp chí Văn nghệ
Quân đội. Ông trở thành thành viên của Hội Nhà văn Việt Nam từ 1982. Năm
1983, ông chuyển về công tác tại tổ văn xuôi của báo Văn nghệ. Năm 2003, khi
đang là Phó Tổng biên tập Báo Văn Nghệ, ơng chuyển sang làm Phó giám đốc
Tổng biên tập Nhà xuất bản Hội Nhà văn đến năm 2011 thì nghỉ hưu. Hiện ông
là Chủ tịch Hội đồng Văn xuôi của Hội Nhà văn Việt Nam.
Các giải thưởng Nguyễn Khắc Trường đạt được: Giải thưởng Nhà nước về
Văn học và Nghệ thuật năm 2000, giải thưởng cuộc thi truyện ngắn báo Văn
3
nghệ và Đài tiếng nói Việt Nam với tác phẩm “ Gặp lại anh hùng Núp” năm
1986, giải thưởng Hội Nhà văn Việt Nam 1991 với tiểu thuyết “ Mảnh đất lắm
người nhiều ma”.
Các tác phẩm tiêu biểu của ông: Mảnh đất lắm người nhiều ma ( tiểu thuyết)
1990, Thác rừng ( tập truyện ngắn)1976, Miền đất Mặt trời ( tập truyện) 1982,
Cửa khẩu ( tập truyện vừa) 1972.
I.2. Tác phẩm “Mảnh đất lắm người nhiều ma”
Tác phẩm “Mảnh đất lắm người nhiều ma” là cuốn tiểu thuyết được nhà văn
Nguyễn Khắc Trường sáng tác năm 1990, năm ông 44 tuổi. Là một trong những
cuốn tiểu thuyết xuất sắc nhất của ông viết về nông thôn ven sông Công (Thái
Nguyên) trong thời gian 1988 của thời kì đổi mới và nhận được giải thưởng Hội
Nhà văn Việt Nam năm 1991.
“Mảnh đất lắm người nhiều ma” là câu chuyện xoay quanh mối thù, tranh
chấp từ nhiều đời giữa hai chi họ lớn nhất làng Giếng Chùa lúc bấy giờ là Vũ
Đình và Trịnh Bá, mà đại diện là ơng Vũ Đình Phúc (trưởng họ Vũ Đình) và hai
anh em Trịnh Bá Hàm (trưởng họ Vũ Đình), Trịnh Bá Thủ (em ơng Hàm, Bí thư
Đảng ủy xã). Vì mối thù, vì lợi ích của dịng họ, của cá nhân mà họ khơng tiếc
những thủ đoạn để hãm hại, hạ bệ lẫn nhau, kết bè kéo cánh trong xây dựng bộ
máy làng xã và khơng tiếc hy sinh cả người thân của mình để đạt được lợi ích.
Tác phẩm đã tái hiện một cách chân thực về bản chất nông thôn thời xưa,
tưởng chừng như yên bình nhưng ngấm ngầm tồn tại sự tranh giành quyền lực
giữa hai dòng họ lớn trong làng, giữa cái tốt với cái xấu, giữa công với tư, giữa
làng xóm và lề thói trong xã hội nơng thơn; ý thức dòng tộc nổi bật làm cản trở
sự phát triển của vùng nông thôn này trong công cuộc xây dựng xã hội mới. Nó
chi phối đến mối quan hệ giữa những người trong làng, khiến họ không được
4
sống một cuộc sống mà mình mong muốn. Họ bị liên lụy, bị kéo vào những
cuộc tranh giành quyền lực, đấu đá tưởng chừng như khơng bao giờ có hồi kết.
Tiểu thuyết này được dựng thành phim truyền hình với tiêu đề “Đất và
Người” (2002) bởi đạo diễn Nguyễn Hữu Phần.
I.3. Tóm tắt nội dung truyện
Khơng gian của câu chuyện là địa bàn nông thôn ven sông Công (Thái
Nguyên) trong thời gian năm 1988, khi mà Việt Nam đang bắt đầu thời kỳ đổi
mới. Nội dung chính của tiểu thuyết là sự đấu đá của hai dòng họ, họ Vũ và họ
Trịnh ở xóm Giếng Chùa, mà đại diện là Vũ Đình Phúc (trưởng họ Vũ) và anh
em Trịnh Bá Hàm (trưởng họ Trịnh), Trịnh Bá Thủ (em của Hàm, bí thư Đảng
ủy Đảng Cộng sản Việt Nam của xã). Đây là hai họ lớn nhất, là dân gốc ở đây
và có máu mặt nhất trong làng.
Mối hiềm khích giữa hai họ này qua lời kể lại trong tác phẩm thực ra đã kéo
dài từ nhiều đời trước và đến đời Phúc - Hàm thì là mối thù về tình. Trước kia,
khi cịn trẻ, Phúc có quan hệ u đương với bà Son (lúc đó Phúc đã có vợ), con
Hàm lại là người si mê bà Son nhưng lại không được bà mảy may để ý. Khi bà
Son bị bố mẹ ép lấy chồng, bà nói với ơng Phúc cùng bỏ trốn, nhưng vì nhát gan
Phúc đã khơng làm theo. Bà Son sau đó bị bố mẹ ép gả cho Hàm, vào đêm động
phịng, Hàm phát hiện ra mình là kẻ chậm chân, chỉ là kẻ đổ vỏ cho người ăn ốc
là Phúc. Cịn bà Son, kể từ đó phải sống khổ sở, sống đây đủ nhưng khơng có
hạnh phúc, tự coi mình là con hầu, con hạ trong nhà để đổi lấy việc Hàm giữ bí
mật cho mình. Đây cũng là nguyên nhân chính khiến Hàm rất thù Phúc.
