Tải bản đầy đủ (.docx) (46 trang)

đề cương ôn tập cơ sở văn hóa việt nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (468.34 KB, 46 trang )

Câu 1:Khái niệm văn hoá, cấu trúc của văn hoá?
• Khái niệm văn hoá:
Đã có rất nhiều các tổ chức, các quốc gia và các chuyên gia nghiên cứu về văn hoá đưa ra các
khái niệm về văn hoá và các vấn đề liên quan, và hiện tại chưa có một khái niệm nào về văn hoá
được thống nhất tuyệt đối. Có thể đưa ra một số quan niệm, khái niệm và định nghĩa về văn hoá
như sau:
Chủ tịch Hồ Chí Minh: Vì lẽ sinh tồn cũng như mục đích của cuộc sống, loài người mới sáng tạo
và phát minh ra ngôn ngữ, chữ viết, đạo đức, pháp luật, khoa học, tôn giáo, văn học, nghệ thuật,
những công cụ cho sinh hoạt hàng ngày về ăn, ở và các phương thức sử dụng. Toàn bộ những
sáng tạo và phát minh đó tức là văn hoá.
Cố TT Phạm Văn Đồng: Văn hóa bao gồm cả hệ thống giá trị: tư tưởng và tình cảm, đạo đức
với phẩm chất, trí tuệ và tài năng, sự nhạy cảm và sự tiếp thu cái mới từ bên ngoài, ý thức bảo
vệ tài sản và bản lĩnh của cộng đồng dân tộc, sức đề kháng và sức chiến đấu để bảo vệ mình và
không ngừng lớn mạnh.
PGS.TS Trần Ngọc Thêm: Văn hoá là một hệ thống hữu cơ các giá trị vật chất và tinh thần do
con người sáng tạo và tích luỹ qua quá trình hoạt động thực tiễn trong sự tương tác giữa con
người với tự nhiên và xã hội của mình.
UNESCO: Văn hoá hôm nay có thể coi là một tổng thể những nét riêng biệt tinh thần và vật
chất, trí tuệ và xúc cảm quyết định tính cách của một xã hội hay của một nhóm người trong xã
hội. Văn hoá bao gồm nghệ thuật và văn chương, những lối sống, những quyền cơ bản của con
người, những hệ thống các giá trị, những phong tục và những tín ngưỡng.
• Cấu trúc văn hoá :
- Văn hoá sản xuất: Nền văn minh nông nghiệp xóm làng với không gian định hình sinh
tồn và phát triển là miền Đồng Bằng sông nước tựa núi tiếp biển.
- Văn hoá vũ trang: Nghệ thuật chiến đấu của người Việt là cơ động bằng thuyền - thạo
thuỷ chiến và dung dân binh hỗ trợ quân binh.
- Văn hoá sinh hoạt: Lối sống của từng cộng đồng, từng gia đình và từng cá nhân được
thể hiện qua cách ăn, cách mặc ,cách ở.
Câu 2: Cách ứng xử của người Việt với đặc điểm môi trường
1. Môi trường tự nhiên:
Khái niệm : Môi trường là tổng thể những nhân tố tự nhiên xung quanh chúng ta gồm


bầu khí quyển, nước, thực vật, động vật, thổ nhưỡng,…
Con người sống trong quan hệ chặt chẽ với thiên nhiên cách ứng xử với môi trường tự
nhiên là thành tố quan trọng thứ 3 của hệ thống văn hóa.
Trong việc ứng xử với môi trường tự nhiên có thể xảy ra 2 khả năng, những gì có lợi cho
mình thì con người hết sức tranh thủ tận dụng còn những gì có hại thì ra sức ứng phó.
Việc ăn uống là lĩnh vực tận dụng môi trường tự nhiên còn mặc, ở và đi lại thuộc lĩnh vực
ứng phó. Mặc và ở là để ứng phó với thời tiết, khí hậu, đi lại là ứng phó với khoảng cách.
Ranh giới tận dụng và ứng phó không phải lúc nào cũng rạch ròi để ứng phó với thời tiết,
khí hậu con người đã tận dụng các chất liệu để đặt ngôi nhà sao cho có lợi nhất. Để ứng
phó với khoảng cách , con người đã tận dụng tối đa địa hình và địa vật chọn cho mình
phương tiện thuận lợi nhất.
a) Ăn
• Quan niệm về ăn và dấu ấn nông nghiệp trong cơ cấu bữa ăn.
* Hiển nhiên để duy trì sự sống ăn luôn là việc quan trọng số 1 tuy nhiên quan niệm của con
người về chuyện này thì ko phải ai cũng giống ai, có những dân tộc coi ăn là chuyện tầm thường
ko đáng nói nhưng người Việt Nam nông nghiệp luôn quan niệm : "Có thực mới vực được đạo".
Nó còn quan trọng đến mức Trời cũng ko dám xâm phạm " Trời đánh tránh miếng ăn" . Mọi
hành động của người Việt đều lấy ăn làm hàng đầu như: ăn uống, ăn ở, ăn mặc, ăn nói, ăn chơi,
ăn tiêu, ăn cắp, ăn trộm
Ăn uống là văn hóa chính xác hơn đó là văn hóa tận dụng môi trường tự nhiên cho nên ko có gì
ngạc nhiên khi cư dân các nền văn hóa gốc du mục như phương tây , bắc trung hoa thiên về ăn
thịt, còn bữa ăn của người Việt luôn mang đậm dấu ấn truyền thống nông nghiệp lúa nước.
+. Tục ngữ có câu: " Người sống về gạo
Cá bạo về nước
Cơm tẻ mẹ ruột "
Hay: "Đói thì thèm thịt thèm xôi
Hễ no cơm tẻ thì thôi mọi đường "
Không phải ngẫu nhiên mà người Việt gọi " bữa ăn là bữa cơm" coi cây lúa là tiêu chuẩn của
cái đẹp (em xinh là xinh như cây lúa).
+ Trong bữa ăn của người Việt Nam sau lúa gạo thì đến " Rau Quả " nằm ở 1 trong những trung

tâm trồng trọng, Việt Nam có 1 danh mục rau quả mùa nào thức ấy, phong phú vô cùng . Đối với
người Việt Nam thì " đói ăn rau, đau uống thuốc " là chuyện tất nhiên.
" Ăn cơm không rau như người già chết ko kèn trống "
Hay " Ăn cơm không rau như đánh nhau ko có người đỡ ".
Tuy nhiên nói đến rau trong bữa ăn không thể ko nhắc đến 2 món đặc thù là rau muống và dưa
cà.
Anh đi anh nhớ quê nhà
Nhớ canh rau muống nhớ cà dầm tương
Các loại gia vị đa dạng như: hành , gừng, tỏi , ớt, tiêu, húng, mùi, răm, thì là cũng ko thể thiếu
đc trong bữa ăn của người Việt
+ Đứng thứ 3 trong cơ cấu ăn và đứng hàng đầu thức ăn động vật của người Việt là các loại thủy
sản, sản phẩm của vùng sông nước. Sau " Cơm rau" thì " Cơm cá" đó là món ăn thông dụng nhất
" Có cá đổ vạ cho cơm , con cá đánh ngã bát cơm là thế". Từ các loại thủy sản người việt có thể
chế ra nhiều loại nước chầm đc biệt như các loại nước mắm, thiếu nước mắm chưa thể thành bữa
cơm, cơm nước mắm ko phải lúc nào cũng đồng nghĩa với bình dân, các bà phi tần nhà nguyễn
từng lấy nc mắm để tiến vua. Từ tiếng việt danh từ " Nước mắm " đã đi vào ngôn ngữ loài người
và có mặt trong từ điển bách khoa đông tây.
+ Ở vị trí cuối cùng trong cơ cấu bữa ăn người Việt là thịt, phổ biến như thịt gà, lợn, trâu, bò
Đặc sản bình dân như thịt chó và các sơn hào hải vị khác.
* Đồ uống hút
Truyền thống của người Việt có trầu, cau , thuốc lào, nước vối. rượu gạo, chúng đều là những
sản phẩm cổ truyền của nghề trồng trọt đông nam á.
+ Ăn Trầu Cau
+ Rượu
+ Cây chè và tục uống chè
• Tính tổng hợp trong nghệ thuật ẩm thực của người Việt .
Tính tổng hợp trong nghệ thuật ẩm thực của người Việt trước hết là cách chế biến đồ ăn, hầu hết
các món ăn người Việt đều là sản phẩm pha chế tổng hợp, nói về cách chế biến tổng hợp tục ngữ
VN có 1 hình ảnh so sánh thật dí dỏm: " Nấu canh xuông ở chuồng mà nấu ". Cách pha chế tổng
hợp ko chỉ cầu kì ở mùi vị món ăn mà còn cầu kì ở các cách chế biền món ăn như: xào, nấu,

luộc, sốt vang, rán, tạo nên nét đặc trưng riêng ko chỉ ngon mà còn đẹp.
• Tính cộng đồng và tính mực thước trong nghệ thuật ẩm thực của người Việt.
Tính tổng hợp kéo theo tính cộng đồng như ăn chung, hay còn gọi cách khác là bữa ăn gia
đình tạo nên nét ấm cúng trong bữa ăn của người Viêt và thú uống rượu cần của người vùng cao
là biểu hiện triết lý thâm thúy về tính cộng đồng sống chết có nhau.
Tính cộng đồng đòi hỏi ở con người 1 thứ văn hóa cao trong ăn uống " Ăn trong nồi ngồi trong
hướng". Vì nét truyền thống của người Việt trong bữa ăn là mực thước, tính mực thước là biểu
hiện của khuynh hướng quân bình trong âm dương nó đòi hỏi " ăn chậm nhai kĩ "
Khi ăn cơm khách 1 mặt phải ăn cho ngon miệng để tỏ lòng biết ơn và tôn trọng chủ nhà, mặt
khác phải chừa ra 1 ít trong các đĩa đồ ăn để tỏ rằng mình không chết đói, không tham ăn. Tục
ngữ có câu : Ăn hết bị đòn. ăn còn mất vợ "
Tính cộng đồng và tính mực thước trong bữa ăn thể hiện qua nồi cơm và chén nước mắm.
• Tính biện chứng , linh hoạt trong nghệ thuật ẩm thực của người Việt.
* Tính linh hoạt của người Việt Nam thể hiện rất rõ trong cách ăn
* Tính linh hoạt còn thể hiện trong dụng cụ ăn : truyền thống sử dụng dụng cụ là đôi đũa, đó là
cách ăn đặc thù mô phỏng động tác của con chim nhặt hạt xuất phát từ những thứ ăn những thứ
ko thể dùng tay bốc hoặc mó tay vào được ( cơm, cá, nước mắm )
* Biểu hiện ko kém quan trọng hơn cả của tính biện chứng trong việc ăn là ở chỗ người Việt
Nam đặc biệt chú trọng đến quan hệ biện chúng Âm- Dương bao gồm 3 mặt liên quan mật thiết
với nhau là: âm dương của thức ăn, sự quân bình âm dương trong cơ thể và sự cân bằng âm
dương giữa con người với môi trường tự nhiên.
+ Để tạo nên những món ăn có sự cân bằng âm dương người Việt phân biệt thức ăn theo 5 mức
âm dương ứng với ngũ hành: hàn ( lạnh ), nhiệt ( nóng ), ôn ( ẩm ), lương ( mát ), bình ( trung
tính ).
+ Để tạo nên sự quân bình âm dương trong cơ thể ngoài việc ăn các món chế biến có tính đến sự
quân bình âm dương người Việt Nam còn sử dụng thức ăn như những vị thuốc để điểu chỉnh sự
mất quân bình âm dương trong cơ thể. Mọi bệnh tật đều do mất quân bình âm dương vì vậy mọi
người bị ốm do quá ân cần ăn đồ dương và ngược lại ốm do quá dương cần ăn đồ âm để khôi
phục lại sự thăng bằng đã mất.
+ Để đảm bảo quân bình âm dương giữa con người với môi trường thì người Việt có tập quán ăn

