Tải bản đầy đủ (.docx) (34 trang)

Lý Thuyết Phát Triển Bền Vững Và Sự Vận Dụng Tại Việt Nam.docx

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (202.77 KB, 34 trang )

TRƯỜNG
KHOA

LOGO

TIỂU LUẬN
MÔN: TR
Đề tài:
Lý thuyết phát triển bền vững và sự vận dụng tại Việt Nam

Họ và tên :
Lớp :
Khoá học :

HÀ NỘI - 2023


MỤC LỤC
MỞ ĐẦU.....................................................................................................................................................1
NỘI DUNG.................................................................................................................................................3
CHƯƠNG I. CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ PHÁT TRIỂN BỀN VỮNG..............................................................3
1.1. Khái niệm phát triển bền vững..............................................................................................................3
1.2. Sự hình thành lý thuyết phát triển bền vững.........................................................................................7
1.3. Các nguyên tắc cho phát triển bền vững.............................................................................................11
1.4. Mục tiêu phát triển bền vững..............................................................................................................12
1.5. Tiêu chí của phát triển bền vững.........................................................................................................13
1.6. Sự cần thiết của phát triển bền vững...................................................................................................15
CHƯƠNG 2. THỰC TRẠNG PHÁT TRIỂN BỀN VỮNG Ở VIỆT NAM HIỆN NAY..........................17
2.1. Thực trạng chung................................................................................................................................17
2.2. Những khó khăn, thách thức...............................................................................................................20
2.3. Định hướng mục tiêu phát triển bền vững đến năm 2030...................................................................21


2.4. Một số giải pháp khuyến nghị phát triển bền vững ở Việt Nam..........................................................23
KẾT LUẬN...............................................................................................................................................27
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO...................................................................................................28


MỞ ĐẦU
Phát triển bền vững là phát triển đáp ứng nhu cầu của hiện tại mà không ảnh
hưởng đến khả năng đáp ứng nhu cầu của thế hệ tương lai. Phát triển bền vững đã
tiếp tục phát triển như là bảo vệ tài nguyên của thế giới trong khi chương trình thực
sự của nó là kiểm sốt tài ngun của thế giới. Tăng trưởng kinh tế bền vững về
môi trường đề cập đến phát triển kinh tế đáp ứng nhu cầu của tất cả mọi người mà
không để lại các thế hệ tương lai với ít tài nguyên thiên nhiên hơn so với những gì
chúng ta tận hưởng ngày nay.
Phát triển bền vững là mối quan tâm trên phạm vi tồn cầu. Trong tiến trình
phát triển của thế giới, mỗi khu vực và quốc gia xuất hiện nhiều vấn đề bức xúc
mang tính phổ biến. Kinh tế càng tăng trưởng thì tình trạng khan hiếm các loại
nguyên nhiên liệu, năng lượng do sự cạn kiệt các nguồn tài nguyên không tái tạo
được càng tăng thêm, môi trường thiên nhiên càng bị hủy hoại, cân bằng sinh thái
bị phá vỡ, thiên nhiên gây ra những thiên tai vô cùng thảm khốc.
Từ thập niên 1980, phát triển kinh tế bền vững là mục tiêu hướng tới của
nhiều quốc gia, trong đó có Việt Nam. Sau hơn 35 năm đổi mới toàn diện đất nước,
đặc biệt từ khi đẩy mạnh cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa, xu hướng phát triển kinh
tế bền vững ở Việt Nam đã bắt đầu hình thành và đạt kết quả khả quan. Nền kinh tế
Việt Nam đã khởi sắc, duy trì tốc độ tăng trưởng cao, cơ cấu kinh tế chuyển dịch
theo hướng tiến bộ. Các vấn đề xã hội như tạo việc làm, nâng cao thu nhập, chính
sách tiền lương, chính sách xóa đói giảm nghèo được quan tâm giải quyết… Tuy
nhiên, bên cạnh những thành tựu đạt được, Việt Nam đang phải đối diện với nhiều
thách thức. Hàng loạt vấn đề nảy sinh từ phát triển kinh tế bền vững. Điều đó địi
hỏi cần phải huy động tổng thể các nhân tố phục vụ mục tiêu phát triển kinh tế bền
1



vững nhằm phát huy tích cực, khắc phục những hạn chế trong quá trình phát triển
kinh tế ở Việt Nam. Trong các nhân tố đó, việc phát huy vai trị của Nhà nước đối
với phát triển kinh tế bền vững giữ vai trò quyết định.
Phát triển kinh tế bền vững cần đạt được một số yêu cầu cơ bản như: Giảm
dần mức tiêu phí năng lượng và các tài nguyên khác thông qua công nghệ tiết
kiệm, thay đổi lối sống; thay đổi nhu cầu tiêu thụ không gây hại đến đa dạng sinh
học và mơi trường; bình đẳng trong tiếp cận các nguồn tài nguyên, mức sống, dịch
vụ y tế và giáo dục; xóa đói, giảm nghèo tuyệt đối; cơng nghệ sạch và sinh thái hóa
cơng nghiệp. Để giải quyết tốt các nội dung của phát triển kinh tế bền vững thì
khơng một tổ chức nào có thể làm tốt hơn Nhà nước.
Với những ý kiến trên, tôi xin lựa chọn đề tài: “Lý thuyết phát triển bền
vững và sự vận dụng tại Việt Nam” làm đề tài nghiên cứu kết thúc mơn học của
mình.

