Tải bản đầy đủ (.docx) (89 trang)

Quá trình hoàn thiện chính sách thuế nhập khẩu của Việt Nam trong bối cảnh hội nhập kinh tế quốc tế

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (527.38 KB, 89 trang )

TRƯỜNG ĐẠI HỌC NGOẠI THƯƠNG
KHOA KINH TẾ VÀ KINH DOANH QUỐC TẾ
***
KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP
Chuyên ngành: Thương mại quốc tế
QUÁ TRÌNH HOÀN THIỆN
CHÍNH SÁCH THUẾ NHẬP KHẨU CỦA VIỆT NAM
TRONG BỐI CẢNH HỘI NHẬP KINH TẾ QUỐC TẾ
Họ và tên sinh viên : Trịnh Thị Thùy Dương
Mã sinh viên : 0851020193
Lớp : Anh 15 - Khối 7 KT
Khóa : 47
Người hướng dẫn khoa học : TS Nguyễn Xuân Nữ
Hà Nội, tháng 5 năm 2012
MỤC LỤC
DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT
Chữ viết
tắt
Tên đầy đủ tiếng Anh Tên đầy đủ tiếng Việt
ACV
Agreement on Customs
Valuation
Hiệp định về Trị giá Hải quan
AFTA ASEAN Free Trade Area Khu vực Mậu dịch Tự do ASEAN
ACFTA ASEAN-China Free Trade Area
Khu vực mậu dịch tự do ASEAN -
Trung Quốc
AKFTA ASEAN-Korea Free Trade Area
Khu vực mậu dịch tự do ASEAN -
Hàn Quốc
AHTN


ASEAN Harmonised Tariff
Nomenclature
Danh mục thuế quan hài hoà
ASEAN
APEC
Asia-Pacific Economic
Cooperation
Diễn đàn hợp tác kinh tế châu Á -
Thái Bình Dương
ASEAN
Association of Southeast Asian
Nations
Hiệp hội các Quốc gia
Đông Nam Á
BDV Brussels Definition of Value Xác định Brussels về Giá trị
CEPT
Common Effective Preferential
Tariff
Hiệp định thuế quan ưu đãi có
hiệu lực chung
CIF Cost, Insurance and Freigh Giá thành, Bảo hiểm và Cước phí
CMEA
Council for Mutual Economic
Assistance
Hội đồng Tương trợ Kinh tế
C/O Certificate of Origin Giấy chứng nhận xuất xứ
FDI Foreign Direct Investment Đầu tư trực tiếp nước ngoài
FTZ Free Trade Zone Khu mậu dịch tự do
GATT
General Agreement on Tariffs

and Trade
Hiệp định chung về thuế quan và
thương mại
GEL General Exclusion list Danh mục Loại trừ hoàn toàn
GST Goods and Services Tax Thuế dịch vụ và hàng hoá
HS
Harmonized Commodity
Description and Coding System
Hệ thống hài hòa mô tả và mã hóa
hàng hóa
IL Inclusion list Danh mục Giảm thuế
ITA
Information Technology
Agreement
Hiệp định công nghệ thông tin
SGD Singapore dollar Đôla Singapore
SL Sensitive list Danh mục Nhạy cảm
TEL Temporary Exclusion list Danh mục Loại trừ tạm thời
USD United States dollar Đôla Mỹ
WCO World Customs Organization Tổ chức Hải quan Thế giới
WTO World Trade Organization Tổ chức Thương mại Thế giới
DANH MỤC CÁC BẢNG, HÌNH VẼ
Số hiệu
bảng
Tên bảng Trang
Bảng 1.1.
Thu cân đối ngân sách Nhà nước từ hoạt động xuất nhập khẩu
giai đoạn 2007 – 2011
9
Bảng 2.1. Số dòng thuế và tỷ trọng cắt giảm theo CEPT (2003) 28

Bảng 2.2. Mức thuế cam kết bình quân của Việt Nam trong WTO 34
Bảng 2.3.
Danh mục các nhóm mặt hàng Nhà nước quản lý giá tính thuế
nhập khẩu
38
Bảng 2.4.
Thuế suất MFN của một số mặt hàng nhập khẩu vào Việt
Nam năm 2011
55
Bảng 3.1.
Đóng góp của khu vực FDI so với các khu vực khác giai đoạn
2007 – 2009
61
1. Danh mục các bảng
Số hiệu
hình vẽ
Tên hình vẽ Trang
Hình 1.1. Biểu đồ cơ cấu thu ngân sách Nhà nước năm 2011 9
Hình 2.1.
Biểu đồ tình hình thu thuế nhập khẩu của Việt Nam giai đoạn
1992 – 1995
46
Hình 2.2.
Biểu đồ kim ngạch xuất khẩu, nhập khẩu hàng hóa và cán cân
thương mại của Việt Nam giai đoạn 2001- 2011
54
2. Danh mục hình vẽ
_5_
LỜI MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài

Toàn cầu hóa đã trở thành xu hướng tất yếu của nền kinh tế thế giới. Việt
Nam không thể đứng ngoài xu hướng này mà phải nắm bắt cơ hội để đưa đất nước
hội nhập một cách chủ động, tích cực, đạt hiệu quả cao. Hiện nay, Việt Nam đã là
thành viên của ASEAN, APEC, ASEM, đã ký kết Hiệp định thương mại Việt Nam
– Hoa Kỳ và chính thức trở thành thành viên thứ 150 của Tổ chức Thương mại thế
giới WTO kể từ ngày 11/01/2007.
Đối với Việt Nam, hội nhập sẽ mang đến cơ hội giao lưu kinh tế với nhiều
quốc gia, có thêm nhiều đối tác kinh doanh, mở rộng thị trường, thu hút nguồn vốn
đầu tư nước ngoài , từ đó có thể tận dụng được những nguồn lực từ bên ngoài để
rút ngắn khoảng cách với các nước phát triển. Tuy nhiên, nền kinh tế Việt Nam có
xuất phát điểm thấp, cơ sở vật chất còn nghèo nàn, lạc hậu, trình độ khoa học kỹ
thuật còn yếu kém cùng với hệ thống pháp luật chưa hoàn chỉnh, khả năng cạnh
tranh của các doanh nghiệp và hàng hóa Việt Nam trên thị trường thế giới vẫn bị
đánh giá ở mức thấp. Vì vậy, trong quá trình hội nhập, Nhà nước phải áp dụng
chính sách bảo hộ hợp lý để giúp các ngành kinh tế có thể đứng vững trước sự cạnh
tranh khốc liệt từ bên ngoài.
Có thể nói, chính sách thuế nhập khẩu là thước đo phản ánh rõ nhất mức độ
hội nhập và sự bảo hộ của Nhà nước đối với nền kinh tế. Vấn đề đặt ra là, cần thiết
phải xây dựng và hoàn thiện chính sách thuế nhập khẩu như thế nào để một mặt bảo
hộ đúng mức, hợp lý dựa trên năng lực cạnh tranh của nền kinh tế, mặt khác vẫn
thực hiện đầy đủ các nghĩa vụ và cam kết của Việt Nam với tư cách là thành viên
của các tổ chức kinh tế quốc tế.
Xuất phát từ nhận thức trên, em đã quyết định chọn đề tài nghiên cứu cho
khóa luận tốt nghiệp của mình là: “Quá trình hoàn thiện chính sách thuế nhập
khẩu của Việt Nam trong bối cảnh hội nhập kinh tế quốc tế”.
2. Mục đích nghiên cứu
Mục đích nghiên cứu của đề tài là phân tích làm rõ một số vấn đề lý luận và
thực tiễn về chính sách thuế nhập khẩu của Việt Nam hiện nay, mối quan hệ giữa
chính sách thuế nhập khẩu của Việt Nam với các cam kết quốc tế mà Việt Nam
_6_

