Tải bản đầy đủ (.pdf) (115 trang)

Bài giảng đường lối cách mạng của đảng cộng sản việt nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (2 MB, 115 trang )

TRƯỜNG ĐẠI HỌC TÂY ĐƠ
KHOA CƠ BẢN
Bộ mơn Lý luận chính trị

ĐỀ CƯƠNG BÀI GIẢNG

ĐƯỜNG LỐI CÁCH MẠNG
CỦA ĐẢNG CỘNG SẢN
VIỆT NAM
SOẠN THEO GIÁO TRÌNH CỦA BỘ GIÁO DỤC & ĐÀO TẠO.
XUẤT BẢN LẦN THỨ X, NĂM 2017
DÀNH CHO SINH VIÊN ĐẠI HỌC,
CAO ĐẲNG, KHỐI KHÔNG CHUYÊN NGÀNH CHỦ NGHĨA MÁC- LÊNIN,
TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH
Giảng viên: NGUYỄN THỊ THÚY VÂN

CẦN THƠ - THÁNG 1 2 - 2019



LỜI MỞ ĐẦU
Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời ngày 3 tháng 2 năm 1930, do chủ tịch Hồ Chí
Minh sáng lập và rèn luyện; Đảng đã lãnh đạo nhân dân ta tiến hành cách mạng tháng
Tám năm 1945 thắng lợi, lập nên nước Việt Nam dân chủ cộng hòa, Nhà nước dân chủ
nhân dân đầu tiên ở Đông Nam Châu Á; Đảng đã lãnh đạo nhân dân ta đánh thắng các
thế lực đế quốc xâm lược, giành độc lập, tự do, thống nhất đất nước; tiến hành công
cuộc đổi mới thắng lợị, được nhân dân ta tin tưởng và thế giới ca ngợi. Những thắng
lợi trên đây trước hết là do Đảng đã đề ra đường lối, chủ trương, chính sách về mục
tiêu, phương hướng, nhiệm vụ và giải pháp đúng đắn, sáng tạo cho cách mạng Việt
Nam.
Để góp phần thực hiện chủ trương của Đảng và Nhà nước về việc nâng cao chất


lượng giảng dạy và học tập các môn khoa học Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh
trong trường Đại học Tây Đơ chúng tơi biên soạn tập Đề cương Bài giảng này này tập
hợp những nội dung bảo đảm tính hệ thống, có trọng điểm, bám sát giáo trình mơn học
“Đường lối cách mạng của Đảng cộng sản Việt Nam” do Bộ Giáo dục và Đào tạo xuất
bản lần thứ 10, năm 2017.
Do những hạn chế khách quan và chủ quan, Đề cương bài giảng khơng tránh khỏi
thiếu sót. Rất mong nhận được nhiều ý kiến góp ý của đồng nghiệp và sinh viên, để Đề
cương bài giảng ĐƯỜNG LỐI CÁCH MẠNG CỦA ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT
NAM được hồn thiện và góp phần vào việc học tập, quán triệt đường lối cách mạng
của Đảng Cộng sản Việt Nam cho sinh viên một cách thiết thực.
Trân trọng cám ơn.

1


CHƯƠNG MỞ ĐẦU
ĐỐI TƯỢNG, NHIỆM VỤ VÀ PHƯƠNG PHÁP
NGHIÊN CỨU MÔN ĐƯỜNG LỐI CÁCH MẠNG
CỦA ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM
1. ĐỐI TƯỢNG VÀ NHIỆM VỤ NGHIÊN CỨU
1.1. Đối tượng nghiên cứu
1.1.1. Khái niệm “đường lối cách mạng của Đảng Cộng sản Việt Nam”
Đảng Cộng sản Việt Nam thành lập ngày 3-2-1930, là đội tiên phong của giai cấp
công nhân, đồng thời là đội tiên phong của nhân dân lao động và của dân tộc Việt
Nam; đại biểu trung thành lợi ích của giai cấp công nhân, nhân dân lao động và của
dân tộc. Đảng Cộng sản Việt Nam lấy chủ nghĩa Mác- Lê nin và tư tưởng Hồ Chí
Minh làm nền tảng tư tưởng, kim chỉ nam cho hành động; lấy tập trung dân chủ làm
nguyên tắc tổ chức cơ bản.
Thấm nhuần chủ nghĩa Mác- Lê nin, Đảng đã đề ra đường lối cách mạng đúng
đắn và trực tiếp lãnh đạo cách mạng nước ta giành được những thắng lợi vĩ đại: Thắng

lợi của cách mạng Tháng Tám năm 1945, đập tan ách thống trị của thực dân, phong
kiến lập nên nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa; thắng lợi của các cuộc kháng chiến
chống xâm lược mà đỉnh cao là chiến thắng Điện Biên Phủ năm 1954 và đại thắng
mùa Xuân năm 1975, giải phóng dân tộc thống nhất đất nước, bảo vệ Tổ quốc, làm
tròn nghĩa vụ quốc tế; thắng lợi của công cuộc đổi mới, tiến hành cơng nghiệp hóa,
hiện đại hóa và hội nhập quốc tế, tiếp tục đưa đất nước từng bước quá độ lên chủ
nghĩa xã hội với nhận thức và tư duy mới đúng đắn phù hợp với thực tiễn Việt Nam.
Đường lối đúng là nguyên nhân cơ bản đầu tiên đảm bảo cho cách mạng Việt
Nam giành thắng lợi; để có đường lối đúng, Đảng đã nắm vững và vận dụng sáng tạo
chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh vào thực tiễn, bám sát thực tiễn tìm
tịi nghiên cứu, nắm bắt quy luật khách quan; chống chủ quan, duy ý chỉ, máy móc học
kinh nghiệm nước ngồi.
Đường lối cách mạng của Đảng Cộng sản Việt Nam là hệ thống các quan điểm,
chủ trương, chính sách, mục tiêu, phương hướng, nhiệm vụ và giải pháp của cách
mạng Việt Nam được thể hiện trong cương lĩnh, nghị quyết của Đảng.
Về tổng thể, đường lối cách mạng của Đảng bao gồm đường lối đối nội và đường
lối đối ngoại.
Đường lối cách mạng của Đảng là tồn diện và phong phú. Có đường lối chính
trị chung xun suốt cả q trình cách mạng. Có đường lối cho từng thời kỳ cách
mạng. Có đường lối cho từng lĩnh vực hoạt động.
2


Đường lối cách mạng của Đảng chỉ có giá trị chỉ đạo thực tiễn khi phản ảnh đúng
quy luật vận động khách quan.
1.1.2. Đối tượng nghiên cứu của môn học
Môn học Đường lối cách mạng của Đảng CSVN cơ bản nghiên cứu sự ra đời của
Đảng Cộng sản Việt Nam và đường lối do Đảng đề ra trong tiến trình lãnh đạo cách
mạng Việt Nam từ năm 1930 đến nay.
Đối tượng nghiên cứu cơ bản của môn học là hệ thống quan điểm, chủ trương,

chính sách, của Đảng trong tiến trình cách mạng Việt Nam- từ cách mạng dân tộc dân
chủ nhân dân đến cách mạng xã hội chủ nghĩa.
Môn Đường lối cách mạng của Đảng cộng sản Việt Nam, có quan hệ mật thiết
với mơn Những ngun lý cơ bản của chủ nghĩa Mác –Lê nin và môn Tư tưởng Hồ
Chí Minh. Vì đường lối cách mạng của Đảng là sự vận dụng sáng tạo chủ nghĩa MácLê nin và tư tưởng Hồ Chí Minh vào thực tiễn cách mạng Việt Nam. Do đó nắm vững
hai mơn học này sẽ trang bị cho sinh viên tri thức và phương pháp luận khoa học để
nhận thức và thực hiện đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng, một cách sâu sắc
và toàn diện hơn.
1.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
Một là, nghiên cứu sự ra đời tất yếu của Đảng Cộng sản Việt Nam- chủ thể hoạch
định đường lối cách mạng Việt Nam.
Hai là, làm rõ quá trình hình thành, bổ sung đường lối cách mạng của Đảng. Đặc
biệt là làm rõ đường lối của Đảng trên một số lĩnh vực của thời kỳ đổi mới.
Ba là, làm rõ kết quả thực hiện đường lối cách mạng của Đảng trên một số lĩnh
vực cơ bản trong tiến trình cách mạng Việt Nam.
Yêu cầu đối với người dạy: phải nắm vững Cương lĩnh đường lối của Đảng theo
yêu cầu của môn học và cập nhật đường lối quan điểm của Đảng một cách thường
xuyên qua các kỳ Đại hội Đảng, qua các Hội nghị Ban chấp hành Trung ương Đảng;
giảng dạy gắn lý luận với thực tiễn.
Đối với người học, nắm vững những nội dung cơ bản để vận dụng trong học tập
và công tác.
2. PHƯƠNG PHÁP VÀ Ý NGHĨA CỦA VIỆC HỌC TẬP MÔN HỌC
2.1. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu
2.1.1. Cơ sở phương pháp luận
Nghiên cứu Đường lối cách mạng của Đảng Cộng sản Việt Nam phải dực trên cơ
sở thế giới quan và phương pháp luận khoa học của chủ nghĩa Mác- Lê nin, các quan
điểm có tính chất phương pháp luận của Hồ Chí Minh, các quan điểm của Đảng.
2.1.2. Phương pháp nghiên cứu
Khi nghiên cứu phải kết hợp chặt chẽ phương pháp lịch sử với logic là cơ bản nhất
và các phương pháp nghiên cứu liên ngành như: phân tích, tổng hợp, so sánh; chú trọng

3


gắn việc hoạch định đường lối của Đảng với kết quả thực hiện đường lối để làm rõ ưu
điểm, khuyết điểm của việc đề ra và lãnh đạo, chỉ đạo thực hiện đường lối đã đề ra.
2.2. Ý nghĩa học tập của môn học
Trang bị cho người học những hiểu biết cơ bản về quá trình ra đời của Đảng,về
đường lối của Đảng trong cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân, cách mạng xã hội chủ
nghĩa, đặc biệt là đường lối đổi mới của Đảng.
Bồi dưỡng niềm tin, niềm tự hào có cơ sở khoa học và thực tiễn về sự lãnh đạo
của Đảng, từ đó định hướng phấn đấu theo mục tiêu, lý tưởng của Đảng; nâng cao ý
thức trách nhiệm công dân trước những nhiệm vụ trọng đại của đất nước.
Học tập môn này tạo cơ sở vận dụng kiến thức đã học chủ động, tích cực đóng góp
phần mình thực hiện các nhiệm vụ xây dựng và bảo vệ Tổ quốc theo mục tiêu: “Dân giàu,
nước mạnh, dân chủ, công bằng và văn minh”, vững bước tiến theo con đường xã hội chủ
nghĩa mà Hồ Chí Minh, Đảng Cộng sản Việt Nam và nhân dân ta đã lựa chọn.
-------CÂU HỎI
1. Phân tích khái niệm Đường lối cách mạng của Đảng cộng sản Việt Nam. Cho
ví dụ.
2. Phân tích đối tượng, nhiệm vụ và phương pháp nghiên cứu môn học Đường
lối cách mạng của Đảng cộng sản Việt Nam.