2


NỘI DUNG
CHƯƠNG I. CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ PHÁT TRIỂN BỀN VỮNG
1.1. Khái niệm phát triển bền vững
Năm 1980, trong bản “Chiến lược bảo tồn thế giới” do Liên minh Quốc tế
Bảo tồn Thiên nhiên và Tài nguyên Thiên nhiên (IUCN-International Union for
Conservation of Nature and Natural Resources) đã đưa ra mục tiêu của phát triển
bền vững là “đạt được sự phát triển bền vững bằng cách bảo vệ các tài nguyên sinh
vật” và thuật ngữ phát triển bền vững ở đây được đề cập tới với một nội dung hẹp,
nhấn mạnh tính bền vững của sự phát triển về mặt sinh thái, nhằm kêu gọi việc bảo
tồn các tài nguyên sinh vật.
Năm 1987, trong Báo cáo “Tương lai chung của chúng ta”, Ủy ban Thế giới

về Môi trường và Phát triển (WCED-World Commission on Environment and
Development) của Liên hợp quốc định nghĩa "phát triển bền vững" là “phát triển
đáp ứng được nhu cầu của hiện tại mà không làm tổn thương khả năng cho việc
đáp ứng nhu cầu của các thế hệ tương lai”.
Khái niệm phát triển bền vững của WCED chủ yếu nhấn mạnh khía cạnh sử
dụng hiệu quả nguồn tài nguyên thiên nhiên và bảo đảm môi trường sống cho con
người trong quá trình phát triển. Phát triển bền vững là mơ hình chuyển đổi nhằm
tối ưu các lợi ích kinh tế và xã hội trong hiện tại nhưng khơng hề gây hại cho tiềm
năng, lợi ích trong tương lai (Goodian và Hecdue, 1988, GS. Grima Lino).
Ngày nay, trên bình diện tồn thế giới hay tại mỗi khu vực và ở mỗi quốc
gia xuất hiện biết bao vấn đề bức xúc mang tính phổ biến. Kinh tế càng tăng
trưởng thì tình trạng khan hiếm các loại nguyên liệu, năng lượng do sự cạn kiệt

3


các nguồn tài nguyên không tái tạo được ngày càng tăng thêm, môi trường thiên
nhiên càng bị hủy hoại, cân bằng sinh thái bị phá vỡ, dẫn tới "sự trả thù" của thiên
nhiên gây ra những thiên tai vô cùng thảm khốc. Đó là sự tăng trưởng kinh tế
khơng cùng nhịp với tiến bộ và phát triển xã hội, đôi khi ngược chiều với phát
triển xã hội. Cụ thể là, có tăng trưởng kinh tế nhưng khơng có tiến bộ và công
bằng xã hội; tăng trưởng kinh tế theo hướng CNH, đơ thị hóa, dẫn tới làm méo
mó nơng thơn; tăng trưởng kinh tế nhưng thu nhập của người lao động khơng
tăng; tăng trưởng kinh tế nhưng văn hóa, đạo đức bị suy đồi; tăng trưởng kinh tế
lại làm dãn cách hơn sự phân hóa giàu nghèo trong xã hội, dẫn tới sự bất ổn trong
xã hội và điều này đã trở thành một trong những vấn đề nóng bỏng ở nhiều quốc
gia. Vậy nên, q trình phát triển có sự điều tiết hài hòa giữa tăng trưởng kinh tế
với bảo đảm bình ổn xã hội và bảo vệ mơi trường đang trở thành yêu cầu bức
thiết đối với toàn thế giới. Theo đó, chiến lược phát triển bền vững ra đời và trở
thành chiến lược phát triển toàn cầu những năm cuối của thế kỷ 20 và đang tiếp

tục là chiến lược phát triển toàn cầu trong thế kỷ 21.
Mặc dù chiến lược phát triển toàn cầu xuất hiện từ những năm cuối của thế
kỷ 20, song thuật ngữ "phát triển bền vững" là một khái niệm dần được hình
thành từ thực tiễn đời sống xã hội và có tính tất yếu. Tư duy về phát triển bền
vững manh nha trong cả quá trình sản xuất xã hội và bắt đầu từ việc nhìn nhận
tầm quan trọng của bảo vệ mơi trường và tiếp đó là nhận ra sự cần thiết phải giải
quyết những bất ổn trong xã hội. Chính vì thế, năm 1992, Hội nghị thượng đỉnh về
Mơi trường và Phát triển của Liên hợp quốc được tổ chức ở Ri-ơ đơ Gia-nê-rơ đề
ra Chương trình nghị sự tồn cầu cho thế kỷ XXI, theo đó, phát triển bền vững
được xác định là: Một sự phát triển thỏa mãn những nhu cầu của thế hệ hiện tại
mà không làm hại đến khả năng đáp ứng những nhu cầu của thế hệ tương lai.
4


