Tải bản đầy đủ (.pdf) (191 trang)

Nghiên cứu xây dựng quy trình đánh giá tài nguyên nước mặt và áp dụng cho vùng kinh tế đông nam bộ

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (8.75 MB, 191 trang )


Bộ tài nguyên và môi trờng
Cục quản lý tài nguyên nớc









Báo cáo tổng kết đề tài cấp bộ

Nghiên cứu xây dựng qui trình đánh giá
tài nguyên nớc mặt và áp dụng cho vùng
kinh tế đông nam bộ


Chủ nhiệm đề tài: TS. Nguyễn Lê Tuấn














7043
02/12/2008


Hà Nội- 2008




BỘ TÀI NGUYÊN VÀ MÔI TRƯỜNG
CỤC QUẢN LÝ TÀI NGUYÊN NƯỚC
⎯⎯⎯⎯⎯⎯⎯⎯⎯



BÁO CÁO TỔNG KẾT KHOA HỌC VÀ KỸ THUẬT

TÊN ĐỀ TÀI:
NGHIÊN CỨU XÂY DỰNG QUY TRÌNH ĐÁNH GIÁ TÀI NGUYÊN
NƯỚC MẶT VÀ ÁP DỤNG CHO VÙNG KINH TẾ ĐÔNG NAM BỘ


Chỉ số phân loại:
Số đăng ký:
Chỉ số lưu trữ:

Chủ nhiệm đề tài: TS. Nguyễn Lê Tuấn
Các cộng tác viên chính:

KS. Nguyễn Sĩ Khôi Cục Quản lý tài nguyên nước
KS. Nguyễn Vũ Trung Cục Quản lý tài nguyên nước
ThS. Nguyễn Thị Việt Hồng Cục Quản lý tài nguyên nước
KS. Đỗ Văn Lanh Cục Quản lý tài nguyên nước
PGS, TS. Trần Thanh Xuân Viện Khoa học KTTV và
MT
Hà Nội, ngày tháng năm 2008
Ch
ủ nhiệm đề tài





Nguyễn Lê Tuấn
Hà Nội, ngày tháng năm 2008
Thủ trưởng cơ quan chủ trì






Hà Nội, ngày tháng năm 2008
Chủ tịch Hội đồng đánh giá chính thức









Lê Kim Sơn
Hà Nội, ngày tháng năm 2008
Thủ trưởng cơ quan quản lý đề tài
TL. BỘ TRƯỞNG
Q. VỤ TRƯỞNG
VỤ KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ





Lê Kim Sơn

i

MỤC LỤC
MỞ ĐẦU
1
Chương 1 TỔNG QUAN VỀ TÀI NGUYÊN NƯỚC VÀ CÁC VẤN ĐỀ CÓ
LIÊN QUAN ĐẾN ĐÁNH GIÁ TÀI NGUYÊN NƯỚC MẶT 3

I. TÀI NGUYÊN NƯỚC VÀ VAI TRÒ CỦA TÀI NGUYÊN NƯỚC ĐỐI VỚI PHÁT TRIỂN
KINH TẾ - XÃ HỘI 3
I.1 Các dạng tài nguyên nước và chu trình của nước trong tự nhiên 3
I.2 Vai trò của nước đối với sự phát triển kinh tế xã hội 4
I.3 Nhận thức của con người về tài nguyên nước và mối quan hệ với đánh giá tài nguyên
nước 5


II. TỔNG QUAN VỀ ĐÁNH GIÁ TÀI NGUYÊN NƯỚC 7
II.1 Khái niệm chung về đánh giá tài nguyên nước 7
II.2 Một số công trình đánh giá tài nguyên nước 7
III. NỘI DUNG NGHIÊN CỨU CỦA ĐỀ TÀI 12
III.1 Một số vấn đề chung trong công tác đánh giá tài nguyên nước 12
III.2 Sự cần thiết xây dựng quy trình đánh giá tài nguyên nước mặt 13
III.3 Phạm vi và các nội dung nghiên cứu của đề tài 14
Chương 2 MỘT SỐ VẤN ĐỀ VỀ PHẠM VI KHÔNG GIAN TRONG
ĐÁNH GIÁ TÀI NGUYÊN NƯỚC MẶT 16

I. TỔNG HỢP MỘT SỐ KẾT QUẢ ĐÁNH GIÁ TÀI NGUYÊN NƯỚC VIỆT NAM ĐÃ ĐƯỢC
THỰC HIỆN 16
I.1 Một số kết quả đánh giá tài nguyên nước mặt cho toàn quốc 16
I.2 Một số vấn đề liên quan đến phạm vi không gian 19
II. MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ TỔ CHỨC LÃNH THỔ KINH TẾ - XÃ HỘI Ở VIỆT
NAM 20
III. ĐÁNH GIÁ TÀI NGUYÊN NƯỚC MẶT THEO VÙNG LÃNH THỔ 22
III.1 Những yêu cầu về đánh giá tài nguyên nước cho vùng lãnh thổ 22
III.2 Tính toàn diện của các thông tin đánh giá tài nguyên nước 23
III.3 Yêu cầu về đánh giá tài nguyên nước của các hồ chứa 24
IV. SAI SỐ VÀ ĐỘ TIN CẬY TRONG ĐÁNH GIÁ TÀI NGUYÊN NƯỚC MẶT 26
IV.1 Chuẩn hoá 26
IV.2 Kiểm soát chất lượng 26
IV.3 Một số vấn đề về sai số 28
IV.4 Đánh giá độ chính xác của các thông tin khái quát theo không gian 31
V. MỘT SỐ NHẬN XÉT 40
Chương 3 CÁC KỸ THUẬT, CÔNG NGHỆ CHỦ YẾU SỬ DỤNG
TRONG ĐÁNH GIÁ TÀI NGUYÊN NƯỚC MẶT 43


I. GIỚI THIỆU 43
II. CÔNG CỤ MÔ HÌNH TRONG ĐÁNH GIÁ TÀI NGUYÊN NƯỚC MẶT 43

ii
II.1 Tổng quan về các mô hình mô phỏng lưu vực sông 43

II.2 Quá trình lựa chọn và áp dụng mô hình 45
II.3 Về công cụ xử lý thống kê và một số mô hình ngẫu nhiên 50
II.4 Ứng dụng mô hình trong tính toán và đánh giá tài nguyên nước ở Việt Nam 51
III. CÔNG NGHỆ GIS VÀ ỨNG DỤNG TRONG ĐÁNH GIÁ TÀI NGUYÊN NƯỚC MẶT 53
III.1 Khái niệm công nghệ GIS (Geographic Information System) 53
III.2 Ứng dụng công nghệ GIS trong đánh giá tài nguyên nước mặt 54
IV. CƠ SỞ DỮ LIỆU VÀ HỆ QUẢN TRỊ CƠ SỞ DỮ LIỆU 57
IV.1 Định nghĩa hệ quản trị cơ sở dữ liệu 58
IV.2 Khái niệm người dùng (User) 59
IV.3 Các mô hình dữ liệu 59
IV.4 Đề xuất chương trình quản lý cơ sở dữ liệu sử dụng trong đề tài 62
Chương 4 ĐỀ XUẤT QUY TRÌNH ĐÁNH GIÁ TÀI NGUYÊN NƯỚC 67
I. TỔNG QUAN VỀ THỂ CHẾ, CHÍNH SÁCH LIÊN QUAN ĐẾN ĐÁNH GIÁ TÀI NGUYÊN
NƯỚC 67
I.1 Tại Việt Nam 67
I.2 Tại Trung Quốc 68
I.3 Tại Hoa Kỳ 68
I.4 Tại Ấn Độ 71
I.5 Tại Nam Phi 71
II. XÂY DỰNG NHỮNG NỘI DUNG ĐÁNH GIÁ TÀI NGUYÊN NƯỚC MẶT 72
II.1 Cơ sở xây dựng nội dung đánh giá tài nguyên nước mặt 73
II.2 Các nội dung đánh giá tài nguyên nước mặt 80
IV. ĐỀ XUẤT QUY TRÌNH ĐÁNH GIÁ TÀI NGUYÊN NƯỚC MẶT 81
IV.1 Đánh giá về hệ thống trạm đo, công tác quan trắc tài nguyên nước mặt 81

IV.2 Xử lý, khôi phục, bổ sung dữ liệu 85
IV.3 Xây dựng hệ cơ sở dữ liệu phục vụ đánh giá tài nguyên nước mặt 91
IV.4 Đánh giá về đặc trưng lưu vực sông và mạng lưới sông ngòi 92
IV.5 Phân tích, tổng hợp, đánh giá về mưa 93
IV.6 Phân tích, tổng hợp, đánh giá số lượng nước sông 95
IV.7 Đánh giá chất lượng nước sông 97
IV.8 Đánh giá số lượng và chất lượng nước hồ chứa 98
IV.9 Xây dựng các báo cáo đánh giá tài nguyên nước mặt 99
IV.10 Xây dựng các bản đồ chuyên đề, các bảng biểu 99
V. TỔ CHỨC THỰC HIỆN VIỆC ĐÁNH GIÁ TÀI NGUYÊN NƯỚC 100
V.1 Bảo đảm các nguồn lực thực hiện chương trình đánh giá tài nguyên nước 100
V.2 Huy động sự tham gia của các cơ quan, tổ chức, cá nhân có liên quan 100
V.3 Yêu cầu về sản phẩm 100
Chương 5 ỨNG DỤNG QUY TRÌNH ĐÁNH GIÁ TÀI NGUYÊN NƯỚC
MẶT CHO VÙNG KINH TẾ ĐÔNG NAM BỘ 101

I KHÁI QUÁT VỀ VÙNG KINH TẾ ĐÔNG NAM BỘ 101

iii
I.1 Điều kiện tự nhiên 101

I.2 Điều kiện kinh tế xã hội 107
II. ỨNG DỤNG QUY TRÌNH ĐÁNH GIÁ TÀI NGUYÊN NƯỚC MẶT CHO VÙNG KINH TẾ
ĐÔNG NAM BỘ 109
II.1 Mạng lưới sông suối, mạng lưới trạm đo 110
II.2 Tài nguyên nước mưa 115
II.3 Số lượng nước sông 128
II.4 Phân phối lượng nước mặt của các sông trong vùng 133
II.5 Chất lượng nước sông 138
KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ 144

