Tải bản đầy đủ (.doc) (10 trang)

Một số câu hỏi tiểu luận môn kinh tế chính trị

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (71.81 KB, 10 trang )

Đề bài
Bằng kiến thức lý luận ,và vấn đề thực tiễn ,hãy làm rõ vấn đề quản lý của nhà nước đối
với cơ chế thị trường ở Việt Nam hiện nay
Phần 1 :
Kinh tế thị trường (thực chất là tên gọi khác của kinh tế hàng hóa) là nền kinh tế dựa vào
thị trường để vận động và phát triển. Từ thế kỷ XIX Ph. Ăng-ghen đã dùng phạm trù
"kinh tế tiền tệ" để đối lập với kinh tế tự nhiên. Người viết: "Chính từ đó mà nền kinh tế
tiền tệ, đang phát triển, đã thâm nhập, giống như một chất a-xít ăn mòn, vào lối sống cổ
truyền của các cộng đồng nông thôn, dựa trên cơ sở nền kinh tế tự nhiên" (1). V.I. Lê-nin
cũng dùng phạm trù kinh tế tiền tệ để nói về một trong hai đặc trưng cơ bản của nền kinh
tế tư bản chủ nghĩa "một là, chế độ đó dựa vào kinh tế tiền tệ, hai là, dựa trên cơ sở mua
và bán sức lao động" (2). Như vậy, kinh tế thị trường hay kinh tế tiền tệ là phương thức
kinh tế đối lập với kinh tế tự nhiên, trong đó các sản phẩm xã hội được trao đổi thông qua
vật trung gian là tiền tệ. Nó là một hệ thống kinh tế tồn tại khách quan trên một trình độ
phát triển tương ứng của lực lượng sản xuất và trở thành một bộ phận quan trọng của
quan hệ sản xuất tương ứng. Nó không phải là một kiểu tổ chức kinh tế do con người tạo
ra bằng ý chí chủ quan của mình, mà hình thành một cách khách quan.
Cơ chế thị trường, hay cơ chế kinh tế thị trường không đồng nhất với kinh tế thị trường.
Cơ chế kinh tế thị trường hay cơ chế thị trường là guồng máy vận hành của nền kinh tế
thị trường. Cơ chế thị trường tuy phụ thuộc vào tính chất và yêu cầu khách quan của kinh
tế thị trường, song nó bị chi phối bởi yếu tố chủ quan, do con người thiết lập nên trên cơ
sở nắm bắt các quy luật phát triển khách quan. Nó phản ánh sự vận dụng của con người
bằng việc tổ chức ra guồng máy kinh tế "tự do" hay có điều tiết của nhà nước theo yêu
cầu vận động khách quan của nền kinh tế thị trường trong các giai đoạn phát triển khác
nhau. Cơ chế thị trường vận động có sự tham gia của nhiều yếu tố, trong đó nổi bật nhất
là quan hệ thị trường cung - cầu và giá cả. Bản chất sâu xa của cơ chế thị trường là cơ chế
vận hành theo sự chi phối của quy luật giá trị. Tuy vậy, trong một nền kinh tế hàng hóa
cụ thể, sự vận động chung còn tùy thuộc vào chế độ sở hữu thống trị, chịu sự tác động
qua lại với các quy luật kinh tế đặc thù của phương thức sản xuất chủ đạo, hơn nữa còn
chịu sự chi phối của quy luật kinh tế chủ đạo trong phương thức sản xuất đó.
(Theo tapchicongsan)


Phần 2 : Tính tất yếu của việc quản lý nhà nước đối với cơ chế thị trường
Mấy vấn đề cơ chế thị trường có sự quản lý của nhà nước
Hãy từ kinh nghiệm lịch sử mà tìm cách tiếp cận nghiên cứu vấn đề cơ chế thị trường có
sự quản lý của nhà nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta để tránh sa vào các
từ ngữ, các công thức, các mô hình đôi khi trừu tượng thiếu giá trị thiết thực dễ dẫn đến
ngõ cụt vì thoát ly điều kiện lịch sử, không lợi cho việc lãnh đạo và quản lý kinh tế.
Điều đáng lưu ý là: Bằng cách nào đó, tất cả các nền kinh tế hiện có đều trộn lẫn những
hình thức sở hữu khách nhau, những cơ chế quản lý khác nhau, những nét thường vay
mượn từ những phương thức khác sản xuất khác nhau.
Chẳng hạn, người ta hay nói hai phương thức đối xứng nhau:
- Một là, phương trình gắn kế hoạch, tập trung dân chủ quốc hữu hoá và thiếu dân chủ với
nhau và gọi đó là của các nước xã hội chủ nghĩa.
- Hai là, một phương trình đối xứng khác nhau gắn thị trường, phi tập trung hoá, tư nhân
hoá và dân chủ với nhau gọi là của các nước theo nền kinh tế thị trường.
Thế nhưng, thực tế cho thấy không có sự cắt khúc như vậy. Kế hoạch hoá không nhất
thiết có nghĩa là đi vào các chi tiết và kiểm soát mọi cái từ trung tâm. Những phương tiện
công nghệ và tin học hiện có cho phép một sự phi tập trung hoá rất lớn, đi đôi với sự lựa
chọn chiến lược ở trung tâm. Mặt khác, phi tập trung hoá không nhất thiết bắt buộc phải
có thị trường và thị trường cũng không nhất thiết có nghĩa là ít quan liêu hơn và ít có tính
nhà nước hơn.Vả lại, nhiều nước có nền kinh tế thị trường phát triển từ lâu đã sử dụng
quá thành thạo và hiệu quả công cụ kế hoạch hoá.
Về mặt lý luận, phải chăng cũng cần thấy rằng:
a- Về chủ nghĩa tư bản, cuốn tư ban của Mác là mẫu mực của kinh tế học lý luận, nó trừu
tượng hoá cao độ xã hội tư bản chủ nghĩa, do đó nó thích hợp với bất kỳ giai đoạn phát
triển nào của bất kỳ nhànước tư bản chủ nghĩa nào vì lúc đó kinh tế tư bản chủ nghĩa đã
chín mùi.
Còn về chủ nghĩa xã hội, theo quan điểm của Mác là do tư bản chủ nghĩa phát triển từ
kinh tế hàng hoa ùlên nền sản xuất lớn xã hội hoá cao độ tất nhiên nẩy ra mâu thuẫn giữa
sự chiếm hữu tư nhân về tư liệu sản xuất, làm rõ ra khủng hoảng kinh tế. Khi khủng
hoảng kinh tế phát triển tới mức không thể khắc phục được thì lịch sử đòi hỏi phải thay