4


CHƯƠNG 1
SỰ RA ĐỜI CỦA ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM
VÀ CƯƠNG LĨNH CHÍNH TRỊ ĐẦU TIÊN CỦA ĐẢNG
Mục tiêu của chương:
- Về kiến thức: cung cấp cho người học những nội dung khách quan, chân thực

về lịch sử yêu cầu cấp bách của dân tộc Việt Nam trong những năm đầu thế kỷ XX,
làm rõ sự khủng hoảng, bế tắc về đường lối cứu nước trước khi có Đảng, từ đó khẳng
định giá trị lý luận và thực tiễn về sự kiện trọng đại đó là: Hội nghị thành lập Đảng
Cộng sản Việt Nam (3-2-1930), trong đó đặc biệt là Cương lĩnh chính trị đầu tiên của
Đảng và vai trị của lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc đối với tiến trình cách mạng Việt Nam.
- Về tư tưởng: cung cấp cơ sở lịch sử khẳng định con đường cách mạng vô sản là
khát vọng của nhân dân Việt Nam, của chính lịch sử dân tộc Việt Nam; góp phần củng
cố niềm tin đối với sự lựa chọn đúng đắn của Đảng Cộng sản Việt Nam và lãnh tụ
Nguyễn Ái Quốc – Hồ Chí Minh
- Về kỹ năng: Từ những bài học lịch sử của quá trình vận động thành lập Đảng,
đến sự sáng tạo, nắm bắt đặc điểm thực tiễn của dân tộc Việt Nam để có những quyết
sách mang tầm chiến lược cách mạng của lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc trong Cương lĩnh
chính trị đầu tiên, góp phần nâng cao năng lực tư duy, nhận thức của người học.
NỘI DUNG CHÍNH
1. Hồn cảnh lịch sử ra đời của Đảng cộng sản Việt Nam
2. Hội nghị thành lập Đảng và Cương lĩnh chính trị đầu tiên của Đảng
NỘI DUNG CHI TIẾT
1. HOÀN CẢNH LỊCH SỬ RA ĐỜI CỦA ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM
1.1. Hoàn cảnh quốc tế cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX
1.1.1. Sự chuyển biến của chủ nghĩa tư bản và hậu quả của nó
Cuối thế kỷ XIX, đầu thế kỷ XX; chủ nghĩa tư bản phát triển sang giai đoạn chủ
nghĩa đế quốc, chúng đẩy mạnh các cuộc chiến tranh xâm lược các nước nhỏ yếu làm
thuộc địa, làm thức tỉnh ý thức dân tộc và phong trào đấu tranh giải phóng dân tộc trên
thế giới.
Ngày 1-8-1914 chiến tranh thế giới lần thứ nhất bùng nổ (1914-1918), cuộc chiến
làm cho các nước tư bản suy yếu, mâu thuẫn giữa các nước tư bản và đế quốc tăng lên.
1.1.2. Ảnh hưởng của chủ nghĩa Mác- Lê nin
Chủ nghĩa Mác ra đời từ giữa thế kỷ XIX, là vũ khí tư tưởng của giai cấp vơ sản
chống lại giai cấp tư sản và đã được phong trào công nhân các nước tiếp thu, dẫn đến
sự ra đời của Đảng cộng sản. Trong “Tuyên ngôn của Đảng cộng sản” do C.Mác và

5


Ph. Ăngghen viết năm 1848 đã nói “Những người cộng sản ln đại biểu cho lợi ích
của tồn bộ phong trào; là bộ phận kiên quyết nhất trong các đảng công nhân ở các
nước; họ hiểu rõ những điều kiện, tiến trình và kết quả của phong trào vơ sản”. V.I.Lê
nin đã phát triển chủ nghĩa Mác trở thành chủ nghĩa Mác- Lê nin và thành lập Đảng
cộng sản (b) Nga năm 1903.
Kể từ khi chủ nghĩa Mác- Lê nin được truyền bá vào Việt Nam, phong trào yêu
nước, phong trào công nhân phát triển mạnh mẽ theo khuynh hướng cách mạng vô
sản, dẫn đến sự ra đời của các tổ chức cộng sản ở Việt Nam. Nguyễn Ái Quốc đã vận
dụng và phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác- Lê nin để thành lập Đảng cộng sản Việt
Nam (3-2-1930).
1.1.3. Tác động của cách mạng Tháng Mười Nga và Quốc tế cộng sản
Dưới sự lãnh đạo của V.I. Lê nin và Đảng Cộng sản Bôn sê vich Nga đã lãnh đạo
Cách mạng tháng Mười (7-11-1917) thắng lợi và đưa nước Nga đi lên chủ nghĩa xã
hội, mở ra thời đại mới là “thời đại cách mạng chống đế quốc, thời đại giải phóng dân
tộc” sự kiện này cổ vũ và thúc đẩy phong trào giải phóng dân tộc & cách mạng thế
giới phát triển.
Đối với các dân tộc thuộc địa Cách mạng Tháng Mười đã nêu gương sáng trong
việc giải phóng cho các dân tộc bị áp bức.
Tháng 3-1919, theo sáng kiến của V.I. Lênin Quốc tế Cộng sản (Quốc tế III)
được thành lập do V.I. Lê nin lãnh đạo; tại Đại hội II (1920) Quốc tế Cộng sản đã
thông qua: “Luận cương những vấn đề dân tộc và thuộc địa” của V.I. Lênin; Luận
cương chỉ rõ phương hướng giải phóng dân tộc cho các dân tộc thuộc địa và mở ra con
đường giải phóng dân tộc cho nhân dân thuộc địa đó là con đường cách mạng vơ sản.
Đối với Việt Nam, Quốc tế III, có vai trị quan trọng trong việc truyền bá chủ
nghĩa Mác- Lê nin và thành lập Đảng cộng sản Việt Nam. Hồ Chí Minh đã nói “An
Nam muốn cách mệnh thành cơng, thì tất phải nhờ Đệ tam quốc tế (Quốc tế III)”.
1.2. Hoàn cảnh trong nước

1.2.1. Xã hội Việt Nam dưới thời thống trị của thực dân Pháp
* Chính sách cai trị của thực dân Pháp
Ngày 1 tháng 9 năm 1858, thực dân Pháp nổ súng xâm lược Việt Nam; nhân dân
ta đã liên tiếp đứng lên chống Pháp nhưng đều bị thất bại; bằng sức mạnh quân sự đến
ngày 6-6- 1884 Pháp nắm trọn quyền thống trị Việt Nam (sau khi triều đình nhà
Nguyễn kí Hiệp ước Pa tơ nốt).
Từ khi xâm lược, Pháp áp đặt chính sách cai trị thâm độc và tàn bạo: Chuyên chế
về chính trị; độc quyền về kinh tế; ngu dân về văn hóa. Hậu quả là làm cho nước ta
mất hoàn toàn độc lập, trở thành “xứ thuộc địa nửa phong kiến” dân ta mất hoàn toàn
tự do, người lao động sống trong cảnh lầm than, bần hàn, cơ cực.
6


Về chính trị, Thực dân Pháp áp đặt chính sách cai trị thực dân, tước bỏ quyền lực
của triều đình nhà Nguyễn; thực hiện “chia để trị”, Pháp chia nước ta thành ba xứ: Bắc
kỳ, Trung kỳ, Nam kỳ, thực hiện ở mỗi kỳ một chế độ cai trị riêng. Pháp câu kết với
địa chủ, phong kiến để bóc lột nhân dân ta về kinh tế và áp bức về chính trị....
Về kinh tế, Pháp tước đoạt ruộng đất để lập đồn điền; khai thác tài nguyên của
nước ta, tiến hành khai thác thuộc địa, làm cho một số ngành kinh tế mới (giao thông,
điện lực, bến cảng...) ra đời để phục vụ cho việc bóc lột của Pháp. Kinh tế nước ta lệ
thuộc vào Pháp...
Về văn hóa, thực dân Pháp tiến hành chính sách văn hóa, giáo dục thực dân;
dung túng duy trì các hủ tục lạc hậu, đầu độc nhân dân ta bằng rượu, cồn và thuốc
phiện... người dân phải sống trong cảnh ngu dốt, tối tăm... không có quyền tự do học
tập.
* Tình hình giai cấp và mâu thuẫn cơ bản trong xã hội
Tác động của chính sách thống trị của thực dân Pháp đến xã hội Việt Nam cuối
thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX đã làm cho xã hội phân hóa sâu sắc:
Giai cấp địa chủ từ địa vị thống trị nay trở thành tay sai của Pháp, câu kết với
thực dân Pháp tăng cường bóc lột, áp bức nơng dân. Tuy nhiên, trong nội bộ địa chủ

