Tải bản đầy đủ (.pdf) (156 trang)

Nghiên cứu lựa chọn mô hình đánh giá tài nguyên, trữ lượng vàng gốc vùng Phước Sơn Quảng Nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (7.4 MB, 156 trang )


BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC MỎ - ĐỊA CHẤT





LÊ VĂN LƯỢNG









NGHIÊN CỨU LỰA CHỌN MÔ HÌNH ĐÁNH GIÁ TÀI NGUYÊN,
TRỮ LƯỢNG VÀNG GỐC VÙNG PHƯỚC SƠN - QUẢNG NAM






LUẬN ÁN TIẾN SĨ ĐỊA CHẤT










Hà Nội – 2014

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC MỎ - ĐỊA CHẤT





LÊ VĂN LƯỢNG






NGHIÊN CỨU LỰA CHỌN MÔ HÌNH ĐÁNH GIÁ TÀI NGUYÊN,
TRỮ LƯỢNG VÀNG GỐC VÙNG PHƯỚC SƠN - QUẢNG NAM


Ngành: Kỹ thuật Địa chất
Mã số: 62520501




LUẬN ÁN TIẾN SĨ ĐỊA CHẤT


NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC:
1. PGS.TS TRƯƠNG XUÂN LUẬN
2. PGS.TS NGUYỄN PHƯƠNG




Hà Nội - 2014

1

MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Vùng Phước Sơn tỉnh Quảng Nam có cấu trúc địa chất phức tạp, biểu hiện
khoáng sản khá phong phú; đặc biệt là vàng gốc. Kết quả tìm kiếm, thăm dò,
khai thác của Công ty vàng Phước Sơn trong những năm gần đây cho thấy vùng
có tiềm năng lớn về vàng gốc với những biểu hiện khoáng hoá, điểm quặng, mỏ
quặng có quy mô khác nhau, phân bố trong các trầm tích biến chất hệ tầng Núi
Vú. Vấn đề nghiên cứu đặc điểm quặng hoá và lựa chọn mô hình đánh giá tài
nguyên, trữ lượng vàng gốc trong vùng chưa được quan tâm đúng mức. Để làm
sáng tỏ đặc điểm quặng hoá vàng gốc; đặc biệt là việc lựa chọn mô hình đánh giá
tài nguyên, trữ lượng phù hợp, làm cơ sở định hướng cho công tác thăm dò, khai
thác là nhiệm vụ cần thiết. Luận án dành học vị tiến sĩ Địa chất với đề tài
“Nghiên cứu lựa chọn mô hình đánh giá tài nguyên, trữ lượng vàng gốc
vùng Phước Sơn - Quảng Nam” được NCS lựa chọn nhằm góp phần đáp ứng
yêu cầu do thực tế đòi hỏi.
2. Mục tiêu của luận án

Nghiên cứu làm sáng tỏ đặc điểm quặng hoá vàng gốc vùng Phước
Sơn; Lựa chọn mô hình đánh giá tài nguyên, trữ lượng vàng gốc và các thành
phần có ích đi kèm nhằm góp phần hoàn thiện phương pháp luận thăm dò trên
cơ sở áp dụng các tiến bộ khoa học công nghệ.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
- Đối tượng nghiên cứu: các thân quặng, đới khoáng hoá vàng gốc vùng
Phước Sơn; đặc biệt là khu Đăk Sa.
- Phạm vi nghiên cứu: vùng Phước Sơn thuộc huyện Phước Sơn, tỉnh
Quảng Nam.
4. Nội dung nghiên cứu
- Thu thập, tổng hợp, hệ thống hoá, xử lý dữ liệu địa chất khoáng sản;
nghiên cứu bổ sung thành phần vật chất quặng nhằm làm sáng tỏ đặc điểm
quặng hoá vàng gốc trong vùng.
2

- Xác định các yếu tố khống chế quặng vàng gốc làm cơ sở phân vùng
triển vọng, góp phần định hướng công tác thăm dò, đầu tư khai thác.
- Nghiên cứu làm sáng tỏ bản chất và đặc điểm biến đổi các thông số địa
chất thân quặng chủ đạo phục vụ công tác thăm dò, đánh giá tài nguyên, trữ
lượng vàng và các nguyên tố có ích đi kèm.
- Khai thác ứng dụng hệ thông tin địa lý (GIS) và các phần mềm
chuyên dụng đặc biệt là phần mềm Surpac 5.1 để xây dựng CSDL và đánh giá
tài nguyên, trữ lượng vàng gốc vùng nghiên cứu.
- Nghiên cứu lựa chọn mô hình nhận thức và phương pháp đánh giá tài
nguyên, trữ lượng phù hợp kiểu quặng vàng gốc Phước Sơn.
5. Các phương pháp nghiên cứu
Để giải quyết các nhiệm vụ nghiên cứu, NCS sử dụng phối hợp các
phương pháp sau:
- Tổng hợp, xử lý tài liệu đã có, nghiên cứu bổ sung tài liệu địa chất
khoáng sản;

- Xây dựng cơ sở dữ liệu (CSDL) địa chất khoáng sản dạng biểu bảng trên
cơ sở ứng dụng phần mềm Surpac 5.1 và CSDL trong GIS để quản trị bản đồ số;
- Nghiên cứu sử dụng các mô hình toán thống kê (một chiều, hai chiều),
hàm cấu trúc (Variogram), hình học mỏ, mặt cắt địa chất để mô hình hoá đối
tượng nghiên cứu, làm cơ sở lựa chọn phương pháp đánh giá tài nguyên, trữ
lượng vàng gốc;
- Nghiên cứu sử dụng phương pháp Kriging, nghịch đảo khoảng cách để
tính trữ lượng, tài nguyên xác định và phương pháp tính thẳng theo thông số
quặng hoá, phương trình hồi quy để dự báo tài nguyên chưa xác định.
6. Ý nghĩa khoa học và giá trị thực tiễn
6.1. Ý nghĩa khoa học
- Luận án đóng góp những cứ liệu bổ sung vào sự hiểu biết toàn diện
hơn về thành phần vật chất quặng, đặc điểm quặng hoá và biến đổi không
gian của các thông số địa chất thân quặng vàng gốc vùng nghiên cứu;
3