Câu chuyện xoay quanh sự trả thù, tranh giành chức quyền của hai họ và
những đấu đá về quyền lợi trong làng quê, đã thành sự đấu đá trong chi bộ Đảng
Cộng sản Việt Nam của xã mà ở đó Thủ làm bí thư xã, Phúc là chủ nhiệm hợp
tác xã. Đỉnh cao của việc trả thù là ông Hàm âm mưu đào mộ bố Phúc (mới mất)
5
để yểm bùa nhằm ám hại dòng họ Phúc nhưng bị phát hiện, sau đó bị bắt giam.
Thủ dùng chị dâu mình là bà Son lừa cho ơng Phúc rơi vào bẫy, vu oan cho hai
người có tình ý, viết biên bản và bắt ép Phúc phải hòa giải để cứu ơng Hàm. Sau
đó lại dùng biên bản này để ép bà Son phải giả mạo đơn tố cáo Phúc có ý định
bất chính với mình. Đỉnh điểm là khi bà Son bị cưỡng chế về tinh thần cao độ,
xấu hổ và khơng cịn lối thốt đã nhảy xuống sơng tự vẫn và Phúc lại là người
đầu tiên vớt xác bà, điều này càng làm ơng Hàm cảm thấy mình luôn là người
đến sau, càng căm thù ông Phúc hơn.
Câu chuyện cũng gắn liền với mối tình ngang trái của Đào (con gái ông
Hàm) và Tùng (cháu ông Phúc, gọi ông Phúc là cậu). Tùng là Đảng viên tốt, cựu
quân nhân, có trí vươn lên và muốn vượt qua những định kiến dòng họ, đồng
thời cùng những Đảng viên tốt khác muốn xóa bỏ những góc khuất trong chi bộ
Đảng, làm trong sạch đội ngũ để xây dựng quê hương. Cùng sát cánh với Tùng
cịn có Trung tá Chỉnh, bạn chiến đấu của bố Tùng, cả hai thành một cặp Đảng
viên đang vươn lên để xây dựng nề nếp mới cho chi bộ. Chuyện tình của Tùng
và Đào tưởng chừng như dang dở sau khi chính Tùng phát hiện ra việc ơng Hàm
có ý đồ đào mộ và báo cho ông Phúc. Mâu thuẫn của họ được giải quyết ở cuối
chuyện nhờ nhân vật nữ khác là Minh, bạn của Đào.
Tiểu thuyết kết thúc dang dở khi những mâu thuẫn bắt đầu được hạ nhiệt và
những khóc khuất bắt đầu lộ ra, mối tình Tùng - Đào bắt đầu có tín hiệu tốt đẹp
và kết thúc bằng việc nhân vật Minh, người thầm yêu Tùng, lặng lẽ khóc sau khi
làm cầu nối hòa giải cho hai người.
I.4. Các nhân vật trong truyện
-
Họ Trịnh Bá:
+ Trịnh Bá Hàm: Là trưởng họ Trịnh Bá, con của Trịnh Bá Hoành, làm nghề thợ
mộc. Ơng Hàm là điển hình của mẫu đàn ơng gia trưởng, phong kiến. Ông Hàm
6
cịn được miêu tả là người giỏi tính tốn mọi chuyện có lợi cho mình nhưng lại
bị lún q sâu vào vịng xốy ân ốn giữa hai họ, chỉ chăm chăm nghĩ cách để
hạ bệ dòng họ bên kia.
+ Trịnh Bá Thủ: là em trai của Hàm, con thứ trong họ Trịnh Bá. Trịnh Bá Thủ là
bí thư Đảng bộ xã, cũng là người theo nề nếp gia trưởng. Ông Thủ là người
ngoài mặt nhẹ nhàng, ngọt ngào, nhưng bên trong lại cực kỳ mưu mơ, xảo quyệt,
rất biết nhìn xa trông rộng. Thủ nghĩ tới hận thù gia tộc thì ít, nghĩ tới mình là
nhiều, ln tìm cách để mình có quyền lực và có vị trí quan trọng nhất trong xã.
+ Bà Son: Nạn nhân đáng thương của mâu thuẫn hai họ, hồng nhan thì bạc phận.
Bà Son là một người phụ nữ đẹp nổi tiếng, khi bố mẹ ép gả cho Hàm, bà trở
thành cái bóng trong nhà ông Hàm để đổi lấy việc ông Hàm giữ bí mật chuyện
của bà với gia đình. Mặc dù sống no đủ nhưng bà khơng có hạnh phúc. Bà bị
Thủ lợi dụng trong âm mưu của anh em họ Trịnh. Chịu khơng nổi sức ép của
Thủ khi bắt mình làm việc ác và bị làm nhục bởi chú cháu Thủ-Cao, bà đã tự
vẫn.
+ Đào: con gái của ông Hàm, người yêu của Tùng. Đào là một người con gái
xinh đẹp như mẹ mình nhưng lại quyết liệt, thẳng thắng, mạnh mẽ giống ơng
Hàm. Đào Có mâu thuẫn với Tùng nhưng đã được giải quyết vào kết truyện.
+ Ngồi ra cịn có Hoa (em gái Đào), Dương (con trai cả ơng Hàm), Luyến (vợ
Thủ), Long (em Hàm).
-
Họ Vũ Đình:
+ Vũ Đình Phúc: Là trưởng họ Vũ Đình, con của cụ Vũ Đình Đại. Vũ Đình
Phúc khi cịn trẻ tham gia du kích, sau đó để leo lên hàng ngũ lãnh đạo đã luồn
cúi, bám theo đội trưởng cải cách ruộng đất, tổ chức đấu tố hạ nhục bố đẻ cùng
các em mình, gây ra nỗi uất hận trong lịng ơng Đại. Ở thời điểm hiện tại của
câu chuyện, Phúc phải thôi chức chủ nhiệm hợp tác xã, và luôn đứng trong bóng
tối kiện cáo, gây ra những rối loạn trong làng xã.