tham gia, bước đầu đưa ra đánh giá về những thành tựu và hạn chế trong quá trình
hoàn thiện chính sách thuế nhập khẩu của Việt Nam giai đoạn vừa qua, từ đó đề
xuất một số giải pháp hoàn thiện chính sách này nhằm đáp ứng yêu cầu hội nhập
kinh tế quốc tế.
3. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của đề tài là chính sách thuế nhập khẩu của Việt Nam
và quá trình hoàn thiện chính sách này trong bối cảnh Việt Nam hội nhập kinh tế
quốc tế.
Phạm vi nghiên cứu của đề tài là tình hình chính sách thuế nhập khẩu của
Việt Nam từ khi ban hành Luật thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu hàng mậu dịch ngày
29/12/1987 đến nay. Phần nghiên cứu kinh nghiệm hoàn thiện chính sách thuế nhập
khẩu, người viết lựa chọn hai nước Trung Quốc và Singapore vì:
 Về Trung Quốc, tốc độ phát triển kinh tế vô cùng nhanh chóng của quốc gia này
những năm vừa qua đã chứng minh tính hiệu quả trong chính sách kinh tế vĩ mô nói
chung và chính sách thuế nhập khẩu nói riêng. Hơn nữa đặc điểm kinh tế - văn hóa -
xã hội của Trung Quốc có nhiều nét tương đồng với Việt Nam. Vì vậy, những bài
học kinh nghiệm từ Trung Quốc sẽ có giá trị thực tiễn rất lớn đối với Việt Nam
trong giai đoạn hội nhập.
 Về Singapore, đây là một quốc đảo nhỏ bé và nghèo tài nguyên nhưng luôn nằm
trong số những nước có tốc độ tăng trưởng kinh tế hàng đầu thế giới. Đạt được
thành tựu trên, một phần không nhỏ là do chính sách thuế nhập khẩu của Singapore
luôn tạo được môi trường tự do, thông thoáng cho hoạt động ngoại thương. Việt
Nam tuy chưa đạt tới trình độ phát triển như Singapore, song những kinh nghiệm từ
quá trình hoàn thiện chính sách thuế nhập khẩu của Singapope sẽ là một bài học quý
báu để Việt Nam tham khảo trong dài hạn.
4. Phương pháp nghiên cứu
- Phương pháp duy vật biện chứng và duy vật lịch sử, gắn lý luận với thực tiễn.
- Phương pháp tiếp cận thông tin, thu thập và tổng hợp tài liệu.
- Phương pháp thống kê, phương pháp so sánh, phân tích và đánh giá.
5. Nội dung nghiên cứu

Ngoài phần Lời mở đầu và Kết luận, nội dung của khóa luận được chia làm
làm 3 chương:
_7_
- Chương 1: Tổng quan về chính sách thuế nhập khẩu trong bối cảnh hội nhập
kinh tế quốc tế
- Chương 2: Quá trình hoàn thiện chính sách thuế nhập khẩu của Việt Nam trong
bối cảnh hội nhập kinh tế quốc tế
- Chương 3: Một số giải pháp nhằm hoàn thiện chính sách thuế nhập khẩu của
Việt Nam trong bối cảnh hội nhập kinh tế quốc tế
Qua đây, em xin gửi lời cảm ơn chân thành đến Cô giáo hướng dẫn – TS.
Nguyễn Xuân Nữ đã tận tình hướng dẫn và giúp đỡ em hoàn thành bài khóa luận tốt
nghiệp này.
Mặc dù đã rất nỗ lực trong quá trình thực hiện khóa luận, nhưng do hạn chế
về thời gian và kinh nghiệm nghiên cứu nên khóa luận chắc chắn không tránh khỏi
những thiếu sót. Do vậy, người viết rất mong nhận được những ý kiến đóng góp để
hoàn thiện hơn nữa hiểu biết của mình về đề tài này.
CHƯƠNG 1
TỔNG QUAN VỀ CHÍNH SÁCH THUẾ NHẬP KHẨU
TRONG BỐI CẢNH HỘI NHẬP KINH TẾ QUỐC TẾ
_8_
1.1. Lý luận chung về thuế nhập khẩu
1.1.1. Khái niệm thuế nhập khẩu
Lịch sử xã hội loài người đã chứng minh rằng, thuế ra đời là một tất yếu
khách quan gắn với sự hình thành và phát triển của Nhà nước. Trong đó, thuế được
hiểu là “một phần thu nhập mà mỗi tổ chức, các nhân có nghĩa vụ đóng góp cho
Nhà nước theo luật định để đáp ứng yêu cầu chi tiêu theo chức năng của Nhà nước”
(GS.TS Bùi Xuân Lưu (chủ biên), TS. Nguyễn Hữu Khải, Th.S Nguyễn Xuân Nữ,
2003, tr. 13). Trong hệ thống thuế của mỗi quốc gia thì thuế nhập khẩu có vai trò
đặc biệt quan trọng. Đó là một nguồn đóng góp vào ngân sách, một công cụ quản lý
hàng nhập khẩu, hướng dẫn tiêu dùng, bảo vệ thị trường trong nước. Đồng thời thuế

nhập khẩu còn là một bộ phận quan trọng trong chính sách đối ngoại, tác động
mạnh mẽ đến quá trình hội nhập kinh tế quốc tế của mỗi quốc gia.
Đứng trên góc độ là một công cụ quản lý nhập khẩu, có thể định nghĩa thuế
nhập khẩu như sau:
“ Thuế nhập khẩu là một loại thuế gián thu đánh vào các mặt hàng mậu
dịch, phi mậu dịch khi hàng hóa đi vào lãnh thổ hải quan của một nước”.
Từ định nghĩa trên, có thể rút ra một số đặc điểm cơ bản của thuế nhập khẩu,
bao gồm:
- Thuế nhập khẩu là một loại thuế gián thu, do thuế nhập khẩu là một bộ phận cấu
thành trong chi phí, làm tăng giá cả hàng nhập khẩu mà không tác động trực tiếp
đến thu nhập của người nộp thuế.
- Thuế nhập khẩu tính trên cả hàng mậu dịch và hàng phi mậu dịch. Trong đó,
hàng mậu dịch là hàng hóa nhập khẩu nhằm mục đích thương mại sinh lời, còn
hàng phi mậu dịch là hàng nhập khẩu không nhằm mục đích thương mại như: quà
biếu, quà tặng, hàng của cơ quan đại diện ngoại giao, hàng viện trợ nhân đạo, hàng
mẫu (Bộ Tài chính, 2005, Mục 3 Điểm I).
- “Lãnh thổ hải quan” trong định nghĩa trên được hiểu không chỉ là biên giới ngăn
cách lãnh thổ trong và ngoài nước mà nó còn là sự phân định giữa các khu công
nghiệp, khu chế xuất, đặc khu kinh tế với những vùng lãnh thổ bên ngoài. Như
vậy, ngay cả khi hàng hóa trong các vùng phi thuế trên được đưa ra bán tại thị
trường trong nước thì vẫn phải chịu thuế nhập khẩu.
[1]
Việt Nam bắt đầu ban hành thuế nhập khẩu vào năm 1951. Thời điểm này
thuế nhập khẩu là công cụ để Nhà nước thực hiện chức năng quản lý việc nhập khẩu
_9_
hàng hoá giữa vùng tự do và vùng bị tạm chiếm, bảo vệ và phát triển kinh tế vùng
tự do đồng thời hạn chế nhập khẩu hàng hoá từ vùng địch. Thuế suất áp dụng đối
với hàng hoá nhập khẩu là từ 30% trở lên.
Luật thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu hàng mậu dịch được Quốc hội Việt
Nam ban hành ngày 29/12 /1987. Luật này chỉ điều chỉnh quan hệ thu nộp thuế phát