- Kết quả nghiên cứu góp phần hoàn thiện phương pháp luận thăm dò;
trọng tâm là nghiên cứu lựa chọn các mô hình phù hợp để mô hình hoá và
đánh giá tài nguyên, trữ lượng vàng gốc.
6.2. Ý nghĩa thực tiễn
- Cung cấp cho các nhà quản lý và các doanh nghiệp cơ sở dữ liệu địa
chất khoáng sản vàng gốc vùng Phước Sơn đảm bảo độ tin cậy và là tài liệu
tham khảo định hướng công tác tìm kiếm, thăm dò, đầu tư khai thác vàng gốc
trong vùng.
- Cung cấp cho cơ sở sản xuất hệ phương pháp nhằm nâng cao độ tin
cậy trong đánh giá tài nguyên, trữ lượng; lựa chọn mạng lưới thăm dò phù
hợp với kiểu quặng vàng gốc Phước Sơn và các vùng khác có điều kiện địa
chất khoáng sản tương tự.
7. Những điểm mới của luận án
- Vàng gốc vùng Phước Sơn thuộc kiểu thạch anh - sulfua đa kim -

vàng điển hình, có hai giai đoạn tạo khoáng với tổ hợp cộng sinh khoáng vật
đặc trưng là thạch anh - pyrit II - vàng I và thạch anh - pyrotin II - vàng II -
galenit - sphalerit (có thể có electrum).
- Hàm lượng Au và các nguyên tố đi kèm (Ag, Pb và Zn) trong các thân
quặng vàng gốc vùng nghiên cứu có thể quy nạp về hàm phân bố loga chuẩn
và giữa chúng có mối quan hệ tương quan thuận từ tương đối chặt chẽ đến
chặt chẽ.
- Đặc điểm biến đổi không gian của Au có thể mô hình hoá bằng hàm
cấu trúc kiểu mô hình cầu, hàm lượng Au có tính biến đổi cục bộ và dị hướng
yếu; về cơ bản có thể xem như đẳng hướng trong không gian. Đặc điểm này là
luận cứ khoa học để sử dụng mạng lưới thăm dò hình vuông, hình tam giác
đều, hình thoi đồng thời cho phép sử dụng phương pháp bình phương nghịch
đảo khoảng cách để tính tài nguyên, trữ lượng vàng gốc vùng nghiên cứu.
4

- Kết quả nghiên cứu với sự trợ giúp của phần mềm Surpac đã khẳng
định tính ưu việt của mô hình hàm cấu trúc và phương pháp Kriging trong
đánh giá tài nguyên, trữ lượng vàng gốc vùng Phước Sơn.
- Kết quả nghiên cứu đã đề xuất quy trình đánh giá tài nguyên, trữ
lượng vàng gốc vùng Phước Sơn (hình 2.11) đảm bảo độ tin cậy, tiện ích cho
thăm dò và khai thác mỏ.
8. Các luận điểm bảo vệ của Luận án
Luận điểm 1: Sử dụng giải pháp mô hình hoá thành phần phản ánh chất
lượng vàng gốc bằng tổ hợp mô hình toán thống kê (một chiều, hai chiều) và
hàm cấu trúc (Variogram) cho phép nhận thức toàn diện hơn về đặc điểm
quặng hoá; Hàm lượng Au trong không gian hai chiều (theo đường phương và
hướng dốc thân quặng), biến đổi cục bộ, dị hướng yếu, có thể xem như đẳng
hướng. Đây là luận cứ khoa học cho áp dụng mạng lưới thăm dò phù hợp cho
kiểu quặng vàng gốc vùng Phước Sơn.
Luận điểm 2: Đánh giá tài nguyên, trữ lượng vàng gốc vùng nghiên cứu

theo quy trình đề xuất trong Luận án (hình 2.11); trong đó phương pháp
Kriging là chủ đạo, đảm bảo độ tin cậy và tiện ích cho sử dụng tài liệu trong
quy hoạch thăm dò và khai thác mỏ.
9. Cơ sở tài liệu
- Các công trình đo vẽ bản đồ địa chất khu vực tỷ lệ 1:200.000, 1:50.000.
- Báo cáo kết quả thăm dò, khai thác vàng gốc phân khu Bãi Đất và Bãi
Gõ, vùng Phước Sơn.
- Tài liệu trong các công trình nghiên cứu chuyên đề, khảo sát, tìm
kiếm, thăm dò vàng gốc trong vùng.
- Các nguồn tài liệu trong và ngoài nước về đánh giá tài nguyên, trữ
lượng khoáng sản rắn nói chung và vàng gốc nói riêng.
- Tài liệu do NCS thu thập từ 2009 đến nay.
5

10. Nơi thực hiện luận án
Luận án được hoàn thành tại Bộ môn Tìm kiếm Thăm dò, khoa Địa
chất, trường Đại học Mỏ - Địa chất dưới sự hướng dẫn khoa học của PGS. TS
Trương Xuân Luận, PGS. TS Nguyễn Phương. NCS xin trân trọng bày tỏ
lòng biết ơn sâu sắc về sự hướng dẫn và giúp đỡ tận tình của các thầy hướng
dẫn khoa học.
NCS nhận được sự quan tâm, tạo điều kiện của Bộ môn Tìm kiếm Thăm
dò, Phòng Sau Đại học, Trường Đại học Mỏ - Địa chất, Lãnh đạo Văn phòng
Hội đồng đánh giá trữ lượng khoáng sản quốc gia. Tác giả cũng nhận được sự
động viên giúp đỡ, góp ý tận tình của TS Nguyễn Tiến Dũng, TS Lương Quang
Khang, PGS. TS Nguyễn Văn Lâm, PGS. TS Nguyễn Quang Luật, GS. TS
Đồng Văn Nhì, PGS. TS Đặng Xuân Phong, PGS. TS Lê Thanh Mẽ, PGS. TS
Trần Thanh Hải, TS Đỗ Văn Nhuận, TS Nguyễn Mai Quân, TS Đặng Văn
Lãm, TS Trần Văn Miến, TS Hoàng Văn Khoa, TS Quách Trọng Tín, TS Bùi
Hoàng Bắc, TS Khương Thế Hùng, TS Nguyễn Quốc Phi và các nhà khoa học
trong và ngoài trường Đại học Mỏ - Địa chất. NCS xin bày tỏ lòng biết ơn chân

thành tới lãnh đạo các cơ quan, các nhà khoa học trên.
NCS chân thành cảm ơn các nhà khoa học, các nhà địa chất và các
đồng nghiệp cho phép sử dụng và kế thừa tài liệu để hoàn thành luận án này.