7
+ Ngồi ra cịn có Sang (chị gái cả, mẹ Tùng), Quý, Lộc (em trai Phúc), Tài (em
gái út Phúc) cùng các anh em rể của Phúc.
+ Tùng: Là cháu, gọi Vũ Đình Phúc bằng cậu ruột (mẹ Tùng, bà Sang là chị gái
của Phúc). Tùng là bộ đội phục viên, là Đảng viên trẻ nhiệt huyết. Tùng yêu
Đào, và vơ tinh đẩy mối thù hằn hai dịng họ Vũ - Trịnh lên đỉnh điểm khi tìm
cách ngăn cản ơng Hàm đào mộ ơng ngoại mình bằng cách báo cho Phúc. Tùng
cùng ơng Chỉnh đã tìm cách phá bỏ những góc khuất trong bộ máy chính quyền,
và đã trở thành những kẻ đối nghịch với cả hai phe kia.
- Nhân vật khác
+ Chỉnh: là trung tá quân đội về hưu, là bạn chiến đấu của bố Tùng. Ông Chỉnh
là người gần gũi nhất với Tùng, và được mọi người kính trọng vì phẩm chất
người lính.
+ Bà Cả: chị gái ruột bà Son, là người nóng tính nhưng rất thương cho số phận
của bà Son. Ln bảo vệ em mình trước sự bất công của ông em rể mà không hề
lo sợ.
+ Quềnh: Vốn tên thật là Quỳnh, một người khờ dại, thật thà, tốt bụng, nhưng
nghiện rượu. Quềnh được gán huyền thoại về ma nhập, ma trêu và mất trí vì ma
làm. Quềnh chết vì vỡ dạ dày do làm việc quá sức sau khi được ăn no. Đám tang
của Quềnh là một sự bi thương khi người em ruột của Quềnh là Qng chỉ đem
chiếc chiếu bó lại, chơn vội vàng, sau đó phải moi lên chơn lại do sự kiện cáo.
+ Quàng: tên thật là Đào Văn Quang, em ruột của Quềnh. Quàng lợi dụng anh
trai mình khờ khạo, chiếm đoạt tồn bộ gia tài, đẩy anh mình đến chỗ sống
ngồi đồng. Dù có cuộc sống khá giả nhờ ăn lạm cơng quỹ chính quyền, Qng
lại keo kiệt, an táng anh mình chỉ bằng một chiếc chiếu manh.
+ Cô thống Biệu: Là nhân vật thầy cúng cao niên nhất của làng, người nắm phần
âm của làng, nhân vật như để hình tượng hóa cho hình ảnh "ma" trong câu
truyện.
8
+ Sửu: là chủ tịch xã, không phải dân gốc Giếng Chùa, được dựng lên nhờ sự trợ
giúp của Thủ. Dù đứng theo phe phái của Thủ nhưng Sửu vẫn lợi dụng cách cơ
hội để lật đổ Thủ và thay thế Thủ.
+ Cao: là phó trưởng cơng an xã, cháu ruột của vợ Thủ, tay sai đắc lực của Thủ.
Cao là kẻ xốc nổi, được gọi là "trâu luộc cả con".
+ Người đàn bà làm thuê: là một nhân vật khá đặc biệt. Một người phụ nữ đau
khổ vì con chết, sống nhờ trong căn lều của lão Quềnh, sau đó được th về giúp
việc cho nhà ơng Hàm. Sau khi bà Son chết, bà đã giả lên đồng, sau đó lại quyến
rũ để bám chặt ơng Hàm, tìm cách trở thành "bà chủ" mới của nhà ông Hàm. Ở
cuối tiểu thuyết, bà cịn thay thế Cơ thống Biệu khi cô chết.
+ Minh: là bạn thân của Tùng và Đào, xuất hiện rất ngắn ở cuối tiểu thuyết. Cô
yêu Tùng, nhưng lại giúp cho hai người hòa giải. Trong một giây phút yêu
đương bất chợt, suýt nữa Minh đã làm điều có lỗi với bạn mình nhưng lí trí đã
thức tỉnh cơ.
+ Ngồi ra cịn có: Tám lé, Xn Tươi, ông Quản Ngư, bà Đồ Ngật, anh em
Hiển - Vinh, Thó...
II.
NỘI DUNG
2.1. Bức tranh hiện thực cuộc sống nơng thơn trong Mảnh đất lắm người
nhiều ma
Mở đầu cuốn tiểu thuyết, xóm Giếng Chùa được miêu tả một cách chân thực
dưới ngịi bút của Nguyễn Khắc Trường.
- Xóm Giếng Chùa vốn là một xóm mang tiếng sang, tiếng giàu của tồn xã.
“Nơi đây nếu tính từ phía bắc xuống, là địa danh cuối cùng của đất trung du. Có
đủ sơng ngịi, đồi sim, ruộng lúa. Làng vẫn còn khung cổng tiền cổng hậu như
9
hai ụ súng ở đầu bắc và đầu nam. Những phiến đất nung màu gan gà vừa to vừa
dày ốp khít vào nhau, chắc đến đập khơng vỡ. Con đường chính giữa làng dài
một cây số được lát bằng gạch vồ mua từ dưới Hương Canh - Vĩnh Phúc, mà lát
nghiêng, nên bây giờ vẫn chắc khừ.”
“Nếu ví cả xã là cái bánh, là bơng hoa, thì Giếng Chùa là cái nhân đường, cái
nhị mật, nghĩa là nơi có lề thói nhất, cái sang và cả cái gàn của Giếng Chùa cũng
là nhất xã! Ở đây liên tục có những người đỗ đạt và những người có địa vị chức
sắc, dù chỉ là chức sắc ở xã, nhưng cũng lại thường xuyên có một hai anh chàng
chày cối, đến mức dù thời nào thì những gã xắng cá này cũng như sống ngồi
vịng pháp luật! Từ lâu số nhà ngói ở đây vẫn đứng đầu toàn vùng, mà lại chơi
cầu kỳ lợp tồn ngói ta, nhỏ và đều tăm tắp như vảy rồng.Trơng rêu phong và cổ
kính.”