Việt Nam đã có sự phân hóa, một bộ phân địa chủ có lịng u nước, căm ghét chế độ
thực dân, đã tham gia đấu tranh chống Pháp.
Giai cấp nông dân chiếm khoảng 90% dân số, là giai cấp lao động và là lực
lượng cách mạng đông đảo, bị thực dân, phong kiến bóc lột, áp bức nặng nề. Tình
cảnh đó đã làm tăng thêm lịng căm thù đế quốc và phong kiến, làm tăng thêm ý chí
cách mạng.
Giai cấp công nhân Việt Nam
- Ra đời cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX, cùng với quá trình khai thác thuộc địa
của Pháp, tập trung nhiều ở các thành phố và vùng mỏ như: Hà nội, Sài gòn, Hải
phịng...Giai cấp cơng nhân Việt Nam phần lớn xuất thân từ nơng dân, là nạn nhân của
chính sách chiếm đoạt ruộng đất mà Pháp thi hành ở Việt Nam. Vì vậy họ có mối liên
hệ trực tiếp với giai cấp nông dân. Giai cấp công nhân bị đế quốc và phong kiến bóc
lột. Đặc điểm nổi bật của giai cấp công nhân Việt Nam là“ra đời trước giai cấp tư sản
dân tộc Việt Nam và vừa lớn lên đã sớm tiếp thu ánh sáng cách mạng của chủ nghĩa
Mác – Lê nin”.
Giai cấp công nhân Việt Nam mới ra đời nhưng được tiếp thu chủ nghĩa MácLênin, ánh sáng Cách mạng Tháng Mười Nga và được Lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc dìu
dắt nên đã sớm bước lên vũ đài chính trị, trở thành giai cấp lãnh đạo cách mạng Việt
Nam.
Giai cấp tư sản Việt Nam là giai cấp mới, bao gồm tư sản công nghiệp và tư sản
7


thương nghiệp là giai cấp bóc lột; giai cấp này khi mới ra đời đã bị tư sản Pháp và tư
sản người Hoa cạnh tranh, chèn ép do đó nhỏ bé và yếu ớt về kinh tế và chính trị, nên
không thể lãnh đạo cách mạng.
Tầng lớp tiểu tư sản chiếm khoảng 8% dân số, bao gồm học sinh, trí thức, viên
chức và những người làm nghề tự do. Trong đó giới trí thức và học sinh là bộ phận
quan trọng.Tiểu tư sản Việt Nam là tầng lớp có lịng yêu nước là lực lượng cách mạng
khá đông đảo và quan trọng, đời sống của họ bấp bênh, đễ bị phá sản; họ rất nhiệt tình
và hăng hái cách mạng và thường là ngịi nổ của các cuộc đấu tranh.

Tóm lại:
Chính sách cai trị của thực dân Pháp đã làm cho xã hội Việt Nam xuất hiện hai
giai cấp mới là giai cấp công nhân và giai cấp tư sản Việt Nam. Các giai cấp, tầng lớp
trong xã hội Việt Nam lúc này đều mang thân phận mất nước, nô lệ, ở những mức độ
khác nhau, đều bị thực dân Pháp áp bức, bóc lột. Chính sách áp bức bóc lột của thực
dân Pháp và tay sai phong kiến, đã tạo ra hai mâu thuẫn cơ bản trong xã hội Việt Nam:
mâu thuẫn giữa toàn thể dân tộc Việt Nam với thực dân Pháp xâm lược và mâu thuẫn
giữa nhân dân Việt Nam (chủ yếu là nông dân) với giai cấp địa chủ, phong kiến. Trong
đó mâu thuẫn chủ yếu nhất là mâu thuận giữa toàn thể dân tộc Việt Nam với thực dân
Pháp xâm lược.Tính chất xã hội Việt Nam thay đổi, từ một xã hội phong kiến, độc lập
nay trở thành “ xã hội thuộc địa nửa phong kiến”.
Thực tiễn lịch sử Việt Nam đặt ra hai nhiệm vụ cách mạng: một là, phải đánh
đuổi thực dân Pháp xâm lược để giành độc lập cho dân tộc, tự do cho nhân dân; hai là,
phải xóa bỏ chế độ phong kiến, giành quyền dân chủ cho nhân dân, chủ yếu là ruộng
đất cho nông dân; xã hội Việt Nam muốn phát triển phải giải quyết các mâu thuẫn
trên; Trong đó, chống đế quốc, giải phóng dân tộc là nhiệm vụ hàng đầu.
1.2.2. Phong trào yêu nước theo khuynh hướng phong kiến và tư sản cuối
thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX
Trước sự xâm lược của thực dân Pháp, phong trào giải phóng dân tộc theo hệ tư
tưởng phong kiến và tư sản cuối thế kỷ XIX, đầu thế kỷ XX diễn ra rất mạnh mẽ. Các
phong trào tiêu biểu nhất là:
Phong trào Cần Vương do vua Hàm Nghi và Tôn Thất Thuyết lãnh đạo (1885 1896), phát triển mạnh ở Trung kỳ và Bắc kỳ.
Cuộc khởi nghĩa nông dân Yên thế (1884-1913) tỉnh Bắc Giang, do Hoàng Hoa
Thám lãnh đạo, kéo dài gần 30 năm, đến 1913 thất bại. Chấm dứt vai trị của giai cấp
phong kiến và nơng dân Việt Nam chống Pháp với hệ tư tưởng phong kiến.
Thất bại của các phong trào trên đã chứng tỏ giai cấp phong kiến và hệ tư tưởng
phong kiến đã lỗi thời, không đủ điều kiện để lãnh đạo phong trào yêu nước thắng lợi.
Đầu thế kỷ XX, phong trào yêu nước dưới sự lãnh đạo của các sỹ phu yêu nước
8



chịu ảnh hưởng tư tưởng dân chủ tư sản diễn ra sôi nỗi, tiêu biểu là:
Phong trào Đông Du do Phan Bội Châu lãnh đạo theo xu hướng bạo động và
phong trào Duy Tân do Phan Chu Trinh lãnh đạo theo xu hướng cải cách chống Pháp.
Ngồi ra cịn có nhiều phong trào chống Pháp khác như Phong trào Đông kinh nghĩa
thục (1907)... theo khuynh hướng dân chủ tư sản đều thất bại.
Cuộc khởi nghĩa Yên Bái (2-1930) của Việt Nam quốc dân Đảng do Nguyễn Thái
Học lãnh đạo cũng thất bại, chấm dứt vai trò của giai cấp tư sản chống Pháp theo hệ tư
tưởng tư sản.
Tân Việt cách mạng Đảng ra đời trong bối cảnh chịu tác động của Hội Việt Nam
cách mạng thanh niên và bị phân hóa giữa hai khuynh hướng cách mạng và cải lương.
Cuối cùng, khuynh hướng cách mạng theo quan điểm vô sản đã thắng thế.
Việt Nam quốc dân Đảng là tổ chức chính trị theo xu hướng dân chủ tư sản. Khởi
nghĩa Yên Bái thất bại, chấm dứt vai trò của tổ chức này.
Mặc dù bị thất bại, nhưng sự phát triển mạnh mẽ của các phong trào yêu nước
cuối thế kỷ XIX, đầu thế kỷ XX ở nước ta, có ý nghĩa rất quan trọng.Nó tiếp bước cho
truyền thống yêu nước, kiên cường bất khuất của dân tộc ta và chính sự phát triển của
phong trào yêu nước đã tạo cơ sở xã hội thuận lợi cho việc tiếp nhận chủ nghĩa MácLê nin, quan điểm cách mạng của Hồ Chí Minh.Phong trào yêu nước đã trở thành một
trong ba nhân tố dẫn đến sự ra đời của Đảng cộng sản Việt Nam.
Sự thất bại của các phong trào yêu nước, chống thực dân Pháp cuối thế kỷ XIX
đầu thế kỷ XX đã chứng tỏ con đường cứu nước theo hệ tư tưởng phong kiến và tư sản
đã bế tắc. Cách mạng Việt Nam rơi vào khủng hoảng sâu sắc về đường lối, về giai cấp
lãnh đạo. Nhiệm vụ lịch sử đặt ra là phải tìm một con đường cách mạng mới, với một
giai cấp có đủ tư cách đại biểu cho quyền lợi của dân tộc, của nhân dân, có đủ uy tín
và năng lực để lãnh đạo cuộc cách mạng dân tộc, dân chủ đi đến thành công.
1.2.3. Phong trào u nước theo khuynh hướng vơ sản
* Vai trị của Nguyễn Ái Quốc đối với sự phát triển phong trào yêu nước theo
khuynh hướng vô sản
Ngày 5 tháng 6 năm 1911, Nguyễn Tất Thành rời bến cảng Nhà Rồng – Sài Gịn
ra đi tìm đường cứu nước. Người đi nhiều nước trên thế giới, học hỏi kinh nghiệm

cách mạng các nước.
Người nghiên cứu Cách mạng Mỹ (1776), Cách mạng Pháp (1789); Người cho rằng:

Đây là hai cuộc cách mạng không đến nơi, cách mạng không đến nơi chẳng khác
nào người đi nửa đường đứt gánh, cách mạng đã xong lâu rồi mà nhân dân lao động
vẫn còn khổ; họ đang mưu tính cuộc cách mạng lần hai. Ta khơng nên theo cuộc
cách mạng này.
Nguyễn Aí Quốc khẳng định: Con đường cách mạng tư sản không thể đưa lại
9


độc lập và hạnh phúc thật sự cho nhân dân các nước nói chung, nhân dân Việt Nam
nói riêng.
Ngày 7 tháng 11 năm 1917, Cách mạng tháng Mười Nga thành công, Nguyễn Ái
Quốc đặc biệt quan tâm và nghiên cứu cuộc cách mạng này và rút ra kết luận: “Trong
thế giới ngày nay, chỉ có cách mệnh Nga là thành công và thành công đến nơi; nghĩa
là dân chúng mới được hưởng cái hạnh phúc tự do, bình đẳng thật”.
Tháng 7-1920, Nguyễn Ái Quốc đọc “ Sơ thảo lần thứ nhất Luận cương về
những vấn đề dân tộc và thuộc địa” của V.I. Lênin đăng trên báo Nhân đạo. Tác phẩm
này làm cho Người cảm động, sung sướng, phấn khởi, tin tưởng và sáng tỏ; vì đã tìm
thấy con đường giải phóng đúng đắn cho dân tộc Việt Nam đó là con đường cách
mạng vơ sản và từ đó Người hoàn toàn tin theo V.I. Lênin, tin Quốc tế III - Quốc tế
Cộng sản.
Tháng 12-1920, tại Đại hội lần thứ 18 của Đảng xã hội Pháp tại thành phố Tua,
Nguyễn Ái Quốc bỏ phiếu thành lập Đảng Cộng sản Pháp; tán thành Đảng Cộng sản
Pháp gia nhập Quốc tế thứ III. Từ người yêu nước, Nguyễn Ái Quốc đã trở thành Đảng
viên cộng sản đầu tiên (tại Pháp) và Người khẳng định: “Muốn cứu nước và giải
phóng dân tộc, khơng có con đường nào khác là con đường cách mạng vô sản”.
Sau khi trở thành Đảng viên Cộng sản và tìm được con đường cách mạng đúng
đắn cho cách mạng Việt Nam, Nguyễn Ái Quốc tích cực truyền bá chủ nghĩa MácLênin, vạch ra phương hướng chiến lược của cách mạng Việt Nam; chuẩn bị điều kiện

cho việc thành lập Đảng cộng sản Việt Nam.