uống theo vùng khí hậu , theo mùa. Ăn theo mùa tức là tận dụng tối đa môi trường tự nhiên để
phục vụ con người là hòa mình vào tự nhiên tạo nên sự cân bằng biện chứng giữa con người với
môi trường. Thức ăn theo mùa hay mùa nào thức ấy " Mùa hè cá sông, mùa đông cá bể, chim
ngói mùa thu, chim cu mùa hè "
+ Tình biện chứng trong việc ăn uống không chỉ thể hiện ở việc ăn phải hợp thời tiết , phải đúng
mùa, và người Việt Nam sành ăn còn phải biết chọn đúng bộ phận có giá trị ( chuối sau, cau
trước,đầu chép, mép trôi, môi mè, lườn trắm ). Thời điểm có giá trị còn là lúc thức ăn đang trong
quá trình âm dương chuyển hóa, đang ở dạng âm dương cân bằng hơn cả và vì vậy mà rất giàu
chất dinh dưỡng ( trứng lộn, nhộng, lợn sữa, ong non )
b) Mặc
* Người việt chon trang phục do ảnh hưởng bởi 2 nhân tố
+ Khí hậu
+ Nghề nghiệp
* Đặc điểm trang phục của người Việt:
- Ăn chắc mặc bền
- Ăn no mặc ấm
- Người đẹp vì lụa lúa tốt vì phân
- Chân tốt vì hài , tai tốt vì hoa
* Trang phục vủa người Việt:
Nam giới: Khố , áo bà ba , áo the , quần , khăn đóng,…
Nữ giới: yếm , áo cánh , áo dài, váy , quần , khăn , nón ,…
c) Ở và đi lại
• Ứng phó với khoảng cách giao thông.
+) Ở xã hội Việt Nam cổ truyền, do bản chất nông nghiệp sống định
cư cho nên con người ít có nhu cầu di chuyển.Đặc biệt nhiều cụ già ở nông thôn thậm chí còn ít
khi đi xa.Vì vậy ,dễ dàng hiểu được giao thông trước đây chủ yếu bằng đường bộ,thuộc loại lĩnh
vực kém phát triển.
Từ thế kỉ XX còn phát triển các phương tiện đi lại bằng gia súc: trâu, ngựa, voi. Nhưng phổ
biến vẫn là đôi chân.
+) Hoạt động chủ yếu của người nông nghiệp Việt Nam là di chuyển gần từ nhà ra đồng,từ nhà

lên nương.Ruộng nước và nương rẫy là nơi không thể đưa các phương tiện xe nên họ dùng sức là
chủ yếu là dùng sức.Chính vì vậy trên thế giới này không một ngôn ngữ có số lượng chỉ hoạt
động vận chuyển bằng sức người đa dạng và phong phú như tiếng việt.
• Ứng phó với thời tiết, khí hậu : nhà cửa, kiến trúc
Đối với nông nghiệp thì ngôi nhà chính là tổ ấm để đối phó với thời tiết nóng lạnh, nắng mưa,
gió bão- 1 trong những yếu tố quan trọng nhất để đảm bảo cho họ 1 cuộc sống định cư ổn định: "
Có an cư thì mới có lạc nghiệp " hay " thứ nhất dương cơ, thứ nhì âm phần ". Do ngôi nhà chiếm
vị trí quan trọng đặc biệt trong cuộc sống nên Nhà ( chố ở ) được đồng nhất với gia đình.
Ngôi nhà ở Việt Nam có những đặc điểm sau:
+. Do khu vực cư trú nên ngôi nhà của người Việt thường gắn liền với môi trường sông nước.
Những người sống bằng nghề sông nước ( chài lưới, chở đò ) thường lấy thuyền, bè là nhà ở gọi
là nhà thuyền, nhà bè, nhiều gia đình gọi là xóm chài và làng chài. Tuy vậy nhưng họ vẫn có nhà
trên sàn trên mặt nước để ứng phó với việc ngập lụt và khí hậu nhiệt đới với độ ẩm cao thêm vào
đó là hình mái cong. Mái cong ngoài ý nghĩa là con thuyền thì ko có tác dụng thực tế gì, tạo dáng
vẻ thanh thoát đặc biệt và gợi cảm giác bay bổng cho ngôi nhà vốn được trải rộng trên mặt bằng
để hòa mình vào thiên nhiên.
+. Để đối phó với môi trường tự nhiên tiêu chuẩn ngôi nhà ở Việt Nam về mặt cấu trúc là nhà
cao cửa rộng.
Kiên trúc mở tạo không gian thoáng mát, giao hòa với tự nhiên, cái cao của ngôi nhà VN bao
gồm 2 yêu cầu : sàn và nền cao so với mặt đất và mái cao so với sàn/ nền. Nhà cao mà cửa ko
cao mà phải rộng, của ko cao để tránh ảnh nắng chiếu xiên vào còn cửa rộng để đón gió mát và
tránh nóng.
+. Biện pháp quan trong ko kém là chọn hướng nhà, chọn đất, tận dụng tối đa thế mạnh của môi
trường tự nhiên.
Hướng nhà tiêu biểu là hướng Nam " Lấy vợ đàn bà, làm nhà hướng nam ". Nhưng tùy thuộc vào
địa hình địa vật xung quanh vào sự có mặt của núi rừng, của sông, của con đường " Phong" và
" Thủy" là 2 yếu tô quan trọng nhất, thuật phong thủy được xây dựng trên âm dương ngũ hành do
vậy mà nhà phong thủy cần nắm vững hướng gió và hướng nước để âm dương được điều hòa là
tốt nhất. Tuy nhiên trong việc " chọn nơi mà ở " thì người Việt còn có tính cộng đồng mà ko thể
quên làng " Nhất cận thị, nhị cận lân, tam cận giang, tứ cận lộ, ngũ cận điền "

+. Về cách thức kiến trúc thì đặc điểm của ngôi nhà VN truyền thống là rất động và linh hoạt.
Chất động linh hoạt đó trước hết được thể hiện ở lối kết cấu khung, cốt lõi của ngôi nhà là bộ
phận khung chịu lực tạo nên bởi các bộ phận liên kết với nhau trong ko gian 3 chiều: theo chiều
đứng, theo chiều ngang và theo chiều dọc. Tất cả các chi tiết của ngôi nhà được liên kết với nhau
bằng mộng, mộng là cách ghép theo nguyên lý âm dương phần lồi ra của 1 bộ phận này với chỗ
lõm vào có hình dáng và kích thước tương ứng của 1 bộ phận khác.
+. Về hình thức kiến trúc thì ngôi nhà là tấm gương phản ánh đặc điểm của truyền thống văn hóa
dân tộc.
Trước hết là môi trường sông nước phản ánh qua cách làm nhà sán với vách riêng và mái cong
hình thuyền. Rồi tính cộng đồng thể hiện ở việc trong nhà ko chia thành nhiều phòng nhỏ biệt lập
như phương tây.
Người Việt Nam có truyền thống thờ cúng tổ tiên và hiếu khách cho nên việc ưu tiên cho bộ bàn
ghế tiếp khách là ko ngoại lệ. Hình thức kiến trúc ngôi nhà còn tuân thủ nguyên tắc coi trọng số
lẻ của truyền thống văn hóa nông nghiệp : Ngọ môn 5 cửa 9 lầu, cột cờ 3 cấp, số gian của ngôi
nhà bao giờ cũng là số lẻ.
Cách liên kết theo lối ghép mộng âm dương giúp cho các bộ phận vừa gắn bó chặt chẽ lại vừa cơ
động và linh hoạt. Nhìn chung chỉ trong 1 việc ở, ta cũng thấy nguyên lý âm dương và ý muốn
hướng tới 1 cuộc sống hài hòa chi phối con người Việt Nam 1 cách trọn vẹn.
2. Môi trường xã hội :
• Môi trường xã hội là những nhóm người, những tập đoàn, những lĩnh vực hoạt động,
những yếu tố hợp thành một tổ chức, những thể chế (pháp luật, kinh tế, xã hội, nghề
nghiệp,…) xung quanh con người
• Cơ cấu xã hội Việt Nam cổ truyền:
Gia đình và dòng họ
Làng
Văn hóa ứng xử với môi trường xã hội đó chính là cách chọn lọc, dung hòa và tích hợp nhiều
nguồn gốc tạo ra văn hóa Việt Nam. Đó là quá trình:◊Văn hóa ứng xử với môi trường xã hội đó
chính là cách chọn lọc, dung hòa và tích hợp nhiều nguồn gốc bộc lộ tính chủ động và khả năng
chi phối, tác dộng trở lại của văn hóa bản địa trong quá trình tiếp nhận. Dung hợp giữa văn hóa
bản địa và văn hóa ngoại lai

Sự dung hợp của các hiện tượng văn hóa ngoại lai với nhau
tổng hợp các tôn giáo – xuất hiện đạo Cao Đài◊+ Sự tồn tại của Tam giáo (Phật giáo, Lão giáo,
Nho giáo) cao hơn là sự tích hợp văn hóa Đông – Tây với học thuyết Mác. Sự dung hợp VH
Đông – Tây
Chính sự dung hòa, hiếu hòa, linh hoạt đã làm các yếu tố VH ngoại lai sau khi được tiếp nhận
không hề xung đột.
Ứng xử là một biểu hiện của sự giao tiếp, giữa con người với con người, giữa cá nhân với
cộng đồng xã hội. Đồng thời nó cũng là sự phản ứng của người này trước sự tác động của người
khác trong một tình huống nhất định, một hoàn cảnh nhất định được thể hiện qua thái độ, hành
vi, cử chỉ, cách nói năng của con người nhằm đạt kết quả tốt trong mối quan hệ giữa con người
với nhau.
Tuy nhiên hành vi ứng xử văn hóa của mỗi cá nhân là khác nhau, nó được hình thành qua
quá trình học tập, rèn luyện và trưởng thành của mỗi cá nhân đó trong một môi trường gia đình
và xã hội nhất định. Hành vi ứng xử văn hóa được coi là các giá trị văn hóa, đạo đức, thẩm mỹ
của mỗi cá nhân Nó được biểu hiện trong mối quan hệ với những người chung quanh, trong học
tập, công tác, với bạn bè và thậm chí ngay cả với chính bản thân mình. Chúng ta bàn nhiều về
đạo đức, nhân cách của một con người, nhưng ít ai bàn đến phép lịch sự, cách đối nhân, xử thế
trong các mối quan hệ giao tiếp diễn ra hàng ngày trong gia đình, và ngoài xã hội. Con người
chúng ta sống giữa các mối quan hệ xã hội đa dạng, phức tạp. Các mối quan hệ này có ảnh
hưởng đến sự hình thành, phát triển nhân cách và xu hướng hành động của họ. Chính cuộc sống
đòi hỏi mỗi người phải có cách xử thế đúng đắn, thể hiện qua phép lịch sự trong quá trình giao
tiếp với các đối tác khác nhau. Cách xử thế của mỗi cá nhân trong sự giao tiếp xã hội, được gắn
với nền văn minh của từng thời đại và đặc điểm văn hoá của từng dân tộc, khu vực dân cư. Các
biểu hiện của cách ứng xử mang tính dân tộc, tính giai cấp, giới tính, tuổi tác Nó chịu ảnh
hưởng của nghề nghiệp, địa vị xã hội và cũng mang đặc điểm cá tính của mỗi con người. Phép
lịch sự trong việc ứng xử chính là một sự tổng hợp các nghi thức được biểu hiện ra trong cách
giao tiếp, nhưng không phải là những ứng xử một cách máy móc mà là những việc làm, lời ăn
tiếng nói linh hoạt, nhiều vẻ, gắn với từng hoàn cảnh, từng môi trường cụ thể và tuỳ theo đối tác
gặp gỡ. Ví dụ: Khi gặp gỡ người quen, ta chào, chứng tỏ ta đã nhận ra họ, kèm theo lời chào có
thể là bắt tay, mỉm cười…Lời chào hỏi, liên quan đến những quy ước nhất định, chịu ảnh hưởng