sinh từ hoạt động xuất khẩu, nhập khẩu hàng mậu dịch, do đó có sự phân biệt trong
áp dụng chế độ thu thuế giữa hàng hoá mậu dịch với các loại hàng hoá phi mậu dịch
khác. Nhằm đáp ứng yêu cầu phát triển của đất nước trong giai đoạn mới, ngày
26/12/1991 Quốc hội đã thông qua Luật thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu áp dụng
thống nhất cho cả hàng mậu dịch và phi mậu dịch. Từ đó đến nay, Luật thuế xuất
khẩu, thuế nhập khẩu luôn được sửa đổi, bổ sung cho phù hợp với quá trình phát
triển kinh tế và hội nhập của Việt Nam, cụ thể là:
- Luật số 17-L/CTN sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật thuế xuất khẩu, thuế
nhập khẩu được Quốc hội thông qua ngày 05/07/1993.
- Luật số 04/1998/QH10 sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật thuế xuất khẩu,
thuế nhập khẩu được Quốc hội thông qua ngày 20/05/1998.
- Luật thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu số 45/2005/QH11 được Quốc hội thông qua
ngày 14/06/2005.
1.1.2. Phân loại thuế nhập khẩu
Tùy theo từng tiêu chí phân loại, thuế nhập khẩu được chia làm nhiều loại
[1]
Khu phi thuế quan bao gồm: khu chế xuất, doanh nghiệp chế xuất, kho bảo thuế, khu bảo thuế,
kho ngoại quan, khu kinh tế thương mại đặc biệt, khu thương mại – công nghiệp và các khu vục
kinh tế khác được thành lập theo Quyết định của Thủ tướng Chính phủ, có quan hệ mua bán trao
đổi hàng hóa giữa khu này với bên ngoài là quan hệ xuất khẩu, nhập khẩu (Chính phủ, 2010, Điều
1 Khoản 2).
khác nhau. Sau đây là một số phân loại chính mà các nước thường áp dụng.
1.1.2.1. Phân loại theo phương pháp tính thuế
 Thuế nhập khẩu tính theo giá trị (ad valorem tariff): Là loại thuế quy định mức thuế
theo một tỷ lệ phần trăm (%) nhất định trên giá hàng nhập khẩu. Ví dụ, mức thuế
MFN của Hoa Kỳ năm 2012 đối với chè xanh (không lên men) đóng gói không quá
3 kg/gói là 6,4% (United States International Trade Commission, 2012, c.9).
_10_
- Ưu điểm: đây là cách tính thuế phổ biến, dễ dàng so sánh mức thuế áp dụng giữa
các quốc gia nên thường được dùng để đàm phán, thỏa thuận trong các hiệp định về

thuế quan.
- Nhược điểm: việc áp dụng cách tính thuế theo giá làm cho số tiền thuế thu được
biến động theo sự thay đổi của giá hàng nhập khẩu. Nếu giá cả trên thị trường quốc
tế của hàng hóa giảm xuống thì thuế nhập khẩu cũng giảm theo, do đó số tiền thuế
thu được thấp và vai trò bảo hộ của thuế không rõ rệt. Ngoài ra, các tổ chức nhập
khẩu cũng có thể khai báo giá/giá trị của mặt hàng mà họ đang kinh doanh thấp hơn
nhiều so với giá thị trường nhằm mục đích giảm số tiền thuế phải nộp. Vì thế việc
áp dụng phương pháp này đòi hỏi phải xác định chính xác giá trị của hàng nhập
khẩu, gây không ít khó khăn cho cơ quan quản lý thuế.
 Thuế nhập khẩu tính theo lượng hay thuế tuyệt đối (specific tariff): Là loại thuế quy
định mức thuế theo giá trị tuyệt đối tính trên đơn vị hàng hóa nhập khẩu (số lượng,
trọng lượng, dung tích ). Ví dụ, mức thuế MFN của Hoa Kỳ năm 2012 đối với cam
là 1,9 cent/kg, đối với nho tươi trong khoảng 1,13 – 1,80 USD/m
3
hoặc được miễn
thuế tùy thời điểm nhập khẩu trong năm (United States International Trade
Commission, 2012, c.8).
- Ưu điểm: cách tính này không phụ thuộc vào giá cả lô hàng nhập khẩu, do đó các
doanh nghiệp có thể xác định trước số thuế phải nộp để tính toán chi phí kinh doanh
và công tác thu thuế được tiến hành dễ dàng, phần nào hạn chế hiện tượng gian lận
liên quan đến kê khai giá trị hàng hóa để trốn thuế, từ đó đảm bảo ổn định số thuế
thu vào ngân sách Nhà nước.
- Nhược điểm: mức thuế tuyệt đối cứng nhắc, không phù hợp với sự biến động giá cả
của thị trường và không phản ánh giá trị thực tế của lô hàng nhập khẩu, gây thất
thoát nguồn thu hoặc ảnh hưởng đến lợi ích của đối tượng nộp thuế.
 Thuế hỗn hợp (compound tarrif or mixed tarrif): Là sự kết hợp giữa thuế nhập khẩu
tính theo giá trị và tính theo lượng. Ví dụ, thuế suất MFN của Hoa Kỳ đối với nấm
mã HTS 0709.51.01 năm 2012 là 8,8 cent/kg + 20% giá trị hàng nhập (United
States International Trade Commission, 2012, c.7).
- Ưu điểm: kết hợp được ưu điểm của cả hai loại thuế nhập khẩu tính theo giá trị và

theo lượng, vừa dễ dàng so sánh mức thuế suất giữa các quốc gia, vừa phản ánh giá
trị thực tế của lô hàng và hạn chế hiện tượng gian lận trong kê khai thuế.
- Nhược điểm: cách tính này khá phức tạp và yêu cầu phải theo dõi kịp thời sự biến
động của thị trường về giá cả hàng nhập khẩu.
_11_
 Thuế lựa chọn: là loại thuế quy định cả hai cách tính theo giá trị và theo lượng, có
thể chọn một trong hai cách tính tùy theo số tiền thuế cao hay thấp.
- Ưu điểm: linh động trong cách tính thuế, dễ dàng áp dụng đối với từng trường hợp
cụ thể.
- Nhược điểm: khó quản lý hoạt động thu thuế và có thể phát sinh nhiều hiện tượng
tiêu cực do người nộp thuế luôn muốn được hưởng mức thuế thấp hơn.
1.1.2.2. Phân loại theo mục đích đánh thuế
 Thuế nhập khẩu vì mục tiêu ngân sách: Là một tập hợp các mức thuế suất được đưa
ra nhằm mục đích chính là tăng nguồn thu cho ngân sách Nhà nước. Ví dụ, thuế
quan mà một quốc gia không trồng cũng như không chế biến cà phê đánh vào cà
phê nhập khẩu có mục đích chủ yếu là tăng thu cho ngân sách.
 Thuế nhập khẩu bảo hộ: Được đưa ra với mục đích làm tăng giá đối với hàng hóa
nhập khẩu nhằm bảo hộ cho sản xuất trong nước trước sự cạnh tranh từ nước ngoài.
Ví dụ, thuế suất 20% trên giá trị máy móc nhập khẩu với giá nhập khẩu của chiếc
máy là 100 USD sẽ cho giá trị của nó sau thuế là 120 USD. Giả sử không có khoản
thuế nào khác, để đảm bảo kinh doanh có lãi các doanh nghiệp nhập khẩu phải bán
chiếc máy này ở mức giá trên 120 USD. Trong khi đó, nếu không có thuế nhập
khẩu các doanh nghiệp sản xuất trong nước muốn bán được mặt hàng tương tự chỉ
có thể tính giá ở mức 100 USD cộng với một lợi nhuận hợp lý, nhưng do Nhà nước
đã áp thuế đối với máy móc nhập khẩu nên họ có thể tính giá ở mức cao hơn, có thể
ở ngưỡng như giá bán ra của hàng nhập khẩu (sau khi chịu thuế). Vì thế các doanh
nghiệp sản xuất trong nước sẽ có khả năng thu được nhiều lợi nhuận hơn.
 Thuế quan cấm đoán: Là thuế quan đưa ra với thuế suất rất cao, gần như không còn
doanh nghiệp nhập khẩu nào dám nhập mặt hàng đó nữa.
Ranh giới giữa thuế quan tăng thu ngân sách và thuế quan bảo hộ là khá