TÀI LIỆU THAM KHẢO 149


iv

DANH MỤC HÌNH VẼ
Hình 1.1 Chu trình của nước trong tự nhiên 4
Hình 2.1 So sánh sự khác nhau của một số phép nội suy 37
Hình 2.1 So sánh sự khác nhau của cùng một phép nội suy 37
Hình 3.1 Mô tả quy trình mô hình hóa 48
Hình 3.2 Các bước ứng dụng SPSS trong phân tích thống kê tài liệu, số liệu thực nghiệm 51
Hình 3.3 Các thành phần và chức năng của hệ thống thông tin địa lý (GIS) 54
Hình 3.4 Mô tả một lưu vực bằng các lớp thông tin 57
Hình 3.5 Các lớp bản đồ trong mô hình dữ liệu Arc Hydro 58
Hình 3.6 Giao diện khởi động hệ cơ sở dữ liệu đề xuất 62
Hình 3.7 Nhập liệu các thông tin hành chính 63
Hình 3.8 Nhập liệu các thông tin về trạm đo 64
Hình 3.9 Nhập thông tin lưu lượng ngày tại trạm đo 65
Hình 3.10 Lập các thông tin báo cáo một số đặc trưng tài nguyên nước 66
Hình 3.11 Các báo cáo về đặc trưng tài nguyên nước 66
Hình 4.1 Mạng lưới quan trắc dòng chảy sông ngòi của Hoa Kỳ 69
Hình 4.2 Bản đồ mạng quan trắc dòng chảy thời gian thực của Hoa Kỳ 70
Hình 4.3 Mô tả các thành phần cân bằng nước sử dụng trong đánh giá tài nguyên nước 75
Hình 4.4 Các bước chính trong đánh giá tài nguyên nước 80
Hình 5.1 Sơ đồ vị trí khu vực nghiên cứu 101
Hình 5.2 Bản đồ mạng lưới sông suối khu vực ĐNB 112
Hình 5.3 Bản đồ đẳng trị mưa trung bình nhiều năm khu vực ĐNB 117
Hình 5.4 Bản đồ đẳng trị mưa bình quân tháng IV khu vực ĐNB 118
Hình 5.5 Bản đồ đẳng trị mưa bình quân tháng V khu vực ĐNB 119
Hình 5.6 Bản đồ đẳng trị mưa bình quân tháng VI khu vực ĐNB 120

Hình 5.7 Bản đồ đẳng trị mưa bình quân tháng VII khu vực ĐNB 121
Hình 5.8 Bản đồ đẳng trị mưa bình quân tháng VIII khu vực ĐNB 122
Hình 5.9 Bản đồ đẳng trị mưa bình quân tháng IX khu vực ĐNB 123
Hình 5.10 Bản đồ đẳng trị mưa bình quân tháng X khu vực ĐNB 124
Hình 5.11 Bản đồ đẳng trị mưa bình quân tháng XI khu vực ĐNB 125


v

DANH MỤC BẢNG BIỂU
Bảng 2.1 Độ chính xác khuyến nghị (mức độ không chắc chắn) ở mức tin cậy 95% 27
Bảng 2.2 Tỷ lệ bản đồ dòng chảy phụ thuộc vào mật độ lưới trạm 34
Bảng 2.1 - Các thành phần cần chú ý khi đánh giá tài nguyên nước theo những thông tin khái
quát hóa theo không gian 38

Bảng 3.1 Ví dụ về các mức chi tiết khác nhau khi mô phỏng dòng chảy 45
Bảng 3.2 Tổng hợp về một số mô hình mô phỏng lưu vực sông 49
Bảng 4.1 Các hoạt động đánh giá chất lượng nước 76
Bảng 4.2 Mục tiêu, mục đích của các hoạt động đánh giá chất lượng nước 77
Bảng 4.3 Mức độ phức tạp của chương trình giám sát chất lượng nước đa mục đích 83
Bảng 4.4 Tổng hợp về các thông số đánh giá theo các mức đánh giá và các vấn đề về chất
lượng nước của hồ chứa 84

Bảng 4.5 Cấp lưu vực để xác định tiểu lưu vực/tiểu vùng trong đánh giá TNN mặt 86
Bảng 5.1 Phân bố địa hình vùng kinh tế Đông Nam Bộ 102
Bảng 5.2 Danh sách trạm khí tượng trong vùng ĐNB 104
Bảng 5.3 Tốc độ gió trung bình tại một số vị trí trong vùng ĐNB 105
Bảng 5.4 Nhiệt độ trung bình tại một số vị trí trong vùng ĐNB và phụ cận 105
Bảng 5.5 Lượng bốc hơi trên ống Piche tại một số vị trí vùng ĐNB và vùng phụ cận 106
Bảng 5.6 Độ ẩm tương đối trung bình hàng tháng tại một số vị trí trong vùng ĐNB 106

Bảng 5.7 Số giờ nắng trung bình tháng tại một số vị trí trong vùng ĐNB 107
Bảng 5.8 Tổng hợp diện tích, dân số các tỉnh vùng ĐNB 108
Bảng 5.9 Cơ cấu diện tích, dân số các tỉnh so với toàn vùng ĐNB 108
Bảng 5.10 Tổng GDP phân theo thành phần kinh tế vùng ĐNB năm 2003 109
Bảng 5.11 Mạng lưới các sông chính vùng Đông Nam Bộ 111
Bảng 5.12 Danh mục trạm đo mưa vùng ĐNB và vùng phụ cận 113
Bảng 5.13 Tổng hợp tài nguyên nước mưa các tỉnh vùng Đông Nam Bộ 116
Bảng 5.14 Thông số thống kê và lượng mưa năm ứng với các tần suất vùng Đông Nam Bộ và
phụ cận 126

Bảng 5.15 Tỷ lệ giữa lượng mưa mùa mưa và mùa khô ở vùng ĐNB và vùng phụ cận vùng
ĐNB và vùng phụ cận 127

Bảng 5.16 Lượng mưa bình quân tháng tại một số vị trí trong 127
Bảng 5.17 Số ngày mưa trong năm ở một vài điểm khống chế mưa 128
Bảng 5.18 Tổng lượng nước sông hàng năm của vùng tương ứng với các tần suất 129
Bảng 5.19 Tổng lượng nước hàng tháng của các khu vực thuộc lưu vực sông Đồng Nai tương
ứng với các tần suất 129

Bảng 5.20 Phân bố dòng chảy trung bình năm trên khu vực nghiên cứu 131

vi
Bảng 5.21 Dòng chảy năm trung bình, lớn nhất, nhỏ nhất theo các chuỗi năm thực đo tại một
số vị trí trên các sông 131

Bảng 5.22 Lưu lượng tức thời trên sông Đồng Nai từ 28/V đến 04/VI/1996 137
Bảng 5.22 Lưu lượng tức thời trên sông Thị Vải từ 29/V đến 05/VI/1996 137
Bảng 5.23 Lưu lượng tại một số vị trí qua các đợt đo 137
Bảng 5.24 Đánh giá tổng hợp khả năng hiện nay về sử dụng tài nguyên nước các sông chính
trong lưu vực Đồng Nai - Sài Gòn 142


1
MỞ ĐẦU
Nước đóng vai trò hết sức quan trọng trong quá trình hình thành và phát
triển của nền văn minh nhân loại, là yếu tố sống còn cho tất cả các loại hình của
sự sống trên hành tinh. Sự gia tăng của dân số, phát triển kinh tế - xã hội và biến
đổi khí hậu toàn cầu là những nguyên nhân chính làm cho nhu cầu nước ngày
càng tăng lên. Với lượng dòng chảy sông ngòi hàng năm vào khoảng 850 tỷ m
3
,
tương ứng với mức bảo đảm 2570.10
3
m
3
/km
2
và 12700 m
3
/người.năm, Việt
Nam được xếp vào loại quốc gia có tài nguyên nước dồi dào. Tuy nhiên, lượng
nước đó ẩn chứa nhiều nguy cơ đe dọa tính bền vững. Thứ nhất, trên 60% được
hình thành trên lãnh thổ nước ngoài và chảy vào Việt Nam. Thứ hai, sự phân bố
rất không đều theo thời gian và không gian. Lớp dòng chảy trung bình năm của
các vùng lãnh thổ có thể chênh lệch nhau tới hàng chục lần; lượng dòng chảy
trong 3 – 5 tháng mùa lũ có thể chi
ếm tới 60 – 90% lượng dòng chảy năm. Thứ
ba, tình trạng ô nhiễm nguồn nước dẫn đến sự suy thoái chất lượng nước đang
diễn ra với phạm vi và mức độ đáng lo ngại. Chính vì thế, yêu cầu đánh giá tài
nguyên nước dựa trên những thông tin được cập nhật đầy đủ, chính xác và
những tiến bộ về khoa học và công nghệ luôn được đặt ra cấp thiết.