đổi chế độ tư hữu về tư liệu sản xuất bằng công hữu làm nẩy sinh chủ nghĩa xã hội. Chế
độ công hữu về tư liệu sản xuất là đặc trưng cơ bản của xã hội chủ nghĩa, do đó không thể
không có kế hoạch. Đó cũng là trừu tượng hoáchủ nghĩa xã hội.
b- Do điều kiện mỗi nước đi lên chủ nghĩa xã hội khác nhau, nên có nhiều hình thức áp
dụng cho một phạm trù kinh tế tuỳ theo điều kiện nước đó. Cho nên không nên lẫn lộn
giữa bản chất và hình thức và cũng không nên cố định hoá, đơn nhất hoá và tuyệt đối hoá
một hình thức thực hiện nào đó.
Mặt khác, cũng cần thấy sự hác biệt giữa hình thức thực hiện hiện nay và hình thức thực
hiện tương lai để tránh coi hình thức thực hiện hiện nay là vấn đề của tương lai hoặc
ngược lại lấy hình thức chỉ có thể thực hiện phổ biến trong tương lai áp dụng phổ biến
cho trước mắt. Hai cách làm đó đều dẫn đến sai lầm.
c- Có những phạm trù kinh tế tồn tại trong nhiều chế độ xã hội, mỗi xã hội đều áp dụng
nó không nhất thiết phải làm thêm cái đuôi xã hội chủ nghĩa mới là có lập trường bởi vì
cho đến nay không ai nói quy luật giá trị xã hội chủ nghĩa cả, thế thì cần gì phải nói thị
trường xã hội chủ nghĩa vì thị trường đó cũng chỉ là vận dụng quy luật giá trị chung thôi
còn hướng tồn đọng của nó do nhà nước tác động.
Từ cách đặt vấn đề nói trên, hãy xem xét sự khác nhau giữa cơ chế thị trường trong nền
kinh tế tư bản chủ nghĩa và cơ chế thị trường trong nền kinh tế xã hội chủ nghĩa hay đúng
hơn là nền kinh tế quá độ lên chủ nghĩa xã hội.
ews.asp?ID=660
phần 3 Thị trường và vai trò quản lý của nhà nước trong nền kinh tế thị trường
Tham khảo
TS. Nông phú Bình
Học viện Hành chính quốc gia
Thị trường là phạm trù kinh tế - xã hội phức tạp, một lĩnh vực khoa học vẫn đang có sự
trao đổi, nghiên cứu nhằm đạt được sự thống nhất về lý luận và thực tiễn, trên cơ sở đó
tìm ra những biện pháp quản lý, khai thác những tiềm năng của nó phục vụ cho mục tiêu
phát triển kinh tế - xã hội.
Nền kinh tế theo cơ chế kế hoạch, tập trung, bao cấp trước kia (có tác giả gọi nó là nền
kinh tế nhà nước 1 để phân biệt với kinh tế thị trường), thị trường được xem xét, nhìn