6

CHƯƠNG 1
TỔNG QUAN VỀ VÙNG NGHIÊN CỨU
1.1. ĐẶC ĐIỂM CẤU TRÚC ĐỊA CHẤT VÙNG PHƯỚC SƠN
1.1.1. Vị trí vùng nghiên cứu trong bình đồ cấu trúc khu vực
Vùng Phước Sơn có diện tích khoảng 100km
2
, nằm về phía Bắc địa khối
Kon Tum, thuộc á địa khu Nam Ngãi [24] (hình 1.1). Á địa khu Nam Ngãi có cấu
trúc dạng uốn cong và bị bẻ gập tạo thành hai nhánh: phương á vĩ tuyến và á kinh
tuyến được hình thành trong Paleozoi sớm, tương ứng với kiến sinh Pan - Africa
muộn hay Caledoni sớm, nằm giữa á địa khu Ngọc Linh và đai tạo núi Đà Nẵng -
Sê Công [24].
1.1.2. Lịch sử nghiên cứu địa chất, khoáng sản
1.1.2.1. Giai đoạn trước năm 1975
Tài liệu nghiên cứu địa chất trong vùng để lại rất sơ lược. Theo thông tin
của người dân địa phương, những người đầu tiên phát hiện và khai thác vàng
trong vùng là người Tràm, sau đó là người Pháp. Nghiên cứu ban đầu về địa

chất và khoáng sản khu vực có J. H. Hofet (1941), Fromaget (1952) đã đo vẽ
Bản đồ địa chất Đông Dương tỷ lệ 1:2.000.000 và 1:500.000, ngoài ra còn một
số công trình nghiên cứu chuyên đề về địa tầng, kiến tạo và magma của
La Croix A, Trần Huỳnh Anh (1932-1968); nghiên cứu tuổi đồng vị của
T. C. V. Hilde (1967); C. Faure (1969).
1.1.2.2. Giai đoạn sau năm 1975
Công tác nghiên cứu địa chất và tìm kiếm khoáng sản mang tính hệ
thống trong vùng được các nhà địa chất Việt Nam tiến hành từ năm 1980, bao
gồm: Đo vẽ bản đồ địa chất Việt Nam tỷ lệ 1:500.000 do Trần Đức Lương và
Nguyễn Xuân Bao đồng chủ biên (1988); Bản đồ địa chất khoáng sản nhóm
tờ Huế - Quảng Ngãi (1986) tỷ lệ 1:200.000 của Nguyễn Văn Trang và nnk;
Bản đồ địa chất tỷ lệ 1:200.000 nhóm tờ Bà Nà do Nguyễn Đức Thắng và nnk
7

hiệu đính năm 2006. Bản đồ địa chất Việt Nam - Lào - Campuchia tỷ lệ 1:
1.000.000 của Phan Cự Tiến và nnk (1989).

Hình 1.1. Sơ đồ vùng Phước Sơn trong cấu trúc địa chất Nam Trung Bộ,
tỷ lệ in 1:3.500.000 “Nguồn: Trần Văn Trị và Vũ Khúc 2010”[24]
Công trình đo vẽ Bản đồ địa chất tỷ lệ 1:50.000, phía Đông có nhóm tờ
Tam Kỳ - Hiệp Đức của Koliada A. A và nnk (1990); Phía Bắc có nhóm tờ A
Hội của Bùi Thế Vinh và nnk (2011); Phía Nam là nhóm tờ Đăk Glêi - Khâm
Đức của Đỗ Văn Chi và nnk (1997).
Trong các công trình nêu trên, công trình của Bùi Thế Vinh đã xếp các
trầm tích biến chất phân bố chủ yếu ở vùng Phước Sơn vào hệ tầng Núi Vú
8

(NP-

1

nv) và chúng liên quan đến khoáng hoá vàng gốc, đây là cơ sở định
hướng cho công tác tìm kiếm, thăm dò vàng gốc trong vùng.
Năm 1996, Công ty Indochina Goldfields Việt Nam (IGF), New Vietnam
Mining (NVM) và Tổng cục Địa chất và Khoáng sản đã thực hiện chương trình
hợp tác đánh giá tổng quan tiềm năng khoáng sản khu vực Tây Quảng Nam. Kết
quả hợp tác đã xác định một loạt dị thường địa hoá liên quan với vàng gốc, một
trong số đó là dị thường Đăk Sa.
Công tác tìm kiếm vàng tỷ lệ 1:10.000 đã thực hiện ở 7 khu bao gồm:
Bãi Chuối, K7, Trà Long - Suối Cây, Bãi Bướm, Vàng Nhẹ, Bãi Gió và Núi
Vàng. Năm 2010, công tác thăm dò đã được thực hiện tại khu Đăk Sa, gồm 2
phân khu mỏ Bãi Đất và Bãi Gõ [5].
1.1.3. Khái quát về địa tầng
Đặc điểm địa tầng vùng Phước Sơn được mô tả trên cơ sở Bản đồ địa chất
vùng Phước Sơn tỷ lệ 1: 25.000 của Lê Văn Hải và nnk [5], kết hợp với kết quả
hiệu đính bản đồ địa chất khoáng sản tỷ lệ 1:200.000 tờ Bà Nà của Nguyễn Đức
Thắng và nnk hiệu đính năm 2006 [20], bản đồ địa chất khoáng sản tỷ lệ 1:50.000
nhóm tờ A Hội của Bùi Thế Vinh và nnk [25]. Bản đồ địa chất khoáng sản tỷ lệ
1:25.000 đã thể hiện khá chi tiết và chính xác về vị trí các đứt gãy, ranh giới các
thành tạo địa chất trong vùng nghiên cứu so với tài liệu trước đây (hình 1.2).
- Hệ tầng Khâm Đức, phân hệ tầng giữa (MP-NPkđ
2
) là địa tầng cổ nhất, lộ
ra ở phía đông nam vùng nghiên cứu, bao gồm đá phiến thạch anh - biotit, thạch
anh - chlorit, thạch anh - biotit chứa granat. Chiều dày phân hệ tầng khoảng
2.800m.
- Hệ tầng Núi Vú, phân hệ tầng trên (NP-€
1
nv
2
) chiếm diện tích lớn nhất

và phân bố ở trung tâm vùng. Thành phần thạch học gồm đá phiến thạch anh -
biotit, actinolit - albit, actinolit - chlorit và đá vôi hoa hoá, phiến sét vôi [5].
Thế nằm đá biến đổi mạnh, góc dốc phổ biến 30-50
0
. Trong các đới dập vỡ,
khe nứt của các đá phiến thạch anh - biotit, phiến sét vôi, phân bố các thân
9