- Giàu có như thế vậy mà vào đợt đói giáp hạt này, xóm Giếng Chùa cũng một
phen liêu xiêu, “ấy thế mà vố này cũng đói vàng mắt”. “Keo vật giáp hạt này sẽ
vần cho dân làng đến mê tơi dây’.
Nhiều nhà phải nấu cháo độn thêm rau tập tàng, nhiều nhà phải luộc chuối xanh
chấm muối, ngay cả người đàn bà quen ăn trắng mặc trơn như bà “Đồ Ngật”
cũng phải sáng chế ra bánh mạt ngô, thứ ngô trước đây chỉ dùng để chăn gà, để
ăn trừ bữa.
Ngay đến ông Quản Ngư, “người được cả làng khen là chí lớn gan to, nước lã
mà vã nên hồ”, gần tháng nay phải ăn cháo cám, rồi làm bánh đồ cách thủy cho
lạ miệng nhưng nguyên liệu vẫn là cám.
Những nhà vốn túng bất nay đứt hẳn bữa ăn. Những mặt người hao gầy, nhớn
nhác hớt hải cứ tưởng như vội vã đi đâu nhưng kỳ thực chẳng có gì hết, cứ ra
vào quanh quẩn với cái bụng đói èo èo.
10
=> Chương đầu của tiểu thuyết là một xóm nhỏ hiện lên một cách giản dị, quen
thuộc dưới ngòi bút tả thực của Nguyễn Khắc Trường. Một khung cảnh không
mấy vui vẻ trước cái đói nhưng lại vơ cùng n bình.
2.2Con người và những mâu thuẫn trong Mảnh đất lắm người nhiêu ma
2.2.1. Thân phận của những con người nghèo khổ
Tác giả ngồi việc viết về vùng nơng thơn vẫn còn mang nặng tư tưởng phong
kiến một cách chân thực với sự đấu đá lẫn nhau giữa các thế lực, giữa phe này
cánh kia, những người lợi dụng chức quyền, uy danh của Đảng để tư lợi nhưng
thực chất đó là sự tranh chấp về lợi ích giữa hai chi họ lớn nhất trong làng là
Trịnh Bá và Vũ Đình. Ngồi ra, tác giả cịn đề cập đến những con người khốn
khổ, khơng có chức có quyền, khơng có tiếng nói trong làng, những con người “
ma chê quỷ ám”. Và đại diện cho những con người đáng thương ấy là lão
Quềnh, Thó, Tám lé,…
Trong đó thê lương nhất có lẽ là số phận của lão Quềnh. Bởi lẽ “ lão Quềnh ra
đời như để hứng chịu tất cả sự ngờ nghệch, khờ khạo cho dân Giếng Chùa”. Đầu
óc lão cứ ngơ ngơ ngẩn ngẩn, lúc nhớ lúc quên cùng với tính tình hiền lành
chính vì thế mà lão bị người ta lợi dụng, bị bóc lột sức lao động “ làm như trâu
nhưng chẳng biết mà cả vòi vĩnh, vì thế ai có việc cũng muốn mướn cậu và ai
cũng có quyền đùa bỡn cậu”. Khơng những thế, lão Quềnh cịn bị vợ chồng
Qng là em ruột của mình “chiếm hết cả ao cả vườn”, “chỉ chừa lại một cái góc
ớm nắng ven vẻn chừng dăm cái nong” và chỉ khi có việc gì nặng nhọc thì mới
cần đến ơng. Khi cịn là thanh niên có giai thoại cho rằng lão bị ma ám, ma làm
cho đầu óc khơng cịn bình thường nữa nhưng có đúng là thật như thế khơng thì
cũng khơng ai chắc chắn. Lão sống trong thân phận nhỏ bé, bị người khác xem
thường “ngay cái tên Quỳnh đẹp đẽ của cậu cũng bị người ta biến báo đi thành
Quềnh”. Và số phận ấy, cái sự ngơ ngẩn ấy lại theo lão đến tận lúc chết. Cái chết
11
của lão cũng thật đáng thương, một cái chết bất đắc kì tử, cũng chẳng có được
một đám tang tử tế “ khơng được tắm rửa, bó trong chiếc chiếu hoa”, “ đi lặng lẽ
trong bóng chiều chạng vạng” .Nhưng vẫn chưa dừng lại ở đó, cịn tàn nhẫn hơn
khi lão Quềnh phải chết hai lần để được nằm trong quan tài như người khác, để
giữ thể diện, giữ bộ mặt cho chính quyền, cho làng xã. Mặc dù thân phận nhỏ
bé, cuộc sống khó khăn nhưng lão vẫn mơ ước có một gia đình nhỏ bé. Lão đã
từng cưu mang một người phụ nữ mang thai do em trai lão đem về. Nhưng có lẽ
số phận của lão đã được định sẵn là sẽ không được hưởng hạnh phúc khi người
phụ nữ ấy lại bỏ ơng mà đi.
Tiếp đó, Thó cũng là một nhân vật đáng chú ý. “Tên hắn chính là Thọ kia,
nhưng cái tính táy máy, thấy ai để hở cái gì mà hắn khơng thuồng, khơng thó thì
ngứa ngáy khơng chịu được!”. Thó như là hiện thân của sự bần cùng của những
con người sống dưới đáy xã hội. Cũng vì cuộc sống quá nghèo khổ mà Thó mới
trở thành trộm. Trong khi mọi người chỉ quan tâm đến đám tang của cụ cố Đại
thì Thó lại lẻn vào bếp nhà họ để trộm rượu, trộm xơi. Và sau này cũng chính vì
cái đói mà Thó chấp nhận làm tay sai cho ông Hàm, mặc dù cái việc làm ấy làm
cho Thó thấy sợ hãi. Nhưng chính sự đói nghèo đã khiến Thó dẹp bỏ nỗi sợ ấy
q một bên . Thó hiện lên qua ngịi bút của nhà văn vừa đáng thương lại vừa
đáng giận.