nhận thông qua quá trình tái sản xuất xã hội theo các công đoạn:
- Sản xuất
- Trao đổi, lưu thông
- Tiêu dùng
Trong nền kinh tế thị trường hiện nay, thị trường được xem như một hệ thống thống nhất
của cả quá trình tái sản xuất xã hội, trong đó sản xuất - kinh doanh được gắn kết chặt chẽ
với nhau. Vì vậy có thể hiểu: thị trường là nơi diễn ra các hoạt động sản xuất kinh doanh,
là nơi phát sinh và giải quyết các mối quan hệ giữa cung và cầu.
Dưới góc độ quản lý nhà nước, thị trường được xem xét, phân loại theo một số tiêu thức
sau đây:
- Thị trường nội địa (thị trường trong nước) và thị trường ngoài nước (thị trường khu vực,
quốc tế),
- Thị trường phân theo các lĩnh vực hoạt động kinh tế: Thị trường Tài chính tiền tệ (thị
trường vốn), Thị trường Bất động sản, Thị trường sức lao động, Thị trường hàng hoá nói
chung
- Thị trường phân theo nhóm hàng hoá cụ thể, như : Thị trường Xăng dầu, Thị trường
Nhà đất, Thị trường hàng nông sản,
Thị trường nội địa (thị trường trong nước) là một hệ thống kinh tế thống nhất trong nền
kinh tế của mỗi quốc gia. Phát triển thị trường nội địa cũng đồng nghĩa với phát triển nền
kinh tế quốc dân. Đây là một vấn đề, một nhiệm vụ quan trọng và khó nhất đối với các
chính phủ của nhiều nước trên thế giới.
Một nền kinh tế phát triển nhanh hay chậm, phát triển cân đối, bền vững hay phát triển
không ổn định (nền kinh tế nóng theo dạng bong bóng xà phòng) nó phụ thuộc vào nhiều
yếu tố, trong đó yếu tố quản lý của nhà nước có vai trò quan trọng nhất, quyết định đến
sự phát triển của thị trường và toàn bộ nền kinh tế.
Khi nói đến vai trò quản lý của Nhà nước đối với quá trình phát triển của nền kinh tế
cũng có nghĩa là nói đến vai trò, khả năng, mức độ can thiệp của Chính phủ vào thị
trường, vào quá trình vận động của nền kinh tế. Sự can thiệp này đến đâu, bằng biện pháp
gì, vào lĩnh vực nào trong từng thời điểm, để một mặt vừa định hướng cho sự phát triển
đúng đắn của thị trường, mặt khác vẫn khuyến khích tính chủ động, sáng tạo của cơ sở và

các doanh nghiệp, tạo động lực phát triển mạnh mẽ cho nền kinh tế.
Nền kinh tế theo cơ chế kế hoạch tập trung, bao cấp trước kia đã tuyệt đối hoá vai trò
quản lý của Nhà nước, phủ nhận vai trò tự điều tiết của thị trường. Từ quản lý vĩ mô đến
quản lý vi mô đều do bàn tay của Nhà nước điều hành thông qua cơ chế kế hoạch hóa tập
trung cao độ từ trung ương đến địa phương và các đơn vị cơ sở bằng hệ thống các chỉ tiêu
kế hoạch pháp lệnh cứng nhắc. Cơ chế tập trung bao cấp đã sinh ra bộ máy quản lý nhà
nước cồng kềnh và hàng nghìn doanh nghiệp quốc doanh luôn dựa vào sự bao cấp của
Nhà nước, dẫn đến hậu qủa là sản xuất kinh doanh không có lãi, thị trường không phát
triển.
Nhận thức sớm được những mặt hạn chế của cơ chế cũ, Đảng và Nhà nước đã kịp thời
chuyển đổi nền kinh tế nước ta sang nền kinh tế thị trường theo tinh thần nội dung của
Nghị quyết Đại hội Đảng lần thứ VII là: "Phát triển nền kinh tế hàng hoá nhiều thành
phần theo định hướng XHCN, vận hành theo cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà
nước".
Chuyển đổi nền kinh tế từ cơ chế tập trung, bao cấp sang cơ chế thị trường là bước đi
đúng đắn, kịp thời của Đảng và Nhà nước ta. Song điều đáng chú ý ở đây là chúng ta vẫn
giữ vững vai trò "Quản lý của Nhà nước, theo định hướng XHCN" chứ không phải theo
cơ chế thị trường tự do với sự tuyệt đối hóa vai trò tự điều tiết của thị trường như các học
thuyết kinh tế học cổ điển và lý thuyết "Bàn tay vô hình" mà A. Smith đã nêu ra.
Thực tế phát triển nền kinh tế thị trường ở nước ta trong những năm qua cho thấy "nền
kinh tế hàng hóa nhiều thành phần, vận hành theo cơ chế thị trường, có sự quản lý của
Nhà nước " là một mô hình phát triển hợp lý, vì nó có sự kết hợp giữa "Thị trường" với
"Nhà nước", tức là có sự kết hợp giữa "Bàn tay vô hình" với "Bàn tay hữu hình" của Nhà
nước để tạo nên một thể chế quản lý mới có tính hiệu quả cao hơn.
Vấn đề cần nghiên cứu, trao đổi ở đây là vai trò quản lý của Nhà nước trong nền kinh tế
theo cơ chế thị trường hiện nay được thể hiện như thế nào, Nhà nước cần và không cần
can thiệp vào lĩnh vực nào của thị trường? Đây là một vấn đề có thể còn có nhiều cách
giải đáp theo những cách tiếp cận khác nhau. Nhưng, từ thực tế quản lý đã rút ra được
trong những năm qua, kết hợp với những bài học kinh nghiệm của các nước trên thế giới
đã cho thấy vai trò quản lý của Nhà nước trong nền kinh tế thị trường được thể hiện ở