quặng thạch anh - sulfua đa kim - vàng dạng mạch, mạng mạch, mạch thấu
kính. Chiều dày phân hệ tầng khoảng 1.300m.
- Hệ tầng A Vương (€
2
-O
1
av) phân bố dạng dải nhỏ ở phía đông bắc, giới
hạn từ đứt gãy tây Khâm Đức về phía Bắc. Thành phần thạch học gồm phiến
thạch anh - biotit, thạch anh - biotit - chlorit, sericit - thạch anh, biotit - chlorit, đá
phiến giàu vật chất than, cát kết ít khoáng. Chiều dày hệ tầng 800 - 1.600m.
Trong các tập đá phiến thạch anh - biotit, phiến sét vôi thuộc hệ tầng Núi
Vú, phân hệ tầng trên có chứa các thân quặng thạch anh - sulfua đa kim - vàng.
Đây là tiền đề thạch địa tầng thuận lợi cho tìm kiếm quặng vàng gốc trong vùng.
1.1.4. Khái quát về magma xâm nhập
Diện lộ lớn nhất là xâm nhập granođiorit, granit - biotit phức hệ Bến
Giằng - Quế Sơn phân bố ở phía tây, ít hơn là đá olivinit, pyroxenit phức hệ
Hiệp Đức phân bố hạn chế ở phía nam và granosyenit phức hệ Đèo Cả phân bố
dạng khối nhỏ ở phía đông; ngoài ra còn có các đai đá mạch không rõ tuổi.
1.1.4.1. Phức hệ Hiệp Đức (σPZ
1
hđ) gồm nhiều thể đá siêu mafic nhỏ phân bố
dọc theo đứt gãy K7, xuyên cắt gây biến chất nhiệt hệ tầng Núi Vú. Thành

phần thạch học gồm olivinit, pyroxenit [5], [25]. Đá thường bị talc hóa,
serpentin hóa. Nguyên tố vi lượng gồm Ti, V, Co, Ni, Cr nhỏ hơn trị số Clark,
riêng Cu vượt trị số Clark 1-2 lần. Các nguyên tố hiếm Be, Y, Yb, Zn cao hơn
hoặc xấp xỉ trị số Clark. Tuổi của phức hệ Hiệp Đức được xếp vào Paleozoi
sớm (Nguyễn Xuân Bao, 1981; Nguyễn Văn Trang, 1985) với giá trị tuổi tuyệt
đối là 530 triệu năm. Khoáng sản liên quan bao gồm: serpentin, talc, cromit.
Nguyễn Xuân Bao, Nguyễn Văn Trang cho rằng magma phức hệ Hiệp
Đức phân bố ở vùng Phước Sơn không có biểu hiện nguồn cung cấp vàng [21].
1.1.4.2. Phức hệ Đèo Cả (γ-γKđc) thuộc kiểu I – granit, thành phần gồm đá
granosyenit hai mica từ hạt nhỏ đến hạt lớn, granosyenit có muscovit và
granosyenit có biotit hạt nhỏ, bị biến đổi sericit và chlorit hóa yếu [5].
10

1.1.4.3. Phức hệ Bến Giằng - Quế Sơn (
γδPZ
3
bg-qs)
thuộc pha 2 của dãy phân
dị, thuộc loạt kiềm vôi. Thành phần thạch học gồm chủ yếu là granođiorit,
granit - biotit. Thành phần khoáng vật tạo đá bao gồm (%): plagioclas (43 
61), felspat kali (9  18), thạch anh (14  21), hornblend (5  14), biotit (3 
12), pyroxen (ít hoặc vắng mặt). Các khoáng vật phụ hay gặp là sphen, apatit,
magnetit, zircon, pyrit.
Nghiên cứu mối quan hệ giữa quặng vàng gốc và magma xâm nhập
trong vùng Phước Sơn có các công trình sau:
Lê Xuân Vinh và nnk (2011) khi nghiên cứu về magma xâm nhập phức
hệ Bến Giằng - Quế Sơn tại đới Đà Lạt đã kết luận về đặc điểm phân dị và vị
trí kiến tạo biểu thị mối liên quan của các thành tạo magma với khoáng hóa
Au - Pb - Zn và Au - Cu. Trên biểu đồ tương quan số lượng nguyên tử K - Mg
theo Sattran, thấy rõ pha 2 tập trung đặc trưng vào trường Au, một số ít ở nơi

giao nhau giữa Au và Mo (hình 1.3). Với kết quả phân tích các nguyên tố vi
lượng cho thấy pha 2 phức hệ Bến Giằng - Quế Sơn có chứa các nguyên tố:
V, Ti, Co, Ni, Cu, Ag, Pb [26].
Kết quả nghiên cứu của Huỳnh Trung (1979) cho thấy: phức hệ Bến
Giằng - Quế Sơn thuộc kiểu I - granit. Về địa hóa, các nguyên tố vi lượng Cr,
Co, Ni, Cu có trị số lớn hơn Clark từ 1,07 - 3,5 lần. Các nguyên tố Cu, Pb và
Zn biến đổi mạnh. Tại vị trí tiếp xúc giữa xâm nhập phức hệ Bến Giằng - Quế
Sơn và hệ tầng Núi Vú phát hiện các biểu hiện khoáng hoá vàng gốc.
Trong đới Đăk Rông - A Lưới nằm về phía tây bắc vùng Phước Sơn,
Nguyễn Tiến Thành, trong Luận án của mình đã chứng minh vàng gốc liên quan
đến magma xâm nhập phức hệ Bến Giằng - Quế Sơn [22].
Lê Văn Hải và nnk đã lấy và phân tích mẫu trong xâm nhập
granođiorit. Kết quả phân tích mẫu tại khu Trà Long - Suối Cây hàm lượng
Au là 0,17g/T; khu K7 có 01 mẫu hàm lượng Au là 0,18g/T [5].
11

Kết quả đo vẽ địa chất tờ Bà Nà (phía đông bắc vùng nghiên cứu), Nguyễn
Văn Trang và nnk (1997) đã phát hiện quặng vàng gốc liên quan đến xâm nhập
acid phức hệ Hải Vân và phức hệ Đại Lộc. Tuy nhiên, trong khu vực Phước Sơn
không thấy mối liên hệ giữa quặng vàng với 2 phức hệ xâm nhập này.

Hình 1.2. Sơ đồ địa chất vùng Phước Sơn “Nguồn: Lê Văn Hải và nnk 2010, có
chỉnh lý) [5]
Từ các dẫn liệu nêu trên, NCS đồng tình với quan điểm của Huỳnh
Trung (1979), Lê Văn Hải (2010) và nnk cho rằng vàng gốc trong vùng liên
quan với đá magma thuộc pha 2 phức hệ Bến Giằng - Quế Sơn.
12