Ngoài hai nhân vật trên thì Tám lé cũng là một nhân vật có số phận nhỏ nhoi, bị
người ta coi thường, chèn ép . Tám lé phải đi lên vùng kinh tế mới của huyện để
được xóa nợ hơn tấn thóc đã vay. Sau năm tháng đi tha hương thì Tám lé “ anh
chàng thợ húi đầu có cặp mắt hiếng hiếng như bánh xe sang vành, chủ chiếc lều
ở ngả ba trước cổng ủy ban” đã trở về và trở nên giàu có. Vợ chồng con cái Tám
lé về làng đều ăn mặc rất bảnh để khoe ra sự giàu có của mình. Tám muốn địi
lại ruộng vườn đất đai đã bị người ta mua với giá chèn ép trước đây. Tám cho
rằng bây giờ hắn cũng là người có máu mặt trong làng, hắn phải sống ngang
hàng với những người trước giờ vẫn coi thường hắn, không coi hắn là con người
12
mà vẫn “nhìn Tám như cái sâu cái kiến”. Lúc đi kinh tế mới Tám đã lấy mạng
của mình ra cược với thần chết để giành lấy sự sống và hắn đã sống. Sống để trở
về làng tìm một chỗ đứng cho mình. Tám đã đốt đi căn nhà cũ của mình như là
đốt đi tất cả cái nghèo trước kia. Từ đó, khẳng định khát vọng sống, khát vọng
vươn lên. Tuy nhiên khát vọng ấy nhanh chóng bị dập tắt ngay tức thì khi Tám
đã bị thế lực cầm quyền hăm dọa “phải nhớ là dù có vàng dát đầy người, ở cái
làng này mày cũng chỉ là đồ cóc nhái! Câm mồm đi thì chúng ơng cho sống!”.
Trước sự hăm dọa ấy, Tám lé đã không vượt lên được số phận, vẫn phải tiếp tục
cuộc sống như trước kia, bị khinh rẻ, vùi dập “như cái sâu cái kiến”.
2.2.2 Những người có chức quyền. Mâu thuẫn của dịng họ Trịnh Bá-Vũ
Đình
Khơng chỉ tập trung miêu tả những thân phận nghèo khổ, khơng tiền, khơng
quyền ở xóm Giếng Chùa, Nguyễn Khắc Trường còn khắc họa một cách tỉ mỉ
những con người ở một tầng lớp khác, vừa giàu, vừa nắm quyền hành trong tay.
Ấy là Đại, Hoành, Phúc, Hàm, Thủ, Son, Cao Sửu…
Trước hết, phài nói đến bậc trưởng bối là ơng Đại và ơng Hồnh. Hai con người
đại diện cho hai dịng họ lớn nhất xóm Giếng Chùa, Vũ Đình - Trịnh Bá. Thời
ấy, cả hai họ đều ăn nên làm ra, có của ăn của để, nhưng vì tranh giành chức lý
trưởng, “lợn sề trâu nái, ruộng sâu giữa đồng” nhà ơng Hồnh cứ thế ra đi, vậy
mà chức lý trưởng lại thuộc về ông Đại. Mối thù này ơng Hồnh ln để trong
lịng, chờ ngày trả lại, ơng và người con trai của mình là Hàm ra sức làm để
dựng lại cơ đồ.
Hồi ơng Hồnh cịn sống, kể lại cho Hàm rằng “hồi năm 1949 giặc Pháp định
mở một cuộc càn mà chúng nói là càn theo chiến thuật gọng kìm, chiến thuật
càng cua lên dây”. Cả làng bỏ chạy toán loạn nhưng cuộc càn của giặc khơng
thành. Khi ơng Hồnh vội vã trở về thì đã thấy bố con Đại-Phúc đã ở nhà. Hồi
13
ấy, Phúc là du kích xã nên ở nhà đã đành, vậy cịn ơng Đại vì lí do gì đã mị về
sớm vậy. Ơng Hồnh chạy về nhà kiểm tra thấy đồ đạc còn nguyên nhưng bức
tranh Hổ thần của nhà Trịnh Bá treo ở bàn thờ đã chọc thục cả hai mắt, rồi lấy
than vạch chéo một dấu thập đen xì giữa đầu ngài. Ơng Hồnh nói ngay đó là
hành đông bôi gio trét trấu vào tổ tiên nhà Trịnh Bá và chắc nịch rằng đó là do
ơng Đại làm. Trước khi mất, ơng dặn dị Hàm “ở đời hịn bấc ném đi, thì hịn chì
ném lại […] Có vay phải có trả. Nó đã dám bạo nghịch dẫm đạp lên cả gia bảo
nhà ta, thầy ân hận là chưa địi cái món nợ ấy được vì chưa gặp dịp. Đến đời
anh, anh phải nhớ!”. Đó cũng là mối thù mà sau này ông Hàm thay bố trả đủ cho
nhà ông Đại.
Kế đến là ông Hàm, người con trai trưởng của dịng họ Trịnh Bá. Ơng Hàm
chưa học hết Tam tự kinh đã phải bỏ đi cầm tràng đục kiếm ăn, cùng bố cày sâu
quốc bẫm. Ông vốn chỉ học sơ qua nghề mộc nhưng gặp thời đi đây đó làm cho
người ta, ăn cơm khắp bàn dân thiên hạ thời trai trẻ. Cả cơ đồ bấy giờ là một tay
ơng gầy dựng mà nên. Ơng Hàm ln nhớ tới lời bố dặn trước khi qua đời, “
sống ở làng này phải biết bố con Đại-Phúc là người không thể di chung đường,
ngồi chung chiếu. Khơng bao giờ nó muốn ta ngóc đầu lên được”. Cứ thế, ơng
ln toan tính tìm cách để trả thù nhà Vũ Đình, “ơng sẽ cho cả họ nhà mày ăn
bùn! Ăn bùn!”