Nguyễn Aí Quốc tích cực truyền bá chủ nghĩa Mác- Lê nin vảo Việt Nam
thong qua các bài đăng trên các báo Người cùng khổ, Nhân đạo, Đời sống công
nhân và xuất bản tác phẩm Bản án chế độ thực dân Pháp(1925).
Ngày 11-11-1924, Người đến Quảng Châu, Trung Quốc.Tháng 6-1925 Người
thành lập Hội Việt Nam cách mạng thanh niên. Chương trình và Điều lệ của Hội nêu
rõ mục đích là: làm cách mạng dân tộc và cách mạng thế giới... sau khi cách mạng
thành công tiến lên xây dựng xã hội Cộng sản chủ nghĩa. Cơ quan tuyên truyền của
Hội là tuần báo Thanh Niên.
Từ năm 1925 đến năm 1927, Hồ Chí Minh đã trực tiếp giảng dạy chủ nghĩa MácLênin cho các Hội viên của Hội Việt Nam cách mạng thanh niên tại Quảng Châu; đào
tạo lớp cán bộ đầu tiên cho cách mạng Việt Nam (75 người). Hội viên Việt Nam cách
mạng thanh niên sau khi học, về nước thực hiện chủ trương “vô sản hóa” để truyền bá
chủ nghĩa Mác- Lênin ( năm 1928). Chuẩn bị thành lập Đảng.
Nguyễn Ái Quốc lựa chọn những thanh niên Việt Nam ưu tú gởi đi học tại
trường đại học Phương Đông (Liên Xô) như Trần Phú, Lê Hồng Phong, Hà Huy Tập
…và một số đi học trường Lục quân Hoàng Phố (Trung Quốc).
10


Những bài giảng của Người được Bộ tuyên truyền của Hội Liên hiệp các dân tộc
bị áp bức xuất bản thành sách "Đường cách mệnh” (năm 1927).
Nội dung tác phẩm Đường cách mệnh chỉ rõ: Tính chất và nhiệm vụ của cách
mạng Việt Nam là cách mạng giải phóng dân tộc, mở đường đi lên chủ nghĩa xã hội.
Hai cuộc cách mạng này có quan hệ mật thiết với nhau. Vai trò của đạo đức cách
mạng, Đảng cách mạng và lý luận cách mạng đối với cách mạng Việt Nam. Con
đường, lực lượng, phương pháp cách mạng và những vấn đề chiến lược và sách lược
của cách mạng.
Trong bài giảng của Nguyễn Ái Quốc chỉ rõ: Cách mạng muốn thắng lợi phải có
Đảng lãnh đạo; Đảng có vững, cách mạng mới thành cơng, cũng như người cầm lái có

vững thì thuyền mới chạy. Đảng muốn vững thì phải có chủ nghĩa làm cốt, chủ nghĩa
chân chính nhất, chắc chắn nhất, cách mệnh nhất là chủ nghĩa Lênin.
Nguyễn Áí Quốc xác định, cách mạng Việt Nam là một bộ phận của cách mạng
thế giới.
Về phương pháp cách mạng, Người nhấn mạnh đến việc giác ngộ, tổ chức quần
chúng cách mạng, phải làm cho quần chúng hiểu rõ mục đích cách mạng, biết đồng
tâm, hiệp lực để đánh đổ giai cấp áp bức mình...
Tác phẩm Đường cách mệnh, đã đề cập đến những vấn đề cơ bản của một cương
lĩnh chính trị, chuẩn bị về tư tưởng chính trị cho thành lập Đảng cộng sản Việt Nam.
* Sự phát triển của phong trào yêu nước theo khuynh hướng vô sản
Từ đầu thê kỷ XX, các phong trào đấu tranh của công nhân chống lại sự áp bức,
bóc lột của tư sản diễn ra từ rất sớm.Trong những năm từ 1919 đến 1925 phong trào
cơng nhân diễn ra dưới hình thức, đình cơng, bãi công như: bãi công của công nhân
Ba Son ( Sài Gịn), cuộc bãi cơng của cơng nhân nhà máy sợi Nam Định...
Trong những năm 1926-1929 phong trào công nhân đã có bước phát triển mới
như với số lượng lớn hơn, thời gian dài hơn…Từ khi có lãnh đạo của Hội Việt Nam
cách mạng thanh niên, Cơng hội đỏ… thì phong trào mang tính chính trị rõ rệt, có xu
hướng lôi kéo phong trào dân tộc theo con đường cách mạng vô sản.
Cũng lúc này phong trào yêu nước của nông dân trong cả nước cũng phát triển
mạnh mẽ ( Bạc Liêu, Hà Nam…)
Phong trào công nhân và phong trào nông dân đã hỗ trợ nhau trong cuộc đấu
tranh chống thực dân, phong kiến.
* Sự ra đời của các tổ chức cộng sản ở Việt Nam
Từ năm 1928 - 1929, những hội viên trong Hội Việt Nam cách mạng Thanh niên
sau khi học xong về nước, thực hiện chủ trương “vơ sản hóa” tức là các hội viên đi sâu
vào hầm mỏ, nhà máy, xí nghiệp, đồn điền ... tuyên truyền chủ nghĩa Mác - Lê nin, tổ
chức quần chúng đấu tranh, làm cho phong trào phát triền mạnh, mang theo chất mới 11


chất cách mạng vô sản làm xuất hiện các tổ chức Cộng sản đầu tiên ở Việt Nam.

Tháng 3-1929, tại số nhà 5D phố Hàm Long, Hà Nội, chi bộ cộng sản đầu tiên
được thành lập gồm có 7 người.
Ngày 17-6-1929, tại số nhà 312 phố Khâm Thiên, Hà Nội, Đông Dương Cộng
sản Đảng được thành lập ở Bắc Kỳ; cử ra Ban Chấp hành Trung ương lâm thời.
Mùa thu (tháng 8-1929), An Nam Cộng sản Đảng được thành lập ở Nam Kỳ,
tháng 11 họp Đại hội thông qua đường lối chính trị và lập ra Ban lãnh đạo của Đảng.
Tháng 9-1929, Đơng Dương Cộng sản Liên đồn thành lập ở Trung Kỳ (do Đảng
Tân Việt bị phân hóa). Tuyên đạt của Đơng Dương Cộng sản Liên đồn nêu rõ phải
“Làm cho xứ sở của chúng ta hoàn toàn độc lập, xóa bỏ chế độ người bóc lột người
...tiến lên cộng sản chủ nghĩa trong tồn xứ Đơng Dương”.
Tóm lại: Tất cả những sự kiện trên cho thấy, từ khi có chủ nghĩa Mác - Lênin và
tư tưởng Hồ Chí Minh được đưa vào phong trào công nhân và phong trào yêu nước,
làm cho phong trào công nhân và phong trào yêu nước ở Việt Nam phát triển mạnh mẽ
mang theo một chất mới, dẫn tới các tổ chức cộng sản lần lượt ra đời ở ba kỳ, điều đó
nói lên sự chín muồi của việc thành lập Đảng. Các tổ chức cộng sản ở Việt Nam lúc
này hoạt động phân tán chia rẽ, làm ảnh hưởng đến phong trào cách mạng. Vì vậy cần
phải khắc phục sự phân tán, chia rẽ trên là yêu cầu khẩn thiết của cách mạng nước ta,
là nhiệm vụ cấp bách, trước mắt của tất cả những người cộng sản Việt Nam.
2. HỘI NGHỊ THÀNH LẬP ĐẢNG VÀ CƯƠNG LĨNH CHÍNH TRỊ ĐẦU TIÊN
CỦA ĐẢNG
2.1. Hội nghị thành lập Đảng cộng sản Việt Nam
Đến cuối năm 1929, những người cách mạng Việt Nam trong các tổ chức cộng
sản đã nhận thức được sự cần thiết và cấp bách phải thành lập một đảng cộng sản
thống nhất, chấm dứt sự chia rẽ trong phong trào cộng sản tại Việt Nam.
Trước tình hình ở Đơng Dương xuất hiện nhiều tổ chức cộng sản. Quốc tế Cộng
sản đã gởi những người cộng sản Đông Dương tài liệu: Về việc thành lập một Đảng
cộng sản ở Đông Dương, yêu cầu những người cộng sản Đông Dương khắc phục ngay
sự chia rẽ giữa các nhóm cộng sản và thành lập một Đảng duy nhất. lấy tên là Đảng
Cộng sản Đông Dương.
Quốc tế cộng sản chỉ rõ phương thức để tiến tới thành lập đảng là, phải bắt đầu

từ việc xây dựng các chi bộ trong các nhà máy, xí nghiệp; chỉ rõ mối quan hệ giữa
Đảng cộng sản Đông Dương với phong trào cộng sản quốc tế.
Nhận được tin về sự chia rẽ của những người cộng sản ở Đông Dương, với trách nhiệm
đối với vận mệnh của dân tộc cuối năm 1929 Nguyễn Ái Quốc từ Xiêm ( Thái Lan) sang
Trung Quốc, triệu tập và chủ trì Hội nghị hợp nhất Đảng.
Từ ngày 6 - 1 đến ngày 7- 2 năm 1930, tại bán đảo Cửu Long, Hương Cảng
12