Đánh giá tài nguyên nước được đị
nh nghĩa là quá trình xác định các nguồn
nước, trữ lượng và chất lượng của nguồn nước để từ đó có thể đánh giá khả năng
khai thác, sử dụng và kiểm soát tài nguyên nước. Đề tài có hai mục tiêu sau:
a) Nghiên cứu xây dựng quy trình kiểm kê, đánh giá tài nguyên nước mặt
cho một vùng lãnh thổ; thử nghiệm áp dụng quy trình đó cho vùng kinh tế Đông
Nam Bộ;
b) Cung cấp luận cứ khoa học cho việc quản lý tổng hợp tài nguyên n
ước,
phục vụ phát triển kinh tế, xã hội và bảo vệ môi trường trong các vùng kinh tế.
Đánh giá tài nguyên nước là một nhiệm vụ hết sức quan trọng, đặc biệt
trong bối cảnh cần tăng cường tính tổng hợp, thống nhất trong quản lý tài
nguyên này. Thông thường, việc đánh giá tài nguyên nước được tiến hành định
kỳ. Ở nước ta, một số chương trình, dự án, việc đánh giá tài nguyên nước đã
đượ
c tiến hành trong thời gian qua, góp phần tích cực vào quá trình phát triển
kinh tế - xã hội chung của đất nước. Tuy vậy, yêu cầu về một quy trình thống
nhất, hợp lý, vừa đảm bảo tính khả thi trong điều kiện nước ta, vừa phản ánh
được việc ứng dụng những tiến bộ về khoa học, công nghệ hiện đại, phục vụ
việc đánh giá tài nguyên nước đối với các vùng kinh tế, các lưu vự
c sông ở nước
ta luôn được đặt ra. Hơn thế nữa, quy trình còn phải từng bước bảo đảm việc cập
2
nhật, bổ sung thông tin, tư liệu, số liệu về tài nguyên nước nhằm nâng cao giá trị
và hiệu quả sử dụng các thông tin, kết quả đánh giá tài nguyên nước của các cơ
quan, đơn vị, cá nhân và toàn thể cộng đồng. Vì thế, vấn đề nghiên cứu của đề
tài, là một vấn đề cần thiết, có ý nghĩa khoa học và thực tiễn.
Đề tài đã kế thừa những kết quả nghiên cứu củ
a Việt Nam và thế giới trong
quá trình thực hiện, đặc biệt là những nội dung công việc đang được các tổ chức

lớn như Ủy ban Nước và Vệ sinh của Liên hợp quốc, Tổ chức nông lương thế
giới, Quỹ Môi trường toàn cầu tiến hành.
Trong quá trình thực hiện, đề tài đã được sự quan tâm, giúp đỡ có hiệu quả
của Vụ Khoa học - Công nghệ, Vụ Kế hoạch - Tài chính; sự
chỉ đạo sát sao của
lãnh đạo Cục Quản lý tài nguyên nước, sự phối hợp chặt chẽ của Viện Khí tượng
Thủy văn, Trung tâm KTTV Quốc gia và các cộng tác viên, các đồng nghiệp.
Tuy nhiên, công tác quản lý tài nguyên nước theo hướng tổng hợp, bền
vững cũng mới được đặt ra thường xuyên, cấp bách hơn trong những năm gần
đây; nhiều vấn đề có liên quan đến việc đánh giá tài nguyên nước còn rất mới
mẻ, phức tạp đối với chủ nhiệm đề tài. Hơn nữa, đây là vấn đề có liên quan đến
nhiều ngành khoa học, nhiều lĩnh vực khác nhau. Với mong muốn đóng góp một
phần kết quả nghiên cứu vào công tác quản lý tài nguyên nước nhưng do khả
năng và hiểu biết của chủ nhiệm đề tài còn hạn chế, các kết quả của đề tài không
thể tránh khỏi những khiếm khuy
ết. Chủ nhiệm đề tài rất mong nhận được
những ý kiến đóng góp quý báu của các nhà khoa học, các nhà quản lý và bạn
bè, đồng nghiệp quan tâm đến vấn đề này.




3
Chương 1
TỔNG QUAN VỀ TÀI NGUYÊN NƯỚC VÀ CÁC VẤN ĐỀ
CÓ LIÊN QUAN ĐẾN ĐÁNH GIÁ TÀI NGUYÊN NƯỚC MẶT
I. TÀI NGUYÊN NƯỚC VÀ VAI TRÒ CỦA TÀI NGUYÊN NƯỚC ĐỐI
VỚI PHÁT TRIỂN KINH TẾ - XÃ HỘI
I.1 Các dạng tài nguyên nước và chu trình của nước trong tự nhiên
Tài nguyên nước: bao gồm các nguồn nước mặt, nước mưa, nước dưới

đất, nước biển. Nguồn nước chỉ các dạng tích tụ nước tự nhiên hoặc nhân tạo có
thể khai thác, sử dụng được, bao gồm sông, suối, kênh, rạch; biển, hồ, đầm, ao;
các tầng chứa n
ước dưới đất; mưa, băng, tuyết và các dạng tích tụ nước khác.
Nước mặt là nước tồn tại trên mặt đất liền hoặc hải đảo. Nước dưới đất (còn
gọi là nước ngầm) là nước tồn tại trong các tầng chứa nước dưới đất.
Trong tự nhiên, nước luôn chuyển động không ngừng theo một chu trình
liên tục, thường được gọi là chu trình thuỷ văn. Ban ngày, do tác động c
ủa các
tia nắng mặt trời, nước tích tụ tại các đại dương, sông, hồ bị nung nóng và bốc
hơi dưới dạng hơi nước. Theo tính toán, khoảng 25% năng lượng mặt trời mà
mặt đất hấp thụ được dành cho quá trình này. Ngoài ra, một lượng nước từ các
tầng đất cung cấp cho sự sinh sống và phát triển của các hệ thực vật được thoát
ra qua lá. Gộp chung lại, quá trình này gọi là quá trình bốc thoát hơi. H
ơi nước
bốc lên không trung, gặp không khí lạnh ở trên cao và tại đây xảy ra quá trình
ngưng tụ – các đám mây được hình thành. Trong những điều kiện nhất định nào
đó, nước ngưng tụ trong các đám mây rơi xuống bề mặt đất hoặc bề mặt biển,
đại dương dưới dạng mưa và tuyết. Quá trình này được gọi là quá trình giáng
thuỷ. Một phần lượng nước mưa rơi trên m
ặt đất hoặc băng tuyết tan lại bốc hơi
trở lại bầu khí quyển, một phần hình thành dòng chảy trên mặt đất, trên hệ
thống kênh rạch, sông suối, qua một thời gian nào đó chảy ra biển. Phần nước
mưa thấm vào đất làm chức năng nuôi sống hệ thực vật hoặc thấm sâu hơn vào
lòng đất tạo thành các túi nước ngầm. Nước ngầm này sau đ
ó lại được đưa lên
mặt đất để sử dụng hoặc là nguồn cung cấp cho sông, hồ và biển.
Tóm lại, có thể nói, chu trình thuỷ văn bao gồm 5 quá trình chính: bốc
thoát hơi, ngưng tụ, giáng thuỷ, thấm và chảy mặt. Trong mỗi quá trình, lại có
rất nhiều những quá trình con xảy ra tuỳ theo những điều kiện cụ thể (Hình 1.1).

Theo kết quả nghiên cứu của một số nhà khoa học [64], lượng nướ
c tham
gia vào chu trình tuần hoàn mỗi năm chỉ chiếm khoảng 0,04% tổng lượng nước
trên địa cầu và cứ 12 ngày sông lại thay nước mới một lần, 9 ngày bầu khí quyển
lại thay hơi nước mới một lần.
Chu trình của nước trong tự nhiên là một chu trình tuần hoàn liên tục, vĩnh
viễn, bất di bất dịch, không ngưng nghỉ.
4

Hình 1.1 Chu trình của nước trong tự nhiên
I.2 Vai trò của nước đối với sự phát triển kinh tế xã hội
“Nước là tài nguyên đặc biệt quan trọng, là thành phần thiết yếu của sự
sống và môi trường, quyết định sự tồn tại, phát triển bền vững của đất nước; mặt
khác nước cũng có thể gây ra tai họa cho con người và môi trường” (Luật Tài
nguyên nước).
Tài nguyên nước đóng vai trò hết sức quan trọng trong việc đáp ứng các
nhu c
ầu thiết yếu của con người như ăn uống, tắm rửa, vệ sinh cá nhân Các
nhu cầu này có liên quan trực tiếp đến sức khỏe của từng người và cả cộng
đồng. Lượng nước cho các nhu cầu này tuy không lớn về mặt số lượng nhưng lại
đòi hỏi rất cao về mặt chất lượng. Hiện nay, sự khan hiếm nước cũng như vấn đề
chất lượ
ng nguồn nước bị suy thoái, ô nhiễm diễn ra ở nhiều nơi trên thế giới.
Chính vì thế, trong Tuyên bố thiên niên kỷ của Liên Hợp Quốc (9/2000) đã đặt
ra mục tiêu đến năm 2015 sẽ giảm một nửa số người không tiếp cận được với
nguồn nước uống an toàn. Nhân lực vừa là đối tượng phục vụ vừa là yếu tố động
lực cho các kế hoạch phát triển kinh t
ế - xã hội của mọi quốc gia. Khi nguồn
nhân lực không bảo đảm sức khỏe thì cũng đồng nghĩa với việc các chương
trình, kế hoạch phát triển khó có khả năng triển khai trong thực tế. Theo tổ chức

y tế thế giới, hàng ngày có khoảng gần 5,5 ngàn người bị thiệt mạng vì các bệnh
liên quan đến tiêu chảy, hầu hết là các trẻ em dưới 5 tuổi. Ngoài ra, hàng năm
bệnh sốt sét cũng c
ướp đi sinh mệnh của hơn 1 triệu người trên toàn thế giới.
Trong một thời gian dài, mối quan hệ khăng khít, có tác động qua lại giữa
tài nguyên nước với môi trường và các hệ sinh thái thủy sinh chưa được quan
tâm phân tích và ứng xử thích hợp. Gần đây, cùng với định hướng phát triển bền
vững, nước được coi là nhân tố chủ yếu để duy trì sự trong lành của môi trường
và để đạt được các mục tiêu b
ảo vệ môi trường. Nhu cầu nước cho môi trường
và các hệ sinh thái, yêu cầu lồng ghép mạnh mẽ các nội dung bảo vệ môi trường
đã được xem xét và nhấn mạnh trong các chiến lược, chương trình, kế hoạch
5
hành động quản lý tổng hợp tài nguyên nước của nhiều quốc gia.
Tài nguyên nước còn có vai trò đặc biệt cho hầu hết các ngành kinh tế - xã
hội ở quy mô và mức độ khác nhau. Công nghiệp là ngành động lực trong phát
triển kinh tế của nhiều nước trong đó có Việt Nam. Chủ trương công nghiệp hóa,
hiện đại hóa đất nước đã được đề ra và triển khai thực hiện mạnh trong những
năm qua. Ngành công nghiệp chiếm tỷ trọ
ng ngày càng cao trong cơ cấu tổng
sản phẩm trong nước của toàn quốc. Để bảo đảm tăng trưởng kinh tế bền vững,
cần phải cung cấp đầy đủ và ổn định năng lượng, trong đó, nước là tài nguyên
then chốt. Tăng trưởng công nghiệp và gia tăng sản xuất năng lượng đều yêu cầu
cần phải có một lượng nước lớn. Hiện nay, theo đánh giá của nhiều chuyên gia,
lượng nước khai thác cho các ngành công nghiệp đang lớn hơn lượng tiêu thụ
thực tế [2,3,25,33]. Lượng nước khai thác, sử dụng này có ảnh hưởng rất lớn đến
số lượng và chất lượng tài nguyên nước. Lượng nước thải từ các hoạt động công
nghiệp không qua xử lý đã và đang là những nguy cơ suy thoái, ô nhiễm nguồn
nước hàng đầu trên thế giới. Ngành nông nghiệp sử dụng nước như một lo
ại