của những đặc điểm văn hoá dân tộc, vùng miền. Mục đích và ý nghĩa của lời chào hỏi chính là
ta tự đặt mình trong mối quan hệ của cách xử thế đã được quy định và được xã hội chấp nhận.
Khi muốn thiết lập mối quan hệ giữa những người mới gặp, thì lời giới thiệu của người thứ ba là
rất cần thiết. Phép lịch sự dạy chúng ta tôn trọng người khác đó chính là một nghệ thuật sống tế
nhị. Tôn trọng người tiếp xúc với mình chính là ta đang tôn trọng chính bản thân mình. Trong
thời buổi cơ chế thị trường hiện nay, cuộc sống ngoài xã hội diễn ra vô cùng phức tạp, đa dạng,
những lời khuyên về những hành động ứng xử có văn hóa quả thật là khó đối với một số bạn trẻ
hiện nay, nói thế nhưng không có nghĩa là thế hệ trẻ hiện nay không quan tâm tới việc ứng xử có
văn hóa, mà do áp lực của học tập, công việc nên đôi khi họ chưa chú trọng tới việc ứng xử với
nhau có tế nhị và có văn hóa. Để có thể tiếp xúc trò chuyện với người khác một cách thoải mái
thì bản thân chúng ta phải biết thích ứng với những gì đang diễn ra xung quanh mình. Sự cân
bằng tình cảm đó sẽ đem lại cho ta một cảm giác thoải mái, tin tưởng trong sự giao tiếp. Khéo
ứng xử, và ứng xử có tế nhị là không nên làm phiền người khác, không đi sâu vào đời tư của họ,
biết giữ một khoảng cách tình cảm giữa mình với người tiếp xúc, đặc biệt khi mới gặp, không
nên kể chuyện đời tư của mình một cách dễ đãi, không mời đến nhà những người ít quen biết.
Nếu có cách đối nhân xử thế đúng đắn, có phép lịch sự trong giao tiếp thì người ta sẽ có
nhận thức đúng đắn về đạo đức tư cách lối sống của mình. Điều này giúp chúng ta ngày càng
trưởng thành lên và có kinh nghiệm sống ngày càng phong phú. Cách đối nhân xử thế là thể hiện
vốn sống của mỗi cá nhân, sự hiểu biết của mỗi người về các mối quan hệ xã hội người với
người.
Câu 3: Chức năng cơ bản của văn hoá
Văn hoá có 5 chức năng là: Chức năng giáo dục; chức năng nhận thức dự báo; chức năng thẩm
mỹ và chức năng giải trí, chức năng kế tục và phát triển lịch sử.
Nội dung cơ bản của các chức năng đó như sau:
- Chức năng giáo dục: là chức năng mà văn hoá thông qua các hoạt động, các sản phẩm của
mình nhằm tác động một cách có hệ thống đến sự phát triển tinh thần, thể chất của con người,
làm cho con người dần dần có những phẩm chất và năng lực theo những chuẩn mực xã hội đề ra.
Văn hoá thực hiện chức năng giáo dục không chỉ bằng những giá trị đã ổn định là truyền thống
văn hoá mà còn bằng cả những giá trị đang hình thành. Các giá trị này tạo thành một hệ thống
chuẩn mực mà con người hướng tới. Nhờ vậy, văn hoá đóng vai trò quyết định trong việc hình

thành nhân cách ở con người, trong việc "trồng người ". Với chức năng giáo dục, văn hoá tạo nên
sự phát triển liên tục của lịch sử mỗi dân tộc cũng như lịch sử nhân loại. Văn hoá duy trì và phát
triển bản sắc dân tộc và là cầu nối hữu nghị gắn bó các dân tộc, gắn kết các thế hệ trong mục tiêu
hướng đến cái Chân- Thiện- Mỹ. Văn hoá là "gien" xã hội di truyền phẩm chất cộng đồng người
lại cho các thế hệ sau.
- Chức năng nhận thức, dự báo: Là chức năng đầu tiên, tồn tại trong mọi hoạt động văn hoá.
Bởi, con người không có nhận thức thì không thể có bất cứ một hành động văn hoá nào. Nhưng
quá trình nhận thức này của con người trong các hoạt động văn hóa lại được thông qua đặc trưng,
đặc thù của văn hóa. Nâng cao trình độ nhận thức của con người chính là phát huy những tiềm
năng ở con người.
- Chức năng thẩm mỹ: Cùng với nhu cầu hiểu biết, con người còn có nhu cầu hưởng thụ, hướng
tới cái đẹp. Con người nhào nặn hiện thực theo quy luật của cái đẹp cho nên văn hóa phải có
chức năng này. Nói cách khác, văn hoá là sự sáng tạo của con người theo quy luật của cái đẹp,
trong đó, văn học nghệ thuật là biểu hiện tập trung nhất sự sáng tạo ấy. Với tư cách là khách thể
của văn hóa, con người tiếp nhận chức năng này của văn hóa và tự thanh lọc mình theo hướng
vươn tới cái đẹp và khắc phục cái xấu trong mỗi người .
- Chức năng giải trí: Trong cuộc sống, ngoài hoạt động lao động và sáng tạo, con người còn có
nhu cầu giải trí. Các hoạt động văn hoá, câu lạc bộ, bảo tàng, lễ hội, ca nhạc, sẽ đáp ứng được
các nhu cầu ấy. Như vậy, sự giải trí bằng các hoạt động văn hoá là bổ ích, cần thiết, góp phần
giúp cho con người lao động sáng tạo có hiệu quả hơn và giúp con người phát triển toàn điện.
- Chức năng kế tục và phát triển:
Câu 4: Khái niệm bản sắc văn hoá dân tộc
 Bản sắc là những nét riêng, những đặc trưng của sự vật, hiện tượng giúp phân biệt nó
với những sự vật, hiện tượng khác.
 Bản sắc dân tộc là sắc thái bao quát một cách uyển chuyển, linh hoạt những đặc điểm
của dân tộc tạo nên một diện mạo riêng của dân tộc ấy, không thể đồng nhất với các dân
tộc khác trong cộng đồng khu vực hay cộng đồng loài người.
 Bản sắc văn hoá của dân tộc là cách thức xây dựng nền văn hoá của dân tộc, là sự lan toả
sắc thái tư duy, tâm hồn, trí tuệ, ngôn ngữ, phong độ, cung cách, hành vi ứng xử trong
văn chương nghệ thuật, trong lao động sáng tạo ra vật chất mang tính độc đáo của dân

tộc.
 Bản sắc văn hoá dân tộc là một kiểu tổng hợp, kết hợp những phẩm chất, những giá trị
văn hoá nội sinh và ngoại sinh tạo thành linh hồn, sức sống bền vững của dân tộc, có
những nét ưu trội hơn một số dân tộc khác, mang tính ổn định trong quá trình lịch sử đấu
tranh và xây dựng của dân tộc đó.
Các yếu tố thể hiện bản sắc văn hóa dân tộc
 Sự gắn kết giữa Nhà – Làng – Nước
 Ngôn ngữ
 Tôn giáo
Câu 5: Khái niệm ngôn ngữ . Những đặc trưng cơ bản của nghệ thuật ngôn từ Việt Nam
• Khái niệm ngôn ngữ:
Ngôn ngữ là hệ thống để giao thiệp hay suy luận dùng một cách biểu diễn, phép ẩn dụ, và
một loại ngữ pháp theo lôgic, mỗi cái đó bao hàm một tiêu chuẩn hay sự thật thuộc lịch sử và
siêu việt. Nhiều ngôn ngữ sử dụng điệu bộ, âm thanh, ký hiệu, hay chữ viết, và cố gắng
truyền khái niệm, ý nghĩa, và ý nghĩ, nhưng mà nhiều khi những khía cạnh này nằm sát quá,
cho nên khó phân biệt nó.
Ngôn ngữ không phải là một bộ “quy tắc và ngữ pháp”. Ngôn ngữ là công cụ người ta dùng để
biểu đạt ý nghĩa và tình cảm của mình đối với người khác, qua đó để người ta hiểu nhau.
• Những đặc trưng cơ bản của nghệ thuật ngôn từ Việt Nam:
Nghệ thuật ngôn từ Việt Nam có TÍNH BIỂU TRƯNG cao. Tính biểu trưng thể hiện ở
xu hướng khái quát hóa, ước lệ hóa, công thức hóa với những cấu trúc cân đối, hài hòa.
Xu hướng ước lệ bộc lộ ở chỗ tiếng Việt thích những cách diễn đạt bằng các con số biểu
trưng. Lối tư duy tổng hợp mọi yếu tố, lối sống ổn định có quan hệ tốt với hết thảy mọi
người dẫn đến xu hướng trọng sự cân đối hài hòa trong ngôn từ – một biểu hiện khác của
tính biểu trưng. Tính cân xứng là một đặc tính rất điển hình của tiếng Việt.
Khái niệm: Lễ hội là hình thức sinh hoạt tập thể của nhân dân sau những ngày lao động vất vả
hoặc là một dịp để mọi người hướng về một sự kiện lịch sử trọng đại của đất nước, hoặc liên
quan đến những sinh hoạt tín ngưỡng của nhân dân hoặc chỉ đơn thuần là những hoạt động có
tính chất vui chơi, giải trí nên có sức hấp dẫn cao đối với khách.
Những giá trị của lễ hội cổ truyền Việt Nam:

Khi nước ta cũng như ở nhiều nước khác đã bước vào công nghiệp hoá, hiện đại hoá nhưng lễ
hội cổ truyền vẫn tồn tại thậm chí còn bùng phát mạnh mẽ. Phải chăng lễ hội cổ truyền vẫn thu
hút và lôi cuốn con người xã hội hiện đại? Nói cách khác, lễ hội cổ truyền vẫn đáp ứng nhu cầu
của con người không chỉ trong xã hội cổ truyền mà cả xã hội hiện đại. Có được điều đó là do lễ
hội cổ truyền hội tụ các giá trị sau:
Giá trị cố kết và biểu dương sức mạnh cộng đồng:
Lễ hội nào cũng là của và thuộc về một cộng đồng người nhất định, đó có thể là cộng đồng làng
xã (hội làng), cộng đồng nghề nghiệp (hội nghề), cộng đồng tôn giáo (hội chùa, hội đền, hội nhà
thờ), cộng đồng dân tộc (hội Đền Hùng - quôc tế) đến cộng đồng nhỏ hẹp hơn, như gia tộc, dòng
họ chính lễ hội là dịp biểu dương sức mạnh của cộng đồng và là chất kết dính tạo nên sự cố kết
cộng đồng.
Mỗi cộng đồng hình thành và tồn tại trên cơ sở của những nền tảng gắn kết, như gắn kết do cùng
cư trú trên một lãnh thổ (cộng cư), gắn kết về sở hữu tài nguyên và lợi ích kinh tế (công hữu),
gắn kết bởi số mệnh chịu sự chi phối của một lực lượng siêu nhiên nào đó (cộng mệnh), gắn kết
bởi nhu cầu sự đồng cảm trong các hoạt động sáng tạo và hưởng thụ văn hoá (cộng cảm)… Lễ
hội là môi trường góp phần quan trọng tạo nên niềm cộng mệnh và cộng cảm của sức mạnh cộng
đồng.
Ngày nay, trong điều kiện xã hội hiện đại, con người càng ngày càng khẳng định “cái cá nhân”,
“cá tính” của mình thì không vì thế cái “cộng đồng” bị phá vỡ, mà nó chỉ biến đổi các sắc thái và
phạm vi, con người vẫn phải nương tựa vào cộng đồng, có nhu cầu cố kết cộng đồng. Trong điều
kiện như vậy, lễ hội vẫn giữ nguyên giá trị biểu tượng của sức mạnh cộng đồng và tạo nên sự cố
kêt cộng đồng ấy.
Giá trị hướng về cội nguồn:
Tất cả mọi lễ hội cổ truyền đều hướng về nguồn. Đó là nguồn cội tự nhiên mà con người vốn từ
đó sinh ra và nay vẫn là một bộ phận hữu cơ; nguồn cội cộng đồng như dân tộc, đất nước, xóm
làng, tổ tiên, nguồn cội văn hoá Hơn thế nữa, hướng về nguồn đã trở thành tâm thức của con
người Việt Nam - “uống nước nhớ nguồn”, “ăn quả nhớ người trồng cây”. Chính vì thế, lễ hội
bao giờ cũng gắn với hành hương - du lịch.
Ngày nay, trong thời đại cách mạng khoa học kỹ thuật, tin học hoá, toàn cầu hóa, con người
bừng tỉnh về tình trạng tách rời giữa bản thân mình với tự nhiên, môi trường; với lịch sử xa xưa,

với truyền thống văn hoá độc đáo đang bị mai một. Chính trong môi trường tự nhiên và xã hội
như vậy, hơn bao giờ hết con người càng có nhu cầu hướng về, tìm lại cái nguồn cội tự nhiên của
mình, hoà mình vào với môi trường thiên nhiên; trở về, tìm lại và khẳng định cái nguồn gốc cộng
đồng và bản sắc văn hoá của mình trong cái chung của văn hoá nhân loại. Chính nền văn hoá
truyền thống, trong đó có lễ hội cổ truyền là một biểu tượng, có thể đáp ứng nhu cầu bức xúc ấy.
Đó cũng chính là tính nhân bản bền vững và sâu sắc của lễ hội có thể đáp ứng nhu cầu của con
người ở mọi thời đại.
Giá trị cân bằng đời sống tâm linh:
Bên cạnh đời sống vật chất, đời sống tinh thần, tư tưởng còn hiện hữu đời sống tâm linh. Đó là
đời sống của con người hướng về cái cao cả thiêng liêng - chân thiện mỹ - cái mà con người
ngưỡng mộ, ước vọng, tôn thờ, trong đó có niềm tin tôn giáo tín ngưỡng. Như vậy, tôn giáo tín
ngưỡng thuộc về đời sống tâm linh, tuy nhiên không phải tất cả đời sống tâm linh là tôn giáo tín
ngưỡng. Chính tôn giáo tín ngưỡng, các nghi lễ, lễ hội góp phần làm thoả mãn nhu cầu về đời
sống tâm linh của con người, đó là “cuộc đời thứ hai”, đó là trạng thái “thăng hoa” từ đời sống
trần tục, hiện hữu.
Xã hội hiện đại với nhịp sống công nghiệp, các hoạt động của con người dường như được
“chương trình hoá” theo nhịp hoạt động của máy móc, căng thẳng và đơn điệu, ồn ào, chật chội
nhưng vẫn cảm thấy cô đơn. Một đời sống như vậy tuy có đầy đủ về vật chất nhưng vẫn khô
cứng về đời sống tinh thần và tâm linh, một đời sống chỉ có dồn nén, “trật tự” mà thiếu sự cởi
mở, xô bồ, “tháo khoán” Tất cả những cái đó hạn chế khả năng hoà đồng của con người, làm
thui chột những khả năng sáng tạo văn hoá mang tính đại chúng. Một đời sống như vậy không có
“thời điểm mạnh”, “cuộc sống thứ hai”, không có sự “bùng cháy” và “thăng hoa”.
Trở về với văn hoá dân tộc, lễ hội cổ truyền con người hiện đại dường như được tắm mình trong
dòng nước mát đầu nguồn của văn hoá dân tộc, tận hưởng những giây phút thiêng liêng, ngưỡng
vọng những biểu tượng siêu việt cao cả - chân thiện mỹ, được sống những giờ phút giao cảm hồ
hởi đầy tinh thần cộng đồng, con người có thể phô bày tất cả những gì là tinh tuý đẹp đẽ nhất của
bản thân qua các cuộc thi tài, qua các hình thức trình diễn nghệ thuật, cách thức ăn mặc lộng lẫy,
đẹp đẽ khác hẳn ngày thường Tất cả đó là trạng thái “thăng hoa” từ đời sống hiện thực, vượt
lên trên đời sống hiện thực. Nói cách khác, lễ hội đã thuộc về phạm trù cái thiêng liêng của đời
sống tâm linh, đối lập và cân bằng với cái trần tục của đời sống hiện thực.

Giá trị sáng tạo và hưởng thụ văn hóa:
Lễ hội là một hình thức sinh hoạt tín ngưỡng - văn hoá cộng đồng của nhân dân ở nông thôn
cũng như ở đô thị. Trong các lễ hội đó, nhân dân tự đứng ra tổ chức, chi phí, sáng tạo và tái hiện
các sinh hoạt văn hoá cộng đồng và hưởng thụ các giá trị văn hoá và tâm linh, do vậy, lễ hội bao
giờ cũng thấm đượm tinh thần dân chủ và nhân bản sâu sắc. Đặc biệt trong “thời điểm mạnh”
của lễ hội, khi mà tất cả mọi người chan hoà trong không khí thiêng liêng, hứng khởi thì các cách
biệt xã hội giữa cá nhân ngày thường dường như được xoá nhoà, con người cùng sáng tạo và
hưởng thụ những giá trị văn hoá của mình.
Điều này có phần nào đối lập với đời sống thường nhật của những xã hội phát triển, khi mà phân
công lao động xã hội đã được chuyên môn hoá, nhu cầu sáng tạo và hưởng thụ văn hoá của con
người đã phần nào tách biệt.
Đấy là chưa kể trong xã hội nhất định, một lớp người có đặc quyền có tham vọng “cướp đoạt”
các sáng tạo văn hoá cộng đồng để phục vụ cho lợi ích riêng của mình. Đến như nhu cầu giao
tiếp với thần linh của con người cũng tập trung vào một lớp người có “khả năng đặc biệt”. Như
vậy, con người, đứng từ góc độ quảng đại quần chúng, không còn thực sự là chủ thể của quá
trình sáng tạo và hưởng thụ các giá trị văn hoá một cách bình đẳng nữa. Xu hướng đó phần nào
xói mòn tinh thần nhân bản của văn hoá, làm tha hoá chính bản thân con người. Do vậy, con
người trong xã hội hiện đại, cùng với xu hướng dân chủ hoá về kinh tế, xã hội thì cũng diễn ra
quá trình dân chủ hoá về văn hoá. Chính nền văn hoá truyền thống, trong đó có lễ hội cổ truyền
là môi trường tiềm ẩn những nhân tố dân chủ trong sáng tạo và hưởng thụ các giá trị văn hoá ấy.
Giá trị bảo tồn và trao truyền văn hóa:
Lễ hội không chỉ là tấm gương phản chiếu nền văn hoá dân tộc, mà còn là môi trường bảo tồn,
làm giàu và phát huy nền văn hoá dân tộc ấy.
Cuộc sống của con người Việt Nam không phải lúc nào cũng là ngày hội, mà trong chu kỳ một
năm, với bao ngày tháng nhọc nhằn, vất vả, lo âu, để rồi “xuân thu nhị kỳ”, “tháng tám giỗ cha,
tháng ba giỗ mẹ”, cuộc sống nơi thôn quê vốn tĩnh lặng ấy vang dậy tiếng trống chiêng, người
người tụ hội nơi đình chùa mở hội. Nơi đó, con người hoá thân thành văn hoá, văn hoá làm biến
đổi con người, một “bảo tàng sống” về văn hoá dân tộc được hồi sinh, sáng tạo và trao truyền từ
thế hệ này sang thế hệ khác. Tôi đã nhiều lần tự hỏi, nếu như không có nghi lễ và hội hè thì các
làn điệu dân ca như quan họ, hát xoan ; các điệu múa xanh tiền, con đĩ đánh bồng, múa rồng,

múa lân ; các hình thức sân khấu chèo, hát bội, rối nước, cải lương ; các trò chơi, trò diễn:
Đánh cờ người, chọi gà, chơi đu, đánh vật, bơi trải, đánh phết, trò trám sẽ ra đời và duy trì như
thế nào trong lòng dân tộc suốt hàng nghìn năm qua. Và như vậy thì dân tộc và văn hoá dân tộc
sẽ đi đâu, về đâu, sẽ còn mất ra sao?
Đã ai đó từng nói làng xã Việt Nam là cái nôi hình thành, bảo tồn, sản sinh văn hoá truyền thống
của dân tộc nhất là trong hoàn cảnh bị xâm lược và đồng hoá. Trong cái làng xã nghèo nàn ấy,
ngôi đình mái chùa, cái đền và cùng với nó là lễ hội với “xuân thu nhị kỳ” chính là tâm điểm của
cái nôi văn hoá đó. Không có làng xã Việt Nam thì cũng không có văn hoá Việt Nam.
Điều này càng cực kỳ quan trọng trong điều kiện xã hội công nghiệp hoá, hiện đại hoá và toàn
cầu hoá hiện nay, khi mà sự nghiệp bảo tồn, làm giàu và phát huy văn hoá truyền thống dân tộc
trở nên quan trọng hơn bao giờ hết, thì làng xã và lễ hội Việt Nam lại gánh một phần trách nhiệm
là nơi bảo tồn, làm giàu và phát huy bản sắc văn hoá dân tộc
Cấu trúc của lễ hội cổ truyền Việt Nam: Bao gồm 2 phần chính : phần lễ(yếu tố chính) và phần
hội ( yếu tố phát sinh)
Phần lễ:
• Phần chính, mang ý nghĩa tạ ơn và xin thần linh bảo trợ
• Gồm các nghi thức (dâng rượu, dâng trà, dâng hoa quả, dâng thức ăn mặn)
• Mỗi lễ hội chứa đựng ý nghĩa riêng
Phần hội là phần khác nhau giữa các lễ hội . Phần đáng lưu ý là trò diễn. Trò diễn là hoạt
động mang tính nghi lễ, diễn lại toàn bộ hay một phần hoạt động của nhân vật được
phụng thờ. Chẳng hạn trò diễn Thánh Gióng đánh giặc Ân trong hội Gióng hay Quang
Trung đại phá quân Thanh trong lễ hội Đống Đa.
• Phần trò chơi, thi đấu, biểu diễn liên quan đến nhân vật thờ phụng
• Trình tự: từ nơi thờ vọng đến nơi diễn ra một sự kiện nào liên quan nhân vật thờ phụng .
Các trò diễn trong lễ hội là các lớp văn hoá tín ngưỡng của các thời kỳ lịch sử khác nhau
lắng đọng lại, phản ánh những sinh hoạt của cư dân nông nghiệp trồng lúa nước gắn kết
với nhân dân được phụng thờ.
• Các trò chơi gắn với nhiều thời kỳ được lắng đọng lại, phản ánh cách sinh hoạt của dân
cư và nhân vật thờ phụng
• Các trò chơi gắn với ước vọng con người. Ví dụ: Cầu mưa (đốt pháo); Cầu an (Thả diều);