Hình 1.3. Biểu đồ tương quan K
+
- Mg
2+
theo Sattran, 1977 “Nguồn: Lê Xuân Vinh và
nnk 2011” [26]
1.1.5. Khái quát về đặc điểm cấu trúc, kiến tạo
1.1.5.1. Đứt gãy
Trong vùng Phước Sơn, phân bố 3 đứt gãy chính gồm: đứt gãy tây
Khâm Đức, đứt gãy Đăk Pơ Kô và đứt gãy K7.
- Đứt gãy tây Khâm Đức phân bố phía đông bắc, với chiều dài khoảng
15km, mặt trượt cắm về đông bắc với góc dốc khoảng 70
0
. Dọc đứt gãy các
đá bị xiết ép, không phát hiện thấy sự phân bố của vàng gốc [20].
- Đứt gãy Đăk Pơ Kô là đứt gãy thuận phân bố phía đông nam, kéo dài
gần bắc nam (dọc theo quốc lộ 14), có quy mô lớn, cắt qua nhiều hệ tầng khác
nhau. Dị thường trọng lực liên quan đến đứt gãy có dạng kéo dài phương á
kinh tuyến, cắm về tây với góc dốc 70-80
0
, dọc đứt gãy đá bị ép phiến,
milônit hoá, phân bố các tập đá phiến thạch anh chứa sulfua - vàng - đồng
(phân bố ngoài vùng nghiên cứu) [20], [24].
- Đứt gãy K7 là đứt gãy thuận nằm song song với đứt gãy Đăk Pơ Kô, mặt
trượt cắm về tây với góc dốc 70 - 80

0
, phân bố các mạch thạch anh - sulfua đa
kim - vàng ở khu K7, Đăk Sa [5], [20].
13

Từ các dẫn liệu trên cho thấy, trong 3 đứt gãy, chỉ có đứt gãy K7 có
liên quan đến khoáng hoá vàng gốc trong vùng.
1.1.5.2. Nếp uốn
Trong vùng Phước Sơn thể hiện rõ nhất và có ý nghĩa trong tìm kiếm
khoáng sản là nếp lồi Sông Giang [20], phân bố ở phía đông nam, trục nếp
uốn phương tây bắc - đông nam kéo dài 14 - 15km từ Đăk Sa, qua K7 đến
Sông Giang, hai bên cánh góc dốc 30 ÷ 40
0
. Tại Đăk Sa phân bố các mạch
thạch anh - sulfua đa kim - vàng trên cánh tây nam [5]. Đây là tiền đề thuận
lợi để tìm kiếm quặng vàng gốc trong vùng.
Tóm lại, vùng Phước Sơn nằm trong á địa khu Nam Ngãi có cấu trúc địa
chất phức tạp, phân bố chủ yếu trầm tích biến chất hệ tầng Núi Vú, phân hệ
tầng trên bao gồm đá phiến thạch anh - biotit, xen các tập đá vôi bị hoa hoá,
tập phiến sét vôi. Các thân quặng thạch anh - sulfua đa kim - vàng liên quan
đến đứt gãy K7, trong các mặt tách lớp của các tập đá phiến thạch anh - biotit,
đá phiến sét vôi, thường phân bố trên cánh của nếp lồi Sông Giang. Đây là cơ
sở góp phần khoanh định diện tích có triển vọng vàng gốc trong vùng.
1.2. ĐẶC ĐIỂM QUẶNG HOÁ VÀNG GỐC VÙNG PHƯỚC SƠN
Trong vùng nghiên cứu đã xác định được 8 khu phân bố quặng vàng gốc
đó là: Đăk Sa, Bãi Chuối, K7, Trà Long - Suối Cây, Bãi Bướm, Vàng Nhẹ, Bãi
Gió và Núi Vàng. Trong đó khu Đăk Sa đã được thăm dò, các khu còn lại được
tìm kiếm tỉ mỉ. Kết quả tìm kiếm, thăm dò trong vùng đã xác định các đới
khoáng hoá và một số thân quặng vàng gốc có giá trị công nghiệp.
1.2.1. Đặc điểm các đới khoáng hoá

1.2.1.1. Đới khoáng hoá Bãi Chuối bao gồm các mạch thạch anh sulfua vàng
phân bố trong tập đá phiến thạch anh - biotit hệ tầng Núi Vú, phân hệ tầng
trên kéo dài phương á kinh tuyến khoảng 300m, rộng 20m, chiều sâu dự kiến
khoảng 75m; được khống chế bằng hào trên mặt và 13 lỗ khoan dưới sâu. Kết
14

quả phân tích mẫu mặt hàm lượng Au: 0,1 - 2,96g/T, dưới sâu hàm lượng
Au<1g/T, trung bình đới khoảng 0,5g/T.
1.2.1.2. Đới khoáng hoá K7 gồm các mạch thạch anh sulfua vàng phân bố
trong tập đá phiến thạch anh - biotit hệ tầng Núi Vú, phân hệ tầng trên kéo dài
phương á kinh tuyến khoảng 400m, rộng 20m, cắm về tây với góc dốc 40
0
,
chiều sâu dự kiến khoảng 100m; được khống chế bằng các vết lộ, hào và 01 lỗ
khoan. Kết quả phân tích mẫu khoáng tướng hàm lượng khoáng vật sulfua từ
2 đến 4% gồm: pyrotin, pyrit, ít chalcopyrit, sphalerit, galenit và vàng tự sinh.
Kết quả phân tích 84 mẫu rãnh hàm lượng Au: 0,1 - 98,16g/T, đặc biệt trong
lò khai thác thủ công gặp 01 mạch quặng dày 0,5m, hàm lượng Au: 98,16g/T,
01 lỗ khoan gặp mạch quặng dày 2m, hàm lượng Au: 1,4g/T. Hàm lượng Au
trung bình đới khoảng 3g/T.
1.2.1.3. Đới khoáng hoá Trà Long - Suối Cây gồm các mạch thạch anh sulfua
vàng phân bố trong tập đá phiến thạch anh - graphit - chlorit bị cà nát thuộc
hệ tầng Núi Vú, phân hệ tầng trên, phương kéo dài đông bắc - tây nam
khoảng 1.500m, rộng 20m, chiều sâu dự kiến khoảng 60m; khống chế bởi các
vết lộ quặng, hào, lò khai thác thủ công và 02 lỗ khoan. Kết quả phân tích
mẫu khoáng tướng hàm lượng sulfua đến 1% (chủ yếu là pyrit). Kết quả phân
tích 43 mẫu rãnh, hàm lượng Au từ 0,1 đến 35,17g/T. Tại lò khai thác thủ
công gặp mạch quặng dày 2m (2 mẫu rãnh hàm lượng Au: 8,8g/T và
11,3g/T), lỗ khoan TLDD02 gặp 1m quặng (ở độ sâu 75 - 76m), hàm lượng
Au: 69,70g/T. Hàm lượng Au trung bình đới khoảng 3g/T.