nhiên liệu để sản xuất. Ở nhiều nơi, đây là ngành sử dụng nhiều nước nhất. Việc
đáp ứng nhu cầu lương thực cho dân số ngày càng gia tăng luôn là thách thức
đối với nhiều quốc gia. Trước sức ép về tăng năng suất, việc sử dụng phân bón,
thuốc trừ sâu và các loại hóa chất trong ngành nông nghiệp đã trở nên phổ biến
và không được kiểm soát chặt chẽ. Do v
ậy, nguy cơ ô nhiễm nguồn nước do các
hoạt động sản xuất nông nghiệp là rất lớn. Cùng với nông nghiệp, ngành thủy
sản cũng là ngành dùng nhiều nước và gây ra nguy cơ ô nhiễm cao. Tại những
nơi có tiềm năng về du lịch và dịch vụ, các ngành này được phát triển mạnh mẽ.
Du lịch và dịch vụ sử dụng nước để duy trì sức hấp dẫn của các điểm du lịch và
b
ản thân du khách. Ở Việt Nam, hầu hết các danh lam, thắng cảnh nổi tiếng đều
gắn liền với nước. Hiện nay, loại hình du lịch sinh thái đang được phát triển
mạnh ở nước ta và nước là một trong những yếu tố quyết định sự thành công đối
với loại hình du lịch này. Giao thông vận tải thủy là ngành kinh tế sử dụng tài
nguyên nước. Với điều kiện sông suối phát triển, nhấ
t là ở hai vùng đồng bằng
sông Hồng và sông Cửu Long, nước ta có điều kiện thuận lợi để phát triển giao
thông vận tải thủy.
Tóm lại, nước đóng vai trò hết sức quan trọng trong mọi hoạt động của đời
sống xã hội và là động lực cho quá trình phát triển kinh tế. Ngày nay, con người
đã thừa nhận mối quan hệ mật thiết giữa số lượng, chất lượng và thuộc tính phân
bố
theo không gian, thời gian của tài nguyên nước với các chỉ tiêu phát triển
kinh tế - xã hội của quốc gia. Đặc biệt, kết quả của nhiều nghiên cứu đã chỉ ra
rằng tính bền vững của các thành công trong việc xóa đói giảm nghèo tại các
nước đang phát triển phụ thuộc nhiều vào tiềm năng nguồn nước cũng như
phương thức quản lý tài nguyên nước tại các nước đó.
I.3 Nhận thứ
c của con người về tài nguyên nước và mối quan hệ với đánh

giá tài nguyên nước
Tài nguyên nước có tầm quan trọng đặc biệt như vậy nhưng cũng giống
như một quá trình nhận thức bất kỳ, con người đã và đang cần phải hoàn chỉnh
6
hơn nhận thức của mình về tài nguyên nước. Trước đây (và ngay cả hiện nay tại
nhiều nơi trên thế giới), người ta vẫn cho rằng nước là món quà vô tận của tạo
hóa, của chúa trời ban cho loài người, ai cũng có quyền sở hữu, chiếm dụng, sử
dụng, khai thác món quà đó. Sau một thời gian dài, khi nhu cầu khai thác, sử
dụng tài nguyên nước tăng cao, tới mức cạnh tranh nhau; khi tài nguyên nước
không được bảo vệ
, bồi phụ, chất lượng nguồn nước suy giảm nhanh chóng và
không thể sử dụng được nữa, nhận thức về tài nguyên nước của con người đã có
những thay đổi nhất định. Có thể nói, ngày nay con người đã nhận thức rõ ràng
và đầy đủ hơn bao giờ hết vai trò và giá trị của tài nguyên nước, đó là:
- Nước là một tài nguyên vô cùng thiết yếu và quan trọng của con người
mà không một tài nguyên nào khác có thể thay thế đượ
c.
- Tài nguyên nước không phải vô hạn mà là hữu hạn, thậm chí ở mức khan
hiếm đối với một số nơi. Tính hữu hạn của tài nguyên nước thể hiện rõ nhất đối
với nguồn nước sạch mà con người có thể tiếp cận và khai thác, sử dụng. Lượng
nước này chỉ chiếm một phần rất nhỏ lượng nước trên trái đất; nếu sử dụng một
cách lãng phí hoặ
c quá mức thì sẽ bị suy giảm và cạn kiệt. Lúc đó, con người sẽ
không tránh khỏi phải đối mặt với tình trạng thiếu nước cho sự tồn tại và phát
triển của chính mình.
- Nước là một tài nguyên có thể tái tạo, tuy nhiên quá trình tái tạo là một
quá trình tự nhiên phức tạp, phụ thuộc vào rất nhiều yếu tố khác nhau. Khả năng
tái tạo của nguồn nước có thể bị suy giảm nhanh chóng và dẫn đế
n việc nguồn
nước bị cạn kiệt nếu con người không khai thác, sử dụng hợp lý, không chú ý

bảo vệ các yếu tố tự nhiên và môi trường liên quan đến khả năng tái tạo của
nguồn nước.
- Cũng giống như bất kỳ một tài nguyên nào khác, nước là một tài nguyên
có giá trị kinh tế trong tất cả các các hình thức khai thác, sử dụng và vì thế khi
khai thác, sử dụng phải phát huy giá trị kinh tế của tài nguyên nước, trên c
ơ sở
bảo đảm hiệu quả tổng hợp cao nhất về kinh tế - xã hội và môi trường. Nói cách
khác, phải đánh giá đúng giá trị của tài nguyên nước và có những cơ chế, chính
sách phù hợp, thực sự coi nước là hàng hoá, có thể mua bán, trao đổi hay áp
dụng những quy tắc thương mại như bất kỳ một loại hàng hoá nào khác.
Các nhận thức đúng đắn, phù hợp như trên về tài nguyên nước đóng vai trò
hế
t sức quan trọng đối với việc đánh giá tài nguyên nước. Nếu như trước kia,
trong rất nhiều trường hợp, đánh giá tài nguyên nước là một nhiệm vụ xuất phát
từ các yêu cầu nghiên cứu khoa học hay giảng dạy thì hiện nay, việc đánh giá tài
nguyên nước là một nhiệm vụ nhằm đáp ứng mối quan tâm của cộng đồng và
toàn xã hội. Mọi cá nhân, mọi cộng đồng hay mọi hộ khai thác, sử d
ụng tài
nguyên nước đều muốn biết được thông tin như “chúng ta có bao nhiêu nước?”
“chất lượng nước thế nào?” Đây chính là những đòi hỏi từ thực tế cuộc sống,
từ thực tiễn của quá trình phát triển, là “đầu bài” quan trọng, thiết yếu cho việc
đánh giá tài nguyên nước và cũng chính là yếu tố bảo đảm sự thành công của
các chương trình, dự án đánh giá tài nguyên nước.
7
II. TỔNG QUAN VỀ ĐÁNH GIÁ TÀI NGUYÊN NƯỚC
II.1 Khái niệm chung về đánh giá tài nguyên nước
Đánh giá tài nguyên nước bao gồm việc xác định vị trí các nguồn nước,
phạm vi, diễn biến theo không gian, thời gian của các đặc trưng về số lượng và
chất lượng của nguồn nước; các yếu tố tự nhiên và các hoạt động của con người
có ảnh hưởng đến số lượng, chất lượng các nguồn nước này. Kết qu

ả đánh giá
tài nguyên nước là cơ sở thực tiễn quan trọng cho việc quản lý tài nguyên nước
và là điều kiện tiên quyết để đánh giá khả năng khai thác, sử dụng và phát triển
nguồn nước.
Trong nhiều chương trình, dự án đánh giá tài nguyên nước đã thực hiện
trên thế giới và ở Việt Nam, việc đánh giá tài nguyên nước bao gồm đánh giá số
lượng, trữ lượng tài nguyên và đánh giá hiện trạ
ng khai thác, sử dụng tài nguyên
nước . Hai nội dung đánh giá này thực chất có quan hệ chặt chẽ với nhau và hiện
đang có nhiều ý kiến còn khác nhau.
II.2 Một số công trình đánh giá tài nguyên nước
Kiểm kê đánh giá tài nguyên nước là nhiệm vụ cơ bản của bất cứ một tổ
chức, cơ quan quản lý tài nguyên nước của bất kỳ quốc gia nào nên khó có thể
kể ra đây các nghiên cứu, đánh giá về tài nguyên nước. Sau đây là mộ
t số công
trình, báo cáo tiêu biểu gần đây về vấn đề này.
II.2.1 Các công trình ngoài nước
- Công trình “Đánh giá tài nguyên nước và tiềm năng nước sử dụng được
trên thế giới” (Assessment of Water Resources and Water Availability in the
World) thuộc chương trình “Đánh giá toàn diện tài nguyên nước ngọt của thế
giới” (Comprehensive Assessment of the freshwater resources of the world) do
giáo sư I. A. Shiklomanov, Viện Thuỷ văn Liên bang Nga thực hiện năm 1997.
Chương trình do một loạt các tổ chức quốc tế tài trợ: Liên hợp quốc (UN),
Chương trình phát triển của Liên hợp quốc (UNDP), Chương trình môi trường
của Liên hợp quốc (UNEP), Tổ chức Nông lương Quốc tế (FAO), Tổ chức Giáo
dục, Khoa học và Văn hoá của Liên hợp quốc (UNESCO), Tổ chức Khí tượng
thế giới (WMO), Ngân hàng thế giới (World Bank), Tổ chức Y tế thế giới
(WHO), Tổ chức Phát triển công nghiệp của Liên hợp quốc (UNIDO). Công
trình đã điểm lại các công trình nghiên cứu đ
ánh giá tài nguyên nước trên thế