Ước vọng nhanh nhẹn, khéo léo (thổi cơm, dọn cỗ,…); …
Quy trình diễn ra trong lễ hội
• Cúng: Mở đầu và kết thúc lễ hội
• Tế: là một hình thức diễn xướng mang tính nghi lễ, nghi thức tưởng niệm, tôn vinh thần
linh với ngôn ngữ, ăn mặc, đi đứng, điệu bộ khác thường.
• Rước: màn đại diễn xướng, trong đó vừa mang tính nghi lễ trang nghiêm, lại vừa mang
tính vui nhộn, náo động với các điệu múa
• Diễn xướng sự tích: nhằm tái hiện sự tích và nét đặc trưng nhất của mỗi vị thần linh.
Câu 6: Nho giáo và khai thác giá trị trong văn hóa
Nho giáo Việt Nam
Nho giáo Việt Nam được xem là một trong những tín ngưỡng quan trọng của Việt Nam, đóng
góp trong việc xây dựng chỗ dựa vững chắc trong việc phát triển kinh tế, lịch sử, kiến trúc và tồn
tại các triều đại phong kiến như Nhà Lý, Nhà Trần, Nhà Lê, Nhà Nguyễn, Hiện nay có khoảng
10% đến khoảng 20% dân số theo Nho giáo, nhưng hầu hết là ở Bắc Bộ và Bắc Trung bộ
QUÁ TRÌNH DU NHẬP
Đã có một số bằng chứng cho thấy Nho giáo được truyền vào thế kỷ 1 TCN khi ở Trung Quốc
nhà Tây Hán đã đánh bại tập đoàn phong kiến họ Triệu và giành lấy quyền thống trị và cho lập 3
quận tại Bắc Bộ, tuy niên tầm ảnh hưởng Nho giáo còn rất hạn chế, song song đó Nho giáo là
công cụ thống trị của chính quyền đô hộ và phục vụ cho chính quyền đô hộ, Nho giáo còn được
xem để du nhập chữ Hán vào Việt Nam và dần Hán hóa ngôn ngữ của dân tộc Việt Nam tạo ra
về mặt kỹ thuật với một kho tàng tri thức về xã hội và tự nhiên, đó là nền văn học, sử học, triết
học, thiên văn học và y học được tiếp thu từ người Trung Hoa cổ đại.
[1]
Đến thế kỷ 9, sau chiến thắng Bạch Đằng vĩ đại của Ngô Quyền, khi dân tộc Việt Nam bước
sang kỷ nguyên độc lập, tự chủ và thực sự bắt tay vào xây dựng nền văn minh Đại Việt trong
khuôn khổ của một nhà nước phong kiến quân chủ tập quyền, thì xã hội Việt Nam lúc này mới
đặt ra những yêu cầu đối với sự tồn tại và phát triển của Nho giáo ở Việt Nam, đầu tiên phải kể
đến là muốn tồn tại thì phải truyền bá Nho giáo đến người dân, củng cố quyền lực phong kiến
lớn mạnh và không bị giặc ngoài tấn công.
Vì quyền lực của nhà nước đó nằm trong tay nhà vua, nên chữ “trung” của Nho giáo cần được

tiếp thu để củng cố quyền lực của nhà vua. Ngay từ thời Lý – Trần, trung với vua không tách rời
trung với nước, vì đó là những ông vua thực sự điều hành cuộc chiến tranh giữ nước của dân
tộc Việt Nam đi đến thắng lợi. Ở Việt Nam, “trung” thường gắn với “nghĩa” nhằm đề cao trách
nhiệm của con người đối với Tổ quốc, quê hương, làng xóm. Cũng chính vì thế, trong Hịch
tướng sĩ, Trần Quốc Tuấn thường gắn “trung” với “nghĩa”. Hơn nữa, nếu nhà nước phong kiến
tập quyền muốn trở nên hùng mạnh thì phải quan tâm đến con người, đến nhân dân và do đó,
“nghĩa” không tách rời “nhân”. Ngọn cờ nhân nghĩa là để “yên dân”, để giải phóng nhân dân
khỏi áp bức của quân xâm lược.
[2]
Thời kỳ khi chế độ phong kiến lâm vào khủng hoảng, Nho giáo không ngừng củng cố và phát
triển cho đến vào giữa thế kỷ 19, yêu cầu tất yếu này dần như bị suy sụp và dần nhạt phai khi sự
du nhập mạnh mẽ của phương Tây của thực dân Pháp, tuy nhiên Nho giáo vẫn là công cụ ảnh
hưởng đối với những nhà yêu nước cách mạng như Phan Bội Châu, Nguyễn Thái Học hay Hồ
Chí Minh,
ẢNH HƯỞNG ĐẾN NHÂN SINH
Nho giáo đều ảnh hưởng đến con người, giúp cho người ta hiếu học và thành công hơn trong xã
hội, đặc biệt, bản tính "Thiện" luôn đề cao các giá trị về chính trị, phẩm chất quý giá, phạm trù
với chữ "Nhân" do Khổng Tử để lại, chữ "Nhân" được coi là nguyên lý để quy định bản tính,
quan hệ giữa người với người, từ quý tộc đến nông dân
[3]
Ảnh hưởng đến tác phẩm, văn học và châm ngôn
Nho giáo được xem là có sức lan tỏa và ảnh hưởng đến Văn học Việt Nam, điển hình như hai
bản tuyên ngôn độc lập như "Nam Quốc Sơn Hà" của Lý Thường Kiệt và "Bình Ngô Đại Cáo"
của Nguyễn Trãi đề cao tính dân tộc, nguyện vọng dành độc lập của Nhân dân Việt Nam, trong
đó ở tác phẩm "Nam Quốc Sơn Hà" có kể đến câu: "Sông núi nước Nam, vua Nam ở, rành rành
định phận tại sách Trời" đã nhắc đến nước Nam đã có chủ quyền và luôn chống lại sự uy hiếp từ
phía phương Bắc cho dù chứng mình với trời đất mà nhân dân kính phụng.
Câu châm ngôn "Tiên Học Lễ, Hậu Học Văn" đã có từ nghìn năm của dân tộc Việt Nam, đối
với Nho giáo, chữ "Lễ" luôn nhắc đến người dân rằng phải học lễ độ, ứng xử tôn ti trật tự, đề cao
tính lễ kính với người và phải có trên dưới rõ ràng, còn chữ "Văn" luôn nhắc nhở phải học Văn

để sau này con cháu muôn thuở đời sau phải nhớ đến công lao của ông cha ta để lại trong suốt
nhiều năm liền. Câu này đã phổ biến ở khắp trường học trên cả nước, không những thế nó còn là
một công cụ hữu ích trong việc phát triển xã hội Việt Nam hiện nay.
Ảnh hưởng với tư tưởng Hồ Chí Minh
Hồ Chí Minh từng nói: "khởi nghĩa nước ta luôn bị dập tắt là bởi vì chưa có đường lối đúng đắn"
cho nên tư tưởng Hồ Chí Minh là một phần không thể thiếu đối với chính trị và xã hội Việt
Nam hiện nay, bao gồm những tôn giáo, triết lý phương đông như Chủ nghĩa Tam Dân, tư
tưởng Nho giáo, lối sống Phật Giáo với quan niệm "Từ bi Bác ái", "Thương người như thể
thương thân" và triết lý phương Tây như xây dựng kinh tế, cuộc cách mạng tư sản, lối sống
Câu 7: Đặc điểm môi trường tự nhiên Việt Nam
- Nằm trong khu vực Đông Nam Á (gần núi Hymalaya, dãy Thiên Sơn, gần hạ lưu các
con sông lớn, chênh lệch lớn giữa bình nguyên và núi rừng, chênh lệch nhỏ giữa bình nguyên và
mặt biển…) à ĐK khí hậu nóng, ẩm, mưa nhiều có gió mùa.
- Nằm ngã tư đường của các cư dân và các nền văn minh. Phổ tự nhiên VN: Nhiệt - Ẩm –
Gió mùa.
- Hệ sinh thái phồn tạp: Đa dạng sinh học, thực vật phát triển hơn động vật.
- Địa hình Việt Nam: Dài Bắc – Nam; Hẹp Tây – Đông; Đi từ Tây sang Đông có Núi -
Đồi - Thung - Châu thổ - Ven biển - Biển - Hải đảo; Đi từ Bắc vào Nam là đèo cắt ngang.
- Đa dạng môi trường sinh thái à Đa dạng văn hoá: Văn hoá sông nước và thực vật.
+ Văn hoá thực vật: Bữa cơm (Cơm – Rau - Cá), tục thờ cây.
+ Văn hoá sông nước: Kỹ thuật canh tác (xây đe, đập, kênh); Cư trú (Làng ven sông);
Ứng xử (Linh hoạt như nước); Sinh hoạt cộng đồng (Cua ghe, đua thuyền ).
- Khó khăn: Thiên tai, lũ lụt, bão à tạo tính kiên cường, tinh thần cố kết cộng đồng…
Câu 8: phật giáo và khai thác giá trị trong phật giáo
Phật giáo Việt Nam
Phật giáo Việt Nam là Phật giáo được bản địa hóa khi du nhập từ Ấn Độ vào Việt Nam, Phật
giáo Việt Nam mang những đặc điểm khác biệt so với Phật giáo nguyên thủy và Phật giáo của
các nơi khác trên thế giới. Phật giáo là tôn giáo có ảnh hưởng sâu rộng nhất ở Việt Nam.
Phật giáo ăn sâu, bám rễ vào Việt Nam từ rất sớm. Đến đời nhà Lý, nhà Trần, Phật giáo phát
triển cực thịnh, được coi là quốc giáo, ảnh hưởng đến tất cả mọi vấn đề trong cuộc sống. Đến

đời nhà Hậu Lê thì Nho giáo được coi là quốc giáo và Phật giáo đi vào giai đoạn suy thoái. Đến
cuối thế kỷ XVIII, vua Quang Trung cố gắng chấn hưng đạo Phật, chỉnh đốn xây chùa, nhưng vì
mất sớm nên việc này không có nhiều kết quả. Đến thế kỷ 20, mặc dù ảnh hưởng mạnh của quá
trình Âu hóa, Phật giáo Việt Nam lại phát triển mạnh mẽ khởi đầu từ các đô thị miền Nam với
các đóng góp quan trọng của các nhà sư Khánh Hòa và Thiện Chiếu
[5]
.
Tóm lại, lịch sử Phật giáo Việt Nam trải qua bốn giai đoạn:
· từ đầu công nguyên đến hết thời kỳ Bắc thuộc là giai đoạn hình thành và phát triển rộng
khắp;
· thời Nhà Lý - Nhà Trần là giai đoạn cực thịnh;
· từ đời Hậu Lê đến cuối thế kỷ 19 là giai đoạn suy thoái;
· từ đầu thế kỷ 20 đến nay là giai đoạn phục hưng.