mỏng manh và nhiều khi không thể phân biệt được. Thuế quan tăng thu ngân sách
thuần túy chỉ có thể có khi một quốc gia không có bất kỳ cơ sở sản xuất, gia công,
chế biến nào có liên quan đến mặt hàng nhập khẩu đó. Ngoài trường hợp trên, các
loại thuế quan tăng thu ngân sách hầu hết đều có tính chất bảo hộ cho sản xuất trong
nước, dù tính chất này không rõ nét như ở thuế quan bảo hộ.
1.1.2.3. Phân loại theo mức độ ưu đãi
Cách phân loại này dựa vào mức độ thuế suất cao hay thấp dành cho mỗi mặt
hàng, bao gồm:
 Thuế suất ưu đãi: Áp dụng đối với hàng hóa nhập khẩu có xuất xứ từ nước, nhóm
nước hoặc vùng lãnh thổ thực hiện quy chế tối huệ quốc trong quan hệ thương mại
_12_
với quốc gia đó. Thuế suất ưu đãi thông thường được quy định cụ thể cho từng mặt
hàng trong
biểu thuế
nhập khẩu
ưu đãi do cơ
quan chức
năng ban
hành.
 Thuế suất ưu đãi đặc biệt: Áp dụng đối với hàng hóa nhập khẩu có xuất xứ từ nước,
nhóm nước hoặc vùng lãnh thổ thực hiện ưu đãi đặc biệt về thuế nhập khẩu với
quốc gia đó theo thể chế khu vực thương mại tự do, liên minh thuế quan hoặc để tạo
thuận lợi cho giao lưu thương mại biên giới và các trường hợp ưu đãi đặc biệt khác.
 Thuế suất thông thường: Áp dụng đối với hàng hóa nhập khẩu có xuất xứ từ nước,
nhóm nước hoặc vùng lãnh thổ không thực hiện quy chế tối huệ quốc cũng như
không thực hiện ưu đãi đặc biệt về thuế nhập khẩu với quốc gia đó. Thuế suất thông
thường luôn luôn cao hơn so với thuế suất ưu đãi và thuế suất ưu đãi đặc biệt của
cùng một mặt hàng.
1.1.3. Vai trò của thuế nhập khẩu
1.1.3.1. Thuế nhập khẩu là một nguồn thu cho ngân sách Nhà nước

Thuế nhập khẩu là nguồn thu quan trọng và chiếm tỷ lệ cao trong tổng nguồn
thu của Chính phủ. Ở Việt Nam, nguồn thu cho ngân sách Nhà nước chủ yếu là các
loại thuế, lệ phí, trong đó thuế nhập khẩu chiếm gần 1/3.
Bảng 1.1. Thu cân đối ngân sách Nhà nước của Việt Nam
từ hoạt động xuất nhập khẩu
*
giai đoạn 2007 – 2011
Nguồn: Cổng thông tin điển tử Bộ tài chính, 2008;2012.
Năm Thu từ hoạt động
XNK (tỷ đồng)
Tỷ lệ thu từ hoạt động XNK/tổng
thu cân đối NSNN (%)
2007 56.500 19,62
2008 91.000 22,81
2009 105.664 23,89
2010 130.100 23,27
2011 144.000 21,35
_13_
*Chú thích: Thu cân đối ngân sách từ hoạt động xuất nhập khẩu bao gồm: thuế
xuất khẩu, thuế nhập khẩu, thuế tiêu thụ đặc biệt hàng nhập khẩu và thuế giá trị gia
tăng hàng hoá nhập khẩu.
Hình 1.1. Biểu đồ cơ cấu thu ngân sách Nhà nước của Việt Nam năm 2011
Nguồn: Cổng thông tin điển tử Bộ tài chính, 2012.
Các số liệu và biểu đồ trên cho thấy, số thu từ hoạt động xuất nhập khẩu của
Việt Nam tăng theo từng năm, cụ thể là 56.500 tỷ đồng (chiếm 19,62% tổng thu
ngân sách) năm 2007 lên tới 105.664 tỷ đồng (chiếm 23,89% tổng thu ngân sách)
năm 2009 và 144.000 tỷ đồng (chiếm 21,35% tổng thu ngân sách) năm 2011. Trên
thực tế, tỷ trọng đóng góp của thuế nhập khẩu vào ngân sách Nhà nước những năm
gần đây có xu hướng giảm đi do các hiệp định tự do hóa thương mại mà Việt Nam
tham gia. Tuy nhiên, phần giảm đi này được bù lại bởi lượng hàng hóa nhập khẩu

tăng lên và tăng thu từ thuế giá trị gia tăng, thuế tiêu thụ đặc biệt đối với hàng nhập
khẩu, do đó vẫn đảm bảo ổn định nguồn thu hàng năm cho ngân sách Nhà nước.
1.1.3.2. Thuế nhập khẩu là công cụ kiểm soát hàng nhập khẩu
Ngoài chức năng tăng thu cho ngân sách Nhà nước, thuế nhập khẩu còn là
một công cụ hữu hiệu giúp cơ quan Hải quan kiểm soát chủng loại, trị giá, số lượng,
nguồn gốc xuất xứ của các mặt hàng nhập khẩu. Thông qua việc kiểm tra tính
thuế, Hải quan có thể phát hiện các loại hàng hóa trong danh mục cấm nhập khẩu,
những mặt hàng có ảnh hưởng tới an ninh quốc gia hay phương hại đến môi trường,
đến văn hóa của nước nhập khẩu.Thương mại quốc tế càng phát triển, lượng hàng
hóa lưu thông qua biên giới hải quan của mỗi nước càng lớn nên vai trò này của
thuế nhập khẩu càng trở nên quan trọng.
1.1.3.3. Thuế nhập khẩu là công cụ bảo hộ sản xuất trong nước
_14_
Bảo hộ là những biện pháp của Chính phủ nhằm hỗ trợ sản xuất trong nước
và giảm tính cạnh tranh của hàng hóa nước ngoài trên thị trường nội địa. Một trong
những công cụ hữu hiệu để thực hiện bảo hộ chính là thuế nhập khẩu. Tùy vào
chiến lược phát triển kinh tế - xã hội và điều kiện cụ thể của mỗi quốc gia mà Nhà
nước đề ra chính sách ưu tiên hay hạn chế nhập khẩu đối với từng mặt hàng thông
qua đánh thuế nhập khẩu cao hay thấp. Căn cứ vào đó, Nhà nước xây dựng một
biểu thuế suất hợp lý cho các mặt hàng nhập khẩu.
Thuế là khoản chi lớn được tính vào giá thành nên thuế suất cao hay thấp có
ảnh hưởng rất lớn đến giá cả. Đánh thuế vào hàng nhập khẩu sẽ làm cho giá cả mặt
hàng đó ở trong nước tăng lên. Giá cả tăng lên làm giảm nhu cầu tiêu dùng, tăng sản
xuất trong nước và giảm nhập khẩu. Vì thế, đối với những ngành công nghiệp non
trẻ hoặc những ngành hàng trọng điểm thì thuế suất thường được đánh ở mức cao
nhằm bảo hộ sản xuất trong nước. Ngược lại, đối với hàng hóa là trang thiết bị, máy
móc, nguyên vật liệu phục vụ sản xuất trong nước, thuế suất thường được đánh ở
mức thấp. Giá đầu vào thấp giúp doanh nghiệp trong nước có cơ hội đổi mới công
nghệ, giảm giá thành, nâng cao chất lượng sản phẩm, tăng khả năng cạnh tranh cho
hàng sản xuất trong nước.

Trong điều kiện hội nhập quốc tế và khu vực, vai trò bảo hộ của thuế quan bị
giảm đi vì những cam kết về thuế suất trong các tổ chức kinh tế quốc tế thường rất
thấp và có xu hướng bị xóa bỏ hoàn toàn.
1.1.3.4. Thuế nhập khẩu hướng dẫn tiêu dùng trong nước
Người tiêu dùng là lực lượng lớn nhất trong xã hội. Với mức thu nhập giới
hạn, họ thường hướng tới mua hàng hóa với giá cả hợp lý, chất lượng cao. Thuế
nhập khẩu là một bộ phận cấu thành trong giá hàng hóa nhập khẩu, do đó thuế cao
hay thấp có tác dụng trực tiếp đến việc kích thích hay hạn chế tiêu dùng. Đối với
những mặt hàng thiết yếu cho đời sống vật chất và những mặt hàng nâng cao đời
sống văn hóa tinh thần cho người dân thì mức thuế nhập khẩu thường thấp. Ngược
lại, những mặt hàng trong nước sản xuất được, những mặt hàng xa xỉ, ảnh hưởng
xấu đến sức khỏe con người như rượu, bia, thuốc lá thì mức thuế nhập khẩu
thường cao hơn nhằm hạn chế tiêu dùng.
1.1.3.5. Thuế nhập khẩu góp phần giảm bớt thất nghiệp
_15_
Một trong những tác dụng tích cực của thuế nhập khẩu là giúp giảm bớt thất
nghiệp. Việc đánh thuế nhập khẩu cao sẽ khiến lượng hàng hóa nhập khẩu giảm,
nhu cầu về hàng nội địa tăng lên. Từ đó, các doanh nghiệp trong nước có động lực
để mở rộng đầu tư, phát triển sản xuất, tạọ nhiều công ăn việc làm cho người lao
động và góp phần giải quyết nạn thất nghiệp.
1.1.3.6. Thuế nhập khẩu là công cụ quan trọng trong chính sách đối ngoại của mỗi quốc
gia
Trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế, thuế là nội dung quan trọng hàng
đầu trong vấn đề đàm phán gia nhập các tổ chức kinh tế khu vực hay thế giới. Giảm
thuế giúp thương mại hàng hóa phát triển nhanh, kích thích quá trình hội nhập.
Chính phủ các nước luôn dành cho hàng hóa có xuất xứ từ những nước có thỏa
thuận thương mại, có quan hệ thân thiện với nước mình một mức thuế suất ưu đãi
hoặc ưu đãi đặc biệt nhằm đẩy mạnh quá trình phát triển thương mại với những
nước này.
Ngược lại, thuế nhập khẩu cũng là biện pháp trừng phạt đối với những nước,