giới của các tác giả khác nhau, đưa ra các kết quả về tổng lượng nước tích trữ và
chu trình nước trên thế giới. Dựa trên số liệu quan trắc của 2400 trạm khí tượng
thuỷ văn với thời gian quan trắc từ 5 đến 178 năm trên toàn thế giới, tác giả đã
đưa ra đánh giá về mặt tổng lượng nước trên trái đất, hệ số biến động của tổ
ng
lượng nước cũng như tiềm năng nước sẵn có theo các lục địa. Công trình cũng
đưa ra các dạng phân bố trong năm, xu thế biến đổi của tổng lượng tài nguyên
nước trong thời kỳ nhiều năm của một số khu vực và lưu vực điển hình. Công
trình đã tiến hành đánh giá sơ bộ về chất lượng của tài nguyên nước trên thế
giới, tình hình ô nhiễm nguồn n
ước cũng như tác động đi theo sự suy thoái của
chất lượng nước. Cũng từ kết quả của công trình này, tác giả đã xuất bản bài viết
8
“Appraisal and Assessment of World Water Resources” đăng trên chuyên khảo
“Water International” (Tập 25, số 1, Trang 11-32, ra tháng 3 năm 2000) do Hội
Tài nguyên nước quốc tế (International Water Resources Association) ấn bản.
Bài báo đã nêu lên mục tiêu của việc đánh giá tài nguyên nước:
Đánh giá tài
nguyên nước có thể sử dụng được bao gồm việc khảo sát, phát hiện các nguồn
nước, kiểm kê chế độ của dòng chảy sông ngòi (bao gồm chế độ trong năm và
nhiều năm), và đánh giá chất lượng nước, làm cơ sở xác định khả năng sử dụng
và bảo vệ nguồn nước.
- Năm 1987, Cục Thuỷ văn, Bộ Thuỷ lợi điện l
ực Trung Quốc đã xuất bản
công trình “Đánh giá tài nguyên nước nước Cộng hoà Nhân dân Trung Hoa”
(dựa trên chuỗi số liệu quan trắc từ 1956 đến 1979. Công trình do tập thể các
cán bộ của Cục Thuỷ văn, Viện Nghiên cứu Khoa học thuỷ lợi thuỷ điện, Sở
Nghiên cứu Thuỷ văn – Tài nguyên nước Nam Kinh cùng rất nhiều chi cục, sở
thuỷ văn, thuỷ lợi ở các tỉnh thuộc Bộ Thu
ỷ lợi điện lực Trung Quốc tiến hành.

Sau khi tính toán lượng mưa, lượng dòng chảy cho 26 hệ thống sông chính của
Trung Quốc, công trình đã tiến hành xây dựng một loạt các bản đồ đẳng trị các
đặc trưng tài nguyên nước như mưa, dòng chảy, hoá nước sông cho toàn lãnh
thổ rộng lớn với chế độ thuỷ văn cực kỳ đa dạng và phức tạp của Trung Quốc.
Công trình cũng đ
ã tính toán và đưa ra các bản đồ phân khu tài nguyên nước
(nước mặt và nước ngầm) theo cả số lượng và chất lượng, tính toán các thành
phần cán cân nước cũng như đưa ra các kết quả về mức cung cấp nước tiềm
năng của Trung Quốc tính theo đầu người.
- Tại Liên Xô (cũ), việc đánh giá tài nguyên nước luôn có ưu tiên cao trong
lĩnh vực tài nguyên nước. Hệ thống văn bản quy phạm pháp luật của Liên Xô
(cũ) quy
định phải xây dựng một hệ thống kiểm toán nước thống nhất trên toàn
liên bang. Các cơ quan có liên quan đến đánh giá có thể kể đến là Cơ quan
kiểm toán nước và sử dụng nước liên bang (State Water and Water Use
Accounting - SWWUA), Cơ quan điều tra liên bang về quan trắc và giám sát
ô nhiễm môi trường (State-wide Survey of Observations and Control of
Environment Pollution - SSOCEP), Cơ quan “thủy chính” liên bang (State
Water Cadastre - SWC) Tại Liên Xô (cũ) cũng là nơi đã tiến hành nhiều
chương trình đánh giá tài nguyên nước trong thực tế; các nghiên c
ứu cơ bản về
thủy văn - tài nguyên nước và phương pháp luận đánh giá tài nguyên nước đã
được chú trọng đầu tư và phát triển mạnh.
- Ở Mỹ, việc đánh giá tài nguyên nước không những chỉ thể hiện ở những
công trình nghiên cứu và còn cụ thể hoá bằng các đạo luật. Năm 2001, Hội đồng
Nghiên cứu quốc gia Mỹ đã đưa ra một thông điệp chỉ rõ việc cung cấ
p đủ nước
đảm bảo chất lượng là thách thức lớn của nước Mỹ trong thế kỷ 21. Đạo luật
Quy hoạch Tài nguyên nước của Mỹ năm 1965 đã tiến tới việc thành lập Hội
đồng nước Quốc gia. Năm 1968, Hội đồng đã đưa ra đánh giá tài nguyên nước

lần thứ nhất và lần thứ hai vào năm 1978. Sau đó, Hội đồng giải thể vào đầu
những năm 1980 và từ 1984, Cơ quan điều tra địa chất (U.S Geological
Survey) thuộc Bộ Nội vụ Mỹ đã liên tiếp tiến hành đánh giá tài nguyên nước
9
theo các khía cạnh chuyên sâu như lượng nước, chất nước, sử dụng nước
thông qua một chương trình “Tóm tắt về nguồn nước quốc gia” (National Water
Summary). Chương trình tiến hành đánh giá tài nguyên nước trên toàn nước Mỹ
và theo các bang, kết thúc vài năm 1991. Hiện nay, hai chương trình lớn đang
được tiến hành là chương trình Chất lượng nước và chương trình Thông tin.
- Trên cơ sở đề xuất của Ủy ban phát triển bền vững (CSD) về việc hệ
th
ống các cơ quan thuộc Liên hợp quốc cần định kỳ đưa ra “Báo cáo phát triển
nước trên thế giới” và Tuyên bố cấp Bộ trưởng tại diễn đàn nước thế giới tổ
chức ở Hague vào 3/2000, Chương trình đánh giá nước thế giới (World Water
Assessment Program) đã được tiến hành. Chương trình có các nhiệm vụ: (1) Xác
định và mô tả bản chất các khủng hoảng về nước; (2) Đánh giá khả năng giả
i
quyết/ứng phó của xã hội; (3) Đánh giá hiệu quả của hệ thống chính sách; (4)
Xây dựng các chỉ tiêu giám sát, báo cáo tiến độ theo mục tiêu đề ra; (5) Nâng
cao năng lực của các quốc gia trong việc thực hiện chương trình. Chương trình
có mục tiêu:
• Xây dựng và tăng cường năng lực về việc đánh giá và báo cáo trong lĩnh
vực tài nguyên nước;
• Tiếp tục xây dựng sự phối hợp lâu dài trong hệ thố
ng các cơ quan của
Liên hợp quốc;
• Tạo ra cơ sở tri thức về tài nguyên nước;
• Hình thành tập chỉ tiêu cần thiết cho việc đánh giá tài nguyên nước.
Chương trình tiến hành đánh giá hiện trạng tài nguyên nước trong tự nhiên,
bao gồm nước mặt, ẩm trong đất và nước dưới đất. Các đặc trưng được đánh giá

bao gồm số lượng và chất lượng tài nguyên nước, biến động theo thời gian,
không gian, độ tin cậy của các đặc trưng tài nguyên nước, xu thế trong nhiều
năm và các cực trị về tài nguyên nước (lũ, kiệt ). Chương trình cũng đánh giá
việc khai thác, sử dụng tài nguyên nước theo các nhóm mục đích dùng nước
như: nước cho môi trường tự nhiên, nước để đảm bảo an ninh lương thực, nước
cho cuộc sống và sức khỏe, nước cho công nghiệp, nước cho sản xuất năng
lượng Hiệ
n nay, chương trình đang tiến hành xây dựng và hoàn thiện bộ chỉ
tiêu cho các công việc đánh giá cụ thể.
- Công trình “Đánh giá nước quốc tế trên phạm vi toàn cầu” (GIWA -
Global International Water Assessment) do UNEP, GEP và Trường Đại học
Kalmar (Thụy Điển) tiến hành. Mục tiêu tổng quát của dự án GIWA là “thực
hiện việc đánh giá toàn diện có tính chiến lược phục vụ cơ quan hỗ trợ môi
trường toàn cầu (GEF) và các cơ quan liên quan xác định thứ tự
ưu tiên cho các
hoạt động hồi phục và giảm nhẹ thiệt hại đối với các vật thể nước quốc tế/liên
quốc gia nhằm đạt được những lợi ích môi trường thiết yếu ở cấp quốc gia, vùng
và toàn cầu”. Việc đánh giá sẽ tính đến “các kịch bản về điều kiện trong tương
lai, dựa trên cơ sở những dự báo về sự thay đổi dân số
, kinh tế, xã hội liên quan
đến quá trình phát triển của loài người”. Giai đoạn 1 của dự án có hai phần
chính: (1) Xác định khu vực của các hệ thủy sinh sẽ tiến hành điều tra, khảo sát
trong mỗi 66 tiểu vùng trên toàn thế giới; (2) Trên cơ sở đánh giá sơ bộ, xác
10
định các ảnh hưởng, tác động cơ bản cần được thứ tự ưu tiên xem xét, đánh giá
trong các giai đoạn tiếp theo của dự án. Giai đoạn 2: Bao gồm việc phân tích chi
tiết các ảnh hưởng đã được xác định trong giai đoạn 1. Giai đoạn 3: Giai đoạn
cuối cùng sử dụng các thông tin đã thu nhận được ở giai đoạn 2 để xác định các
nguyên nhân gốc gây ra tác động. Dự án đã đư
a ra ma trận cho điểm theo các