Đặc điểm của Phật giáo Việt Nam
Trên bước đường truyền bá và hội nhập, Phật giáo luôn luôn cố gắng thực hiện hai điều đó là khế
lý và khế cơ. Nếu thiếu đi một trong hai yếu tố này Phật giáo sẽ chẳng còn là Phật giáo nữa. Duy
trì và phát triển hai yếu tố này, Phật giáo được truyền vào Việt Nam và các nước khác.
Khế lý là nói về mặt tư tưởng nhờ khế lý nên dù ở thời gian và không gian nào, giáo lý Phật-đà
vẫn hợp với chân lý, tư tưởng vẫn luôn luôn phong phú, sâu sắc mà vẫn giữ được bản chất của
mình và chỉ có một vị đó là vị giải thoát
[13]
.
Khế cơ thiên trọng về mặt lịch sử nhờ khế cơ nên dù trong hoàn cảnh và quốc độ nào thì sự sinh
hoạt, thể hiện, truyền đạt cũng luôn luôn đa dạng
[13]
. Tùy theo phong tục tập quán của mỗi quốc
gia mà vẫn không hề mất gốc (Phật giáo). Nói một cách khác thì có thể tùy nghi phương tiện
theo từng vùng miền để truyền bá giáo lý Phật-đà nhưng không làm mất đi bản sắc của Phật giáo
là ứng hợp với mọi tầng lớp và căn cơ chúng sanh.

Tên gọi tuy có khác nhưng giáo lý vẫn là một nên gọi là khế lý, dù một mà không phải một, nên
có lắm tên Phật giáo Việt Nam, Phật giáo Tây Tạng, Phật giáo Thái Lan, v.v. tất cả đều có tên
chung là Phật giáo, bảo rằng giống cũng được nhưng bảo rằng không thì là sai. Đây gọi là khế cơ
là bản địa hóa, hay sắc thái Phật giáo của từng vùng miền.
Khi Phật giáo được truyền vào Việt Nam đã được các vị thiền sư người Việt bản địa hóa, khiến
Phật giáo hòa mình vào lòng dân tộc tạo nên một sắc thái đặc biệt của riêng Việt Nam. Phật giáo
đã cùng sinh tồn cùng dân tộc. Điểm này dễ dàng nhận thấy trong những thời đại hưng thịnh của
đất nước như Đinh, Lê, Lý Trần đều là những lúc Phật giáo cũng song hành hưng thịnh và các vị
thiền sư có vị trí quan trọng trong các triều đại đó. Dù được bản địa hóa để quyện mình vào lòng
dân tộc nhưng tam tạng kinh điển Phật giáo Việt Nam vẫn được truyền thừa trong suốt hơn 2000
năm lịch sử Phật giáo Việt Nam
[5]
.
Tổng hợp giữa Phật giáo và tín ngưỡng truyền thống
Phật giáo thờ Phật trong chùa, tín ngưỡng truyền thống Việt Nam là thờ thần trong miếu và
thờ Mẫu trong phủ, bốn vị thần được thờ nhiều nhất là Tứ pháp: Mây-Mưa-Sấm-Chớp. Tuy
nhiên bốn vị thần này đã được "Phật hóa". Các pho tượng này thường được gọi tượng Phật Pháp
Vân, Phật Pháp Vũ, Phật Pháp Lôi và Phật Pháp Điện, trên thực tế các tượng này hoàn toàn điêu
khắc theo tiêu chuẩn của một pho tượng Phật. Nghĩa là đầy đủ 32 tướng tốt cùng 80 vẽ đẹp, mà
một trong những nét tiêu biểu chính là tướng nhục kế, những khế ấn, và khuôn mặt đầy lòng từ
mẫn v.v. Các hệ thống thờ phụ này tổng hợp với nhau tạo nên các ngôi chùa "tiền Phật, hậu thần"
hay "tiền Phật, hậu Mẫu". Người Việt Nam đưa các vị Thần, Thánh, Mẫu, thành hoàng thổ địa,
anh hùng dân tộc vào thờ trong chùa. Đa số các chùa còn để cả bia hậu, bát nhang cho các linh
hồn đã khuất.
Tổng hợp giữa các tông phái Phật giáo
Các tông phái Phật giáo Đại thừa sau khi du nhập vào Việt Nam trộn lẫn với nhau. Dòng thiền
Tỳ Ni Đa Lưu Chi pha trộn với Mật giáo. Nhiều vị thiền sư đời Lý như Vạn Hạnh, Từ Đạo
Hạnh, Nguyễn Minh Không, đều giỏi pháp thuật và có tài thần thông biến hóa. Thiền tông còn
kết hợp với Tịnh Độ tông như là trong việc tụng niệm Phật A Di Đà và Bồ Tát.
Các điện thờ ở chùa miền Bắc có vô cùng phong phú các loại tượng Phật, bồ tát, la hán của các

tông phái khác nhau. Các chùa miền Nam còn có xu hướng kết hợp Tiểu thừa vớiĐại thừa. Nhiều
chùa mang hình thức Tiểu thừa (thờ Phật Thích Ca Mâu Ni, sư mặc áo vàng) nhưng lại theo giáo
lý Đại thừa; bên cạnh Phật Thích Ca Mâu Ni còn có các tượng Phật nhỏ khác, bên cạnh áo vàng
còn có áo nâu, áo lam.
Tổng hợp giữa Phật giáo với các tôn giáo khác
Tín ngưỡng truyền thống đã tiếp nhận Phật giáo ngay từ đầu Công nguyên. Sau đó Phật giáo
cùng tín ngưỡng truyền thống tiếp nhận Đạo giáo. Rồi tất cả cùng tiếp nhận Nho giáo để làm nên
"Tam giáo đồng nguyên" (cả ba tôn giáo có cùng một gốc) và "Tam giáo đồng quy" (cả ba tôn
giáo có cùng một mục đích). Ba tôn giáo trợ giúp lẫn nhau: Nho giáo lo tổ chức xã hội, Đạo giáo
lo thể xác con người, Phật giáo lo tâm linh, kiếp sau của con người. Trong nhiều thế kỷ, hình ảnh
"Tam giáo tổ sư" với Thích Ca Mâu Ni ở giữa,Lão Tử ở bên trái, Khổng Tử ở bên phải đã in sâu
vào tâm thức mọi người Việt
[14]
.
Ngoài ra Phật giáo Việt Nam còn được hòa trộn với tất cả các tôn giáo khác để hình thành Đạo
Cao Đài vào thập niên 1920 với quan điểm là "Thiên nhân hợp nhất" và "Vạn giáo nhất lý".
Tính hài hòa âm dương
Sau tính tổng hợp, hài hòa âm dương là một trong những đặc tính khác của lối tư duy nông
nghiệp, nó ảnh hưởng rất lớn đến Phật giáo Việt Nam làm cho Phật giáo Việt Nam có phần thiên
về nữ tính.
Các vị Phật Ấn Độ xuất thân là nam giới, khi vào Việt Nam bị biến thành "Phật ông - Phật
bà". Phật Bà Quan Âm (biến thể của Quán Thế Âm Bồ Tát) là vị thần hộ mệnh của vùng Nam Á
nên còn được gọi là Quan Âm Nam Hải. Ngoài ra người Việt còn có những vị Phật riêng của
mình như Man Nương Phật Mẫu (tên khác: Phật Mẫu), Quan Âm Thị Kính (tên khác: Quan Âm
Tống Tử), Quan Âm Diệu Thiện (tên khác: Phật Bà Chùa Hương, Bà chúa Ba).
Tính linh hoạt]
Phật giáo Việt Nam còn có một đặc điểm là rất linh hoạt, mà nhà Phật thường gọi là "tùy duyên
bất biến; bất biến mà vẫn thường tùy duyên" nghĩa là tùy thuộc vào tình huống cụ thể mà người
ta có thể tu, giải thích Phật giáo theo các cách khác nhau. Nhưng vẫn không xa rời giáo lý cơ bản
của nhà Phật. Ví dụ: Các vị bồ tát, các vị hòa thượng đều được gọi chung là Phật, Phật Bà Quan

Âm (vốn là bồ tát), Phật Di Lặc (vốn là hòa thượng), Ngoài ra Phật ở Việt Nam mang dáng dấp
hiền hòa và dân dã: ông Bụt Ốc (Thích Ca tóc xoăn), ông Nhịn ăn mà mặc (chỉ Thích Ca Tuyết
Sơn), Trên đầu Phật Bà Chùa Hương còn có lọn tóc đuôi gà rất truyền thống của phụ nữ Việt
Nam.
Phật giáo và Văn hóa Việt
Phật giáo đã thấm nhuần vào cách suy tư và sinh hoạt của người Việt nên dấu vết Phật giáo trong
văn hóa Việt khá đậm nét. Nhiều người Việt theo lệ ăn chay vào những ngày mồng một hay
ngày rằm.
Trong văn học thì truyện Nôm bình dân kể lại truyện Bà Chúa Ba tức truyện Quan âm chùa
Hương. Nghệ thuật trình diễn có vở chèo Quan Âm Thị Kính. Truyện Kiều của Tố nhưNguyễn
Du cũng hàm chứa nhiều tư tưởng Phật giáo.
Văn chương truyền khẩu thì số tục ngữ ca dao liên quan đến Phật giáo rất đa dạng.
Khuyên người thì có:
Dù xây chín đợt phù-đồ
Không bằng làm phúc cứu cho một người
Nhận xét nhân thế thì có:
Hiền như Bụt
Oan Thị Kính
Đi với Bụt mặc áo cà-sa
Đi với ma mặc áo giấy
Miệng thì nam-mô
Bụng bồ dao găm
Châm biếm thì có:
Trao lược cho sư
Nhất sư nhì vãi
Quay đầu trở lại
Nhất vãi nhì sư
[15]
.