(Trung Quốc) đã diễn ra Hội nghị hợp nhất các tổ chức cộng sản thành một Đảng lấy
tên là Đảng Cộng sản Việt Nam vào ngày 3-2-1930.
Dự Hội nghị gồm có các đồng chí: Trịnh Đình Cửu, Nguyễn Đức Cảnh (đại biểu
Đông Dương Cộng sản Đảng); Châu Văn Liêm, Nguyễn Thiệu (đại biểu An Nam Cộng
sản Đảng); và 1 đại biểu Quốc tế Cộng sản.
Hội nghị thảo luận và nhất trí Năm điểm lớn theo đề nghị của Nguyễn Aí Quốc và
cử Ban Chấp hành Trung ương lâm thời của Đảng gồm 9 đồng chí.
Hội nghị thảo luận và quyết định: Thơng qua Chính cương vắn tắt của Đảng và
Sách lược vắn tắt của Đảng; Điều lệ tóm tắt của Đảng. Thơng qua Điều lệ tổ chức các
đồn thể quần chúng và Chương trình thống nhất các tổ chức Đảng trong nước.
Hội nghị quyết định phương châm, kế hoạch thống nhất các tổ chức cộng sản
trong nước, quyết định ra báo, tạp chí của Đảng cộng sản Việt Nam.
Ngày 24-2-1930, theo u cầu của Đơng Dương Cộng sản Liên đồn, Hội nghị
Ban Chấp hành Trung ương lâm thời họp ra Nghị quyết chấp nhận Đơng Dương Cộng
sản Liên đồn gia nhập Đảng Cộng sản Việt Nam. Như vậy đến ngày 24-2-1930 Đảng
cộng sản Việt Nam đã hoàn thành việc hợp nhất ba tổ chức cộng sản.
Tóm lại: Ngày 3-2-1930, Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời. Hội nghị thông qua
Cương lĩnh chính trị đầu tiên của Đảng bao gồm “Chính cương vắn tắt của Đảng”,
“Sách lược vắn tắt của Đảng”, “Chương trình tóm tắt của Đảng”do Nguyễn Ái Quốc
soạn thảo.
2.2. Nội dung cơ bản Cương lĩnh chính trị đầu tiên của Đảng

Cương lĩnh xác định các vấn đề cơ bản của cách mạng Việt Nam:
Một là; Phương hướng chiến lược của cách mạng Việt Nam
Hội nghị phân tích đặc điểm, tình hình thế giới và trong nước, đề ra đường lối
chiến lược của cách mạng Việt Nam là: “Làm tư sản dân quyền cách mạng và thổ địa
cách mạng để đi tới xã hội cộng sản”.
Như vậy, đường lối này đã đề cập về hai giai đoạn của cách mạng đó là: Cách
mạng dân tộc dân chủ nhân dân và cách mạng xã hội chủ nghĩa; hai giai đoạn này có
mối liên hệ khắng khít với nhau, khơng có bức tường thành nào ngăn cách.
Đường lối này nói lên tính cách mạng triệt để là: Giải phóng dân tộc, giải phóng
giai cấp, giải phóng con người; độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội.
Hai là: Nhiệm vụ của cách mạng tư sản dân quyền và thổ địa cách mạng:
Về chính trị: Đánh đổ đế quốc chủ nghĩa Pháp và địa chủ phong kiến; làm cho
nước Việt Nam được hồn tồn độc lập; lập chính phủ cơng nơng binh và tổ chức quân
đội công nông.
Về kinh tế: Thủ tiêu hết các thứ quốc trái; tịch thu toàn bộ sản nghiệp lớn của
Pháp giao cho Chính phủ cơng nơng binh quản lý; tịch thu toàn bộ ruộng đất của địa
13


chủ làm của công chia cho dân cày nghèo; mở mang công nghiệp và nông nghiệp; thi
hành luật ngày làm 8 giờ.
Về văn hóa xã hội: Dân chúng được tự do lập tổ chức và hội họp; nam - nữ bình
quyền; giáo dục phổ thơng theo cơng nơng hóa.
Ba là: Lực lượng cách mạng.
Gồm giai cấp công nhân, giai cấp nông dân, tầng lớp tiểu tư sản và tư sản dân
tộc, trong đó cơng nơng là gốc cách mạng, do Đảng lãnh đạo. Cương lĩnh viết:
"Đảng phải thu phục cho được đại bộ phận dân cày và phải dựa vào hạng dân cày
nghèo làm thổ địa cách mạng, đánh đổ bọn đại địa chủ và phong kiến; phải làm cho
các đồn thể thợ thuyền và dân cày (cơng hội, hợp tác xã) khỏi ở dưới quyền lực và
ảnh hưởng của bọn tư bản quốc gia; phải hết sức liên lạc với tiểu tư sản, trí thức, trung

nơng, Thanh niên, Tân Việt,... để kéo họ đi vào phe vô sản giai cấp. Đối với phú nông,
trung, tiểu địa chủ và tư bản An Nam mà chưa rõ mặt phản cách mạng thì phải lợi
dụng, ít lâu mới làm cho họ đứng trung lập. Bộ phận nào đã ra mặt phản cách mạng
(như Đảng lập hiến,v.v..) thì phải đánh đổ”.
Bốn là: Về lãnh đạo cách mạng, giai cấp vô sản là lực lượng lãnh đạo cách
mạng Việt Nam.
Đảng là đội tiên phong của giai cấp vô sản, phải thu phục cho được đại bộ phận
của giai cấp mình, phải làm cho giai cấp mình lãnh đạo được dân chúng; trong khi liên
lạc với các giai cấp, phải rất cẩn thận, không một chút lợi ích gì của cơng nơng mà đi
vào con đường thỏa hiệp.
Đảng phải thực hành nguyên tắc tập trung dân chủ và có trách nhiệm thu phục
đại bộ phận giai cấp mình và phải làm cho giai cấp mình lãnh đạo được cách mạng; sự
lãnh đạo của Đảng là nhân tố quyết định thắng lợi của cách mạng Việt Nam.
Năm là: về quan hệ cách mạng Việt Nam với phong trào cách mạng thế giới.
Cách mạng Việt Nam là một bộ phận của cách mạng thế giới; phải tranh thủ sự
đồng tình và giúp đỡ của cách mạng thế giới; phải thực hành liên lạc với bị áp bức dân
tộc và vô sản thế giới, nhất là giai cấp vô sản Pháp.
2.3. Ý nghĩa lịch sử của việc thành lập Đảng và Cương lĩnh chính trị đầu tiên
Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời thể hiện bước phát triển biện chứng quá trình
vận động của cách mạng Việt Nam: Sự phát triển từ Hội Việt Nam cách mạng thanh
niên đến ba tổ chức cộng sản, đến Đảng cộng sản Việt Nam trên nền tảng chủ nghĩa
Mác- Lê nin và quan điểm cách mạng của Nguyễn Ái Quốc.
Hội nghị hợp nhất các tổ chức cộng sản Việt Nam đã quy tụ ba tổ chức cộng sản
thành một đảng cộng sản duy nhất - Đảng cộng sản Việt Nam, theo một đường lối
chính trị đúng đắn, tạo nên sự thống nhất về tư tưởng, chính trị, tổ chức và hành động
của phong trào cách mạng cả nước, hướng tới mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa
14


xã hội.

Hồ Chí Minh đã nói “Chủ nghĩa Mác- Lê nin, kết hợp với phong trào công nhân
và phong trào yêu nước đã dẫn đến việc thành lập Đảng cộng sản Đông Dương vào
đầu năm 1930”.
Đảng cộng sản Việt Nam ra đời, là kết quả của cuộc đấu tranh dân tộc và đấu
tranh giai cấp, là sự khẳng định vai trị của giai cấp cơng nhân Việt Nam và hệ tư
tưởng Mác - Lênin đối với cách mạng Việt Nam.
Đánh giá sự kiện này Hồ Chí Minh viết: “Việc thành lập Đảng là bước ngoặt vô
cùng quan trọng trong lịch sử cách mạng Việt Nam, nó chứng tỏ rằng giai cấp vô sản
ta đã trưởng thành và đủ sức lãnh đạo cách mạng”.
Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời là mốc lịch sử trọng đại của dân tộc, đánh dấu
bước ngoặt lịch sử của cách mạng Việt Nam chuyển sang giai đoạn mới - giai đoạn
cách mạng Việt Nam đi vào quỹ đạo của cách mạng vô sản thế giới và là sự kỉện có ý
nghĩa quyết định đối với tồn bộ tiến trình phát triển của cách mạng.
Cương lĩnh chính trị đầu tiên của Đảng chỉ ra: Đường lối, phương pháp; những
vấn đề chiến lược và sách lược đúng đắn cho cách mạng Việt Nam từ đó dẫn tới sự
thống nhất về chính trị, tư tưởng, tổ chức và hành động cách mạng trong cả nước,
chấm dứt sự khủng hoảng, bế tắc về đường lối cứu nước.
Thực tiễn quá trình vận động của cách mạng Việt Nam hơn 80 năm qua, đã
chứng minh rõ tính khoa học và tính cách mạng, tính đúng đắn và tiến bộ của Cương
lĩnh chính trị đầu tiên.
CÂU HỎI CHƯƠNG 1
1. Phân tích tình hình thế giới khi Đảng cộng sản Việt Nam ra đời?
2. Phân tích vai trị của Nguyễn Ái Quốc đối với sự phát triển của phong trào yêu
nước theo khuynh hướng vô sản và sự ra đời của các tổ chức cộng sản ở Việt Nam?
3. Hội nghị thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam? Nội dung Cương lĩnh chính trị đầu tiên.
4. Ý nghĩa của vỉệc thành lập Đảng và Cương lĩnh chính trị đầu tiên?