Tiếp đến là Thủ, một nhân vật được tác giả dày công miêu tả. Vốn là con người
có ăn học, có chức quyền trong tay, lại rất biết tính tốn. Bề ngồi Thủ trơng có
vẻ là người mềm mỏng, có trách nhiệm với Đảng, ln sống vì nước, thương
dân, chăm lo đời sống của dân nhưng thực chất lại là con người vô cùng xảo
quyệt, thâm độc, luôn nghĩ cách lật đổ những người uy hiếp vị trí của mình và
lơi kéo phe cánh để bảo vệ chức quyền của mình. Thủ đã bị quyền lực và danh
vọng làm cho tha hóa, vì nó mà sẵn sàng lợi dụng tình thân để mang lợi cho
mình. Thủ giỏi trong việc trấn an, biết điều chỉnh cảm xúc bản thân, biết làm
người khác tin tưởng vào mình. Người ta khơng biết khi nào Thủ giận, khi nào
14
đang vui hay đang thù hằn ai, Thủ “là người biết làm chính trọ đấy. Tức là mọi
việc hắn cứ làm như không! Yêu ai cũng không sàm sỡ, ghét ai cũng không hầm
hè, cứ lặng lẽ làm để đạt tới mục đích”. Thủ làm cho mọi người phải dè chừng,
nể nang và cảnh giác mình.
Về phía Phúc, ơng là con trưởng họ Vũ Đình. Thời cịn trẻ, Phúc là người hào
hoa phong nhã, đã học hết sơ học yếu lược, nhận một chân gõ đầu trẻ ở trường
tư thục trên phố huyện. Ông Phúc cũng là người ham chức quyền, vì nó mà bơi
nhọ danh dự của cả bố mình, cả anh em ruột thịt. Hồi Phúc mới kết nạp vào
Đảng, đang làm bí thư đồn thanh niên tồn xã, để chứng minh mình khơng bị
nhuộm đen bởi giai cấp địa chủ, vợ chồng Phúc dọn ra ở riêng. Suốt ngày Phúc
bám đội trưởng cải cách là Cường để được nâng đỡ. Ơng Phúc khơng xảo quyệt
bằng Thủ nhưng cũng là người ưa danh vọng chức quyền, không được chân
Đảng ủy đâm ra hậm hực lắm, tìm cách để có thể hạ bệ Thủ và bè cánh hỗ trợ
của Thủ. Vì để đánh tiếng cho mình, khoe khoang gia thế, Phúc đã đón ơng Đại
sau hơn ba mươi năm quay lưng với mình về bên nhà tịnh dưỡng. Khi ông Đại
mất, ông Phúc làm một đám ma hoành tráng và trang trọng ngay trong cái thời
đói giáp hạt kẻ khơng có ăn, chính cũng là để xứng với vị trí của mình.
“Hơn nhân, điền thổ, vạn cố chi thù”. Tức hôn nhân và đất đai là hai thứ dễ gây
cho người ta thù ốn nhau lâu nhất. Thì giữa hai họ Vũ Đình và Trịnh Bá khơng
thể ngồi chung chiếu với nhau là bởi tất cả những thứ đó! Ngày xưa có dân hai
bên đã túm ngực áo nhau giữa sân chùa trong ngày việc làng! Đời cụ Cố là
chuyện đất, chuyện chức, cái chức lý trưởng dù nhỏ nhưng đấy là danh dự là
chuyện được thua giữa hai dòng họ, là phần đầu gà má lợn, là chỗ ngồi chiếu
nhất giữa đình làng.Đơi bên đã giành nhau kịch liệt. Đến đời ơng Phúc lại là
chuyện tình.Thật ối oăm, hai dòng họ này cớ vờn, cứ lửa miếng nhau khơng
biết mệt!”
Về chuyện tình, hồi trẻ bà Son, vợ Hàm bây giờ, thời ấy đẹp nhất làng, “mặt hoa
da phấn, thắt đáy lưng ong. Đi một bước là có người theo, người ghẹo một
15
bước”. Bao nhiêu trai làng để ý mà bà lại phải lịng ơng Phúc, người đã có gia
đình, một vợ, một con nhưng vẫn phong tình. Ơng Hàm lúc ấy mê mẩn bà Son,
nhiều lần muốn ngỏ ý nhưng lại bị bà dửng dưng phớt lờ. Khi nghe tin đồn về
con gái mình, bố mẹ bà Son đã ép gả bà cho Hàm, dù Hàm biết chuyện của Son
và Phúc nhưng Hàm không bỏ ý định lấy Son làm vợ. Vào đêm tân hôn, khi biết
bà Son đã ăn nằm với Phúc, cịn mình chỉ là kẻ chậm chân, kẻ đổ vỏ cho người
ăn ốc, ông đã dồn hết sự giận dữ của mình lên người bà Son. Những chuyện của
hai dòng họ tranh đấu xưa nay, những cái cay, cái uất của bố, Hàm vẫn chưa để
tâm đến vì lúc ấy chưa đủ tuổi, đủ trí để cảm, nhưng vài năm sau đến tuổi lấy
vợ, thì mối hận của người bố đã trở lại nguyên vẹn trong lòng Hàm, mà cịn sơi
sục hơn.
=> Từ những chuyện nhỏ như chuyện chức, chuyện đất đai đã gây thù hằn lớn từ
đời này sang đời khác của hai họ Vũ-Trịnh không dứt. Lại cũng chính vì danh
lợi, vì chức quyền mà mâu thuẫn của hai dòng họ ại càng gay gắt hơn, Phúc xem
Thủ như là vật ngáng đường, cố gắng loại bỏ vị trí của Thủ vì quyền lợi; Thủ coi
Phúc như là một đối thủ không cân sức cần phải loại bỏ trong cuộc đua đoạt
quyền. Chính sự tranh đoạt này đã gây ra nhiều hậu quả tàn nhẫn đối với những
nạn nhân khơng may dính phải vịng tranh đấu này.