1.2.1.4. Đới khoáng hoá Bãi Bướm gồm các mạch thạch anh - sulfua - vàng phân
bố trong mặt tách lớp phương á vĩ tuyến phát triển trong đá phiến thạch anh,
graphit, chlorit thuộc hệ tầng Núi Vú, phân hệ tầng trên, kéo dài khoảng 200m,
rộng 5m, chiều sâu khoảng 50m; được khống chế bởi các vết lộ quặng, lò khai
thác thủ công và 02 lỗ khoan. Hàm lượng khoáng vật pyrotin 0,5 - 1%, mẫu rãnh
15

hàm lượng Au: 0,12 - 64,37g/T. Tại công trình khoan gặp đới biến đổi chứa sulfua
nhưng không thấy vàng. Hàm lượng Au trung bình đới khoảng 1g/T.
1.2.1.5. Đới khoáng hoá Vàng Nhẹ gồm các mạch thạch anh sulfua vàng phân
bố trong tập đá phiến thạch anh - biotit hệ tầng Núi Vú, phân hệ tầng trên, kéo
dài phương tây bắc - đông nam khoảng 400m, rộng 30m, cắm về tây nam với
góc dốc 60 - 70
0
, duy trì theo chiều sâu khoảng 100m. Trong đới đã lấy và
phân tích 19 mẫu cục, 61 mẫu rãnh ở các vết lộ quặng, công trình khai thác
thủ công. Thành phần khoáng vật quặng chủ yếu gồm pyrit và pyrotin chiếm
đến 3%. Kết quả phân tích mẫu cục hàm lượng Au từ 0,11 đến 17,17g/T, các
mẫu còn lại đều có hàm lượng Au nhỏ hơn 1g/T. Hàm lượng Au trung bình
đới khoảng 3,27g/T.
1.2.1.6. Đới khoáng hoá Bãi Gió gồm các mạch thạch anh - sulfua - vàng
phân bố ở vòm nếp lồi trong đá phiến thạch anh - biotit, kéo dài khoảng 200m
theo phương á kinh tuyến, rộng 10m, chiều sâu dự kiến khoảng 50m; được
khống chế bằng 4 hào trên mặt và 9 lỗ khoan, lò khai thác thủ công. Kết quả
phân tích 412 mẫu rãnh, hàm lượng Au thấp, phần lớn nhỏ hơn 1g/T, duy nhất
01 mẫu đạt hàm lượng 1,26g/T. Khoan gặp 01 mạch quặng dày 0,8m hàm
lượng Au: 4,46g/T. Trung bình đới hàm lượng Au khoảng 0,5g/T.
1.2.1.7. Đới khoáng hoá Núi Vàng phát hiện 02 dị thường địa hoá liên quan đến vàng
gốc, kéo dài theo phương á kinh tuyến. Dị thường (I) dài 300m, rộng 90m. Dị thường
(II) dài 200m, rộng 80m. Hàm lượng vàng thấp, trung bình khoảng 0,1g/T.

Nhận xét: trong 7 khu mới được tìm kiếm tỉ mỉ thì có 6 khu đã xác định được
các đới khoáng hoá phân bố trong các trầm tích biến chất hệ tầng Núi Vú, phân hệ
tầng trên. Phương kéo dài chủ yếu đông bắc - tây nam, á kinh tuyến, phương tây bắc
- đông nam. Chiều dài các đới khoáng hoá từ 200 đến 1.500m, rộng từ 5 đến 20m,
chiều sâu từ 45 đến 100m. Hàm lượng Au trung bình đới từ 0,5 đến 3,27g/T.

16

1.2.2. Đặc điểm các thân quặng
Khu Đăk Sa (phụ lục 2, hình 1) gồm hai phân khu Bãi Đất và Bãi Gõ
đã được thăm dò và hiện đang được khai thác ở thân quặng BĐMQ.
1.2.2.1. Phân khu Bãi Đất có thân quặng chính (BĐMQ) và thân quặng nhỏ
(BĐUQ) nằm trên (hình 1.4). Thân quặng BĐUQ có chiều dày nhỏ, biến đổi
không liên tục, ít có giá trị.
Thân quặng BĐMQ là thân quặng chính (chiếm 98% trữ lượng toàn phân
khu) duy trì khá liên tục theo mặt tách lớp trùng với mặt phân phiến của đá phiến
thạch anh - biotit thuộc hệ tầng Núi Vú, phân hệ tầng trên; được khống chế bởi
57 lỗ khoan, phần vách thường phân bố các tập đá vôi bị hoa hoá, đá phiến thạch
anh - biotit, phần trụ phân bố các tập đá phiến thạch anh - biotit, kéo dài phương
bắc đông bắc - nam tây nam (100 - 290m), cắm về tây - tây bắc với chiều sâu
khống chế khoảng 490m, góc dốc 25 - 32
0
, trung bình 30
o
. Trong lò dọc quan sát
rõ thân quặng duy trì ổn định theo đường phương và hướng dốc.

Hình 1.4. Mặt cắt địa chất tuyến AA’ TQ BĐMQ “Nguồn: Lê Văn Hải và nnk 2010”
(chỉ dẫn ở phụ lục 2 kèm theo) [5]
TQ BĐMQ

TQ BĐUQ
17

Thân quặng BĐMQ được cấu thành bởi các mạch thạch anh - sulfua đa
kim - vàng duy trì khá ổn định, có ranh giới tương đối rõ ràng với đá vây quanh
(Ảnh 1.1), chiều dày: 0,2 ÷ 9,58m, trung bình 2,96m, biến đổi không ổn định
(Vm = 70%), chu vi đường viền: 1,23, thuộc loại đơn giản. Khoáng vật quặng
chủ yếu gồm pyrit, pyrotin, galenit, sphalerit, (có thể có electrum) và vàng tự
sinh. Tổng hàm lượng sulfua thay đổi 3 ÷ 65%, trong đó pyrit: 2%, pyrotin:
1%, galenit: từ ít đến 12%, sphalerit từ ít đến 50%, (electrum) và vàng tự sinh.


Ảnh 1.1. Thân quặng BĐMQ, ranh giới tương đối rõ ràng với đá vây quanh
“Nguồn: Lê Văn Hải và nnk 2010”

Hình 1.5. Mặt cắt địa chất tuyến BB’ TQ QTZ3 “Nguồn: Lê Văn Hải và nnk 2010” (chỉ
dẫn xem phụ lục 2 kèm theo) [5]
Ranh giới TQ
với đá vây quanh
Thân quặng BĐMQ

18

1.2.2.2. Phân khu Bãi Gõ có 6 chùm thân ký hiệu SERP, BGUQ, SC2, MB2,
BGLQ, QTZ4 và 02 thân đơn SC3, MB1 (phụ lục 2, hình 2 đến hình 7).
Trong đó chùm thân SERP gồm 4 thân ký hiệu: SERP1, SERP2, SERP3,
SERP4; chùm thân BGUQ gồm 3 thân ký hiệu: QTZ1, BGUQ1, BGUQ2;
chùm thân SC2 gồm 6 thân ký hiệu 1, 2, 3, 4, 5, 6; chùm thâm MB2 gồm 2
thân 1 và 2; chùm thân BGLQ gồm 2 thân QTZ2, QTZ3; chùm thân QTZ4
gồm 3 thân 1, 2, 3. Trong đó thân quặng QTZ3 thuộc chùm thân BGLQ (hình