những nội dung cơ bản sau:
1. Xây dựng một hệ thống chính sách vĩ mô ổn định, hợp lý nhằm định hướng cho thị
trường phát triển theo đúng mục tiêu, đồng thời tạo lòng tin cho các nhà doanh nghiệp
trong và ngoài nước yên tâm đầu tư, phát triển sản xuất, kinh doanh.
Bài học thực tế của các nước phát triển đã cho thấy: hệ thống chính sách vĩ mô, hệ thống
pháp luật đầy đủ, ổn định sẽ là nền tảng vững chắc cho nền kinh tế phát triển bền vững,
lành mạnh, đúng định hướng, đồng thời nó còn là cơ sở tạo ra một sân chơi bình đẳng ,
rộng rãi cho các nhà doanh nghiệp trong và ngoài nước. Với ý nghĩa đó, trong những năm
thực hiện đường lối đổi mới vừa qua, Nhà nước ta đã ban hành đồng bộ hệ thống văn bản
pháp luật (đến nay đã có 43 luật, bộ luật, 45 pháp lệnh và hàng trăm văn bản pháp quy
khác được ban hành) nhằm đáp ứng kịp thời cho công tác quản lý nhà nước trên mọi lĩnh
vực của đời sống xã hôi.
Cùng với việc hoàn chỉnh, bổ sung hệ thống văn bản pháp luật, những chính sách điều
hành quản lý vĩ mô cũng không ngừng được củng cố, hoàn thiện tạo nên một cơ chế quản
lý mới, trong đó chức năng quản lý vĩ mô của Nhà nước ngày càng được tăng cường,
đồng thời quyền chủ động ở cơ sở và các doanh nghiệp ngày càng được nâng cao. ở một
chừng mực nào đó, Nhà nước đã thể hiện đúng vai trò, chức năng là người trọng tài điều
khiển chứ không trực tiếp tham gia vào cuộc chơi trong không gian của thị trường.
Cơ chế quản lý mới đã có sự phân định rõ chức năng quản lý hành chính nhà nước về
kinh tế của các bộ, ngành với chức năng quản lý sản xuất kinh doanh của các doanh
nghiệp. Theo đó là việc giảm dần cơ chế bộ chủ quản đã tạo cho các công ty, các doanh
nghiệp quốc doanh có nhiều quyền tự quyết định trong sản xuất kinh doanh, đồng thời
phía Nhà nước đã giảm được gánh nặng bao cấp. Đây chính là một bước hoàn thiện cơ
chế quản lý vĩ mô, thiết lập sự bình đẳng giữa các thành phần kinh tế, tạo cơ sở cho sự
phát triển của thị trường trong nước.
2. Vai trò tạo lập môi trường kinh doanh thuận lợi, an toàn và bình đẳng
Môi trường kinh doanh thuận lợi, an toàn được biểu hiện thông qua nhiều yếu tố như: hạ
tầng cơ sở tốt, hệ thống pháp luật đầy đủ, ổn định, nền hành chính rõ ràng và bộ máy
công quyền trong sạch, lành mạnh Những yếu tố trên đều do Nhà nước (và chỉ có Nhà
nước) tạo dựng nên nhằm thu hút đầu tư trong và ngoài nước phục vụ cho mục tiêu phát

triển .
Môi trường kinh doanh thuận lợi còn thể hiện ở sự lành mạnh, bình đẳng trong cạnh tranh
giữa các thành phần kinh tế, giữa các doanh nghiệp, các tổ chức, cá nhân hoạt động trong
một không gian kinh tế. Bởi vì, kinh tế thị trường lấy cạnh tranh làm cơ sở, động lực thúc
đẩy sự phát triển của thị trường, Nhà nước cần tạo ra cơ chế khuyến khích cạnh tranh
lành mạnh. Nhưng muốn có cạnh tranh lành mạnh, trước hết phải hạn chế và chống độc
quyền, bởi vì độc quyền là "bản án tử hình" của cơ chế thị trường, dù đó là độc quyền nhà
nước hay độc quyền tư nhân.
Kinh nghiệm thực tiễn đã cho thấy, đối với những nền kinh tế đang trong thời kỳ chuyển
đổi như ở nước ta hiện nay, thì cạnh tranh chưa thực sự đi vào tiềm thức trong hoạt động
kinh tế, chưa trở thành động lực thúc đẩy sự phát triển của thị trường. Trong khi đó, độc
quyền nhà nước vẫn đang ngự trị trên nhiều lĩnh vực của nền kinh tế.
Độc quyền nhà nước lại chủ yếu dựa trên quyền lực hành chính chứ không phải dựa trên
năng lực hoạt động kinh tế, bởi vì chính các doanh nghiệp thuộc khu vực nhà nước hoạt
động không có hiệu quả. Độc quyền dựa trên quyền lực hành chính được xem như rào
cản hành chính đối với cạnh tranh. Theo một số học giả Trung Quốc (là nước có môi
trường kinh tế gần giống với Việt Nam) thì có 2 hình thức độc quyền chủ yếu dựa trên
quyền lực hành chính là: độc quyền ngành và độc quyền địa phương.
Độc quyền ngành, hay còn gọi là độc quyền theo chiều dọc là độc quyền của các bộ quản
lý chuyên ngành, hoặc của các tổng công ty, các công ty, các tập đoàn kinh tế lớn (của
nhà nước) vừa có chức năng quản lý hành chính nhà nước, vừa là nhà sản xuất hoặc nhà
kinh doanh trên một lĩnh vực hay một số ngành hàng nào đó. Có thể xem họ là những chủ
thể Hành chính - Kinh tế, bởi vì họ vừa có quyền lực, vừa có nhiều lợi thế về vốn, về địa
vị pháp lý, lại luôn nhận được những ưu đãi đặc biệt từ phía chính phủ hoặc chính quyền
địa phương. Nhờ những lợi thế đó, cho nên trong hoạt động sản xuất kinh doanh, họ "tự
nhiên" có được thế mạnh trên thị trường. Một số ngành như: Bưu chính viễn thông, Điện
lực, các Tổng công ty 90, Tổng công ty 91 hiện nay chính là những hình mẫu của hình
thức độc quyền theo ngành.
Độc quyền địa phương còn gọi là độc quyền theo chiều ngang, là hình thức bảo hộ sản
xuất địa phương bằng những biện pháp hành chính nhằm ngăn cấm những hàng hoá, dịch