Theo đó, ba trụ cột phát triển bền vững được xác định là: Thứ nhất, bền vững về
mặt kinh tế, hay phát triển kinh tế bền vững là phát triển nhanh và an toàn, chất
lượng; Thứ hai, bền vững về mặt xã hội là công bằng xã hội và phát triển con
người, chỉ số phát triển con người (HDI) là tiêu chí cao nhất về phát triển xã hội,
bao gồm: thu nhập bình qn đầu người; trình độ dân trí, giáo dục, sức khỏe, tuổi
thọ, mức hưởng thụ về văn hóa, văn minh; Thứ ba, bền vững về sinh thái môi
trường là khai thác và sử dụng hợp lý tài nguyên thiên nhiên, bảo vệ môi trường
và cải thiện chất lượng môi trường sống.
Cho tới nay, quan niệm về phát triển bền vững trên bình diện quốc tế có
được sự thống nhất chung và mục tiêu để thực hiện phát triển bền vững trở
thành mục tiêu thiên niên kỷ.
Ở Việt Nam, chủ đề phát triển bền vững cũng đã được chú ý nhiều trong
giới nghiên cứu cũng như những nhà hoạch định đường lối, chính sách. Quan
niệm về phát triển bền vững thường được tiếp cận theo hai khía cạnh: Một là,
phát triển bền vững là phát triển trong mối quan hệ duy trì những giá trị mơi
trường sống, coi giá trị môi trường sinh thái là một trong những yếu tố cấu thành

những giá trị cao nhất cần đạt tới của sự phát triển. Hai là, phát triển bền vững là
sự phát triển dài hạn, cho hôm nay và cho mai sau; phát triển hôm nay không làm
ảnh hưởng tới mai sau.
Trong mục 4, Điều 3, Luật Bảo vệ môi trường, phát triển bền vững được
định nghĩa: "Phát triển bền vững là phát triển đáp ứng được nhu cầu của thế hệ
hiện tại mà không làm tổn hại đến khả năng đáp ứng nhu cầu đó của các thế hệ
tương lai trên cơ sở kết hợp chặt chẽ, hài hòa giữa tăng trưởng kinh tế, bảo đảm
tiến bộ xã hội và bảo vệ môi trường". Đây là định nghĩa có tính tổng qt, nêu bật

5


những yêu cầu và mục tiêu trọng yếu nhất của phát triển bền vững, phù hợp với
điều kiện và tình hình ở Việt Nam.
Từ nội hàm khái niệm phát triển bền vững, rõ ràng là, để đạt được mục tiêu
phát triển bền vững cần giải quyết hàng loạt các vấn đề thuộc ba lĩnh vực là KTXH-MT.
Thứ nhất, bền vững kinh tế. Mỗi nền kinh tế được coi là bền vững cần đạt
được những yêu cầu sau:
- Có tăng trưởng GDP và GDP/người đạt mức cao. Nước phát triển có thu
nhập cao vẫn phải giữ nhịp độ tăng trưởng, nước càng nghèo, có thu nhập thấp
càng phải tăng trưởng mức độ cao. Các nước đang phát triển trong điều kiện hiện
nay cần tăng trưởng GDP vào khoảng 5%/năm thì mới có thể xem có biểu hiện
phát triển bền vững về kinh tế.
- Trường hợp có tăng trưởng GDP cao nhưng mức GDP/người thấp thì vẫn
coi là chưa đạt yêu cầu phát triển bền vững.
- Cơ cấu GDP cũng là vấn đề cần xem xét. Chỉ khi tỷ trọng công nghiệp và
dịch vụ trong GDP cao hơn nơng nghiệp thì tăng trưởng mới có thể đạt được bền
vững.
- Tăng trưởng kinh tế phải là tăng trưởng có hiệu quả cao, khơng chấp nhận
tăng trưởng bằng mọi giá.

Thứ hai, bền vững về xã hội. Tính bền vững về phát triển xã hội ở mỗi quốc
gia được đánh giá bằng các tiêu chí, như HDI, hệ số bình đẳng thu nhập, các chỉ
tiêu về giáo dục, y tế, phúc lợi xã hội, hưởng thụ văn hóa. Ngồi ra, bền vững về