Câu 8: Trình bày những đặc điểm của văn hóa: nhà Nguyễn, Nhà Lý, nhà Trần, Thời kỳ
Pháp thuộc, văn hóa Việt Nam hiện đại. Có thể khai thác những giá trị văn hóa (vật thể,
phi vật thể) của thời kỳ này phục vụ hoạt động kinh doanh DL
1. Nhà Lý
• Tôn giáo, tín ngưỡng
Trong các tôn giáo Đại Việt thời Lý, Phật giáo về cơ bản là tôn giáo có ảnh hưởng nhiều nhất,
ngoài ra Nho giáo và Đạo giáo cũng có tác động đến đời sống chính trị xã hội. Thời Lý, bên cạnh
tín ngưỡng dân gian truyền thống có tư tưởng tam giáo đồng nguyên, coi trọng cả 3 tôn giáo này.
Đạo Phật phát triển và truyền bá rộng rãi. Năm 1031, nhà Lý cho xây 950 ngồi Chùa. Năm
1129, khánh thành 84000 bảo tháp
Phật giáo được truyền vào từ thời Bắc thuộc, vẫn đóng vai trò ảnh hưởng lớn hơn cả. Sau khi lên
ngôi, Lý Công Uẩn cho xây dựng nhiều chùa, phát hàng ngàn lạng vàng thuê thợ đúc chuông đặt
trong các chùa.
Các vua Lý kế nghiệp cũng tiếp tục xây dựng chùa chiền, đúc chuông, tô tượng, cử sứ sang
Trung Quốc xin nhà Tống kinh Phật, biến các chùa thành nơi cầu đảo, làm lễ tạ ơn khi chiến
thắng quân xâm lược, lễ đại xá… Các quý tộc và nhân dân cũng đóng góp xây dựng nhiều chùa ở
các địa phương.
Việc chú trọng xây dựng chùa thời Lý được sử gia Lê Văn Hưu thời Trần ghi nhận là “xây tường
cao ngất, tạc cột chùa bằng đá, làm chùa thờ Phật lộng lẫy hơn cả cung điện của vua”
Chùa chiền mọc lên khắp nơi và trở thành biểu tượng của Phật giáo. Chùa thời Lý được chia làm
3 hạng: Đại, Trung và Tiểu danh lam. Nổi lên các chùa lớn là chùa Dâu, chùa Phật Tích, chùa
Dạm (Bắc Ninh), chùa Long Đọi (Hà Nam). Năm 1049, Lý Thái Tông cho xây chùa Diên Hựu,
dựng cột đá ở giữa ao, làm tòa sen của Phật Quan Âm đặt trên cột đá. Năm 1105, Lý Nhân
Tông cho sửa lại, vét hồ Liên Hoa đài, gọi là hồ Linh Chiểu, ngoài hồ có hành lang chạm vẽ chạy
xung quanh, ngoài hồ có hành lang lại đào hồ Bích Trì có cầu bắc qua để đi lại…
Do du nhập vào Đại Việt qua những con đường khác nhau và do sự tiếp nhận của nhân dân
đương thời, Phật giáo không có một dòng duy nhất. Có dòng hòa với tín ngưỡng dân gian cổ
truyền (các chùa Pháp Vân, chùa Pháp Vũ, chùa Diên Hựu - Một Cột…), có dòng thiên về Mật
Tông (với những nhà sư giỏi về pháp thuật và chữa bệnh), có dòng thoát tục, có dòng tu tại gia
lấy “cái tâm” làm gốc… Trong trào lưu đó, giai cấp thống trị mong muốn tìm ra một tôn giáo

làm nền cho sinh hoạt tinh thần và tâm tinh người Việt, thoát khỏi hệ tư tưởng Nho giáo của
phương Bắc.
Nối tiếp ý tưởng của cha ông, Lý Thánh Tông đã có ý định sáng lập ra phái Thiền Đảo Đường
với nhiều nét của phương Nam, nhưng không thành. Dần dần hình thành sự hòa hợp giữa Phật
giáo và Nho giáo.
Nho giáo cũng được truyền vào từ thời Bắc thuộc. Nho giáo hình thành ảnh hưởng trong xã hội
qua hệ thống giáo dục và khoa cử theo mô hình Trung Quốc. Khi việc học hành được mở mang
thì nên lực lượng Nho sĩ ngày càng đông trong xã hội. Tuy nhiên, Nho giáo thời Lý nhìn chung
chưa có điều kiện phát triển mạnh mẽ như các triều đại sau.
Đạo giáo cũng được truyền vào từ thời Bắc thuộc như Phật giáo và Nho giáo, tuy có vai trò ít
hơn nhưng vẫn có ảnh hưởng nhất định. Điều đó được thể hiện trong chế độ thi cử, yêu cầu các
thí sinh hiểu biết cả 3 tôn giáo này mới có thể đỗ. Đến thời Lý Cao Tông, nhà Lý chính thức tổ
chức các kỳ thi Tam giáo. Việc thi cử bằng tam giáo phản ánh tam giáo đồng nguyên vào thời
Lý; trong đó Nho giáo là hệ tư tưởng dùng để quản lý xã hội, Phật giáo là quốc giáo, còn Đạo
giáo có ảnh hưởng nhất định trong các tầng lớp dân cư.
+Tín ngưỡng dân gian hình thành từ nhiều đời vẫn được coi trong và rất phổ biến.
Những phong tục ngày càng được mở rộng như thờ cúng tổ tiên, thờ cúng các anh hùng
dân tộc, người có công với làng, với nước…
Nhà Lý đã dựng đền “Đồ đại thành hoàng”, đền “Đồng cổ” (trống đồng), đền thờ Hai Bà Trưng,
đền thờ Phùng Hưng, đền thờ Phạm Cự Lạng ở kinh thành Thăng Long; nâng lễ thờ thần Phù
Đổng Thiên Vương lên tầm quốc gia.
Các tục thờ nguyên thủy “vạn vật hữu linh” vẫn còn nhiều. Triều đình cũng tham gia vào đời
sống tín ngưỡng với dân gian
• Nghệ thuật, kiến trúc
Những công trình kiến trúc chủ yếu thời kỳ này là kinh thành, cung điện, dinh thự các quan lại,
lăng mộ vua chúa và đặc biệt là chùa chiền, đền miếu.
Kinh thành, cung điện
Đại Việt sử ký toàn thư mô tả việc xây dựng kinh thành Thăng Long thời Lý Thái Tổ như sau
Xây dựng các cung điện trong kinh thành Thăng Long, phía trước dựng điện Càn Nguyên
làm chỗ coi chầu, bên tả làm điện Tập Hiền, bên hữu dựng điện Giảng Võ. Lại mở cửa

Phi Long thông với cung Nghênh Xuân, cửa Đan Phượng thông với cửa Uy Viễn, hướng
chính nam dựng điện Cao Minh, đều có 3 thềm rồng, trong thềm rồng có hành lang dẫn
ra xung quanh bốn phía
Cấm Thành (nơi ở của vua) có trục đối xứng bắc – nam, điện Càn Nguyên ở trên núi
Nùng (Long Đỗ). Nhà Lý cho xây dựng 36 cung, 49 điện ở khu trung tâm Cấm thành Thăng
Long. Công trình hoàng thành Thăng Long, qua kết quả khai quật của giới khảo cổ học Việt
Nam từ năm 2002 đã cho thấy những dấu tích của nghệ thuật kiến trúc thời Lý. Đó là những
công trình mang các đặc điểm
• Đẹp và công phu
• Phong phú về loại hình (từ 3 hàng chân cột tới 6 hàng chân cột một vì)
• Quy mô rộng lớn (có kiến trúc dài 13 gian vẫn chưa kết thúc trong hố khai quật)
• Trang trí rất tinh xảo, kết hợp hài hòa giữa các chất liệu gỗ - đá - gạch - đất nung
• Quy hoạch thống nhất và cân xứng
Việc khai quật khu Hoàng thành Thăng Long ở 18 Hoàng Diệu (Hà Nội) còn giúp các nhà
khảo cổ nhận diện mặt bằng kiến trúc tại đây
• Chân cột bằng đá, móng trụ sỏi, nền nhà lát gạch vuông, có cống thoát nước
• Mặt bằng kiến trúc kiểu chữ nhật nhiều gian, có từ 3 cột đến 6 cột, bên cạnh các mặt bằng
kiểu lục giác, bát giác
Các sử gia đánh giá kiến trúc hoàng thành Thăng Long đánh dấu bước chuyển biến vượt bậc
của nghệ thuật kiến trúc và quy hoạch kinh thành Thăng Long
Bến sông Hồng có điện Hàm Quang, bên hồ Kim Minh có điện Hồ Thiên Bát Giác, trên hồ
Dâm Đàm có cung Tây Hồ. Trong kinh thành có các vườn ngự uyển như Xuân Quang,
Thượng Lâm, Quỳnh Lâm, Bảo Hoa Đời Lý Thái Tông làm thêm điện Tuyên Đức, điện
Diên Phúc có thềm trước gọi là thềm rồng (long trì), phía đông thềm rồng đặt điện Văn
Minh, phía tây đặt điện Quang Vũ.
• Chùa, đền, miếu
Chùa chiền mọc lên khắp nơi và trở thành biểu tượng của Phật giáo. Chùa thời Lý được chia
làm 3 hạng: Đại, Trung và Tiểu danh lam
Nổi lên các chùa lớn là chùa Dâu, chùa Phật Tích, chùa Dạm (Bắc Ninh), chùa Long Đọi (Hà
Nam). Năm 1049, Lý Thái Tông cho xây chùa Diên Hựu (chùa Một Cột), dựng cột đá ở giữa

ao, làm tòa sen của Phật Quan Âm đặt trên cột đá. Năm 1105, Lý Nhân Tông cho sửa lại, vét
hồ Liên Hoa đài, gọi là hồ Linh Chiểu, ngoài hồ có hành lang chạm vẽ chạy xung quanh,
ngoài hồ có hành lang lại đào hồ Bích Trì có cầu bắc qua để đi lại…
Thời Lý có nhiều quần thể chùa – tháp lớn. Kiến trúc chùa thời Lý thường có nhiều tầng nền
giật cấp, bạt sâu vào sườn núi, cao dần lên đỉnh, chỉ một tầng nền đã có chiều dài 120 mét và
rộng 70 mét, tất cả được kè đá và bố cục đối xứng qua trục chính tâm và quy hoạch tổng thể,
kết hợp hài hòa giữa chùa và tháp. Trong chùa đặt tượng thờ, đồ thờ với nhiều chất liệu khác
nhau, kết hợp cả 3 yếu tố thiền, tịnh, mật của các tông phái Phật giáo
Các chùa thường có tháp lớn như tháp Báo Thiên 12 tầng – vài chục mét, tháp Phổ Minh cao
14 tầng – 21 mét, tháp Chiêu Ân 9 tầng, tháp Phật Tích 10 tầng, tháp Sùng Thiện Diên Linh
13 tầng, tháp Vạn Phong Thành Thiện… Các tháp được trang trí tượng tròn, phù điêu bằng
đá, đất nung đẹp và nhiều tranh vẽ Phật trên tường và các bức chạm lộng bằng gỗ với chủ đề
động vật, thực vật tươi vui
Ngoài chùa, nhà Lý còn xây dựng nhiều công trình khác như đền Đồng Cổ, lầu gác trên núi
Cung vua, Văn Miếu - Quốc Tử Giám Việc xây dựng thời Lý được tuân thủ theo một
nguyên tắc quy hoạch của phương thuật địa lý thời cổ cho phù hợp với quy luật tự nhiên, hài
hòa cao với cảnh quan xung quanh, tận dụng tối đa lợi thế của môi trường. Hệ quả là tạo ra
sự hòa hợp lâu dài giữa con người với công trình và thiên nhiên
[6]
. Chùa thời Lý được đặt
trong một quần thể kiến trúc, tại những nơi có cảnh thiên nhiên tươi đẹp và có liên hệ cộng
đồng dân cư, gần làng sát nước
• Điêu khắc, đúc tượng
Đầu rồng trang trí mái cung điện thời nhà Lý.
Nghệ thuật điêu khắc thời Lý là một thành tố hiện diện thường trực ngay cả ở những công
trình không có tên trong sử sách hay bia cổ cũng được trang hoàng uy nghiêm, bài trí lộng
lẫy.
Những công trình điêu khắc tinh tế với những tấm phù điêu mô típ hoa văn hoa cúc nhiều
cánh, hoa sen, lá cây và đặc biệt là rồng giun mình trơn nằm gọn trong chiếc lá đề. Đặc điểm
chung là chân thực, đơn giản, khỏe mạnh.