những mặt hàng gây cản trở thương mại, ảnh hưởng tới sự phát triển kinh tế của
nước nhập khẩu. Mức thuế đánh trong trường hợp này tương đối cao. Ví dụ như
trường hợp Bộ Thương mại Mỹ ngày 19/3/2012 áp thuế trừng phạt lên bánh xe thép
nhập khẩu từ Trung Quốc do có những bằng chứng cho thấy Chính phủ Trung Quốc
đã trợ cấp cho các nhà sản xuất nội địa (Trúc Như, 2012).
Đối với Việt Nam, thuế nhập khẩu góp phần mở rộng quan hệ kinh tế đối
ngoại với các nước trong khu vực và trên thế giới. Thuế nhập khẩu là công cụ quan
trọng nhằm thực hiện chức năng quản lý của Nhà nước và nâng cao hiệu quả hoạt
động nhập khẩu trong cả nước.
1.2. Lý luận chung về chính sách thuế nhập khẩu
1.2.1. Khái niệm chính sách thuế nhập khẩu
Đứng trên góc độ tài chính, chính sách thuế nhập khẩu là một bộ phận của
chính sách thuế. Trong đó, chính sách thuế được hiểu là tổng thể các quan điểm, tư
tưởng, các giải pháp và công cụ mà Nhà nước sử dụng để ra quyết định về thu nhập
và huy động nguồn thu nhằm đảm bảo cho nhu cầu chi tiêu của mình.
_16_
Đứng trên góc độ thương mại, chính sách thuế nhập khẩu được hiểu là một
hệ thống các nguyên tắc, biện pháp kinh tế, hành chính và pháp luật liên quan đến
hoạt động nhập khẩu mà Nhà nước áp dụng để thực hiện các mục tiêu kinh tế xã hội
của một đất nước trong một thời kỳ nhất định. Chính sách thuế nhập khẩu là một bộ
phận cấu thành trong chính sách thương mại quốc tế của mỗi quốc gia. Nó là công
cụ hữu hiệu để thực hiện chính sách đối ngoại, phát triển quan hệ hợp tác hữu nghị
với các nước trong khu vực và thế giới. Đồng thời chính sách thuế nhập khẩu tạo
điều kiện giúp các tổ chức kinh tế tiếp cận với thị trường, khách hàng nước ngoài để
mở rộng hoạt động thương mại quốc tế. Nhiệm vụ cơ bản của chính sách thuế nhập
khẩu là tạo điều kiện thuận lợi cho các tổ chức kinh doanh tham gia vào phân công
lao động quốc tế, mở mang hoạt động xuất nhập khẩu và bảo vệ thị trường nội địa
nhằm đạt mục tiêu, yêu cầu kinh tế, chính trị, xã hội trong hoạt động kinh tế đối
ngoại.
Từ những cách tiếp cận trên, có thể rút ra cách hiểu cơ bản về chính sách

thuế nhập khẩu như sau:
Chính sách thuế nhập khẩu là hệ thống các nguyên tắc, biện pháp thích hợp
được áp dụng để điều chỉnh hoạt động nhập khẩu nhằm đảm bảo nguồn thu cho
ngân sách Nhà nước và thực hiện các mục tiêu kinh tế - xã hội của quốc gia trong
một thời kỳ nhất định.
1.2.2. Những nguyên tắc cơ bản khi xây dựng chính sách thuế nhập khẩu
1.2.2.1. Nguyên tắc tổng thể
Nguyên tắc này xem xét một cách tổng thể tác động của thuế nhập khẩu đối
với nền kinh tế của một nước.
Thuế nhập khẩu là một công cụ để bảo hộ nền sản xuất trong nước, mặt khác
thuế nhập khẩu cũng gây ra những tác động tiêu cực, những phản ứng phụ khi được
áp dụng trong nền kinh tế. Để đánh giá hiệu quả của chính sách thuế nhập khẩu, các
nhà hoạch định chính sách phải luôn quan tâm so sánh những tác động tiêu cực,
những phản ứng phụ này với những mặt tích cực của chính sách.
Khi Nhà nước đánh thuế nhập khẩu cao cũng đồng nghĩa với việc mức độ
bảo hộ sản xuất trong nước cao. Trong ngắn hạn, sản xuất có thể tăng do giá cả mặt
hàng được bảo hộ tăng lên và số lượng hàng nhập khẩu giảm, không đủ cung cấp
_17_
cho thị trường nội địa. Tuy nhiên, bảo hộ có thể khiến ngành sản xuất trong nước bị
phụ thuộc, các doanh nghiệp sản xuất ỷ lại vào sự bảo hộ của Nhà nước mà không
tự nỗ lực đổi mới công nghệ, nâng cao năng suất và chất lượng sản phẩm. Do vậy,
trong dài hạn sản xuất trong nước có thể giảm xuống do không đạt hiệu quả bền
vững và không đủ sức cạnh tranh.
Đối với người tiêu dùng, Nhà nước đánh thuế nhập khẩu khiến cho giá của
mặt hàng nhập khẩu ở thị trường nội địa tăng lên, dẫn tới người tiêu dùng bị thiệt.
Sản xuất trong nước tăng để bù vào lượng hàng nhập khẩu thiếu hụt nhưng người
tiêu dùng có thể không đạt được mức thỏa dụng như mong muốn. Trong dài hạn,
sản xuất trong nước không đáp ứng đủ nhu cầu tiêu dùng và giá cả hàng hóa vẫn
tăng cao. Do vậy, xét trong ngắn hạn và dài hạn, đánh thuế nhập khẩu đều gây ảnh
hưởng tiêu cực đến lợi ích của người tiêu dùng.

Tóm lại, nguyên tắc tổng thể yêu cầu khi xây dựng chính sách thuế nhập
khẩu, các nhà hoạch định chính sách cần tính toán, cân nhắc và lựa chọn đúng mục
tiêu: bảo hộ hay tự do thương mại, nếu bảo hộ thì mức độ như thế nào để vừa thúc
đẩy sản xuất hiệu quả vừa hạn chế tác động xấu đối với người tiêu dùng.
1.2.2.2. Tính công bằng
Tính công bằng là một đòi hỏi khách quan trong việc điều tiết thu nhập của
các tầng lớp dân cư trong xã hội. Luật thuế nhập khẩu áp dụng cho mọi đối tượng
có địa vị pháp lý giống nhau với một mức thuế suất như nhau khi nhập khẩu cùng
một mặt hàng theo một quy trình nộp thuế giống nhau.
- Công bằng theo chiều ngang: nếu các cá nhân có điều kiện về mọi mặt đều giống
nhau thì được đối xử như nhau trong việc thực hiện nghĩa vụ thuế nhập khẩu nói
riêng và nghĩa vụ thuế nói chung.
- Công bằng theo chiều dọc: thể hiện qua chính sách ưu đãi, miễn giảm thuế. Ví dụ,
đối với những ngành công nghiệp non trẻ và những ngành sản xuất trọng điểm mức
thuế bảo hộ cao; đối với nguyên liệu đầu vào sản xuất, trang thiết bị, máy móc đổi
mới công nghệ được khuyến khích nhập khẩu thông qua mức thuế ưu đãi.
1.2.2.3. Tính hiệu quả
Việc xây dựng chính sách thuế nhập khẩu phải đảm bảo tính hiệu quả đối với
nền kinh tế và hiệu quả thu thuế, ngăn chặn việc trốn thuế, gian lận thuế.
_18_
- Hiệu quả đối với nền kinh tế: chính sách thuế nhập khẩu phải đảm bảo phân bổ
hợp lý nguồn lực của xã hội.
- Hiệu quả thu thuế: chính sách thuế nhập khẩu nhằm giảm bớt chi phí hành chính
thuế, bao gồm chi phí quản lý của cơ quan thuế và những chi phí của người nộp
thuế.
1.2.2.4. Tính rõ ràng, minh bạch
Chính sách thuế nhập khẩu cần đảm bảo tính minh bạch và không phân biệt
đối xử, trừ những chính sách phân biệt được tuyên bố rõ ràng, ví dụ chính sách
khuyến khích cho doanh nghiệp mới thành lập hay ưu đãi thuế cho những lĩnh vực
Nhà nước cần khuyến khích đầu tư Tính rõ ràng, minh bạch của chính sách thuế