15



CHƯƠNG 2
ĐƯỜNG LỐI ĐẤU TRANH GIÀNH CHÍNH QUYỀN
(1930-1945)
Mục tiêu của chương:
- Về kiến thức: Cung cấp cho sinh viên quá trình Đảng vận dụng chủ nghĩa MácLênin vào thực tiễn lãnh đạo đấu tranh giành chính quyền (1930-1945)
- Về tư tưởng: Khẳng định lòng tin, tự hào vào sự lãnh đạo của Đảng và sức
mạnh đoàn kết của toàn dân trong sự nghiệp cách mạng của dân tộc.
- Về kỹ năng: Giúp người học nâng cao hiểu biết về các vấn đề, sự kiện lịch sử
Đảng trên cơ sở được trang bị kỹ năng phân tích, nắm bắt vấn đề, rút ra các kinh
nghiệm về sự lãnh đạo của Đảng.
NỘI DUNG CHÍNH
1. CHỦ TRƯƠNG ĐẤU TRANH TỪ NĂM 1930 ĐẾN NĂM 1939
2. CHỦ TRƯƠNG ĐẤU TRANH TỪ NĂM 1939 ĐẾN NĂM 1945
NỘI DUNG CHI TIẾT
1. CHỦ TRƯƠNG ĐẤU TRANH TỪ NĂM 1930 ĐẾN NĂM 1939
1.1. Giai đoạn từ năm 1930 đến năm 1935
1.1.1. Luận cương chính trị tháng 10 -1930
Sau một thời gian học ở Liên Xô; tháng 4 năm 1930 đồng chí Trần Phú được
Quốc tế Cộng sản cử về nước, tháng 7 năm 1930 được bổ sung vào Ban Chấp hành
Trung ương và được giao nhiệm vụ cùng với Ban Thường vụ chuẩn bị các văn kiện
Hội nghị Ban Chấp hành Trung ương lần thứ nhất của Đảng.
Từ 14 đến 30 tháng 10 năm 1930, Ban Chấp hành Trung ương họp Hội nghị lần thứ
nhất tại Hương Cảng, (Trung Quốc) do đồng chí Trần Phú chủ trì. Hội nghị đã thơng qua
nghị quyết về tình hình nhiệm vụ cần kíp của Đảng; thơng qua Luận cương chính trị của
Đảng; Điều lệ Đảng và Điều lệ các tổ chức quần chúng.Thực hiện chỉ thị của Quốc tế
cộng sản, quyết định đổi tên Đảng Cộng sản Việt Nam thành Đảng Cộng sản Đông
Dương và Hội nghị cử ra Ban Chấp hành Trung ương chính thức, đồng chí Trần Phú làm
Tổng Bí thư.
Nội dung cơ bản cùa Luận cương chính trị:
- Đặc điểm, tình hình xã hội thuộc địa nửa phong kiến và nêu lên những vấn đề

cơ bản của cách mạng tư sản dân quyền, ở Đông Dương do giai cấp công nhân lãnh
đạo.
- Chỉ rõ mâu thuẫn giai cấp diễn ra gay gắt giữa một bên là thợ thuyền, dân cày
và các phần tử lao khổ với một bên là địa chủ phong kiến và tư bản đế quốc.
- Phương hướng chiến lược của cách mạng Đông Dương: “Tiến hành tư sản dân
quyền cách mạng”có tính chất thổ địa và phản đế... sau khi thắng lợi tiếp tục “phát
16


triển bỏ qua thời kỳ tư bổn mà tranh đấu thẳng lên con đường xã hội chủ nghĩa”.
- Nhiệm vụ của cách mạng tư sản dân quyền: Đánh đổ phong kiến, thực hành
cách mạng ruộng đất triệt để, đánh đổ đế quốc chủ nghĩa Pháp làm cho Đơng Dương
hồn tồn độc lập. Hai nhiệm vụ chiến lược đó quan hệ khăn khít với nhau... trong đó
vấn đề thổ địa là cái cốt của cách mạng tư sản dân quyền và là cơ sở để Đảng giành
quyền lãnh đạo dân cày.
- Lực lượng cách mạng gồm: Giai cấp vô sản vừa là động lực chính của cách
mạng tư sản dân quyền, vừa là giai cấp lãnh đạo cách mạng. giai cấp nông dân là lực
lượng đông đảo nhất và là động lực của cách mạng. Còn tư sản thương nghiệp đứng về
phe đế quốc và địa chủ chống lại cách mạng, cịn tư sản cơng nghiệp thì đứng về phía
quốc gia cải lương và khi cách mạng phát triển cao thì họ sẽ theo đế quốc. Trong giai
cấp tiểu tư sản, bộ phận thủ cơng nghiệp thì có thái độ do dự; tiểu tư sản thương gia thì
khơng tán thành cách mạng; tiểu tư sản trí thức thì có xu hướng quốc gia chủ nghĩa và
chỉ có thể hăng hái tham gia chống đế quốc thời kỳ đầu… chỉ có các phần tử lao khổ ở
đô thị như những người bán hàng rong, thợ thủ cơng nhỏ, trí thức thất nghiệp thị mới
đi theo cách mạng mà thôi.
- Phương pháp cách mạng: Để đạt được mục tiêu cơ bản của cách mạng là đánh
đổ đế quốc và phong kiến giành chính quyền vế tay cơng nơng thì phải ra sức chuẩn bị
cho quần chúng về "Con đường võ trang bạo động”. Võ trang bạo động để giành
chính quyền là một nghệ thuật, “Phải tuân theo khuôn phép nhà binh”.
- Về quan hệ giữa cách mạng Việt Nam với cách mạng thế giới:

Cách mạng Đông Dương là một bộ phận của cách mạng vơ sản thế giới, vì thế giai
cấp vơ sản Đơng Dương, phải đồn kết với vơ sản thế giới, trước hết là vô sản Pháp và
phải mật thiết liên lạc với phong trào cách mạng ở các nước thuộc địa và nủa thuộc
địa nhằm mở rộng và tăng cường lực lượng của mình.
- Về vai trị lãnh đạo của Đảng: Sự lãnh đạo của Đảng là điều kiện cốt yếu cho
thắng lợi của cách mạng. Phải có một Đảng với đường lối chính trị đúng, kỷ luật tập
trung, liên hệ mật thiết với quần chúng, lấy chủ nghĩa Mác - Lênin làm nền tảng tư
tưởng, đại biểu chung cho quyền lợi của giai cấp vô sản ở Đông Dương đấu tranh để
đạt mục đích cuối cùng là chủ nghĩa cộng sản.
Ý nghĩa của Luận cương:
Ưu điểm: Luận cương chính trị của Đảng đã làm sâu sắc nhiều vấn đề thuộc về
chiến lược của cách mạng Việt Nam mà Cương lĩnh chính trị đầu tiên đã nêu.
Hạn chế: Luận cương không nêu ra được mâu thuẫn chủ yếu là mâu thuẫn giữa
dân tộc ta với thực dân Pháp, không đặt nhiệm vụ giải phóng dân tộc lên hàng đầu mà
chỉ nặng về đấu tranh giai cấp và cách mạng ruộng đất; đánh giá khơng đúng vai trị
cách mạng của tiểu tư sản và phủ nhận mặt tích cực của tư sản dân tộc, chưa thấy được
17


khả năng phân hóa, lơi kéo một bộ phận địa chủ vừa và nhỏ trong cách mạng giải
phóng dân tộc. Từ đó Luận cương chưa đưa ra được một chiến lược liên minh dân tộc
và giai cấp rộng rãi trong cách mạng.
Nguyên nhân hạn chế: Luận cương chưa tìm ra và nắm vững những đặc điểm của xã
hội thuộc địa, nửa phong kiến Việt Nam; do nhận thức giáo điều, máy móc về vận đề dân
tộc và giai cấp, trong cách mạng thuộc địa, lại chịu ảnh hưởng trực tiếp tư tưởng “tả” của
Quốc tế Cộng sản nên đã mắc sai lầm “ tả khuynh”.
Từ đó Hội nghị ban chấp hành trung ương Đảng tháng 10-1930 đã không chấp nhận
những quan điểm mới sáng tạo, độc lập, tự chủ của Nguyễn Ái Quốc đã nêu trong tác phẩm
Đường cách mệnh và Cương lĩnh chính trị đầu tiên.
1.1.2. Chủ trương khơi phục tổ chức đảng và phong trào cách mạng

Ngay sau khi ra đời, Đảng đã phát động trên toàn quốc đã diễn ra một cao trào
đấu tranh mạnh mẽ mà đỉnh cao là Xơ viết Nghệ - Tĩnh. Chính quyền cách mạng mơ
phỏng theo hình thức Xơ- viết ở nước Nga đã được thành lập ở một số nơi ở Nghệ An
và Hà Tĩnh.
Đây là cao trào cách mạng đầu tiên do Đảng lãnh đạo để đi đến thắng lợi của
cách mạng tháng Tám.
Thực dân Pháp đã thẳng tay đàn áp các Xơ viết, khủng bố hịng dập tắt phong
trào cách mạng Việt Nam và tiêu diệt Đảng Cộng sản Đơng Dương. Tịa án Pháp xét
xử những người cách mạng yêu nước, cách mạng nước ta tổn thất nặng nề. Hàng
nghìn chiến sỹ cộng sản, hàng vạn quần chúng yêu nước bị bắt, bị giết, bị tù đày. Các
cơ quan lãnh đạo của Đảng bị phá vỡ. Toàn bộ Ban chấp hành Trung ương bị bắt.
Tuy bị khủng bố, tổn thất nặng nề, song thành quả lớn nhất của cao trào 19301931 mà qn thù khơng thể xóa bỏ được là: đã khẳng định trong thực tế quyền lãnh
đạo và năng lực lãnh đạo của Đảng, đã đem lại cho nông dân niềm tin vững chắc vào
sự lãnh đạo của Đảng...
Sự khủng bố của kẻ thù, không làm cho những người cộng sản và quần chúng
yêu nước từ bỏ con đường cách mạng. Với tinh thần và nghị lực phi thường của người
cộng sản. Đảng đã từng bước khôi phục. Các xứ ủy được thành lập ở Bắc Kỳ, Trung
Kỳ, Nam kỳ đã tổ chức và lãnh đạo các phong trào cách mạng trong nước.
Đầu năm 1932, nhiều lãnh đạo của trung ương và các xứ ủy bị bắt và hy sinh,
theo chỉ thị của Quốc tế cộng sản Lê Hồng Phong và một số đồng chí chủ chốt trong
và ngoài nước tổ chức ra Ban lãnh đạo Trung ương của Đảng.
Tháng 6-1932 Ban lãnh đạo Trung ương Đảng Cộng sản Đơng Dương ra
“Chương trình hành động của Đảng cộng sản Đơng Dương” chỉ rõ: thứ nhất, địi các
quyền tự do, tổ chức, xuất bản, ngôn luận, đi lại trong nướcvà ra nước ngồi; hai là
hủy bỏ những luật hình đặc biệt đối với người bản xứ, trả tự do cho tù chính trị... thứ
18


ba, bỏ thuế thân, thuế ngụ cư và các thứ thuế vô lý khác; bỏ các độc quyền về rượu,
thuốc phiện và muối.