2.2.2. Số phận người phụ nữ trong tác phẩm
Qua ngòi bút sắc sảo, tinh tế, bằng óc quan sát tỉ mẩn, thông minh, tác giả đã
thành công trong việc miêu tả được “bức tranh xã hội” ở một làng quê đặc sắc
với biết bao thân phận, biết bao kiếp người lầm than đặc biệt là thân phận người
phụ nữ.
Tiếp đến là Đào “một cô gái hai mươi tuổi, được tiếng là xinh đẹp nhất nhì xóm
Giếng Chùa […] cháu Bí thư Đảng ủy […] con người giàu có tiếng”. Đào có thể
được xem là người phụ nữ may mắn nhất trong xã hội đó, vừa xinh đẹp vừa giàu
16
có, tương lai xán lạn, có người yêu lý tưởng, điển trai là Tùng. Cơ u Tùng
mãnh liệt nhưng tình yêu đó lại bị ngăn trở bởi những cuộc đấu đá, tranh giành
giữa hai gia tộc. Là người dám yêu dám hận nên khi biết Tùng chính là người
kêu bắt quả tang bố cô khi đi đào mộ, ngay lập tức Đào chấm dứt tình u với
Tùng. Cơ phải đấu tranh một bên là tình một bên là hiếu.
`
Cuối cùng là nhân vật chị Bé - người đàn bà làm th, một người phụ nữ có số
phận lận đận, khơng thể làm chủ được cuộc đời mình. Chị Bé là người đàn bà
ngụ cư tuy không đẹp nhưng lại là người chăm chỉ, tháo vát, suốt ngày chỉ biết
cúi mặt xuống đất chăm chú vào công việc. Không những vậy, chị ta là người rất
biết tính tốn, biết nghĩ kế. Chị ta phải cố gắng tìm đường sống giữa biết bao bi
kịch của cuộc đời đổ ập vào: con chết, khơng có nhà để về, khơng có việc làm,...
Chị khơng tiếc trở thành người trung thành cho nhà Trịnh Bá, làm tơi địi, hiến
kế, chỉ mong được ở lại nhà và được sống. Cuối cùng chị cũng trở thành cánh
tay đắc lực của Thủ trong công việc giành quyền lực và đá nhà Vũ Đình ra khỏi
ghế trong xã.
2.2.3. Những ảnh hưởng của đời trước đối với thế hệ sau
Ngoài những cuộc tranh đấu thù ốn giữa hai dịng họ Trịnh Bá và Vũ Đình, khi
đó trưởng họ là ơng Hàm và ơng Phúc, thì thế hế hệ trẻ lại mang một màu sắc
hoàn toàn mới cho câu chuyện dưới ngòi bút của tác giả. Thế hệ trẻ ở đây, trong
câu chuyện gồm Tùng, Đào, Minh; họ là những người mang tư tưởng mới về
cách mạnh về thời kỳ đổi mới, họ là những người trẻ dễ hòa hợp với mọi người.
Nhưng họ vẫn phải chịu những ảnh hưởng từ mâu thuẫn trong dịng họ. Ảnh
hưởng đó được thể hiện trong cuộc sống và trong chuyện tình cảm của Tùng và
Đào.
Đào là con bà Sang thuộc dòng họ Trịnh Bá, cịn Tùng là con ơng Phúc dịng họ
Vũ Đình.
17
Mối tình giữa Tùng và Đào cũng chịu ảnh hưởng từ mẫu thuẫn giữa hai dòng
họ; một bên là quan điểm của Phúc với sự khẳng định gần như chắc chắn và dứt
khốt : “Mà khơng có cái chân Đảng viên thì cả họ nhà này chúng nó cho ăn
bùn”. Cịn một bên là ơng Hàm với lời khấn thiên la địa võng bắt họ Vũ phải
chịu:
“ Ba đời tuyệt tự,
Hữu nữ vô nam
Hữu sinh vô dưỡng…”
Mẫu thuẫn và hiềm khích được đưa vào những lời ăn tiếng nói hàng ngày, là
những câu xỉa xói khi Tùng đến gặp Thủ lúc đó là bí thư “Mới nứt mắt đã cốc
láo? Khơng cịn coi ai ra gì! Thằng này rồi làm loạn ở cái làng này đây! Ró thật
ghét của nào trời trao của ấy!”. Sự thù hằn của hai dòng họ cũng được Đào nhắc
tới khi đang suy nghĩ tìm cớ đi gặp Tùng “Không biết hai họ nhà này có điều gì
mà cú nhau đến thế!” .
Hiềm khích của hai dòng họ ảnh hưởng nặng nền tới mối quan hệ của Tùng-Đào
là khi Tùng và Đào đang vụng trộm ở gốc cây nhãn nhìn thấy ơng Hàm cùng với
người nhà đang đi về mộ cụ Cố và Tùng đã chạy về báo cho dịng họ mình.
“Trong ánh sao bạc mờ, trên bờ lúa đã hiện rõ ông Hàm tập tễnh đi đâu, vai vác
cuốc. Rồi ưởng, rồi Ngạc, hai người cháu ông Hàm, hai người anh thúc bá bất trị
của Đào. Một tay của ưởng xách cái gì như là một cái can nhựa. Rồi cuối cùng
là ơng Thó, sao ơng Thó lại như con gà lạc đàn vào đây? Trên vai, trên tay người
nào cũng cuốc và xẻng.” ; “ Đi đến giữa đông, họ rẽ trái, rồi biến mất sau những
bụi lau. Thế có nghĩa là họ không sang sớm Mới, mà ngược lên đồi Sim. Họ đi
đâu? Trên ấy khơng cịn nhà ai, chỉ là đồi hoang. Bãi tha ma của làng ở đấy!