nhập khẩu được thể hiện cụ thể như sau:
- Xác định rõ ràng đối tượng nộp thuế, đối tượng chịu thuế.
- Quy định cụ thể mức thuế nhập khẩu phải nộp, thời hạn nộp, miễn giảm, ưu đãi thuế
nhập khẩu cũng như xử lý vi phạm.
- Các phi phí tính thuế nhập khẩu phải minh bạch, có tiêu chí thống nhất.
- Người nộp thuế nhập khẩu có thể tính toán chính xác được hiệu quả kinh doanh,
nghĩa vụ nộp thuế cũng như dễ dàng thực hiện các thủ tục về thuế. Đây là yếu tố
quan trọng để giảm bớt các chi phí hành chính thuế cũng như tăng cường thu hút
vốn đầu tư trong nước và đầu tư nước ngoài để phát triển kinh tế.
1.2.2.5. Tính linh hoạt
Xây dựng chính sách thuế nhập khẩu phải đảm bảo khả năng dễ thích ứng
với sự thay đổi của hoàn cảnh kinh tế trong thời kỳ hội nhập. Đồng thời khi hoạch
định chính sách thuế nhập khẩu phải đảm bảo can thiệp ở mức độ, thời điểm và đối
tượng thích hợp mới có thể tạo ra sự ổn định và đáp ứng được mục tiêu kinh tế - xã
hội của đất nước.
- Về mức độ can thiệp: chính sách thuế nhập khẩu phải đảm bảo sao cho phù hợp với
các cam kết quốc tế nhưng vẫn có thể thực hiện vai trò bảo hộ cho sản xuất trong
nước.
- Về thời điểm: tùy từng giai đoạn phát triển có những thuận lợi và thách thức riêng
nên chính sách thuế nhập khẩu cũng cần thay đổi cho phù hợp với thực tiễn yêu cầu
của quốc gia và quốc tế.
- Về đối tượng: tùy từng mặt hàng mà có chính sách khuyến khích hay hạn chế nhập
khẩu.
_19_
1.2.2.6. Tính chắc chắn
Ở những nước đang phát triển, hệ thống thuế quan thường thiếu chắc chắn
trong việc xác định tác động của thuế và tổ chức thu thuế. Điều này gây khó khăn
rất lớn cho các doanh nghiệp xuất nhập khẩu trong việc lên kế hoạch kinh doanh. Vì
trị giá giao dịch của hoạt động xuất nhập khẩu thường rất lớn nên rủi ro về hệ
thống thuế quan có thể gây ảnh hưởng nghiêm trọng đến lợi nhuận của doanh

nghiệp. Người nộp thuế phải có được sự chắc chắn trong việc diễn giải pháp luật
của cơ quan thuế. Để đảm bảo tính chắc chắn trong chính sách thuế nhập khẩu, cơ
quan quản lý thuế phải thiết lập một cơ chế phù hợp, rõ ràng đối với các qui định,
chống đánh thuế phức tạp gây khó khăn cho cả người thu thuế và người nộp thuế.
1.2.3. Những nhân tố ảnh hưởng đến chính sách thuế nhập khẩu
1.2.3.1. Yếu tố chính trị
Nhà nước là một tổ chức chính trị, thi hành các chính sách do giai cấp thống
trị đặt ra nhằm thực hiện các mục tiêu của Nhà nước và phục vụ cho hệ thống chính
trị. Bản thân các quy định về thuế lại do Nhà nước ban hành nên thể chế chính trị
của Nhà nước có ý nghĩa quyết định đến hệ thống thuế nói chung và thuế nhập khẩu
nói riêng. Từ đó, yếu tố chính trị tác động đến chính sách thuế nhập khẩu và quản lý
thuế nhập khẩu, đảm bảo sao cho chính sách này phù hợp với mục tiêu và chiến
lược của Nhà nước trong từng thời kỳ.
1.2.3.2. Yếu tố kinh tế
Thuế nhập khẩu là một phần thu nhập của nền kinh tế quốc dân được tập
trung vào ngân sách Nhà nước. Thuế nhập khẩu luôn luôn gắn liền với hoạt động
sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp nhập khẩu. Nguồn thu từ thuế nhập khẩu
chỉ có thể ổn định, tăng trưởng trên cơ sở nền kinh tế phát triển một cách hiệu quả.
Những yếu tố kinh tế thường tác động đến chính sách thuế nhập khẩu là mức
độ tăng trưởng của nền kinh tế quốc dân, cơ cấu kinh tế, thu nhập bình quân đầu
người, giá cả, quan hệ cung - cầu trên thị trường…
1.2.3.3. Yếu tố xã hội
Hệ thống thuế nói chung và thuế nhập khẩu nói riêng đều được thực thi do
các cơ quan quản lý và các tầng lớp dân cư trong xã hội. Vì thế, yếu tố xã hội tác
_20_
động đến việc xây dựng, hoạch định chính sách thuế nhập khẩu và quản lý thuế
nhập khẩu.
Chính sách thuế nhập khẩu phù hợp với thông lệ quốc tế nhưng phải phù hợp
với cả điều kiện cụ thể của các quốc gia áp dụng như phong tục tập quán, trình độ
văn hoá, xã hội, truyền thống dân tộc, kết cấu giai cấp trong xã hội

1.3. Những nguyên tắc ràng buộc về thuế nhập khẩu trong WTO
1.3.1. Nguyên tắc không phân biệt đối xử
Nguyên tắc không phân biệt đối xử là nguyên tắc cơ bản nhất điều chỉnh mọi
hoạt động của một tổ chức kinh tế quốc tế. Đây cũng là nguyên tắc bắt buộc đối với
mỗi quốc gia khi muốn gia nhập vào các tổ chức này. Nguyên tắc không phân biệt
đối xử bao gồm hai bộ phận: Nguyên tắc tối huệ quốc và Nguyên tắc đối xử quốc
gia.
1.3.1.1. Nguyên tắc tối huệ quốc (MFN – Most Favoured Nation)
Nguyên tắc tối huệ quốc là một trong những nguyên tắc pháp lý quan trọng
nhất của WTO. Tầm quan trọng đặc biệt của nguyên tắc này được thể hiện ngay tại
Điều 1 của Hiệp định GATT 1994: “những lợi ích, ưu đãi, đặc quyền hoặc miễn
giảm mà các nước thành viên này áp dụng cho những sản phẩm nhập khẩu của các
nước khác phải được áp dụng vô điều kiện, không chậm trễ đối với những sản phẩm
cùng loại nhập khẩu từ bất kỳ nước thành viên nào hay xuất khẩu sang bất kỳ nước
thành viên nào”.
Nội dung của nguyên tắc tối huệ quốc là các nước tham gia dành cho nhau
những ưu đãi không kém hơn những ưu đãi mà mình đã hoặc sẽ dành cho bất kỳ
một nước thứ ba nào khác. Những ưu đãi này phải được công khai, minh bạch để
mọi thành viên đều biết và phải được ghi rõ ràng trong biểu thuế của quốc gia đó.
1.3.1.2. Nguyên tắc đối xử quốc gia (NT – National Treatment)
Nguyên tắc đối xử quốc gia được quy định tại Điều 3 GATT 1994 như sau:
“Một mặt hàng nhập khẩu sau khi đã đi qua biên giới và đã trả các khoản thuế
quan cũng như các khoản phí khác, sẽ không bị đối xử kém ưu đãi hơn so với sản
phẩm nội địa tương ứng”.
Mục tiêu của nguyên tắc này là tránh sự phân biệt đối xử giữa hàng nội địa
và hàng nhập khẩu, tạo sự công bằng trong cạnh tranh cho hàng hóa trong và ngoài
_21_
nước. Cơ chế hoạt động của nguyên tắc này là: bất kỳ một sản phẩm nhập khẩu nào,
sau khi đã qua biên giới, trả xong thuế nhập khẩu và các chi phí khác tại cửa khẩu,
bắt đầu đi vào thị trường nội địa, sẽ được hưởng sự đối xử ngang bằng (không kém