Do có Chương trình hành động phù hợp và tính thần đấu tranh kiên trung của cán
bộ, đảng viên và quần chúng cách mạng, từ năm 1933 các tổ chức đảng: Huyện ủy,
Tỉnh uỷ, Xứ ủỵ được lập lại ở 3 miền.
Đầu năm 1934, Ban lãnh đạo của Đảng ở nước ngồi được thành lập do đồng chí
Lê Hồng Phong đứng đầu, tháng 6-1934, Hội nghị các tổ chức Đảng trong nước họp,
lập ra Ban lãnh đạo lâm thời của Đảng và đề ra nhiệm vụ tích cực chuẩn bị Đại hội
Đảng.
Tháng 3-1935, Đại hội đại biểu lần thứ I của Đảng họp tại Ma Cao, Trung Quốc
đề ra 3 nhiệm vụ là: Củng cố và phát triển Đảng; đẩy mạnh thu phục quần chúng; đẩy
mạnh tuyên truyền chống chiến tranh đế quốc, ủng hộ Liên Xô… ngăn ngừa chiến
tranh bảo vệ hịa bình thế giới.
Đại hội bầu Ban Chấp hành Trung ương gồm 9 ủy viên Trung ương chính thức, 4
ủy viên dự khuyết, đồng chí Lê Hồng Phong được bầu làm Tổng Bí thư. Thành cơng
của Đại hội đã khẳng đinh trên thực tế phong trào cách mạng và hệ thống tổ chức đảng
đã được khôi phục, mở ra một giai đoạn phát triển mới của cách mạng Đông Dương.
1.2. Giai đoạn từ năm 1936 đến năm 1939
1.2.1. Hồn cảnh lịch sử
+ Tình hình thế giới
Cuộc khủng hoảng kinh tế của chủ nghĩa tư bản (1929- 1933), làm cho mâu
thuẫn nội tại của chủ nghĩa tư bản càng thêm gay gắt và phong trào cách mạng của
quần chúng dâng cao...
Chủ nghĩa phát xít đã xuất hiện và thắng thế ở nhiều nơi, trục phát xít Đức - Ý Nhật ra đời, trở thành kẻ thù chính của nhân loại, đe dọa hồ bình thế giới.
Đại hội VII Quốc tế Cộng sản tại Mátxcova thủ đô của Liên Xơ (7-1935). Đồn
đại biểu Đảng cộng sản Đơng Dương do Lê Hông Phong dẫn đầu dự Đại hội. Đại hội
chỉ ra nguy cơ chiến tranh thế giới do chủ nghĩa phát xít gây ra đang đến gần và đề ra
nhiệm vụ tập hợp lực lượng dân chủ thế giới ngăn ngừa khơng để nó nổ ra; để thực hiện
nhiệm vụ này các Đảng Cộng sản và nhân dân thế giới phải thống nhất hàng ngũ của
mình, lập mặt trận nhân dân rộng rãi chống phát xít và chiến tranh, địi tự do, dân chủ,
cơm áo và hồ bình.
Đại hội xác định kẻ thù nguy hiểm nhất của nhân dân thế giới lúc này không phải

là chủ nghĩa đế quốc nói chung mà là chủ nghĩa phát xít;
Đại hội vạch ra nhiệm vụ trước mắt của giai cấp công nhân và nhân dân lao động
thế giới là đấu tranh chống chủ nghĩa phát xít, chống chiến tranh, bảo vệ dân chủ, hịa
bình.
19


Để thực hiện nhiệm vụ trên các Đảng cộng sản và nhân dân các nước phải thống
nhất hàng ngũ của mình lập mặt trận nhân dân rộng rãi chống phát xít và chiến tranh,
địi tự do, dân chủ, hịa bình và cải thiện đời sống.
Đối với các nước thuộc địa, nửa thuộc địa, Đại hội chỉ rõ: do tình hình thế gới và
trong nước thay đổi nên vấn đế lập mặt trận thống nhất chống đế quốc có tầm quan
trọng đặc biệt.
+ Tình hình trong nước: Bọn phản động Đơng Dương ra sức vơ vét, bóc lột,
khủng bố đàn áp nhân dân ta. Làm cho các tầng lớp nhân dân tuy có quyền lợi khác
nhau, nhưng đều căm thù thực dân Pháp và đều có nguyện vọng chung trước mắt là
đấu tranh đòi quyền sống, quyền tự do, dân chủ, cơm áo, hịa bình. Trong lúc này, các
tổ chức Đảng và tổ chức quần chúng được củng cổ; phong trào cách mạng được hồi
phục và phát triển; Đại hội Đảng lần thứ I (3-1935) của Đảng ta đánh dấu cách mạng
Việt Nam bước sang giai đoạn phát triển mới. Chính phủ Mặt trận bình dân Pháp ban
hành một số chính sách dân chủ có lợi cho thuộc địa trong đó có nước ta.
1.2.2. Chủ trương và nhận thức mới của Đảng
Căn cứ tình hình thế giới, trong nước và Nghị quyết Đại hội VII Quốc tế Cộng
sản. Hội nghị Trung ương 2 (7-1936); Hội nghị Trung ương 3 (3-1937); Hội nghị
Trung ương 4 (9- 1937) và Hội nghị Trung ương 5 (3-1938) nêu:
* Chủ trương mới: Đấu tranh đòi quyền dân chủ, dân sinh
+ Chủ trương đòi quyền dân chủ, dân sinh:
- Yêu cầu cấp thiết trước mắt của nhân dân là “đòi tự do, dân chủ, cải thiện đời
sống”.
- Kẻ thù của cách mạng: kẻ thù trước mắt nguy hại nhất của nhân dân Đông Dương

cần tập trung đánh đổ là bọn phản động thuộc địa và bè lũ tay sai của chúng.
- Nhiệm vụ trước mắt của cách mạng: chống phát xít, chống chiến tranh đế quốc
và bọn phản động thuộc địa, tay sai đòi tự do, dân chủ, cơm áo, hịa bình. Mặt trận
nhân dân phản đế được đổi tên thành mặt trận dân chủ Đông Dương.
- Về đoàn kết quốc tế: đoàn kết với Đảng Cộng sản Pháp; ủng hộ Chính phủ và
Mặt trận nhân dân Pháp để cùng chống kẻ thù chung là bọn phátxít ở Pháp và bọn
phản động thuộc địa ở Đông Dương.
- Hình thức tổ chức và biện pháp đấu tranh: phải chuyển hình thức tổ chức bí mật
khơng hợp pháp sang các hình thức đấu tranh cơng khai, nửa cơng khai, hợp pháp và
nửa hợp phápn nhằm làm cho Đảng mở rộng sự quan hệ với quần chúng, giáo dục, tổ
chức và lãnh đạo quần chúng đấu tranh bằng các hình thức và khẩu hiệu thích hợp…
tránh sa vào chủ nghĩa công khai, mà phải giữ vững nguyên tắc củng cố và tăng
cường tổ chức và tăng cường hoạt động bí mật của Đảng.
* Nhận thức mới về mối quan hệ giữa hai nhiệm vụ dân tộc và dân chủ là:
20


“Khơng thể nói rằng muốn đánh đổ đế quốc phải phát triển cách mạng điền địa,
muốn phát triển cách mạng điền địa thì phải đánh đế quốc, lý thuyết đó là khơng xác
đáng”. Vì rằng, tùy hồn cảnh hiện thực bắt buộc, nếu nhiệm vụ chống đế quốc là cần
kíp cho lúc hiện thời, còn vấn đề giải quyết điền địa tuy quan trọng nhưng chưa phải
trưc tiếp bắt buộc, thì có thể trước tập trung đánh đổ đế quốc rồi sau đó mới giải quyết
vấn đề điền địa.
Đây là nhận thức mới, Đảng đưa nhiệm vụ giải phóng dân tộc lên hàng đầu, tập
trung đánh đổ đế quốc rồi sau đó mới giải quyết vấn đề điền địa (ruộng đất), phù hợp
với Cương lĩnh chính trị đầu tiên của Đảng. Bước đầu khắc phục những hạn chế của
Luận cương chính trị tháng 10-1930.
Tháng 3-1939 Đảng ra bản Tun ngơn của Đảng cộng sản Đông Dương với thời
cuộc, nêu rõ họa phát xít đang đến gần, chính phủ Pháp đã nghiêng về phía hữu, ra sức
bóp nghẹt tự do, dân chủ, tăng cường bóc lột nhân dân và ráo riết chuẩn bị chiến tranh.