vụ từ địa phương khác xâm nhập vào địa phương mình. Đây là hành vi chia nhỏ thị
trường, gây mất cân đối trên phạm vi thị trường toàn quốc, làm suy yếu thị trường trong
nước. Kinh nghiệm của Trung Quốc cũng cho thấy: từ khi cải cách diễn ra, việc phân cấp
cho chính quyền địa phương càng mạnh thì hiện tượng độc quyền địa phương cũng càng
phát triển.
4.Những công cụ và giải pháp chung để nhà nước tiến hành quản lý kinh tế thị trường
4.1. Tình hình xây dựng cơ chế thị trường có sự quản lý của nhà nước trong nền kinh tế
thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam.
4.1.1. Khái quát và đánh giá chung về quá trình xây dựng cơ chế thị trường có sự quản lý
của Nhà nước ở Việt Nam.
Tại đại hội lần VI của Đảng Cộng sản Việt Nam, chúng ta đã đưa ra lý luận về kinh tế thị
trường mang bản sắc Việt Nam, đã có sự chấp nhận “cơ chế thị trường”. Điều này đã cho
thấy tính chất “từng bước” và “dần dần” của thay đổi tư duy chính sách và kể cả hành
động của Nhà nước và Đảng ta.
Tiếp đó, đến hội nghị toàn quốc giữa nhiệm kì của Đảng đã đưa ra quan điểm “xây dựng
đồng bộ cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước theo định hướng xã hội chủ
nghĩa”.
Tại Hội nghị đại biểu toàn quốc giữa nhiệm kì khoá VII đã nhấn mạnh tính “tính dịnh
hướng xã hội chủ nghĩa” trong việc xxây dựng cơ chế thị trường đồng bộ có sự quản lý
của Nhà nước do nhận thức được nguy cơ “chệch hướng” xã hội chủ nghĩa và lần đầu
tiên đưa ra luận điểm xây dựng Nhà nước pháp quyền của Việt Nam, theo đó luật pháp
ngày càng giữ vai trò quan trọng và trở thành công cụ không thể thiếu được của Nhà
nước trong nền kinh tế thị trường.
Hội nghị Trung ương lần thứ VIII-hội nghị đầu tiên bàn về bản chất và vai trò của Nhà
nước trong nền kinh tế thị trường và chủ trương cải cách bộ máy hành chính nhà nước mà
trọng tâm là cải cách thủ tục hành chính. Đây là tuyên ngôn chính thức cho cải cách một
cách hệ thống bộ máy nhà nước, vừa là sự quan tâm và chuẩn bị cho cuộc đấu tranh
chống tham nhũng, tệ quan liêu và buôn lậu ngày càng gia tăng. Nhờ đó, lạm phát được
kiểm soát. Nhà nước đã ngày càng có kinh nghiệm hơn trong sử dụng các công cụ quản
lý kinh tế vĩ mô, như tiền tệ, tài chính-tài khoá… Việc lạm phát được kiểm soát và có xu

hướng ổn định đã góp phần quan trọng đặc biệt trong cải thiện và ổn định kinh tế vĩ mô,
đồng thời có tác động tích cực đến nhiều lĩnh vực và quá trình khác của nền kinh tế.
Những thành tựu cơ bản đã đạt được là: thúc đẩy cơ chế thị trường, tăng cường tối đa tính
tự điều tiết của thị trường, tạo môi trường tự do và thuận lợi cho đầu tư sản xuất kinh
doanh. Nói cách khác, nó tạo điều kiện cho các tác nhân độc lập hoạt động sản xuất, kinh
doanh tham gia thị trường trên cả phía cung và phía cầu, không chỉ có doanh nghiệp nhà
nước mà nhiều doanh nghiệp thuộc nhiều thành phần kinh tế khác; chuyển từ chế độ đơn
sở hữu sang chế độ đa sở hữu, mà bên cạnh chế độ sở hữu nhà nước cho phép sở hữu tư
nhân tồn tại, trên cái nền sở hữu ấy (Nhà nước và tư nhân) mà sở hữu hỗn hợp, sở hữu cổ
phần,…hình thành; chuyển đổi chế độ quản lý, từ chế độ quản lý tập trung của nhà nước
sang chế độ doanh nghiệp tự quản lý, tách quản lý doanh nghiệp với nhà nước; chuyển
chế độ phân phối đơn nhất sang chế độ phân phối đa dạng, không chỉ theo kết quả lao
động và hiệu quả kinh tế, mà còn theo vốn, sở hữu trí tuệ,…trong đó lợi nhuận đóng vai
trò quan trọng khuyến khích cá nhân và doanh nghiệp.
Nhờ đó, mở ra môi trường cho nhân dân được quyền tự do sản xuất-kinh doanh theo các
hình thức tổ chức pháp lý doanh nghiệp; các tổ chức này tự điều tiết lẫn nhau trên quan
hệ cung-cầu, và trên cơ sở điều tiết gián tiếp kinh tế vĩ mô của Nhà nước theo các mục
tiêu ổn định và tăng trưởng toàn cục.
Tuy đã có được một số thành tựu đáng kể, nhưng, cơ chế thị trường ở nước ta vẫn còn có
nhiều vấn đề tồn tại. Cơ chế và cách thức vận hành của nền kinh tế Việt nam vẫn đậm sự
đan xen của cơ chế cũ (kinh tế kế hoạch hoá tập trung) và cơ chế mới (kinh tế thị trường)
đi kèm với những căn bệnh mới xuất hiện: quan liêu, tham nhũng, cửa quyền, buôn lậu,
coi thường và vi phạm pháp luật. Môi trường đầu tư và kinh doanh với doanh nghiệp
không được lành mạnh, thiếu sự rõ ràng dẫn đến không có được sự cạnh tranh thị trường
lành mạnh. Một loạt chỉ số vĩ mô có dấu hiệu xấu đi: tỷ lệ tiền tệ hoá nền kinh tế thấp, tỷ
lệ thâm hụt ngoại thương đi liền với tỷ lệ thâm hụt cán cân vãng lai cao và có xu hướng
tăng,… Khu vực doanh nghiệp nhà nước vẫn cồng kềnh, có hiệu quả thấp, kéo dài; bao
cấp của Nhà nước vẫn còn rất lớn, phổ biến là đất đai, bảo lãnh tín dụng, bao cấp lãi xuất
tín dụng, hỗ trợ giá; số lượng lao động quá lớn; quản lý doanh nghiệp yếu; cơ chế quản lý
giám sát của Nhà nước đối với doanh nghiệp nhà nước kém hiệu quả. Nền hành chính