ưu đãi hơn) với sản phẩm tương tự được sản xuất trong nước, ví dụ như không phải
chịu những mức thuế, lệ phí, thủ tục kinh doanh hay bị áp đặt những tiêu chuẩn kỹ
thuật, vệ sinh an toàn thực phẩm cao hơn so với hàng hóa nội địa. Trong trường hợp
nguyên tắc trên không được áp dụng, hàng hóa dù đã nộp thuế nhập khẩu vẫn có thể
phải chịu những biện pháp phân biệt đối xử khác, do đó việc cắt giảm thuế quan sẽ
không còn tác dụng mở rộng hoạt động xuất nhập khẩu hàng hóa trong các tổ chức
kinh tế quốc tế.
1.3.2. Nguyên tắc công khai, minh bạch
Ðây là nguyên tắc quan trọng hàng đầu trong WTO. Mục tiêu của nguyên tắc
này là các nước thành viên có nghĩa vụ đảm bảo tính ổn định và có thể dự báo trước
được về các cơ chế, chính sách, quy định thương mại của mình nhằm tạo điều kiện
thuận lợi cho các nhà đầu tư, kinh doanh nước ngoài có thể hiểu, nắm bắt được lộ
trình thay đổi chính sách, nội dung các cam kết về thuế quan của nước chủ nhà. Từ
đó, doanh nghiệp có thể dễ dàng hoạch định kế hoạch đầu tư, kinh doanh mà không
sợ sự thay đổi đột ngột của chính sách làm tổn hại tới kế hoạch kinh doanh của
mình.
Một trong những mục tiêu của WTO là các thành viên dành ưu đãi, nhân
nhượng về thuế quan cho nhau. Song để chắc chắn là các mức thuế quan đã đàm
phán phải được cam kết và không thay đổi theo hướng tăng thuế suất, gây bất lợi
cho các nước đối tác, sau khi đàm phán mức thuế suất đã thoả thuận sẽ được ghi
vào một bản danh mục thuế quan. Ðây gọi là các mức thuế suất ràng buộc. Nói cách
khác, ràng buộc là việc đưa ra danh mục ấn định các mức thuế ở mức tối đa nào đó
và không được phép tăng hay thay đổi theo chiều hướng bất lợi cho các doanh
nghiệp nước ngoài. Một nước có thể sửa đổi, thay đổi mức thuế đã cam kết, ràng
buộc chỉ sau khi đã đàm phán với đối tác của mình và phải đền bù thiệt hại do việc
tăng thuế đó gây ra.
Nhờ có nguyên tắc này, các doanh nghiệp nước ngoài tin chắc rằng hàng rào
thuế quan một nước sẽ không bị tăng hay thay đổi một cách tuỳ tiện. Ðây là nỗ lực
_22_
của hệ thống thương mại đa biên nhằm yêu cầu các thành viên của WTO tạo ra một

môi trường thương mại ổn định, minh bạch và dễ dự đoán.
1.3.3. Nguyên tắc bảo hộ
WTO hướng tới một nền thương mại tự do toàn cầu, nhưng WTO cũng công
nhận rằng, trình độ phát triển của các nước còn khác nhau và mỗi nước có những
mục tiêu phát triển riêng. Vì thế, WTO cho phép các nước duy trì bảo hộ chống lại
sự cạnh tranh của nước ngoài. Sự bảo hộ này được phép duy trì với hai điều kiện: ở
mức độ hợp lý và thể hiện thông qua thuế quan. Việc bảo hộ thông qua thuế quan
nhằm đảm bảo tính minh bạch, dễ dự đoán. Thuế quan thể hiện bằng đại lượng rõ
ràng là những con số, do đó người ta có thể dễ dàng nhận thấy mức độ bảo hộ dành
cho một mặt hàng, ngành hàng. Thuế quan cao tức là mức độ bảo hộ cao, vì như
vậy hàng hóa tương tự của nước ngoài khó xâm nhập thị trường. Ngược lại, thuế
quan thấp tức là mức độ bảo hộ thấp. Thông qua đàm phán và lịch trình cắt giảm
thuế quan của một nước, người ta cũng dễ dàng hơn trong việc dự đoán tốc độ cắt
giảm thuế quan, đồng nghĩa với những thay đổi trong mức độ bảo hộ thị trường.
Trên thực tế, các quốc gia sử dụng nhiều biện pháp để bảo hộ nền kinh tế
trong nước như biện pháp thuế quan, phi thuế quan (ví dụ: hạn chế định lượng, các
tiêu chuẩn kỹ thuật ). Tuy nhiên, các biện pháp phi thuế không đảm bảo sự rõ ràng,
minh bạch nên rất dễ làm méo mó hoạt động thương mại hàng hóa quốc tế. Vì thế
WTO yêu cầu các biện pháp phi thuế quan phải được thuế hóa, định lượng rõ ràng.
Nói cách khác, trong thương mại quốc tế chỉ chấp nhận những biện pháp bảo hộ
bằng thuế quan, mà mức thuế cam kết khi gia nhập các tổ chức này rất thấp nên vai
trò bảo hộ sản xuất trong nước của thuế nhập khẩu bị giảm đi rõ rệt.
1.3.4. Nguyên tắc có đi có lại
Nguyên tắc có đi có lại hay còn được gọi là nguyên tắc tương hỗ, có nghĩa là
các quốc gia dành cho nhau những ưu đãi, nhân nhượng tương xứng nhau trong
quan hệ buôn bán. Điều này thể hiện tính bình đẳng trong quan hệ thương mại giữa
hai nước. Tuy nhiên, sự cân bằng giữa được và mất, cho và nhận không phải lúc nào
cũng có cùng một tác động đối với mỗi bên tham gia. Trên thực tế, hai quốc gia
cùng dành cho nhau ưu đãi về thuế suất của một mặt hàng nhưng nước nào có thế
mạnh nhiều hơn về mặt hàng đó sẽ thu được lợi ích lớn hơn. Ngoài ra, mức độ ưu