6


xã hội là sự bảo đảm đời sống xã hội hài hịa; có sự bình đẳng giữa các giai tầng
trong xã hội, bình đẳng giới; mức độ chênh lệch giàu nghèo khơng cao q và có
xu hướng gần lại; chênh lệch đời sống giữa các vùng miền không lớn.
Thứ ba, bền vững về mơi trường. Q trình CNH, HĐH, phát triển nơng
nghiệp, du lịch; q trình đơ thị hóa, xây dựng NTM,... đều tác động đến môi
trường và gây ảnh hưởng tiêu cực đến môi trường, điều kiện tự nhiên. Bền vững
về môi trường là khi sử dụng các yếu tố tự nhiên đó, chất lượng mơi trường sống
của con người phải được bảo đảm. Đó là bảo đảm sự trong sạch về khơng khí,
nước, đất, khơng gian địa lý, cảnh quan. Chất lượng của các yếu tố trên luôn cần
được coi trọng và thường xuyên được đánh giá kiểm định theo những tiêu chuẩn
quốc gia hoặc quốc tế.
1.2. Sự hình thành lý thuyết phát triển bền vững
Cuộc cách mạng công nghiệp vào đầu thế kỷ XVIII, đặc biệt là cuộc cách
mạng khoa học và công nghệ từ giữa thế kỷ XX cho đến nay, vấn đề phát triển có
một nội dung thuần túy kinh tế. Cùng với sự phát triển của xã hội, các nhu cầu về
vật chất ngày càng tăng, con người đã tìm nhiều biện pháp thúc đẩy sản xuất, các
chính sách KT- XH, mở mang quốc gia đã có sự quan tâm đặc biệt đến các vấn đề
về đầu tư, sản xuất, tăng trưởng kinh tế đã trở thành mục tiêu trung tâm, ưu tiên
hàng đầu trong chiến lược phát triển của các quốc gia trên thế giới. Lúc bấy giờ
phát triển kinh tế (développement économique) đồng nghĩa với tăng trưởng kinh
tế (croissance économique), khơng có sự phân biệt, cân nhắc hoặc so sánh giữa
phẩm và lượng trong công cuộc mở mang quốc gia. Riêng đối với các nước chậm
tiến có nền kinh tế lạc hậu thì được xem như chỉ có nhu cầu gia tăng sản xuất, xúc

tiến các chương trình nhằm các mục tiêu vừa kể. Kinh tế thế giới lúc bấy giờ tiến

7


lên trong khn khổ các chính sách và kế hoạch dựa trên lý luận kinh tế máy móc,
một chiều, hẹp hòi và phiến diện.
Cùng với sự phát triển kinh tế nhanh chóng thì mơi trường thiên nhiên cũng
đang bị tàn phá nghiêm trọng. Trước nguy cơ, hiểm họa nguồn tài nguyên thiên
nhiên bị khai thác cạn kiệt, tiêu dùng hoang phí, chất thải bừa bãi, tất cả để đuổi
theo mục tiêu tăng trưởng kinh tế, thì mơi trường tự nhiên đã bị xâm hại, tổn
thương nghiêm trọng. Một khuynh hướng cực đoan chủ trương giảm đến mức tối
đa sự tác động của con người lên tự nhiên đã xuất hiện. Ý tưởng này cho rằng, để
bảo vệ môi trường bằng cách con người không tác động vào tự nhiên. Đây là một
ý tưởng hoàn toàn ảo tưởng, bởi con người không thể chấp nhận một hệ số phát
triển bằng không. Đây là một phản ứng tiêu cực, một sự lựa chọn bế tắc của cuộc
sống chính sự tác động của con người vào thiên nhiên mang lại.
Một khuynh hướng khác cũng hết sức sai lầm, cho rằng cần tăng trưởng
kinh tế trước rồi mới quan tâm bảo vệ môi trường. Nói theo y học, có nghĩa là
"bệnh rồi mới chữa" chứ khơng phải "phịng bệnh hơn chữa bệnh". Ngược dịng
thời gian, có thể thấy các nhà kinh tế học như Malthus, D.Ricardo đều có chung
quan điểm với các nhà bảo vệ môi trường đầu tiên ở châu Âu, châu Mỹ và tất cả
họ đều có chung quan điểm là cần tiết kiệm tối đa nguồn tài nguyên thiên nhiên.
Song không ít quốc gia, đặc biệt là ở các nước chậm phát triển và đang phát triển,
mục tiêu tăng trưởng kinh tế vẫn chiếm vị trí ưu tiên hơn so với mục tiêu bảo vệ
môi trường và sử dụng hợp lý nguồn tài nguyên thiên nhiên. Bởi tại các quốc gia
này giải quyết việc làm, giảm nghèo đói, cải thiện đời sống người dân, xây dựng
tiềm lực kinh tế cho đất nước vẫn là việc làm chính đáng và cấp thiết.