chưa được cải cách tương xứng, hiệu quả thấp: thủ tục rườm rà, phiền nhiễu doanh
nghiệp và dân, sự phối hợp và chế độ thông tin giữa các cơ quan Nhà nước yếu kém dẫn
đến chính sách và quyết định ban hành thiếu nhất quán. Sự giám sát, nhất là giám sát tài
chính của Nhà nước đối với doanh nghiệp vẫn yếu kém. Hệ thống tài chính, tiền tệ và hệ
thống ngân hàng lạc hậu kéo dài. Quan hệ kinh tế đối ngoại và sức cạnh tranh còn thấp
chưa chuẩn bị tốt cho hội nhập quốc tế. Đời sống nông dân chậm. được cải thiện; sức
mua thấp gây ảnh hưởng tới đầu tư và tăng trưởng kinh tế.
4.1.2. Các biện pháp đã thực hiện nhằm xây dựng cơ chế thị trường.
Luật Đầu tư nước ngoài ban hành vào cuối năm 1987 là đạo luật định hướng thị trường
đầu tiên ở Việt Nam. Tiếp đó, Bộ Chính trị Đảng Cộng sản Việt Nam đã ban hành Nghị
quyết 16 về phát triển khu vực ngoài quốc doanh-dấu mốc quan trọng cho phép khu vực
kinh tế tư nhân chính thức hoạt động trở lại, mở đường cho sự ra đời của Luật doanh
nghiệp tư nhân và Luật Công ty vào năm 1991. Hiến pháp sửa đổi (1992) bảo đảm sự
hiện hữu và phát triển kinh tế hàng hoá nhiều thành phần vận động theo cơ chế thị trường
và khu vực đầu tư nước ngoài. Tiếp sau đó, rất nhiều đạo luật cơ bản quan trọng của nền
kinh tế thị trường được ban hành như Luật Đất đai, Luật Thuế, Luật Lao động…và hàng
trăm pháp lệnh của Quốc hội, quyết định và nghị định của Chính phủ đã được ban hành.
Phát triển thể chế thị trường. Trước hết là cải cách giá cả và cải cách thương mại trong đó
việc Nhà nước giao cho thị trường quyết định giá cả phần lớn hàng hoá và dịch vụ, đặc
biệt là hàng tiêu dùng cùng với đó là cơ cấu lại khu vực doanh nghiệp Nhà nước, thúc đẩy
khu vực tư nhân và đầu tư nước ngoài-tức nó phải gắn với và dựa tên cơ sở hình thành và
phát triển các lực lượng thị trường (hay còn gọi là các thành phần kinh tế). Tiếp theo là
cải cách hệ thống ngân hàng, không còn hệ thống ngân hàng duy nhất, độc quyền-tức
Ngân hàng Nhà nước Việt Nam, thành lập một hệ thống ngân hàng mới và khuyến khích
các ngân hàng tư nhân và ngân hàng nước ngoài tham gia vào hệ thống ngân hàng trong
nền kinh tế từ đó tạo sự cạnh tranh buộc các ngân hàng của Việt Nam phải cải tiến quản
lý và cải tiến chất lượng dịch vụ của mình; các ngân hàng Việt Nam đang nỗ lực gắn kết
vào mạng lưới thanh toán quốc tế. Kiểm soát ngân sách Nhà nước, vào tháng 3-1996,
Quốc hội việt Nam thông qua Luật Ngân sách nhà nước-một đạo luật quan trọng lần đầu
tiên thể chế hoá ngân sách Nhà nước; kiên quyết không phát hành tền tệ bù đắp cho ngân