Ông Phúc vừa chơn cụ Cố ở đấy! Đó là ơng ngoại của Tùng.”
Sau lần báo tin của Tùng với gia đình về việc “đào một cụ Cố” của ơng Hàm,
tình cảm giữa Tùng và Đào cũng rạn nứt. Đào oán Tùng sao lại dùng cách về
18
báo cho dịng họ của mình để dấy lên cái sự kiện bắt bớ kia, Đào trách “chỉ cần
một mình hắn chạy ra đánh động từ xa, thế là đủ để mấy người kia bỏ chạy ré
kèn. Nhưng hắn đã không làm thế. Chinh hắn đã đầu têu, đã tồ chức ra cái việc
bắt bớ này. Đào lại khóc nức lên uất ức. Cô đang thầm hoạch tội hắn, tức là tính
sổ Tùng với tất cả sự vứt bỏ và căm thù!”. Cơ cũng địi cắt đứt mối quan hệ với
Tùng, từ nay khơng liên quan gì tới nhau nữa. Mẫu thuẫn vẫn cứ tiếp tục nếu
khơng có sự hịa giải của Minh cho hai người Tùng Và Đào.
=> Câu chuyện tình yêu của Đào và Tùng đâm chồi trong khi hai dòng họ vẫn
còn thù hằn với nhau. Những mâu xuẫn trong quá khứ đã xô ngã biết bao người
thế hệ đi sau chỉ vì sự tính tốn trả thủ giữa hai dòng họ. Tàn dư của thế hệ trước
khiến những nạn nhân là thế hệ sau phải gánh chịu, dù muốn hay khơng, vẫn bị
cuốn vào vịng xốy thù hận ấy.
2.3.Hình tượng “ma” trong Mảnh đất lắm người nhiều ma
2.3.1. Những chi tiết kì ảo trong tác phẩm
Cái tạo ra giá trị và để lại dấu ấn trong lịng độc giả của tác phẩm ngồi nội
dung hiện thực gắn với một thời kỳ khó khăn của đất nước, còn là thế giới kỳ ảo
mà tác giả đã dụng công xây dựng với các yếu tố kỳ ảo rất đặc trưng xuyên suốt
mạch truyện.
- Truyền thuyết về “ma núi ơng Bụt”: Vì quả đồi ở đầu làng có dáng một ơng
bụt ngồi, có rất nhiều lời đồn về ngọn nói này. Những người già ở làng kể rằng
núi ơng Bụt ngày xưa rậm um tùm, xuất hiện nhiều thú dữ kì lạ và đặc biệt là có
nhiều ma.
Câu ca từ xửa xưa:
“Ai may được ngọc Giếng Chùa,
Rủi ai núi Bụt thả bùa ma trêu”.
19
Có rất nhiều bằng chứng cho thấy ma núi ơng Bụt dường như luôn hiện hữu
xung quanh cuộc sống của người dân làng Giếng Chùa:
“Nhiều người quả quyết mình đã gặp ma núi ông Bụt. Mấy bà hàng xáo hay đi
chợ sớm, bảo có lần đến gần núi ơng Bụt thấy một người đàn ơng đi trước mình
chỉ chừng mươi bước chân dáng đi lại ve vẩy như đàn bà trông chậm mà không
tài nào theo kịp. Gọi mãi người ấy mới quay lại, thì thấy mặt trắng như nặn bằng
phấn, miệng bỗng nhe ra cười khanh khách, cười liền một hơi khơng dứt, hơi
phả ra lạnh tốt. Chớp mắt một cái, người đàn ông biến mất”.
“Ma trêu đấy! Một ông đi đánh trúm lươn thì bảo lúc sẩm tối, ông đang thả trúm
ở đầm dưới chân núi, bỗng nghe tiếng ru con lơ lửng phía trên đầu rừng; ngửng
lên thì thấy chót vót trên cành si một người đàn bà tóc xỗ phủ kín mắt, tay ơm
cái bọc trắng tốt vừa nhún cành si rung tít như đưa vong, vừa ru nỉ non như
than như ốn. Hơm sau ơng đi đổ trúm, thấy trong ống toàn rắn nước!”
=> Những chi tiết trên ngồi việc tăng sự kịch tính cho tình huống truyện cịn
mở rộng chiều sâu khơng gian của truyện. Một thế giới siêu nhiên đầy bí ẩn
đang thật sự tồn tại song song với cuộc sống của người dân xóm Giếng Chùa
hay cịn những ẩn khuất nào đó vẫn chưa được ai vém màn? Tuy nhiên, mọi thứ
đã vội lắng xuống khi chưa có ai tìm ra câu trả lời vì “núi Ơng Bụt bị phạt trụi
để lấy gỗ, bị đào bới để tìm đá ong, lấy đất sét nung gạch thì khơng ai cịn gặp
ma quỷ đâu nữa.”, cịn cái Giếng Chùa thì cũng cạn ráo.
-
Tiểu sử của nhân vật lão Quềnh gắn với truyền thuyết “ma núi ơng Bụt”:
ngày xưa khi lão Quềnh vẫn cịn là một cậu trai thật thà thì từng có một mối tình
vụng trộm với một cơ gái bí ẩn. Bố Quềnh sinh nghi nên quyết định bám theo tới
gốc gai đầu núi ơng Bụt thì bất ngờ chứng kiến những cảnh tượng hết sức kinh
khủng:
“Tới gốc gai đầu núi ông Bụt, bỗng một tiếng hỏi rất thanh, như reo từ trong
nhưng chùm rễ rùm rồ như một cái ơ dưới gốc si già. Rồi tiếng một người con
gái thì thầm, khơng rõ cơ ả nói gì, cứ dấp da dấp dính ra điều vui lắm.”
20