8



Vào đầu thập niên 70 của thế kỷ XX, trước việc sử dụng quá mức tài nguyên
thiên nhiên phục vụ cho CNH của nhiều nước trên thế giới đã hình thành nhiều
trường phái nghiên cứu về sự phát triển bền vững. Thực tế đó đã tạo ra sự lo ngại
về triển vọng phát triển của con người ở hiện tại và tương lai, đã làm cho nhận
thức về tự nhiên, mối quan hệ giữa tự nhiên với xã hội và con người có những
thay đổi. Trong cơng trình nghiên cứu của mình, GS. TS Holger Rogall lấy trường
phái định hướng kinh tế làm trọng tâm. Trong khi đó, trường phái Tân cổ điển coi
kinh tế môi trường là một phần của khoa học bền vững. Còn Câu lạc bộ La Mã
(Club de Rome) đã đề cao quan điểm "Giới hạn của tăng trưởng" đề nghị một
hướng đi mới cho sự phát triển và có những nhận thức chính đáng, những nhận
định xác thực về tổ chức kinh tế, đời sống xã hội nên đã có những ảnh hưởng
nhất định trong việc cảnh tỉnh thế giới về những vấn đề liên quan tới môi trường môi sinh. Câu lạc bộ La Mã đề nghị chính sách "khơng tăng trưởng" (croissance
zéro) với lý do tăng trưởng kinh tế nghịch với bảo vệ môi trường - môi sinh. Khi
Maurice Strong tổ chức hội thảo với chủ đề "Phát triển và mơi trường" thì những
vấn đề về phát triển bền vững bắt đầu thu hút được sự quan tâm của nhiều học
giả trên thế giới.
Tháng 6 năm 1972, tuyên bố Stockholm về "Môi trường con người" nêu rõ:
Bảo vệ và cải thiện môi trường là vấn đề lớn có ảnh hưởng tới phúc lợi của mọi
dân tộc và phát triển kinh tế trên toàn thế giới. Đó là khao khát khẩn cấp của các
dân tộc trên thế giới và nhiệm vụ của mọi chính phủ. Điều đó đã cho thấy thiên
nhiên khơng phải là nguồn của cải vơ tận, sẵn có và phục vụ con người vô điều
kiện. Con người đã nhận ra rằng, tự nhiên là thể thống nhất, nhưng nó có giới hạn
và sức chịu đựng nhất định trước con người chứ không phải là vô hạn. Cho nên,
bên cạnh việc khai thác tự nhiên phục vụ cho lợi ích con người thì con người phải
9


biết bảo vệ và cải thiện để nâng cao chất lượng do tự nhiên ban tặng, nghĩa là

phải biết "chung sống hài hòa" với tự nhiên.
Mỗi giai đoạn lịch sử, tư tưởng về phát phát triển bền vững ngày càng định
hình rõ nét hơn và thuật ngữ ‘Phát triển bền vững" lần đầu tiên được sử dụng
trong ấn phẩm "Chiến lược bảo tồn thế giới" do Hiệp hội Bảo tồn thiên nhiên và
Tài nguyên thiên nhiên thế giới phát hành. Chiến lược này cho rằng, muốn phát
triển bền vững cần tính đến những yếu tố kinh tế - mơi trường – xã hội.
Chiến lược "phát triển tôn trọng môi sinh" bị các nước đã phát triển và giàu
có chống đối mạnh mẽ, bởi vậy cuối cùng hội nghị chỉ thảo luận vấn đề ô nhiễm và
kết thúc với sự tán đồng quan điểm rằng có mối liên hệ và ảnh hưởng tương hỗ
giữa nếp sống của lồi người với mơi trường-môi sinh, giữa phát triển KT-XH với
bảo tồn tài nguyên và ổn định thiên nhiên. Ngoài ra, các nước cũng thỏa thuận và
cam kết hành động để bảo vệ môi trường - môi sinh và thành lập những cơ quan
quốc tế và quốc gia có nhiệm vụ bảo vệ mơi trường - môi sinh. Mặc dù đề nghị
"phát triển tôn trọng mơi sinh" khơng được chấp thuận, nhưng nó đã đánh dấu
một bước tiến quan trọng hướng tới sự khai sinh khái niệm "phát triển bền vững".
Vào đầu những năm 1980, Liên hiệp Quốc tế Bảo vệ Thiên nhiên là tổ chức
đã đề khởi khái niệm phát triển bền vững. Năm 1981, Robert Riddell đã mô tả
phát triển bền vững gồm ba yếu tố cơ bản là: bình đẳng kinh tế, hài hịa xã hội,
mơi trường cân bằng. Đến năm 1987, khái niệm phát triển bền vững do Ủy ban
Thế giới về Môi trường và Phát triển đưa ra đã nhận được sự đồng thuận cao từ
nhiều quốc gia, các tổ chức môi trường và các nhà khoa học trên thế giới. Năm
1992 tại Rio de Janeiro, Hội nghị Thượng đỉnh về Trái đất đã chính thức hóa sự
đồng lịng thỏa thuận của các nước hội viên Liên Hiệp Quốc về một chương trình

10


nghị sự phát triển bền vững gọi là Agenda 21. Mười năm sau, vào năm 2002, Liên
Hiệp Quốc đã tổ chức một hội nghị khác tại Johannesburg với tên gọi là "Hội nghị
Thượng đỉnh Thế giới về Phát triển bền vững". Hội nghị Johannesburg đã xác định