1.5) có giá trị nhất (chiếm 56% trữ lượng trong toàn phân khu), thân quặng là
mạch thạch anh chứa vàng phân bố trong tập đá phiến thạch anh - biotit, xen
các tập phiến sét vôi thuộc hệ tầng Núi Vú, phân hệ tầng trên. Thân quặng
được khống chế bởi 76 lỗ khoan, kéo dài phương bắc đông bắc – nam tây nam
khoảng 150 - 300m, cắm về tây - tây bắc với góc dốc từ 33 đến 37
0
, trung
bình 35
o
, chiều sâu khống chế đến 1.220m. Thân quặng QTZ3 dạng mạch,
mạch thấu kính có ranh giới tương đối rõ ràng với đá vây quanh, chiều dày
0,23 ÷ 16m, trung bình 3,11m, biến đổi rất không ổn định (Vm = 115%), chu
vi đường viền (): 1,62, thuộc loại phức tạp. Khoáng vật quặng chủ yếu gồm
pyrotin, pyrit, sphalerit và galenit, (có thể có electrum) và vàng tự sinh.
Nhận xét: tại khu Đăk Sa, các thân quặng vàng gốc có dạng mạch,
mạng mạch, mạch thấu kính lấp đầy các mặt tách lớp phát triển phương đông
bắc - tây nam, ít hơn là phương á kinh tuyến hoặc phương tây bắc - đông
nam. Trên vách thường phân bố các tập đá vôi hoa hoá, phiến sét vôi xen tập
đá phiến thạch anh - biotit, trụ thường là tập đá phiến thạch anh - biotit thuộc
hệ tầng Núi Vú, phân hệ tầng trên, ranh giới giữa thân quặng với đá vây
quanh tương đối rõ ràng. Các thân quặng có hình thái từ đơn giản đến phức
tạp, chiều dày biến đổi từ không ổn định đến rất không ổn định.
1.2.3. Đặc điểm thành phần vật chất và tính chất công nghệ
Trong Luận án, NCS tập trung nghiên cứu chi tiết các thân quặng đã
được thăm dò (hai phân khu mỏ Bãi Đất và Bãi Gõ), làm cơ sở luận giải đặc
19

điểm quặng hoá, lựa chọn mô hình và áp dụng các phương pháp đánh giá tài
nguyên, trữ lượng vàng gốc trong vùng.
1.2.3.1. Thành phần khoáng vật

a. Thành phần khoáng vật quặng
Kết quả phân tích mẫu khoáng tướng cho thấy khoáng vật quặng tương
đối đơn giản, giống nhau về đặc điểm hình thái khoáng vật tiêu biểu và điển
hình bao gồm: pyrit, pyrotin, galenit, sphalerit, (có thể có electrum) và vàng
tự sinh, song biến đổi cạnh mạch phức tạp (chi tiết mục 1.2.3.6).
Tổng hàm lượng khoáng vật sulfua trong các thân quặng cụ thể ở các
phân khu như sau:
- Phân khu Bãi Đất khoáng vật quặng chủ yếu là pyrit, galenit,
sphalerit, (có thể có electrum) và vàng tự sinh dạng lấp đầy các khe nứt,
chiếm 1 ÷ 65%. Trong đó sphalerit từ ít đến 50%, galenit từ ít đến 12%, pyrit
đến 2%, ít hơn là pyrotin đến 1%.
- Phân khu Bãi Gõ khoáng vật quặng chủ yếu gồm pyrotin, pyrit,
sphalerit, galenit, (có thể có electrum) và vàng tự sinh; tổng khoáng vật sulfua
dao động 2 ÷ 15%, cục bộ lên đến 45%.
Hàm lượng khoáng vật sulfua phân khu Bãi Đất thường cao hơn so với
phân khu Bãi Gõ, đặc biệt là khoáng vật galenit và sphalerit, trong đó khoáng
vật sphalerit chiếm ưu thế hơn cả, có thể là do phân khu Bãi Đất có sự phân
bố tập đá vôi ưa chì và kẽm.
b. Đặc điểm khoáng vật chính
+ Pyrit (FeS
2
) gồm 2 thế hệ I và II, dạng hạt tha hình, kích thước hạt 0,03
- 1mm, xâm tán rải rác trong nền thạch anh. Quan sát rõ pyrit bị galenit và
sphalerit thay thế, gặm mòn, gắn kết ở một số nơi. Pyrit II có quan hệ tiếp xúc
phẳng (đồng sinh) với vàng tạo thành THCSKV, thể hiện rất rõ trên ảnh 1.9.
20

+ Pyrotin (FeS) có thể phân biệt 2 thế hệ pyrotin: pyrotin I chiếm 90%
tổng số pyrotin trong mẫu, dạng hạt tha hình với kích thước chủ yếu 0,2 -
1mm, xâm tán thành ổ và rải rác trong thạch anh. Nhiều vị trí gặp pyrotin I bị

melnhicovit thay thế chỉ còn lại ít tàn dư kích thước < 0,2mm, phân bố rải rác.
Pyrotin II chiếm tỷ lệ nhỏ, khoảng 10% tổng số pyrotin, kích thước hạt
thường < 0,2mm xâm tán không đều trong thạch anh cùng với sphalerit và
galenit (ảnh 1.10, 1.11, 1.12, 1.13, 1.15, 1.16).
+ Galenit (PbS) tồn tại dạng hạt tha hình, kích thước 0,02-2mm, phân
bố không đều, dạng ổ lớn đôi khi tập hợp đặc xít, đôi chỗ xâm tán thành đám
hạt trong thạch anh. Ngoài ra, galenit phân bố theo các vi khe nứt trong thạch
anh (ảnh 1.14, 1.15) đôi chỗ thay thế rõ cho các hạt pyrotin (ảnh 1.15); có
quan hệ tiếp xúc phẳng với sphalerit và vàng tạo thành THCSKV (ảnh 1.3,
1.6, 1.13, 1.16).
+ Sphalerit (ZnS) dạng hạt và tập hợp hạt tha hình với kích thước 0,2 -
2mm, đôi khi > 2mm, phân bố xâm tán (ảnh 1.6). Quan sát rõ quan hệ tiếp
xúc phẳng với galenit và vàng tự sinh tạo thành THCSKV (ảnh 1.3, 1.16).
+ Vàng tự sinh (Au) tồn tại rất đa dạng, bao gồm 2 thế hệ vàng I và vàng
II, xâm tán rải rác trong thạch anh (ảnh 1.2, 1.4, 1.8, 1.10, 1.11); dạng vi mạch
lấp đầy khe nứt (ảnh 1.5, 1.12, 1.14, 1.15); xâm tán dạng đám hạt, xâm tán cùng
gelenit và sphalerit. Hạt vàng có kích thước 0,01 - 0,2mm, từ tương đối đẳng
thước (ảnh 1.3, 1.7) đến hạt méo mó (ảnh 1.2, 1.6, 1.8, 1.9, 1.10, 1.13, 1.16) hay
dạng hạt tha hình (ảnh 1.4, 1.6, 1.8) đến hạt lớn (ảnh 1.3, 1.6, 1.7, 1.16), Trong
mẫu gặp Au tự sinh quan hệ tiếp xúc phẳng với pyrotin II, galenit, sphalerit tạo
thành tổ hợp cộng sinh khoáng vật thạch anh - pyrotin II - vàng II - galenit -
sphalerit (ảnh 1.16); thạch anh - pyrit II - vàng I (ảnh 1.9).
+ Bạc (Ag): trong tất cả các mẫu khoáng tướng chưa phát hiện thấy Ag
tồn tại ở dạng tự sinh, theo tài liệu nghiên cứu trước đây Ag có thể trong
khoáng vật electrum [26] và không loại trừ trong khoáng vật galenit.
21