Tuyên ngôn kêu gọi nhân dân thống nhất hành động hơn trong việc đòi các quyền tự
do, dân chủ, chống nguy cơ chiến tranh đế quốc.
Tác phẩm "Tự chỉ trích” ( 7-1939) của Tổng Bí thư Nguyễn Văn Cừ đã tổng kết
công tác xây dựng Đảng và vận động quần chúng; góp phần chỉnh đốn Đảng, tăng
cường vai trò lãnh đạo của Đảng đối với phong trào cách mạng.
* Tóm lại, trong những năm 1936-1939 chủ trương mới của Đảng đã giải quyết
đúng mối quan hệ giữa mục tiêu chiến lược và mục tiêu cụ thể trước mắt của cách
mạng, các mối liên hệ giữa liên minh cơng nơng và mặt trận đồn kết dân tộc rộng rãi,
giữa vấn đề dân tộc và vấn đề giai cấp... đề ra hình thức đấu tranh linh hoạt, thích hợp,
nhằm hướng dẫn quần chúng đấu tranh giành quyền lợi hàng ngày, chuẩn bị cho cuộc
đấu tranh cao hơn vì độc lập tự do.
Cao trào dân chủ 1936-1939, là cuộc vận động cách mạng sâu, rộng. Làm bùng
lên phong trào đấu tranh đòi dân sinh, dân chủ, đạt những kết quả nhất định, đây là
cuộc tổng diễn tập lần thứ hai tiến tới thắng lợi của cách mạng Tháng Tám, năm 1945.
2. CHỦ TRƯƠNG ĐẤU TRANH TỪ NĂM 1939 ĐẾN NĂM 1945
2.1. Hoàn cảnh lịch sử và sự chuyển hướng chỉ đạo chiến lược của Đảng
2.1.1. Tình hình thế giới và trong nước
* Chiến tranh thế giới thứ 2 bùng nổ:
Ngày 1-9-1939, Đức đánh Ba Lan chiến tranh thế giới hai bùng nổ; hai ngày sau
Anh - Pháp tuyên chiến với Đức, chiến tranh lan rộng. Pháp lao vào cuộc chiến, đàn
áp dân chủ trong nước và phong trào cách mạng thuộc địa; Mặt trận nhân dân Pháp tan
vỡ. Đảng Cộng sản Pháp bị đặt ra ngồi vịng pháp luật…
Ngày 22 - 6 - 1941 Đức tấn cơng Liên xơ.
* Tình hình trong nước
21


Việt Nam là thuộc địa của Pháp; Pháp tham gia chiến tranh, chúng tăng cường
bóc lột và bắt lính; thực hiện chính sách thời chiến, đặt Đảng Cộng sản Đơng Dương
ra ngồi vịng pháp luật; nhiều thanh niên Việt Nam bị bắt lính đi làm bia đỡ đạn cho

Pháp.
Tháng 6-1940, Đức tấn cơng Pháp, Chính phủ Pháp đầu hàng, ngày 22-9-1940
Nhật tiến vào Lạng Sơn và đổ bộ lên Hải Phòng, ngày 23-9-1940 tại Hà Nội Pháp đầu
hàng Nhật, dân ta lúc này một cổ hai tròng áp bức Pháp - Nhật. Mâu thuẫn giữa nhân
dân ta với đế quốc, phát xít Pháp, Nhật trở nên gay gắt hơn bao giờ hết.
2.1.2. Nội dung chuyển hướng chỉ đạo chiến lược của Đảng
Sự chuyển hướng chỉ đạo chiến lược của Đảng được thể hiện trong 3 Nghị quyết
6,7,8 của ba Hội nghị Trung ương lần thứ 6,7, 8: Hội nghị Trung ương 6 (tháng 111939) họp tại Bà Điểm (Sài Gòn) do đồng chí Nguyễn Văn Cử Tổng Bí thư Đảng chủ
trì; Hội nghị Trung ương 7 (tháng 11-1940) họp tại Từ Sơn (Bắc Ninh) do đồng chí
Trường Chinh chủ trì; Hội nghị Trung ương lần thứ 8 (tháng 5-1941) họp ở Pắc Bó
(Cao Bằng) dưới sự chủ trì của Nguyễn Quốc.
Cả 3 Nghị quyết Trung ương trên đều có chung một nhận định: Chiến tranh thế
giới lần này sẽ dẫn đến vấn đề giải phóng dân tộc, hướng mọi hoạt động của tồn
Đảng, tồn dân cho giải phóng dân tộc; Trung ương Đảng quyết định chuyển hướng
chỉ đạo chiến lược như sau:
- 1 là, đưa nhiệm vụ giải phóng dân tộc lên hàng đầu.
Nghị quyết Trung ương 8 viết: “Trong lúc này nếu không giải quyết được vấn để
giải phóng dân tộc, khơng địi được độc lập, tự do cho dân tộc thì chẳng những quốc
gia dân tộc phải chịu mãi kiếp ngựa trâu mà quyền lợi của bộ phận giai cấp đến vạn
năm cũng khơng địi lại được...Cuộc cách mạng ở Đông Dương lúc này là cuộc cách
mạng dân tộc giải phóng".
- 2 là, để có lực lượng giải phóng dân tộc Hội nghị Trung ương 8 chủ trương
thành lập Mặt trận Việt Minh để đoàn kết tất cả các giai cấp, các tầng lớp nhân dân,
không phân biệt dân tộc, đảng phái; xu hướng chính trị vào một mặt trận chống đế
quốc thật rộng rãi để thực thi nhiệm vụ giải phóng dân tộc.
- 3 là, “Xúc tiến chuẩn bị khởi nghĩa vũ trang là nhiệm vụ trung tâm của toàn
Đảng, toàn dân trong giai đoạn hiện nay”.
Tích cực xây dựng căn cứ địa cách mạng, xây dựng lực lượng vũ trang Bắc Sơn
và chủ trương thành lập các đội du kích... để khi thời cơ đến ta đi từ khởi nghĩa từng
phần, chuyển dần lên chiến tranh cách mạng tồn dân, tổng khởi nghĩa giành chính

quyền toàn quốc.
Ban chấp hành Trung ương xác định phương châm và hình thái khởi nghĩa ở
nước ta: “phải ln chuẩn bị một lực lượng sẵn sàng, nhằm vào cơ hội thuận tiện hơn
cả mà đánh lại quân thù...mà mở đường cho một cuộc tổng khởi nghĩa to lớn”.
22


Ban Chấp hành Trung ương còn đặc biệt chú trọng công tác xây dựng Đảng
nhằm nâng cao năng lực tổ chức và lãnh đạo của Đảng; đẩy mạnh đào tạo cản bộ, đẩy
mạnh công tác vận động quần chúng.
2.1.3. Ý nghĩa của sự chuyển hướng chỉ đạo chiến lược:
Hoàn thành đường lối giải phóng dân tộc phù hợp với tình hình thế giới và trong
nước. Nêu cao nhiệm vụ giải phóng dân tộc lên hàng đầu đáp ứng nguyện vọng nhân
dân.Tập hợp được đông đảo lực lượng để đánh Pháp, đuổi Nhật.
Sự điều chỉnh chiến lược này đảm bảo cho thắng lợi của Cách mạng Tháng Tám 1945.
Sau Hội nghị Ban chấp hành Trung ương 8 (5-1941); Nguyễn Ái Quốc gửi thư
kêu gọi đồng bào cả nước đoàn kết đánh đuổi Pháp - Nhật. Người nhấn mạnh: “Trong
lúc này quyền lợi dân tộc cao hơn hết thảy. Chúng ta phải đoàn kết lại đánh đổ bọn đế
quốc và bọn Việt gian đặng cứu giống nịi ra khỏi nước sơi lửa nóng”
Thực hiện Nghị quyết của Đảng và lời kêu gọi của Nguyễn Ái Quốc, các cấp bộ
đảng và Mặt trận Việt Minh tích cực xây dựng các tổ chức cứu quốc, đẩy mạnh phong
trào đấu tranh; tháng 6-1944 Đảng Dân chủ Việt Nam ra đời, là thành viên của Mặt
trận Việt Minh.
Trên cơ sở phát triển lực lượng chính trị và đẩy mạnh phong trào chính trị của
quần chúng; lực lượng vũ trang nhân dân được củng cố, xây dựng và không ngừng
phát triển, ngày 22-12-1944 đội Việt Nam tuyên truyền giải phỏng quân được thành
lập (Cao Bằng) và căn cứ địa cách mạng ở các địa phương trong cả nước được xây
dựng, tiêu biểu là căn cứ Bắc Sơn - Vũ Nhai, Cao - Bắc - Lạng, Thái - Hà – Tuyên.
Công việc chuẩn bị khởi nghĩa vũ trang diễn ra sôi nổi trong cả nước, cổ vũ mạnh mẽ
phong trào cách mạng của quần chúng vùng lên đấu tranh giành chính quyền.

2.2. Chủ trương phát động Tổng khởi nghĩa giành chính quyền
2.2.1. Phát động cao trào kháng Nhật, cứu nước và đẩy mạnh khởi nghĩa từng phần
Phát động cao trào kháng Nhật cứu nước
Cuối năm 1944 đầu năm 1945 chiến tranh thế giới II bước sang giai đoạn kết
thúc. Ngày 9-3-1945 Nhật đảo chính Pháp độc chiếm Đơng Dương. Giữa lúc tiếng
súng của Nhật - Pháp đang nổ, ngay đêm 9-3-1945, Ban Thường vụ Trung ương Đảng
họp tại làng Đình Bảng, Bắc Ninh; ngày 12-3-1945 Ban thường vụ Trung ương Đảng
ra Chỉ thị: “Nhật - Pháp bắn nhau, hành động của chúng ta”.
Nội dung cơ bản của Chỉ thị:
- Nhận định tình hình: Nhật đảo chính Pháp đã tạo ra cuộc khủng hoảng chính trị
sâu sắc, nhưng điều kiện khởi nghĩa chưa thật sự chín muồi. Tuy vậy, hiện đang có
những cơ hội tốt làm cho những điều kiện Tổng khởi nghĩa nhanh chóng chín muồi.
- Xác đinh kẻ thù: Xác định kẻ thù chính lúc này là phát xít Nhật thay khẩu hiệu
đánh đuổi Nhật - Pháp bằng đánh đuổi phát xít Nhật.
- Chủ trương: Phát động cao trào kháng Nhật, cứu nước mạnh mẽ làm tiền đề
23


×