phải xúc tiến và thực hiện Agenda 21 và đã đề ra các mục tiêu cho thiên niên kỷ
21. Theo đó, Hội nghị nhấn mạnh đến việc thiết lập cam kết giữa các chính phủ
trên toàn thế giới, nhằm thực hiện kế hoạch Johannesburg.
Trên đây là những tư tưởng tiên phong quan trọng về phát triển bền vững,
ngồi ra cịn có thể kể đến các tư tưởng khác ở những mức độ khác nhau hoặc
trực tiếp hoặc gián tiếp cũng có những luận bàn xoay quanh chủ đề phát triển bền
vững, chẳng hạn như: Kinh tế sinh thái, Kinh tế môi trường thế hệ mới, Sinh thái
học công nghiệp…là những phương án đối sánh, cung cấp những đóng góp quan
trọng cho khoa học phát triển bền vững.
1.3. Các nguyên tắc cho phát triển bền vững
Phát triển bền vững là q trình phát triển có sự kết hợp chặt chẽ, hợp lý hài
hòa giữa ba mặt: Kinh tế, xã hội và môi trường với nội dung cụ thể như sau:
+ Phát triển bền vững về kinh tế: là quá trình đạt được tăng trưởng kinh tế ổn
định và đều đặn, đảm bảo ổn định kinh tế vĩ mơ như lạm phát, lãi suất, nợ chính
phủ, đảm bảo cân đối cán cân thương mại, đầu tư có chất lượng, có năng suất cao
thơng qua việc nâng cao hàm lượng khoa học và công nghệ trong sản xuất, không
làm phương hại đến xã hội và môi trường.
+ Phát triển bền vững về xã hội: là phát triển nhằm đảm bảo sự cơng bằng
trong xã hội, xóa đói giảm nghèo, tạo công ăn việc làm, tăng thu nhập cho người

11


lao động, đảm bảo người dân có cơ hội được tiếp cận đầy đủ các dịch vụ cơ bản
như y tế, giáo dục nhưng không làm phương hại đến kinh tế và môi trường.
+ Phát triển bền vững về môi trường: là việc sử dụng hợp lí tài nguyên thiên
nhiên, duy trì một nền tảng nguồn lực ổn định, tránh khai thác quá mức các hệ
thống nguồn lực tái sinh. Phát triển bền vững về mơi trường cần duy trì sự đa dạng
sinh học, sự ổn định khí quyển và các hoạt động sinh thái khác, cần hạn chế vấn đề
nhiễm môi trường bao gồm cả ô nhiễm đô thị và khu công nghiệp, cần phải quản lý

và xử lý tốt chất thải rắn, chất thải nguy hại, có khả năng ngăn ngừa và giảm thiểu
các tác động của biến đổi khí hậu và thiên tai.
Ngồi ra, phát triển bền vững về môi trường cần phải hướng được các doanh
nghiệp từng bước thay đổi mơ hình sản xuất, hướng doanh nghiệp đến các công
nghệ sản xuất sạch hơn, thân thiện với môi trường hơn. Phát triển bền vững về môi
trường phải đảm bảo không làm phương hại đến kinh tế và xã hội.
1.4. Mục tiêu phát triển bền vững
Các mục tiêu Phát triển bền vững, còn được gọi là Mục tiêu Toàn cầu, là lời
kêu gọi của Liên Hợp Quốc tới tất cả các nước trên thế giới để giải quyết những
thách thức lớn mà nhân loại phải đối mặt và đảm bảo rằng tất cả mọi người đều có
cơ hội sống tốt hơn. Phát triển bền vững được chia thành 17 mục tiêu liên quan đến
các vấn đề phổ biến nhất.
- Xóa đói giảm nghèo, bảo đảm một cuộc sống khỏe mạnh
- Phổ cập tiếp cận các dịch vụ cơ bản như nước, cải thiện điều kiện vệ sinh
và năng lượng bền vững.
12


- Hỗ trợ tạo ra các cơ hội phát triển thông qua kết hợp đồng thời giáo dục và
công việc tốt.
- Thúc đẩy linh hoạt và đổi mới cơ sở hạ tầng, tạo ra các cộng đồng và thành
phố có thể sản xuất và tiêu thụ bền vững.
- Giảm bất bình đẳng trên thế giới, đặc biệt là liên quan đến bất bình đẳng
giới.
- Gìn giữ mơi trường, chống biến đổi khí hậu, bảo vệ đại dương và hệ sinh
thái đất.
- Thúc đẩy sự hợp tác giữa các tác nhân xã hội khác nhau để tạo ra một mơi
trường hịa bình và phát triển bền vững.
Những mục tiêu chung này địi hỏi sự tham gia tích cực của các cá nhân,
doanh nghiệp, chính quyền và các quốc gia trên thế giới.

1.5. Tiêu chí của phát triển bền vững
Phát triển bền vững địi hỏi có bộ tiêu chí đánh giá để xem từng lĩnh vực sự
phát triển đã đạt hay chưa đạt độ phát triển bền vững. Độ bền vững của sự phát
triển thường được đánh giá thông qua các tiêu chí và chỉ thị đo mức bền vững
của 3 lĩnh vực kinh tế, xã hội và môi trường. Hiện nay trên thế giới có nhiều bộ
tiêu chí đánh giá phát triển bền vững khác nhau. Chẳng hạn, Chương trình phát
triển Liên hợp quốc (UNDP) đưa ra bộ tiêu chí 58 chỉ tiêu, trong đó 14 chỉ tiêu về
kinh tế; Trung Quốc có bộ tiêu chí 80 chỉ tiêu, trong đó 15 chỉ tiêu kinh tế; Thái
Lan có bộ tiêu chí 65 chỉ tiêu, trong đó 16 chỉ tiêu kinh tế. Hội nghị thượng đỉnh