- Tập ảnh mẫu khoáng tướng lấy trong thân quặng BĐMQ phân khu Bãi Đất

Ảnh 1.2. Mẫu LV1.1, tầng lò 1, TQ BĐMQ. Vàng

tự sinh, hạt tha hình xâm tán rải rác trong thạch
anh (Nikon +, độ phóng đại 200x1.7)
Ảnh 1.3. Mẫu LV1.2, tầng lò 1, TQ BĐMQ. Vàng tự sinh,
hạt đẳng thước, xâm tán trong thạch anh, tiếp xúc phẳng
với galenit và sphalerit (Nikon +, độ phóng đại 200x1.7)

Ảnh 1.4. Mẫu LV2-2.1, tầng lò 2 TQ BĐMQ. Vàng
tự sinh hạt tha hình xâm tán theo các vi khe nứt
trong thạch anh (Nikon +, độ phóng đại 50x1.7)
Ảnh 1.5. Mẫu LV2-2.2, tầng lò 2, TQ BĐMQ. Vàng
tự sinh hạt kéo dài nấp đầy theo vi khe nứt trong
thạch anh (Nikon +, độ phóng đại 200x1.7)


Ảnh 1.6. Mẫu LV3-3.1, tầng lò 3, TQ BĐMQ. Vàng tự
sinh, hạt tha hình xâm tán trong thạch anh, tiếp xúc phẳng
với galenit và sphalerit (Nikon +, độ phóng đại 200x1.7)
Ảnh 1.7. Mẫu LV3-3.2, tầng lò 3, TQ BĐMQ. Vàng
tự sinh hạt đẳng thước xâm tán trong thạch anh cùng
galenit và sphalerit (Nikon +, độ phóng đại 200x1.7)
22


Ảnh 1.8. Mẫu LV3-3.3, tầng lò 3, TQ BĐMQ. Vàng
tự sinh, hạt tha hình xâm tán cùng galenit trong thạch
anh (Nikon +, độ phóng đại 200x1.7)
Ảnh 1.9. Mẫu DSDH24.1, Lỗ khoan DSDH24, TQ
BĐMQ. Vàng tự sinh tiếp xúc phẳng với pyrit tạo
thành THCSKV xâm tán trong thạch anh (Nikon
+, độ phóng đại 200x1.7)

- Tập ảnh mẫu khoáng tướng lấy trong thân quặng QTZ3 phân khu Bãi Gõ


Ảnh 1.10. BG 1.1 (lò 1) TQ QTZ3. Vàng tự sinh
(Au) xâm tán cùng pyrotin II (Pyr) trong thạch
anh (Nikon +, độ phóng đại 200x1.7)
Ảnh 1.11. BG 1.2 (lò 1) TQ QTZ3. Vàng tự sinh (Au)
tương đối đẳng thước xâm tán cùng pyrotin II (Pyr)
trong thạch anh (Nikon +, độ phóng đại 200x1.7)


Ảnh 1.12. BG 1.3 (lò 1) TQ QTZ3. Vàng tự sinh (Au) hạt
kéo dài xâm tán cùng pyrotin II (Pyr) tạo vi mạch ngắn
theo vi khe nứt trong thạch anh (Nikon +, độ phóng đại
200x1.7)
Ảnh 1.13. BG 2.1 (lò 1) TQ QTZ3. Vàng tự sinh
(Au), galenit (Gal) và pyrotinII (Pyr) tạo
THCSKV trong thạch anh (Nikon +, độ phóng
đại 50x1.7)
23



Ảnh 1.14. BG 7 (lò 1) TQ QTZ3. Vàng tự sinh (Au),
hạt kéo dài xâm tán theo vi khe nứt cùng galenit (Gal)
trong thạch anh (Nikon +, độ phóng đại 200x1.7)
Ảnh 1.15. BG 7.2 (lò 1) TQ QTZ3. Vàng tự sinh (Au)
dạng vi mạch, lấp đầy vi khe nứt cùng với pyrotin
(Pyr) và galenit (Gal) (Nikon +, độ phóng đại 200x1.7)


Ảnh 1.16. BG 7.3 (lò 1) TQ QTZ3. Vàng tự sinh (Au) kích thước lớn tạo thành THCSKV với
sphalerit (Spl), galenit (Gal) pyrotin II trong thạch anh (Nikon +, độ phóng đại 200x1.7)
(Ảnh: PGS.TS Nguyễn Quang Luật, 2013)
c. Khoáng vật phi quặng
Khoáng vật không quặng chủ yếu là thạch anh, dolomit, calcit, rất ít
sericit và chlorit.
1.2.3.2. Thành phần hoá học quặng
a. Nguyên tố Au
- Trong các đới khoáng hoá: kết quả lấy mẫu trên các vết lộ, hào tìm
kiếm, các lò khai thác thủ công, hàm lượng Au: 0,1 - 98,16g/T (K7); dưới sâu
hàm lượng Au: 0,1 - 69,7g/T; trung bình đới 0,5 - 3,27g/T.
- Trong các thân quặng: TQ BĐMQ hàm lượng Au: 0,13 ÷ 76g/T (đã xử
lý mẫu đặc cao), trung bình 18,65g/T; hệ số biến thiên hàm lượng Vc = 267%,
thuộc loại đặc biệt không đồng đều; TQ QTZ3 hàm lượng Au: 0,11 ÷ 48g/T (đã
xử lý mẫu đặc cao), trung bình: 9,57g/T, hệ số biến thiên hàm lượng Vc = 206%,
cũng thuộc loại đặc biệt không đồng đều.

×