tiêu chí đánh giá của dự án gồm 3 trạng thái là tác động gia tăng, tác động không
thay đổi và tác động được giảm đi. Mức độ của các tác động tài nguyên nước
theo các phương diện khác nhau được chia làm 4 mức: Tác động nghiêm trọng,
tác động trung bình, tác động nhẹ và không có/không nhận biết được tác động.
II.2.2 Một số công trình trong nước
- Năm 1976, Cục Thủy văn thuộc Bộ Thủy lợi đã hoàn thành vi
ệc phân
chia lưu vực và kiểm kê sông suối trên nền bản đồ 1:100.000 và 1:500.000 và
xuất bản tài liệu “Đặc trưng hình thái lưu vực sông Việt Nam” tập I cho 1266
sông suối thuộc miền Bắc (đến hệ thống sông Kiến Giang) và 13 phân lưu có
chiều dài từ 10 km trở lên có nước chảy thường xuyên. Sau khi có những thay
đổi về tổ chức, đến năm 1985, Viện Khí tượng Thủy văn thuộc Tổng cục Khí
tượng Thủy v
ăn đã hoàn thành việc xác định các đặc trưng hình thái cho các lưu
vực sông miền Nam và xuất bản tài liệu “Đặc trưng hình thái lưu vực sông Việt
Nam” chung cho cả nước. Theo tài liệu này, 2.360 con sông đã được kiểm kê và
xác định các đặc trưng hình thái bao gồm các chỉ tiêu: Tên sông, Tên sông, hồ
hoặc biển mà sông được kiểm kê đổ vào, khoảng cách từ cửa phụ lưu đến cửa
sông chính, vị trí nguồn sông, vị trí cửa sông, độ cao nguồn sông, chiều dài
sông, chiều dài lưu vực, diện tích hứng nước, diện tích giữa hai phụ lưu liên tiếp,
độ cao bình quân lưu vực, độ dốc bình quân lưu vực, chiều rộng bình quân lưu
vực, mật độ lưới sông, hệ số phát triển đường phân nước, hệ số không đối xứng,
hệ số không cần lưới sông, hệ số hình dạng, hệ số uốn khúc.
- Từ năm 1981, GS. TS. Ngô Đình Tuấn
với đề tài nghiên cứu độc lập cấp
nhà nước “Đánh giá nguồn nước mặt lãnh thổ Việt Nam” (mã số 06-03-01-04).
Các kết quả nghiên cứu của đề tài này đã được công bố năm 1984 đối với phần
các tỉnh phía Bắc, năm 1986 đối với các tỉnh ven biển miền Trung, năm 1987
đối với các tỉnh vùng Tây Nguyên và Nam Bộ. Theo các kết quả này, tài nguyên
nước lãnh thổ Việt Nam là 830 tỷ m

3
, trong đó phần từ nước ngoài chảy vào
Việt Nam là 520 tỷ m
3
, chiếm xấp xỉ 63% so với tổng lượng nước. Đề tài dựa
trên chuỗi số liệu đến năm 1983 đối với các tỉnh phía Bắc, đến năm 1985 đối với
các tỉnh phía Nam. Đề tài này đã đưa ra phương pháp luận và phương pháp xây
dựng hệ thống phân vùng, phân kiểu thủy văn - tài nguyên nước rõ ràng, mạch
lạc và chi tiết. Đề tài đã áp dụng cơ sở lý thuyết đó để phân vùng thủy v
ăn và
đánh giá tài nguyên nước mặt theo vùng, miền trên toàn lãnh thổ Việt Nam [40].
- Chương trình tiến bộ khoa học kỹ thuật trọng điểm cấp nhà nước “Đánh
giá tài nguyên và điều kiện thiên nhiên về khí tượng thuỷ văn phục vụ sản xuất
và quốc phòng, trọng tâm là sản xuất nông nghiệp”, mã số 42A được thực hiện
trong kế hoạch 1986 – 1990 do GS. Nguyễn Viết Phổ làm chủ nhiệm chương
trình. Chươ
ng trình đã đúc kết các số liệu nhiều năm, xây dựng bản đồ khí hậu,
11
thuỷ văn, khí tượng thuỷ văn biển. Chuỗi số liệu đến năm 1985 được sử dụng để
đánh giá tài nguyên và điều kiện thiên nhiên về khí tượng thủy văn. Có thể nói,
đây là công trình đầu tiên về đánh giá tài nguyên nước được thực hiện sau khi
đất nước thống nhất. Các số liệu, tư liệu, kết quả điều tra cơ bản đã được hệ
thố
ng hoá và xử lý thích đáng trước khi đưa vào tính toán, đánh giá. Kết quả của
chương trình đã phục vụ có hiệu quả cho các chương trình phát triển kinh tế
cũng như nhiều hoạt động nghiên cứu ở nước ta trong những năm qua.
- Công trình nghiên cứu về “Dòng chảy sông ngòi Việt Nam” do PGS. TS.
Phạm Quang Hạnh chủ trì thực hiện năm 1984 với các nội dung chính bao
gồm: Điều kiện hình thành dòng chảy sông ngòi Việt Nam; nguồn nướ
c sông

ngòi; các loại dòng chảy của sông ngòi Việt Nam; phân vùng thủy văn. Công
trình cũng đã đề cập đến vấn đề sử dụng dòng chảy sông ngòi trong khí hậu
nhiệt đới gió mùa Việt Nam.
- Chương trình Nghiên cứu khoa học công nghệ cấp Nhà nước “Cân bằng
bảo vệ và sử dụng có hiệu quả nguồn nước quốc gia” do TS. Nguyễn Trọng
Sinh, Viện Quy hoạch Thuỷ lợi, Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn tiến
hành từ 1991 đến 1995. Đề tài đã tiến hành đánh giá và tính toán cân bằng nước
cho 6 vùng lãnh thổ và toàn quốc cũng như đưa ra các khuyến cáo, giải pháp để
sử dụng có hiệu quả nguồn nước quốc gia. Đây là một chương trình mang tính
tổng hợp, vừa mang tính khoa học, tính kinh tế vĩ mô, tính kinh tế chuyên
ngành, tính xã hội nhân văn đồng thời cũng mang tính tổ chức quản lý ở mức độ
cao. Các nội dung khoa học của chươ
ng trình khá phong phú, từ khía cạnh tổ
chức pháp lý, nghiên cứu cơ chế kinh tế đến nghiên cứu các giải pháp khoa học.
Về nghiên cứu cân bằng nước, chương trình đã tiến hành kiểm kê, chỉnh lý, phân
tích, đồng nhất hoá các đặc trưng tài nguyên nước mặt, tài nguyên nước dưới
đất; đã xác định nhu cầu dùng nước theo những đối tượng dùng nước chính trên
lãnh thổ Việt Nam; đã tiến hành cân bằng giữa khả năng và yêu cầu dùng nước
trong các giai đoạn phát triển. Chương trình sử dụng chuỗi số 1960 – 1990 để
tính toán, đánh giá.
- PGS. TS. Trần Thanh Xuân (2000) với đề tài nghiên cứu cơ bản
“Nghiên cứu quy luật biến đổi trong thời kỳ nhiều năm của đặc trưng dòng chảy
năm của sông ngòi Việt Nam” đã dựa trên chuỗi số liệu dòng chảy trung bình
năm của các sông chính trên toàn lãnh thổ Việt Nam, tiến hành phân tích, tổng
hợp và khái quát hoá nhằm đưa ra quy luậ
t biến đổi trong thời kỳ nhiều năm của
đặc trưng dòng chảy năm.
- Báo cáo “Đánh giá tổng quan ngành thuỷ lợi” do Ngân hàng Thế giới,
ngân hàng châu Á, FAO, UNDP, NGO phối hợp cùng với các nhóm nghiên
cứu về Tài nguyên nước và chính phủ Việt Nam thực hiện (1996). Báo cáo đã

đưa ra đánh giá tổng quan về tài nguyên nước của Việt Nam theo số liệu đến
năm 1990 cả về lượng và chất nước. Báo cáo cũng đã đánh giá tài nguyên n
ước
theo các ngành dùng nước khác nhau cùng với những vấn đề chính trong công
tác quản lý đối với ngành đó. Ví dụ, nước trong nông nghiệp và các hệ thống
kiểm soát, điều khiển; Cấp nước cho sinh hoạt và công nghiệp và vấn đề xử lý
12
nước thải; Quản lý lũ lụt; Thuỷ năng và vấn đề quản lý các hồ chứa đa mục tiêu.
Vấn đề quản lý tài nguyên nước thông qua cơ cấu tổ chức và tài chính cũng như
đầu tư vào ngành nước đã được trình bày với một cấu trúc mạch lạc trong báo
cáo. Xuất phát từ những kinh nghiệm của thế giới về quản lý nước, bố trí tổ
chức các cơ quan quả
n lý và nghiên cứu về tài nguyên nước, lập các kế hoạch,
quy hoạch quốc gia đến những vấn đề đầu tư theo các ngành dùng nước. Phần
cuối của báo cáo đề xuất các hoạt động cụ thể để cải tiến công tác quy hoạch và
quản lý nước của Việt Nam.
III. NỘI DUNG NGHIÊN CỨU CỦA ĐỀ TÀI
III.1 Một số vấn đề chung trong công tác đánh giá tài nguyên nước
Từ các nội dung được trình bày ở phần trên cho th
ấy, việc kiểm kê nguồn
nước, đánh giá diễn biến tài nguyên nước cho một khu vực nào đó là một việc
làm cần thiết, có tính chất định kỳ, đã được đề cập qua một số công trình nghiên
cứu của các tác giả.
Các kết quả của các công trình này đã được sử dụng có hiệu quả trong các
chiến lược, định hướng phát triển kinh tế, xã hội của các quốc gia, góp phần thúc
đẩy phát tri
ển bền vững toàn cầu. Những thành tựu đạt được trong thời gian vừa
qua của Việt Nam, đặc biệt là thành quả đầu tư các công trình phát triển tài
nguyên nước trọng điểm đã phần nào nói lên ý nghĩa và tác dụng của các kết quả
đó.