13


Liên hợp quốc về phát triển bền vững (Hội nghị Rio+20) năm 2012 xác định các
tiêu chí của phát triển bền vững là yếu tố kinh tế, xã hội, môi trường và phúc lợi
được cân bằng.
Từ sự lập luận đó, chúng ta có thể nhận biết tiêu chí đánh giá sự phát triển
bền vững thông qua các thành tố cơ bản sau đây:
Thứ nhất, một nền chính trị ổn định, hợp lý, hiệu quả - nền chính trị dân
chủ hiện thực. Thể chế chính trị dân chủ là thể chế vừa có "tuyên bố pháp lý"
(được ghi nhận trong Hiến pháp) rằng "tất cả quyền lực thuộc về nhân dân", vừa
có "cơ chế" để nhân dân thực hiện quyền làm chủ, thơng qua việc luật hóa các
quyền con người, quyền công dân, quyền dân chủ và vấn đề dân chủ hóa trong
đời sống xã hội. Như vậy, xây dựng Nhà nước pháp quyền là yêu cầu tất yếu trong
thể chế chính trị dân chủ hiện đại, bởi lẽ tự do chính trị và dân chủ chỉ có thể có ở
những quốc gia mà ở đó các quan hệ xã hội được điều chỉnh bằng pháp luật.
Pháp luật là thước đo của tự do và hệ thống pháp luật càng hoàn thiện (có chế tài
cụ thể) thì các quyền tự do, dân chủ của con người càng được đảm bảo.
Thứ hai, tăng trưởng kinh tế gắn liền với dân chủ, công bằng và tiến bộ xã
hội. Tăng trưởng kinh tế là yêu cầu căn bản của phát triền bền vững, là nền tảng

tạo ra những điều kiện đáp ứng nhu cầu vật chất của con người. Song bên cạnh
những nhu cầu sinh học, con người con có những nhu cầu xã hội - nhu cầu được
tự do, nhu cầu hưởng thụ văn hóa, hưởng thụ cái mới, cái đẹp... Do đó, giải
quyết tốt các vấn đề xã hội, hạn chế những mặt trái, những tiêu cực do sự phát
triển kinh tế mang lại, bảo đảm cho con người được hưởng các giá trị tự do, dân
chủ, công bằng và tiến bộ xã hội chính là cơ sở tạo nên sự hài hịa, tính bền vững
trong suốt q trình phát triển.

14


Thứ ba, văn hoá ngày càng phong phú, đa dạng, dựa trên nền tảng chân,
thiện, mỹ. Văn hóa là bản chất, là linh hồn của đời sống xã hội, là mục tiêu và
động lực của sự phát triển. Văn hóa là sức mạnh nội sinh tạo nên bản sắc và sức
sống của từng quốc gia, dân tộc. Do vậy, việc xây dựng và phát triển nền văn hóa
tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc ở nước ta hiện nay là nhằm khơng ngừng nâng
cao đời sống văn hóa, xây dựng nếp sồng mới cho quần chúng nhân dân, tạo lập
nền tảng tinh thần vững chắc để hội nhập và phát triển bền vững. Một quốc gia
nếu có sự tăng trưởng về kinh tế nhưng lại bị nô dịch về văn hóa thì khó có thể
phát triển bền vững, nhất là trong thời đại giao lưu văn hóa, thơng tin đa chiều
hiện nay.
Thứ tư, môi trường được bảo vệ và hệ sinh thái được bảo tồn. Điều này đòi
hỏi các chính sách phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội phải thân thiện với mơi
trường. Do đó, các chủ thể chính trị khi xây dựng các đề án, chính sách phát triển
KT-XH là phải xem xét đến các yếu tố môi trường, đồng thời phải cân nhắc kỹ
lưỡng những lợi ích kinh tế mà đề án đó mang lại cũng như những tác động của
nó (cả tích cực và tiêu cực) đối với xã hội và môi trường sống của con người (cả
trong hiện tại và tương lai). Từ đó, có những biện pháp tối ưu để khắc phục
những ảnh hưởng tiêu cực, góp phần gìn giữ, cải tạo và phát triển lành mạnh môi
trường sống. Điều này phụ thuộc rất nhiều vào năng lực lãnh đạo (đặc biệt là tầm

tư duy chiến lược) của các chủ thể cầm quyền và ý thức bảo vệ môi trường của
mọi người dân. Tăng tưởng kinh tế là nền tảng của phát triển bền vững, nhưng
nếu tăng trưởng bất chấp mọi hậu quả về vấn đề mơi trường, thì đó là sai lầm
nghiêm trọng mà tất cả các quốc gia, dân tộc ắt sẽ bị trả giá trong suốt quá trình
phát triển.