_23_
đãi và điều kiện nhân nhượng còn phụ thuộc vào tiềm lực kinh tế của các bên tham
gia. Ngày nay việc áp dụng nguyên tắc tương hỗ đang dần bị thu hẹp vì nó mang
tính chất phân biệt đối xử với nước thứ ba, đồng thời gây bất lợi cho bên yếu hơn.
1.3.5. Nguyên tắc ràng buộc cắt giảm thuế quan
Khi gia nhập bất kỳ tổ chức kinh tế quốc tế nào cũng đòi hỏi các nước thành
viên phải cam kết cắt giảm thuế quan, mở cửa rộng rãi thị trường trong nước, tạo
môi trường thông thoáng nhằm thúc đẩy thương mại hàng hóa phát triển. Những
nhượng bộ trong các cuộc đàm phán thường là cam kết cắt giảm mức thuế suất hoặc
khống chế mức thuế trần. Bên cạnh đó phải có lộ trình cắt giảm cụ thể, đảm bảo tiến
trình cắt giảm được rõ ràng, giúp các nhà kinh doanh chủ động xây dựng chính sách
kinh doanh hợp lý.
1.3.6. Nguyên tắc bảo hộ phòng ngừa bất trắc
Nguyên tắc này cho phép các nước thành viên được áp dụng các biện pháp
bảo vệ tạm thời để bảo vệ khẩn cấp thị trường trong nước trước những biến động
bất ngờ gây ảnh hưởng xấu đến thương mại hàng hóa. Đây là biện pháp trừng phạt
đối với việc cạnh tranh không lành mạnh trong thương mại quốc tế, bao gồm: thuế
chống bán phá giá, thuế đối kháng, biện pháp tự vệ khẩn cấp.
Bán phá giá được định nghĩa là hoạt động bán sản phẩm ra nước ngoài ở
mức giá thấp hơn “giá trị hợp lý” của sản phẩm. Giá trị hợp lý là giá bán ở thị
trường nước nhà. Trong trường hợp giá bán ở nước nhà không tồn tại hay thị trường
nước nhà quá nhỏ thì giá trị hợp lý là giá bán cao nhất của sản phẩm xuất sang một
nước thứ ba hay là chi phí sản xuất ở nước nhà cộng với một mức chi phí bán hàng
và lợi nhuận nhất định. Khi bán phá giá ở nước nhập khẩu, hàng hóa có giá bán thấp
làm cho hàng hóa trong nước kém khả năng cạnh tranh với hàng hóa nhập khẩu,
gây thiệt hại cho sản xuất nội địa. Để đối phó với trường hợp cạnh tranh không lành
mạnh này, WTO cho phép các nước thành viên nhập khẩu đưa ra loại thuế chống
bán phá giá nhằm tạo nguồn tài chính bù đắp những thiệt hại do hiện tượng bán phá
giá gây nên.
Trong WTO có quy định cho phép các nước thành viên có thể trợ cấp cho

các ngành sản xuất non trẻ, có tiềm năng phát triển cao có thể chiếm lĩnh được thị
trường (tuy nhiên không cho phép trợ cấp nông sản). Mặc dù vậy, Chính phủ các
_24_
nước không được trợ cấp quá mức gây thiệt hại cho ngành sản xuất công nghiệp ở
nước nhập khẩu. Nếu một nước nào đó vi phạm, nước nhập khẩu có quyền áp dụng
thuế đối kháng để hạn chế thiệt hại do trợ cấp gây nên. Đối với những nước có thu
nhập bình quân đầu người dưới 1000 USD/năm, WTO cho phép duy trì các biện
pháp trợ cấp bị cấm như: trợ cấp xuất khẩu, trợ cấp nông sản nhưng không được
trợ cấp nhằm thay thế nhập khẩu.
Trong trường hợp hàng hóa nhập khẩu tăng đột ngột do việc thực thi những
cam kết, những nhượng bộ trong đàm phán, gây thiệt hại cho sản xuất trong nước
thì Chính phủ của quốc gia đó có thể khẩn cấp đưa ra các biện pháp tự vệ tạm thời,
kể cả biện pháp hạn chế số lượng để khắc phục tình trạng bất ổn do hàng nhập khẩu
ồ ạt gây nên.
Như vậy, việc tham gia vào thị trường quốc tế đòi hỏi các nước phải có
những đổi mới trong cơ chế, chính sách để phù hợp với cam kết chung, đảm bảo
quy tắc và lộ trình thực hiện. Mặc dù các nước đang phát triển được hưởng những
ưu đãi nhất định, nhưng việc thực thi những cam kết trong các tổ chức đó vẫn gặp
nhiều khó khăn. Vấn đề đặt ra là, các nước phải có những cân đối, nhìn nhận thực
lực của quốc gia mình, tránh trường hợp chưa nhận được những tác động tích cực
của việc hội nhập đã phải gánh chịu những hậu quả do cạnh tranh khốc liệt gây ra.
1.4. Kinh nghiệm hoàn thiện chính sách thuế nhập khẩu của một số nước trong tiến
trình hội nhập
1.4.1. Tham khảo chính sách thuế nhập khẩu của Trung Quốc
Để xây dựng khuôn khổ cơ bản về chính sách thuế quan, ngày 22/01/1987
Quốc vụ viện Trung Quốc đã phê chuẩn Luật Hải quan và các quyết định về thuế
quan. Các văn bản luật và dưới luật này đã được sửa đổi nhiều lần cho phù hợp với
điều kiện, hoàn cảnh thực tế và hợp thành hệ thống thuế quan của Trung Quốc.
Trước khi mở cửa, Trung Quốc sử dụng chính sách bảo hộ sản xuất trong
nước nên mức thuế nhập khẩu luôn ở mức cao. Bắt đầu từ năm 1990, Trung Quốc

liên tục cắt giảm thuế quan đánh vào hàng hóa nhập khẩu nên mức thuế quan trung
bình đã giảm dần. Cụ thể, trong giai đoạn 1990 – 1995, mức thuế quan trung bình
của Trung Quốc giảm chậm (42,5% ở năm 1992 xuống 35,9% vào năm 1995). Sang
giai đoạn 1996 – 2000, mức thuế quan trung bình giảm rất nhanh (23% vào năm
1996 xuống 16,4% vào năm 2000). Đặc biệt sau khi là thành viên của WTO mức
_25_
thuế quan trung bình chỉ còn 12% (năm 2002). Đến năm 2005 bình quân thuế quan
các sản phẩm công nghiệp giảm còn 10,8% (Bách khoa toàn thư mở Wikipedia,
2012 A). Có thể nói, chính sách cắt giảm thuế nhập khẩu đã có tác động tốt đối với
nền kinh tế Trung Quốc, sức chịu đựng của nền kinh tế tăng lên, đồng thời các
doanh nghiệp trong nước dần thích ứng với môi trường cạnh tranh mới khi thuế
nhập khẩu giảm.
Kể từ khi thực hiện mở cửa nền kinh tế, Trung Quốc đã có rất nhiều thay đổi
trong chính sách thuế nhập khẩu, cụ thể như sau:
Về xác định trị giá tính thuế:
Trước khi gia nhập WTO, Trung Quốc đã áp dụng một số qui định mới về trị
giá tính thuế. Theo đó, Hải quan Trung Quốc ấn định giá tính thuế cho tất cả hàng
nhập khẩu theo giá thị trường. Để thực hiện công việc này, nhân viên hải quan phải
truy cập vào hệ thống dữ liệu về giá trị hàng nhập khẩu, đưa ra bảng kê trị giá tương
ứng cho từng mặt hàng nhập khẩu, trên cơ sở giá thị trường quốc tế, giá thị trường
nước ngoài và giá nội địa. Nhân viên hải quan kiểm tra giá trị do nhà nhập khẩu kê
khai so với bảng kê này. Thông thường, nhân viên Hải quan chấp nhận giá nhà nhập
khẩu kê khai. Tuy nhiên, nếu giá trị kê khai chênh lệch quá lớn so với bảng giá qui
định thì nhân viên hải quan sẽ tự ước tính giá trị của hàng hoá dựa trên phương
pháp ghi trong mục 7 của Các biện pháp xác định trị giá hải quan cho hàng xuất
nhập khẩu của Trung Quốc. Bên cạnh đó, Bảng giá tối thiểu tính thuế vẫn được áp
dụng trong những trường hợp không đủ điều kiện hoặc nhóm hàng Nhà nước quản
lý giá. Tuy nhiên số dòng hàng mà Nhà nước quản lý thông qua việc xây dựng Bảng
giá tối thiểu để làm căn cứ tính thuế nhập khẩu ngày càng giảm dần nhằm phù hợp
với xu hướng hội nhập.

Sau khi gia nhập WTO, Trung Quốc áp dụng giá tính thuế đối với hàng nhập
khẩu là giá CIF, bao gồm giá giao dịch thông thường của hàng hoá, cộng chi phí
đóng gói, cước vận chuyển, phí bảo hiểm và tiền hoa hồng của người bán. Do vậy,
dù thuế suất có giảm xuống nhưng tổng số thu thuế của Trung Quốc vẫn cao. Bằng
cách này, một mặt Trung Quốc đảm bảo thực hiện giá tính thuế nhập khẩu theo
đúng Hiệp định về Trị giá tính thuế của Tổ chức Hải quan Thế giới, mặt khác vẫn
ổn định số thu thuế đóng góp vào ngân sách quốc gia và bảo hộ thị trường nội địa.

×