sách nhà nước-chấm dứt thời kì Nhà nước can thiệp hành chính phi kinh tế, tôn trọng kỉ
luật thị trường và tôn trọng kỉ luậtkinh tế vĩ mô. Phát triển và hoàn thiện các loại thị
trường như thị trường tài chính, thị trường hàng tiêu ding,thị trường nguyên vật liệu cho
sản xuất, thị trường vốn, thị trường đất đai…
Cải cách doanh nghiệp Nhà nước. Nghị định 388-HĐBT (20/11/1991) của Hội đồng Bộ
trưởng ban hành Quy chế về thành lập và giải thể doanh nghiệp Nhà nước đã đánh dấu
một bước mới trong tư duy và cách tiếp cận chính sách. Chính phủ đã ban hành các quyết
định số 90/TTg, 91/TTg (7/3/1994) và chỉ thị 500/TTg (25/8/1995) để tiếp tục tái cơ cấu
lại khu vực doanh nghiệp nhà nước; đồng thời ban hành Luật doanh nghiệp nhà nước
(4/1995); hàng loạt công ty nhà nước lớn mang tính chất tập đoàn kinh tế đã được thành
lập góp phần nâng cao sức cạnh tranh trên thị trường, nhất là cạnh tranh với các công ty
nước ngoài, có điều kiện để tăng tiềm lực vốn và khả năng huy động vốn, đồng thời tách
các doanh nghiệp nhà nước ra khỏi các bộ hoặc cơ quan chủ quản của chúng.
Thúc đẩy khu vực kinh tế tư nhân, kể cả đầu tư nước ngoài trực tiếp. Hiến pháp năm
1992 chính thức công nhận cơ chế kinh tế thị trường có sự quản lý của Nhà nước theo
định hướng xã hội chủ nghĩa, cơ cấu sở hữu tư nhân, khuyến khích tổ chức, cá nhân nước
ngoài đầu tư vốn, công nghệ vào Việt Nam, bảo đảm doanh nghiệp có vốn đầu tư nước
ngoài không bị quốc hữu hoá. Kể từ đó trở đi khu vực tư nhân đã và đang dần dần được
hưởng các quyền binh đẳng như đối với khu vực doanh nghiệp nhà nước (như Luật Thuế,
Luật Phá sản), các quyền về xuất, nhập khẩu….lần đầu tiên trong lịch sử của nước Cộng
hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam, khu vực kinh tế tư nhân đã được chính thức được đưa
vào thống kê quốc gia và trở thành một đối tượng trong chính sách kinh tế của Nhà nước.
Đầu tư nước ngoài trực tiếp được coi là nguồn vốn quan trọng cho phát triển kinh tế ở
việt Nam.
Phát triển kết cấu hạ tầng vật chất-kỹ thuật. Ngân sách Nhà nước vẫn đóng vai trò chính
trong xây dựng kết câu hạ tầng song còn có sự tham gia đầu tư của khu vực kinh tế ngoài
Nhà nước. Chi cho phát triển kết cấu hạ tầng trở thành khoản chi chủ yếu và là phần chi
lớn nhất của chi phát triển ngân sách nhà nước. Căn cứ để lập kế hoạch và dự toán ngân
sách nhà nước dựa vào tín hiệu cung-cầu thị trường, không còn mang tính chủ quan, duy
ý chí; là một chất lượng mới của công tác điều hành nền kinh tế của Nhà nước. Phương

thức ra quyết định kế hoạch và ngân sách cho xây dựng kết cấu hạ tầng dựa trên cơ sở
dân chủ, bàn bạc , trao đổi giữa các bộ, nghành, cơ quan Nhà nước có liên quan.
4.2. Một số giải pháp cơ bản để xây dựng cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước
trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa.
Để xây dựng tốt cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước trong nền kinh tế định
hướng xã hội chủ nghĩa, trước hết, phải phân định rõ ràng giữa Nhà nước và nền kinh tế
theo hướng: cái gì của kinh tế, của thị trường thì trả lại cho thị trường; cái gì thuộc chức
năng và trách nhiệm của Nhà nước phải nắm cho chắc và làm cho tốt; cơ sở để thực hiện
được điều đó là phải xây dựng hệ thống pháp luật, thể chế, nhất là bảo đảm tính hiệu lực
và hiệu quả của hệ thống này. cùng với đó là cần tăng cường sự điều tiết vĩ mô của Nhà
nước xã hội chủ nghĩa ngằm phát huy tác dụng tích cực và hạn chế tác động tiêu cực của
cơ chế thị trường.
4.2.1. Nhận thức đúng và đầy đủ vai trò và chức năng kinh tế của Nhà nước trong nền
kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam.
Như ta đã thấy, cơ chế thị trường là cơ chế tốt nhất điều tiết nền kinh tế hàng hoá một
cách có hiệu quả , tuy nhiên cơ chế đó cũng có một loạt những khuyết tật vì vậy nền kinh
tế thị trường do cơ chế thị truờng điều tiết cần có sự can thiệp của Nhà nước. Kinh tế thị
trường tư bản chủ nghĩa và kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa có bản chất
khác nhau , vì thế bên cạnh những điểm giống nhau về phương pháp quản lý, có sự khác
nhau về mục tiêu xã hội của quản lý.
Nhà nước Việt Nam muốn quản lý nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa có
kết quả trước hết cũng phải dựa trên yêu cầu khách quan của các quy luật của kinh tế thị
trường. Do đó phương pháp quản lý của Nhà nước ta về nhiều phương diện cũng có
những nét giống như phương pháp quản lý của nhà nước ở các nước tư bản: thừa nhận
tính độc lập của các chủ thể kinh tế để họ có quyền tự chủ trong sản xuất, kinh doanh, tự
chịu trách nhiệm lỗ lãi; xây dựng hệ thống thị trường có tính cạnh tranh, giá cả chủ yếu
do thị trường quyết định; xây dựng cơ chế điều tiết vĩ mô của Nhà nước nhằm hướng dẫn,
giám sát hoạt động của các chủ thể kinh tế, hạn chế những khuyết tật của thị trường; xây
dựng hệ thống pháp luật nhằm tạo ra khuôn khổ cho hoạt động kinh tế; tôn trọng,thực
hiện các thông lệ quốc tế trong quan hệ kinh tế quốc tế.