15


Thứ năm, con người ngày càng hoàn thiện nhân cách, tự do, hài hoà, sáng
tạo. Đây là mục tiêu cuối cùng của phát triển bền vững - một sự phát triển vì con
người, cho con người, giải phóng tồn diện con người. Chính trong q trình phát
triển đó, con người ngày càng được tự do hơn, càng hoàn thiện nhân cách, càng
thực sự làm chủ. Hoạt động sống của con người ở hiện tại mới không làm tổn hại
đến điều kiện sống của các thế hệ mai sau, mới bảo đảm ổn định và phát triển
bền vững.
1.6. Sự cần thiết của phát triển bền vững
Ngày nay, với sự phát triển của nền kinh tế Thế Giới, nhiều thách thức đặt ra
với lồi người như: biến đổi khí hậu, khan hiếm nước, bất bình đẳng và đói
nghèo,.. Tất cả chỉ có thể được giải quyết ở cấp độ toàn cầu và bằng cách thúc đẩy
phát triển bền vững về kinh tế, xã hội và môi trường. Cụ thể:
- Phát triển bền vững đảm bảo tính bền vững về kinh tế:
Sự phát triển bền vững giúp nền kinh tế tăng trưởng, phát triển nhanh nhưng
vẫn đảm bảo tính an tồn. Tức là sự tăng trưởng và phát triển nền kinh tế lành
mạnh, vẫn đáp ứng được những nhu cầu của cuộc sống, nâng cao đời sống người
dân nhưng lại tránh được sự suy thối hoặc đình trệ kinh tế trong tương lai đặc biệt
là gánh nặng nợ nần để khơng biến nó thành di chứng cho các thế hệ mai sau.
- Phát triển bền vững đảm bảo tính bền vững về xã hội:
Ngồi tính bền vững về kinh tế, phát triển bền vững cịn đảm bảo tính bền
vững về xã hội thể hiện ở sự công bằng xã hội và phát triển con người thông qua

16


thước đo là chỉ số HDI. Theo đó, tính bền vững được thể hiện ở việc đảm bảo về
sức khỏe, dinh dưỡng, học vấn, xóa đói giảm nghèo, đảm bảo công bằng xã hội và
tạo cơ hội để mọi thành viên trong xã hội đều được bình đẳng ngang nhau. Từ đó
làm giảm nguy cơ xung đột xã hội hay chiến tranh.
- Phát triển bền vững nhằm đảm bảo tính bền vững về môi trường:
Như bạn biết đấy, môi trường đang là một trong những vấn đề “nóng” hiện
nay, là vấn đề được sự quan tâm đặc biệt của xã hội. Các nguồn tài nguyên thiên
nhiên ngày càng bị suy giảm, cạn kiệt cả về số lượng lẫn chất lượng. Tình trạng
rừng bị tàn phá, kể cả rừng đầu nguồn, rừng phòng hộ nhằm khai thác gỗ hoặc lấy
đất canh tác…gây nên hàng loạt các thiên tai, gây biến đổi khí hậu.
Chính vì vậy, phát triển bền vững nhằm mục đích khai thác và sử dụng hợp
lí các nguồn tài nguyên thiên nhiên, không ngừng bảo vệ và cải thiện chất lượng
mơi trường sống theo hướng tích cực. Đảm bảo cho con người sống trong môi
trường xanh - sạch - đẹp, đảm bảo mối quan hệ hài hòa thật sự giữa con người, xã
hội và tự nhiên nhằm thỏa mãn nhu cầu sống của thế hệ hiện tại, nhưng không cản
trở các thế hệ tương lai có cơ hội thỏa mãn nhu cầu của họ về tài nguyên và môi
trường.

17


CHƯƠNG 2. THỰC TRẠNG PHÁT TRIỂN BỀN VỮNG Ở VIỆT NAM
HIỆN NAY
2.1. Thực trạng chung
Ở Việt Nam, Nhà nước đã ban hành Chiến lược phát triển bền vững giai
đoạn 2011 – 2020 nhằm mục tiêu tăng trưởng bền vững, hiệu quả, đi đôi với tiến
bộ và công bằng xã hội, bảo vệ tài nguyên và môi trường, giữ vững ổn định chính

trị – xã hội, bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ
quốc gia.
Chiến lược phát triển bền vững giai đoạn 2011 – 2020 được cụ thể hóa bằng
những mục tiêu cơ bản sau:
2.1.1. Về kinh tế
Cần duy trì tăng trưởng kinh tế bền vững, từng bước thực hiện tăng trưởng
xanh, phát triển năng lượng sạch, năng lượng tái tạo; thực hiện sản xuất và tiêu
dùng bền vững; bảo đảm an ninh lương thực, phát triển nông nghiệp, nông thôn
bền vững; phát triển bền vững các vùng và địa phương.
Nâng cao chất lượng tăng trưởng, bảo đảm ổn định kinh tế vĩ mô, đặc biệt là
các chính sách tài chính, tiền tệ. Chuyển đổi mơ hình tăng trưởng chủ yếu theo
chiều rộng sang kết hợp hài hòa giữa chiều rộng và chiều sâu trên cơ sở khai thác,
sử dụng hiệu quả tài nguyên thiên nhiên và các thành tựu khoa học và công nghệ
tiên tiến để tăng năng suất lao động và nâng cao sức cạnh tranh của các sản phẩm
hàng hóa và dịch vụ.

18



×