Tuy nhiên, một số vấn đề chính về mặt khoa học và công nghệ của các
công trình đánh giá tài nguyên nước đã thực hiện có thể tóm tắt như sau:
- Về vi
ệc phân tách đánh giá tài nguyên nước mặt và tài nguyên nước dưới
đất. Trước hết, cần thống nhất khái niệm “tài nguyên nước” khi nói về đánh giá
tài nguyên nước. Nhìn chung, trong các công trình đã nêu, khái niệm “tài
nguyên nước” được hiểu là phần nước trong chu trình tuần hoàn của nước trong
tự nhiên chảy trong sông ngòi và ngấm xuống các tầng nước dưới đất [49]. Tức
là được phân ra làm tài nguyên nước mặt và tài nguyên nước dưới đất. Đối với
nhiều quốc gia, vấn đề
đầu tiên được đặt ra là xác định loại hình nguồn nước nào
sẽ được đánh giá. Tại các quốc gia hiếm nước, “lượng nước không tái tạo được”
(lượng nước có trong các tầng chứa nước có mức độ bổ cập không đáng kể)
chính là lượng nước sẵn có để phục vụ các yêu cầu khai thác, sử dụng và chiếm
phần đáng kể so với lượng nước “tái tạo được” (như nướ
c sông). Các dạng tài
nguyên nước không mang tính thông thường như lượng nước thải được tái sử
dụng hay nước đã được khử mặn cũng đóng vai trò quan trọng tại các quốc gia
này. Chính vì thế, việc đánh giá tài nguyên nước mặt ở đây, nhất là trên cơ sở
vòng tuần hoàn nước, sẽ chỉ được thực hiện trong một số ít các công việc thực tế
của lĩnh vực tài nguyên nước, mà chủ yế
u tập trung vào nước ngầm, nước tái sử
dụng hoặc nước đã qua xử lý. Việc phân tách nước mặt và nước dưới đất thường
dẫn đến kết quả đánh giá thiên lớn trong đánh giá tài nguyên nước cho một vùng
nào đó. Nguyên nhân chính ở đây là việc xác định các biên đánh giá (giới hạn
không gian của vùng đánh giá). Thông thường, lưu vực sông và lưu vực nước
13
ngầm được coi là trùng nhau nhưng thực tế thì ít khi xảy ra trường hợp này.
- Về việc phân tách đánh giá tài nguyên và đánh giá tình hình khai thác, sử
dụng: Trong một lưu vực sông, rõ ràng có hiện tượng: lượng nước đã qua khai

thác, sử dụng của các đối tượng ở thượng lưu, sau khi hồi quy về sông lại trở
thành tài nguyên để các đối tượng ở hạ du khai thác, sử dụng. Vì vậy, yêu cầu
phân tách rõ ràng giữa đánh giá tài nguyên và đánh giá việc khai thác, sử
dụng
nước nhiều khi sẽ không khả thi. Ngay trong đánh giá việc khai thác, sử dụng
nhiều nhà nghiên cứu cũng đã phân ra loại hình sử dụng tiêu hao (consumptive
use) và loại hình sử dụng không tiêu hao (non-consumptive use), sử dụng “nội
dòng/trong, trên sông” (in-stream use) và sử dụng “ngoại dòng/ngoài sông” (off-
stream use) Tỷ lệ tiêu hao nước cũng thay đổi rất mạnh theo các ngành. Ví dụ,
ngành nông nghiệp có thể tiêu hao 60 - 90 % lượng nước lấy từ nguồn, trong khi
đó, một số ngành công nghiệp chỉ tiêu hao 5%. Vấn
đề chất lượng nước của
phần nước hồi quy về nguồn cũng chưa được nghiên cứu, giải quyết một cách
hợp lý. Do vậy, việc phân tách này cũng chỉ mang tính tương đối ở một mức độ
nào đó.
- Đối với các nước đang phát triển, việc tiếp cận và triển khai ứng dụng các
kỹ thuật, công nghệ hiện đại để thu thập và quản lý thông tin, s
ố liệu về tài
nguyên nước phục vụ công tác đánh giá tài nguyên nước gặp rất nhiều khó khăn.
III.2 Sự cần thiết xây dựng quy trình đánh giá tài nguyên nước mặt
Tại Việt Nam, việc đánh giá tài nguyên nước bộc lộ một số bất cập sau đây:
- Các kết quả đánh giá tài nguyên nước có sự chênh lệch về tổng lượng
nước giữa các công trình đánh giá, một số đặc trưng về phân b
ố tổng lượng nước
theo không gian và thời gian. Nguyên nhân có thể do chuỗi số liệu sử dụng khác
nhau, đặc biệt là độ dài chuỗi số liệu sử dụng và các đặc trưng hình thái của các
lưu vực sông miền Bắc và miền Nam; phương pháp đánh giá cũng khác nhau,
thiếu nhất quán, đồng bộ, thống nhất.
- Việc đánh giá tài nguyên nước thường tách rời nước mặt và nước dưới
đất; chưa có sự k

ết hợp chặt chẽ, tạo ra thông tin đánh giá tổng hợp về tài
nguyên nước cho một vùng, một lưu vực nào đó.
- Chưa tiến hành đánh giá tài nguyên nước của các hồ chứa (tự nhiên và
nhân tạo), các vùng đất ngập nước.
- Số liệu điều tra, khảo sát về chất lượng nước vừa thiếu lại rất phân tán, do
nhiều cơ quan tiến hành với các phương pháp khác nhau.
- Cho đến hiện nay, chư
a xây dựng một cơ sở dữ liệu quốc gia về tài
nguyên nước. Các thông tin tài liệu được lưu trữ phân tán, chưa được hệ thống
hóa và thống nhất quản lý.
- Chưa đánh giá được đầy đủ, toàn diện các tác động của hoạt động kinh tế
- xã hội đến số lượng và chất lượng tài nguyên nước và trên cơ sở đó đưa ra các
giải pháp khai thác, sử dụng và bảo vệ tài nguyên nướ
c trong các lưu vực sông,
vùng lãnh thổ.
14
Một trong những nguyên nhân chính của tình trạng trên là công tác quản lý
tài nguyên nước theo hướng tổng hợp và thống nhất chưa được quan tâm đầy đủ
trong một thời gian dài. Các chính sách quản lý tài nguyên nước còn bị ảnh
hưởng mạnh bởi lợi ích của ngành, dẫn đến tình trạng cục bộ, phân tán; quản lý
nhà nước về tài nguyên nước cũng mới chỉ bước đầu được phân tách ra khỏi
quản lý các dịch vụ cung ứng nước. Hiệ
n nay, ở tầm quốc gia, còn thiếu những
quy định cụ thể cho công tác đánh giá tài nguyên nước. Thực tế, nhiều công
trình đánh giá tài nguyên nước được tiến hành theo những mục tiêu độc lập,
thiếu sự thống nhất trong phương pháp tiến hành. Chính vì thế, các kết quả đánh
giá khó có thể so sánh được với nhau và do vậy khả năng kế thừa, hoàn chỉnh
thêm của các kết quả này còn hạn chế. Nhằm góp phần từ
ng bước khắc phục
những bất cập trên đây, việc xây dựng một quy trình đánh giá tài nguyên nước,

trong đó đề cập các bước tiến hành và phương pháp sử dụng cho mỗi bước là hết
sức cần thiết.
III.3 Phạm vi và các nội dung nghiên cứu của đề tài
Trong tất cả các công trình, dự án đánh giá tài nguyên nước đã được nêu ở
phần trên đều cho thấy: Khi các mục tiêu đánh giá tài nguyên nước của chương
trình, dự án khác nhau, các nội dung và sản phẩm của việc đánh giá sẽ khác
nhau. Trong khuôn khổ đề tài nhằm hướng tới việc xây dựng một quy trình để
kiểm kê, đánh giá tài nguyên nước mặt cho một vùng lãnh thổ; cung cấp luận cứ
khoa học cho việc quản lý tổng hợp tài nguyên nước, mục tiêu của việc đánh giá
tài nguyên nước được xác định là: Nắm được hiện trạng và những diễn biến về
số
lượng, chất lượng của tài nguyên nước. Thực ra đây là một mục tiêu chung
nhưng để có thể chi tiết, cụ thể hóa được các nội dung đánh giá và trên cơ sở đó
xây dựng quy trình đánh giá thì trước hết cần phải thống nhất về mục tiêu đánh
giá tài nguyên nước.
Đối tượng cụ thể của việc đánh giá được đề tài đề cập là nước mặt, bao
gồm nước m
ưa, nước sông, kể cả các hồ chứa trên sông. Phạm vi không gian cụ
thể là một vùng kinh tế.
“Quy trình” được hiểu là “trình tự phải tuân theo để tiến hành một công
việc nào đó” (Theo Từ điển Tiếng Việt của Viện Ngôn ngữ học xuất bản năm
1992) hay “các bước phải tuân theo khi tiến hành một công việc nào đó” (Theo
Đại từ điển tiếng Việt của Trung tâm Ngôn ngữ và Văn hóa Việt Nam xuấ
t bản
năm 1998). Như vậy, có thể hiểu “quy trình đánh giá tài nguyên nước mặt” là
trình tự, các bước phải tuân theo để tiến hành việc đánh giá tài nguyên nước mặt.
Ở đây sẽ tồn tại hai loại quy trình:
- Thứ nhất, đó là trình tự, các bước để tổ chức thực hiện công tác đánh giá
tài nguyên nước, tạm gọi là quy trình tổ chức thực hiện. Quy trình loại này phục
vụ trực tiếp nhữ

ng nhà quản lý - từ khâu chuẩn bị hành lang pháp lý, thể chế,
chính sách đến khâu lập kế hoạch, giám sát, quản lý việc thực hiện kế hoạch,
công bố và quản lý các kết quả của chương trình, đề án đánh giá tài nguyên
nước mặt.
15
- Thứ hai, đó là quy trình kỹ thuật, tức là trình tự hay các bước tiến hành,
xác định các chỉ tiêu và phương pháp tính toán, đánh giá chỉ tiêu theo các nội
dung của việc đánh giá tài nguyên nước mặt đã đề ra.
Đề tài sẽ nghiên cứu xây dựng loại quy trình thứ hai, đó là quy trình mang
tính kỹ thuật.
Với những giới hạn về đối tượng nghiên cứu, mục tiêu của đánh giá tài
nguyên nước và loại hình quy trình như đã trình bày ở trên, ngoài các phần Mở

đầu, Kết luận và kiến nghị, báo cáo tổng hợp đề tài gồm các chương sau:
Chương 1: Tổng quan về tài nguyên nước và các vấn đề có liên quan đến
đánh giá tài nguyên nước mặt;
Chương 2: Một số vấn đề về phạm vi không gian trong đánh giá tài nguyên
nước mặt;
Chương 3: Các kỹ thuật, công nghệ chủ yếu sử dụng trong đánh giá tài
nguyên nước mặt;
Chương 4: Đề xuất quy trình đánh giá tài nguyên nước mặt;
Chương 5: Ứng dụng quy trình đánh giá tài nguyên nước mặt cho vùng
kinh tế Đông Nam Bộ.