Tuy nhiên, sự quản lý kinh tế của nhà nước xã hội chủ nghĩa và sự quản lý kinh tế của
nhà nước tư bản có sự khác nhau cơ bản. Sự quản lý của nhà nước tư sản đối với nền kinh
tế thị trường nhằm đem lại lợi nhuận tối đa cho các tổ chức độc quyền. Nhà nước xã hội
chủ nghĩa dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản quản lý nền kinh tế thị trường nhằm mục
tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh; bảo đảm cho mọi người
có cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc.
Nhà nước xã hội chủ nghĩa ở nước ta có những chức năng kinh tế sau:
Một là, Nhà nước bảo đảm sự ổn định chính trị, kinh tế, xã hội và thiết lập khuôn khổ luật
pháp để tạo điều kiện cần thiết cho hoạt động kinh tế, vì ổn định chính trị, xã hội là điều
kiện cần thiết để phát triển kinh tế. Nhà nước còn phải tạo ra hành lang luật pháp cho
hoạt động kinh tế bằng cách đặt ra các điều luật cơ bản về quyền sở hữu tài sản và hoạt
động thị trường, đặt những quy định chi tiết cho hoạt động của các doanh nghiệp. Khuôn
khổ luật pháp mà Nhà nước thiết lập có tác động sâu sắc tới các hành vi của chủ thể kinh
tế, điều chỉnh hành vi kinh tế của họ.
Hai là, Nhà nước định hướng cho sự phát triển kinh tế và thực hiện điều tiết các hoạt
động kinh tế để bảo đảm cho nền kinh tế thị trường tăng trưởng ổn định . Nhà nước xây
dựng các chiến lược và quy hoạch phát triển, trực tiếp đầu tư vào một số lĩnh vực để dẫn
dắt nền kinh tế-xã hội đáp ứng yêu cầu phát triển kinh tế. Nền kinh tế thị trường khó
tránh khỏi những chấn động bởi các cuộc khủng hoảng kinh tế và lạm phát, Nhà nước
phải sử dụng chính sách tiện tệ để ổn định môi trường kinh tế vĩ mô, tạo điều kiện cho
phát triển kinh tế.
Ba là, Nhà nước bảo đảm cho nền kinh tế hoạt động có hiệu quả. Các doanh nghiệp vì lợi
ích hẹp hòi của mình có thể lạm dụng tài nguyên của xã hội, gây ô nhiễm môi trường
sống của con người. Vì vậy, Nhà nước phải thực hiện những biện pháp nhằm ngăn chặn
những tác động bên ngoài để nâng cao hiệu quả kinh tế-xây hội. Sự xuất hiện độc quyền
cũng làm giảm tính hiệu quả của hoạt động thị trường, vì vậy Nhà nước có nhiệm vụ rất
cơ bản là bảo vệ cạnh tranh và chống độc quyền để nâng cao tính hiệu quả của hoạt động
thị trường.
Bốn là, Nhà nước cần hạn chế, khắc phục các mặt tiêu cực của cơ chế thị trường, thực
hiện công bằng xã hội. Sự tác động của cơ chế thị trường có thể đưa lại hiệu quả kinh tế

cao, nhưng nó không tự động mang lại những giá trị mà xã hội cố gắng vươn tới, không
tự động đưa lại sự phân phối thu nhập công bằng. nhà nước thực hiện phân phối thu nhập
quốc dân một cách công bằng, thực hiện tăng trưởng kinh tế gắn với cải thiện đời sống
nhân dân, với tiến bộ và và công bằng xã hội. Điều này thể hiện rõ rệt nhất tính định
hướng xã hội của nền kinh tế thị trường ở nước ta.
4.2.2. Xác định rõ nội dung quản lý kinh tế của Nhà nước trong nền kinh tế thị trường
định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam.
Những nội dung quản lý chủ yếu của Nhà nước ta bao gồm :
- Quyết định chiến lược phát triển kinh tế-xã hội. Toàn bộ sự phát triển của nền kinh tế
phụ thuộc trước hết vào đường lối và chiến lược phát triển kinh tế. Để xây dựng chiến
lược đúng, có căn cứ khoa học, cần phân tích đúng thực trạng kinh tế-xã hội, xác đinh rõ
mục tiêu phát triển, lựa chọn phương án tối ưu. Muốn vậy, cần thực hiện dân chủ hoá,
khoa học hoá, thể chế hoá quyết sách.
- Kế hoạch. Kế hoạch nói ở đây là kế hoạch thực hiện mục tiêu của quyết định chiến
lược. Kế hoạch xác định mục tiêu dài, trung hạn và ngắn hạn, nêu ra các biện pháp và
phương thức thực hiện các mục tiêu đó.
-Tổ chức. Tổ chức là một nội dung quản lý nhằm đảm bảo thực hiện kế hoạch đã định.
Nó bao gồm việc bố trí hợp lý cơ cấu, xác định rõ chức năng, quyền hạn, trách nhiệm các

×