Nghệ thuật đúc chuông – tô tượng rất phổ biến. Nước Đại Việt có 4 công trình nghệ thuật
bằng đồng nổi tiếng được gọi là “An Nam tứ đại khí” thì 3 trong số đó được tạo ra thời Lý
1. Tháp Báo Thiên còn gọi là Đại Thắng Tư Thiên Tháp, được xây trên một quả gò
cạnh hồ Lục Thủy vào tháng ba năm 1057 đời vua Lý Thánh Tông, trong phạm
vi chùa Báo Thiên. Tháp xây 12 tầng, cao mấy chục trượng
2. Chuông Quy Điền (chùa Một Cột – Hà Nội) đúc năm 1080 thời Lý Nhân Tông.
3. Tượng Phật Di Lặc chùa Quỳnh Lâm (Đông Triều, Quảng Ninh) do nhà sư Dương
Không Lộ đúc, cao 6 trượng (khoảng 20 mét).
Ngoài 3 tác phẩm nghệ thuật đỉnh cao trên, các tác phẩm khác được xem là tiêu biểu gồm có
• Tượng Phật A Di Đà ở chùa Phật Tích - Bắc Ninh. Tượng được tạc năm 1057, cao 2,77
mét, liền với bệ. Nét mặt tượng trầm tư nhưng vẫn rạng rỡ
• Các tượng linh điểu (Garuda)
• Tượng người có cánh đánh trống (Kinnari) mang phong cách nghệ thuật Cham Pa, nét
mặt đẹp dịu dàng, trầm tư
• Tượng sư tử chùa Hương Lãng dài gần 3 mét, rộng 1,5 mét có vẻ dũng mãnh
• Dãy 10 con thú nằm ở cửa tiền đường chùa Phật Tích
• Tượng rồng nằm dài theo bậc thềm, tượng người, voi, ngựa…
Các tượng người hay vật đều sinh động và có hồn; đường cong lớn và dày đặc, nét uyển
chuyển mềm mại, dù làm bằng chất liệu nào. Bố cục các tác phẩm điêu khắc đẹp cân xứng,
hài hòa
• Giáo dục
Nhà Lý là triều đại phong kiến đầu tiên ở Việt Nam xác lập hệ thống giáo dục khoa cử có hệ
thống
[1]
. Từ đầu công nguyên thời Bắc thuộc, các triều đại Trung Quốc đã truyền bá chữ Nho, mở
trường học tại Việt Nam, với quan niệm là công cụ đồng hóa
[2]
. Đến thế kỷ 10, chữ Hán đã trở
thành chữ viết chính thức, nhưng số người biết chữ Nho rất ít ỏi. Các nhà sư thường là lớp trí
thức quan trọng bên cạnh các viên chi hậu, viên ngoại lang.

Sang thời Lý, năm 1070, Lý Thánh Tông cho xây dựng nhà Văn Miếu ở kinh thành Thăng Long,
đắp tượng Khổng Tử, Chu Công, tứ phối 72 người hiền của đạo Nho. Năm 1076vua Lý Nhân
Tông lập ra Quốc Tử Giám. Tuy nhiên, các nhà nghiên cứu cho rằng Quốc Tử Giám chỉ là
trường học công đầu tiên do triều đình chính thức đứng ra tổ chức, thể hiện sự quan tâm đối với
việc học hành của hoàng tộc, còn trường học tư được hình thành trước đó
[3]
.
Các bộ quốc sử như Đại Việt sử ký toàn thư, Khâm định Việt sử thông giám cương mục không
đề cập cụ thể về hệ thống trường học tại các địa phương thời Lý. Các nhà nghiên cứu căn cứ vào
ghi chép của sách Tây Hồ chí khẳng định rằng trường học tư đã được mở tại kinh thành Thăng
Long trước khi Quốc Tử Giám hình thành
[3]
.
Trường học tư đầu tiên được xác nhận là trường Bái Ân của Lý Công Ân - một tông thất nhà Lý
không ra làm quan mà ở nhà dạy học
[3]
. Ông sống ở thôn Bái Ân, nay thuộc phường Nghĩa Đô,
quận Cầu Giấy. Lý Công Ân là một học trò của sư Vạn Hạnh, cũng là một tín đồ Phật giáo như
nhiều người đương thời nhưng ông vẫn mở trường dạy học truyền thụ kiến thức Nho giáo
[4]
.
Tuy nhiên, trong những năm đầu, hệ thống trường học chưa nhiều. Có hai dạng trường lớp
[5][6]
:
• Một là những người biết chữ nhưng đi thi không đỗ đạt, mở lớp dạy học để kiếm sống
hoặc tầng lớp quan lại hoặc những người đã đỗ đạt, vì nhiều lý do đã về nhà (nghỉ hưu, bị sa
thải, từ quan ) mở lớp dạy cho con em mình hoặc những người thân thích.
• Hai là các trường học tồn tại trong các chùa do các nhà sư giảng dạy (không chỉ dạy Phật
giáo và truyền đạt cả kiến thức Nho giáo).
Sách vở chủ yếu trong hệ thống đào tạo là Tứ thư, Ngũ kinh, Bắc sử, Nam sử và sách của bách

gia chư tử. Tuy nhiên, do ảnh hưởng đậm nét của Phật giáo và một phần của Đạo giáo, Nho giáo
chưa có vị trí độc tôn như sau này. Các trường lớp còn dạy nhiều kiến thức về Phật giáo và Đạo
giáo
[7]
. Chữ viết chính thức trong giáo dục vẫn kế tục các đời trước là chữ Hán
[8]
.
Như vậy vào thời Lý dù rất coi trọng đạo Phật nhưng từ trung kỳ đã coi trọng đạo Nho hơn
trước, vì Nho giáo là học thuyết giải quyết được các mối quan hệ cơ bản (vua – tôi, cha – con, vợ
- chồng, bằng hữu ), làm ngọn cờ cho sự ổn định xã hội, để thống nhất và quản lý xã hội. Điều
đó không chỉ bảo vệ cho quyền lợi của nhà Lý mà còn đặt nền móng cho sự phát triển giáo dục
và khoa cử Nho học của các vương triều sau này
[9]
.
• Khoa cử
Cùng việc mở Quốc Tử Giám, nhà Lý quan tâm tới việc tổ chức thi cử để lựa chọn nhân tài mà
các triều đại trước đó chưa thực hiện.
Khoa thi đầu tiên được nhà Lý tổ chức vào tháng 2 năm 1075, niên hiệu Thái Ninh thời vua Lý
Nhân Tông, gọi là thi Minh kinh bác học. Lê Văn Thịnh người làng Báo Tháp xã Đông Cứu (nay
thuộc huyện Gia Bình tỉnh Bắc Ninh) đỗ đầu cùng hơn 10 người trúng tuyển. Ông trở thành thủ
khoa đầu tiên trong lịch sử Việt Nam
[10]
.
Việc mở khoa thi Nho giáo đầu tiên đánh dấu mốc về việc nhà Lý chính thức tuyển người theo
Nho giáo làm quan bên cạnh tầng lớp quan lại thiên về kiến thức Phật giáo trước đó
[11]
. Trong kỳ
thi thứ tư, thí sinh phải viết luận về chủ đề Y quốc thiên (thiên trị nước) và thiên tử truyện (truyện
đế vương).
Các khoa thi không hỏi riêng về kiến thức một lĩnh vực Nho giáo đơn thuần mà hỏi cả về Phật

giáo và Đạo giáo, vì vậy đòi hỏi người ứng thí các khoa thi phải thông hiểu kiến thức cả 3 đạo
này mới có thể đỗ đạt
[12]
. Việc tổ chức thi Tam giáo (Phật, Nho, Đạo) chính thức được thực hiện
năm 1195 dưới triều vua Lý Cao Tông. Thi cử bằng cả Phật giáo, Nho giáo và Đạo giáo phản
ánh tam giáo đồng nguyên khá phổ biến vào thời Lý
[13]
. Sử gia Ngô Sĩ Liên thời Hậu Lê theo
quan điểm độc tôn Nho giáo không đồng tình với việc này
[
• Văn học và nghệ thuật
• Thời Lý, sự ảnh hưởng của đạo Phật (đã có căn bản từ triều Đinh-Lê) đến chính trị, văn
hóa và văn học trở thành một đặc điểm nổi bật trong thời kỳ lịch sử này. Sách Việt Nam
cổ Văn học sử của Nguyễn Đổng Chi ghi lại Trong thế kỷ 10, cửa chùa đã đóng một vai
trò quan trọng về văn học. Cũng vì thế mà Đạo Phật ở Việt Nam từ đó càng lắm tín đồ và
được chính phủ vị nể.
• Các tăng sĩ đời Lý học hiểu rất rộng, uyên thâm Hán học, họ là những người tài giỏi và
hay chữ nhất trong xã hội. Khi lực lượng nhà Nho chưa đủ nhiều để tham gia chính sự thì
triều đình thường vời đến các bậc cao tăng trưởng lão. Cũng do tính chất độc tôn của đạo
Phật trong đời sống tinh thần dân tộc đã dẫn đến nhu cầu rộng rãi trong nhân dân muốn
tìm hiểu, học tập những vấn đề triết lý của đạo Phật. Để đáp ứng nhu cầu đó, bên cạnh
việc thuyết giảng, các nhà sư còn tìm cách truyền phổ đạo Phật bằng cách thể hiện các
nội dung triết lý vốn rất trừu tượng khó hiểu qua hình thức các bài kệ ngắn gọn, sinh
động, dễ nhớ, dễ hiểu để giúp người học đạo được thuận lợi hơn trong quá trình nghiên
cứu, học tập.
Một đặc điểm ngôn ngữ quan trọng là văn tự được viết bằng chữ Hán nên chủ yếu, chỉ có các
tầng lớp vua, quan, nhà sư mới có đủ trình độ uyên bác để sử dụng chữ viết và sáng tác thơ văn.
Bên cạnh đó, bắt đầu từ thời Lý, truyền thống yêu nước trong văn học hình thành và phát triển
trong các giai đoạn sau. Chủ đề yêu nước trong mỗi tác phẩm thể hiện ở những cung bậc trầm
hùng khác nhau nhưng ý nghĩa chung nhất vẫn là tiếng nói lạc quan, mang tính thời đại, tiếng nói

tự hào của một dân tộc đang vượt qua nhiều thử thách.
Dưới hình thức này hay hình thức khác, sự phong phú của văn học thời kỳ này biểu hiện tính
chất dung hòa nhất giữa Phật giáo-Nho giáo và các tín ngưỡng dân gian thuần túy của dân tộc.
Tính chất trang trọng trong ngôn ngữ biểu hiện (chữ Hán), tính uyên bác trong chiều sâu tư
tưởng khiến cho văn học đời nhà Lý trở thành một đỉnh cao, ảnh hưởng sâu rộng đến đời Trần
mà gần nhiều thế kỷ văn học trung đại nối tiếp khó bề sánh kịp. Tuy mức độ ảnh hưởng và quảng
bá văn chương không đi sâu vào tầng lớp bình dân nhưng văn học đời Lý vẫn khẳng định được
giá trị bác học độc đáo của mình. Thời kỳ này, văn học dân gian vẫn độc lập phát triển.

×