16
Chương 2
MỘT SỐ VẤN ĐỀ VỀ PHẠM VI KHÔNG GIAN
TRONG ĐÁNH GIÁ TÀI NGUYÊN NƯỚC MẶT
I. TỔNG HỢP MỘT SỐ KẾT QUẢ ĐÁNH GIÁ TÀI NGUYÊN NƯỚC
VIỆT NAM ĐÃ ĐƯỢC THỰC HIỆN

I.1 Một số kết quả đánh giá tài nguyên nước mặt cho toàn quốc
Như đã trình bày trong chương 1, đã có nhiều chương trình, dự án tiến hành
đánh giá tài nguyên nước của Việt Nam, sau đây là các kết quả tổng hợp:
I.1.1 Chế độ mưa và mạng lưới sông suối
Với một lãnh thổ trả
i dài theo phương kinh tuyến, tiếp giáp hai mặt với
Thái Bình Dương và Ấn Độ Dương, lại nằm hoàn toàn trong khu vực nội chí
tuyến của bán cầu Bắc, Việt Nam có một chế độ khí hậu đa dạng và phức tạp.
Khí hậu nước ta không những chịu chi phối của chế độ mặt trời nội chí tuyến có
tính chất hành tinh mà còn của hoàn lưu gió mùa có tính chất khu vực. Sự kết
hợp của hai nguyên nhân trên trong nhữ
ng tình huống hết sức phức tạp về vị trí
địa lý và địa hình đã dẫn đến những hệ quả vô cùng đặc sắc trong chế độ khí
hậu. Tổng lượng bức xạ hàng năm có sự khác biệt không rõ rệt theo vĩ độ, trung
bình khoảng 110 – 130 kilocalo/cm
2
.năm. Dạng phân bố của bức xạ trong năm
giữa hai miền Bắc và Nam khác nhau: miền Bắc có dạng chí tuyến với một cực
đại và một một cực tiểu phân biệt rõ rệt còn miền Nam có dạng xích đạo với hai
cực đại và hai cực tiểu. Kết quả là chế độ khí hậu ở miền Bắc có mùa nóng và
mùa lạnh đối lập còn miền Nam có mùa nóng kéo dài với một biến trình nhiệt
đ
iều hoà hơn. Cùng với chế độ bức xạ, hoàn lưu gió mùa chi phối một cách
mạnh mẽ những quy luật phân bố theo thời gian và không gian, cũng như những
nét đặc sắc của khí hậu từng vùng. Ngoài ra, tuy không đóng góp gì về mặt động
lực và năng lượng cho các quá trình khí hậu nhưng địa hình, trong những trường
hợp nhất định, có thể phát huy vai trò tích cực làm thay đổi những mối tương
quan, tăng cườ
ng những hiệu quả về mặt này hay mặt khác, thậm chí có thể làm
đảo lộn cả những quan hệ nhân quả. Nói tóm lại, khí hậu Việt Nam là kết quả

của sự tổng hợp các đặc điểm của khí hậu nhiệt đới có nền nhiệt ẩm cao với khí
hậu gió mùa có một chế độ phân hoá mạnh mẽ theo mùa. Trong điều kiện khí
hậu đó, nước ta có lượng mưa tươ
ng đối phong phú, trung bình nhiều năm trên
toàn lãnh thổ đạt xấp xỉ 1960 mm, tức là xấp xỉ 650 km
3
/ năm. Tuy nhiên, do
phụ thuộc vào nguồn cung cấp ẩm (những khối không khí gió mùa) và những tác
nhân gây mưa (động lực, nhiệt lực và địa hình), chế độ mưa ở nước ta có những
hình thái rất đa dạng và phân bố không đều theo không gian. Miền núi mưa
nhiều hơn vùng đồng bằng và các vùng trũng khuất gió. Chênh lệch giữa vùng
có lượng mưa lớn và vùng có lượng mưa nhỏ vào khoảng 5 ÷ 6 lần. Ở những
vùng cá bi
ệt, chênh lệch này có thể lên tới xấp xỉ 10 lần. Lượng mưa trung bình
nhiều năm trên 3000 mm xuất hiện ở những vùng núi cao đón gió mùa ẩm như
vùng Bắc Quang (Hà Giang), Hoàng Liên Sơn, Mường Tè (Lai Châu), Móng
17
Cái (Quảng Ninh), Bắc đèo Hải Vân (Bạch Mã), Tây Bảo Lộc, Trà My, Ba Tơ…
Các tâm mưa nhỏ thường xuất hiện ở thung lũng hay vùng đồng bằng khuất gió
như ở vùng sông Mã, Yên Châu, Lạng Sơn, Mường Xén, Ea Sup, Cheo Reo, Gò
Công… Vùng ven biển Ninh Thuận – Bình Thuận có lượng mưa năm nhỏ nhất
nước ta, khoảng 500 – 600 mm. Ngay trong một lưu vực sông loại vừa, lượng
mưa giữa các vùng cũng biến động khá mạnh. Chẳng hạn, ở
lưu vực của dòng
chính sông Thu Bồn với diện tích lưu vực 3825 km
2
(tính đến Giao Thuỷ), lượng
mưa giảm mạnh từ phía thượng nguồn (trên 4000 mm ở Trà My) đến trung lưu
(dưới 3000 mm ở Nông Sơn) về hạ lưu (gần 2500 mm ở Giao Thuỷ). Theo thời
gian, sự phân bố lượng mưa cũng rất không đều. Trong một năm chia làm hai

mùa rõ rệt: mùa mưa và mùa khô (ở một số nơi là mùa mưa ít). Do chịu ảnh
hưởng của nhiều khối không khí tương phản nhau giữa Bắ
c và Nam nên thời
điểm bắt đầu và kết thúc mùa mưa cũng chênh lệch nhau giữa nơi sớm nhất và
nơi muộn nhất từ 4 đến 6 tháng. Ở Bắc Bộ, mùa mưa thường xuất hiện từ tháng
V đến tháng X, tháng XI. Ở Trung Bộ, Tây Nguyên và Nam Bộ muộn hơn, từ
tháng VIII, IX đến tháng XI, XII. Lượng mưa trong mùa mưa chiếm từ 70 – 90
% tổng lượng mưa năm. Mùa khô (hay mùa ít mưa) kéo dài tới 5 – 6 tháng
nhưng lượng mư
a rất ít, chỉ chiếm 10 – 30 % lượng mưa cả năm; có nơi 2 – 3
tháng liền không mưa, gây ra hạn hán nghiêm trọng.
Lượng mưa phong phú đã tạo điều kiện thuận lợi cho sự hình thành dòng
chảy với lưới sông khá dày. Dọc bờ biển cứ trung bình 20 km lại có một cửa
sông. Nếu chỉ tính những sông có chiều dài trên 10 km và có nước chảy thường
xuyên thì cả nước có khoảng 2360 sông. Nhìn chung, trên toàn lãnh thổ Việt
Nam, ở những khu vực có l
ượng mưa khá lớn thì mật độ lưới sông dày, có thể
đạt tới 1,5 ÷ 2 km/km
2
, như vùng núi cao Hoàng Liên Sơn, Tây Côn Lĩnh,
thượng nguồn sông Thu Bồn, sông Đồng Nai… Những vùng núi trung bình, núi
thấp, nơi có lượng mưa nhỏ hơn, có mật độ lưới sông từ 1 ÷ 1,5 km/km
2
, như
vùng đá vôi phía Bắc, vùng Quảng Ninh, đèo Ngang, vùng trung lưu sông Đồng
Nai, sông Thu Bồn, vùng thượng nguồn các sông vùng Tây Nguyên… Đại bộ
phận còn lại có mật độ trung bình từ 0,5 ÷ 1km
2
. Ở một số vùng đá vôi như Trà
Linh, Trùng Khánh, Quản Bạ, Bắc Sơn, Mộc Châu, Kẻ Bàng… mật độ chỉ từ

0,5 km/km
2
trở xuống. Đặc biệt, vùng sông Phan, sông Dinh (Bình Thuận), mật
độ chỉ đạt 0,12 ÷ 0,15 km/km
2
.
I.1.2 Tài nguyên nước sông
Tương ứng với lượng mưa trung bình năm trên toàn lãnh thổ nước ta
khoảng 650 km
3
/năm đã sinh ra lượng dòng chảy trung bình năm trên lãnh thổ
nước ta khoảng 340 km
3
[3,42], ứng với hệ số dòng chảy trung bình năm là 0,5.
Lượng dòng chảy nếu rải đều trên toàn bộ diện tích nước ta thì có độ sâu dòng
chảy trung bình năm đạt gần 1000 mm (lớn hơn 3 lần lớp dòng chảy trung bình
của Châu Á: 315 mm). Nếu tính cả lượng nước từ ngoài lãnh thổ chảy vào qua
hệ thống sông Mê kông, sông Hồng và một số sông khác thì tổng lượng nước đạt
xấp xỉ 850 km
3
. Như vậy, trung bình hàng năm trên 1 km
2
nhận được khoảng 2,7
triệu m
3
nước.

×