Tải bản đầy đủ (.doc) (81 trang)

Giải pháp nhằm tăng cường công tác khai thác các nghiệp vụ bảo hiểm con người phi nhân thọ tại công ty bảo minh hà nội

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (334.45 KB, 81 trang )

GVHD: Th.S Nguyễn Thị Chính

LỜI MỞ ĐẦU
Con người là nhân tố chính của xã hội, là trung tâm của mọi hoạt động
văn hố- kinh tế- chính trị trên tồn thế giới. Mọi hoạt động diễn ra trên thế
giới hầu như đều xoay quanh con người và tất cả là vì lợi ích của con người.
Do đó, bảo vệ con người, đáp ứng mọi nhu cầu của con người là mục tiêu hoạt
động của mọi tổ chức cá nhân trên thế giới.
Nền kinh tế ngày càng phát triển, đời sống con người không ngừng được
cải thiện. Khi mà các nhu cầu về vật chất và tinh thần đã được thoã mãn thì
con người sẽ có nhu cầu cao hơn đặc biệt là nhu cầu được bảo vệ và yên tâm
hơn trong cuộc sống. Và bảo hiểm ra đời nhằm san sẻ một phần các rủi ro mà
con người có thể gặp phải trong cuộc sống. Trong các loại hình bảo hiểm thì
BHCN PNT là loại hình bảo hiểm san sẻ rủi ro đối với người được bảo hiểm
khi gặp các rủi ro về thân thể và tình trạng sức khoẻ của họ. Đây là nghiệp vụ
bảo hiểm mang tính nhân đạo cao và thiết thực đối với con người.
Thị trường bảo hiểm Việt Nam nói chung và thị trường bảo hiểm phi nhân
thọ nói riềng đang đứng trước những cơ hội và thách thức mới đặc biệt là
nghiệp vụ có nhiều tiềm năng như BHCN PNT.
Qua nhiều năm triển khai các nghiệp vụ BHCN PNT , công ty Bảo Minh
Hà Nội đã góp phần giảm bớt khó khăn khi con người gặp phải rủi ro, đảm
bảo cho họ yên tâm hơn trong cuộc sống. Đồng thời nghiệp vụ này cũng đã
mang lại doanh thu đáng kể cho công ty. Tuy nhiên, so với tiềm năng phát
triển của BHCN PNT thì kết quả khai thác của cơng ty vẫn cịn hạn chế.
Sau một thời gian thực tập tại công ty Bảo Minh Hà Nội, đặc biệt đã được
tiếp cận và tìm hiểu về các nghiệp vụ BHCN PNT của công ty,em thấy công
ty khai thác chưa thực sự tốt các nghiệp vụ BHCN PNT. Với mục đích đi sâu
Nguyễn Thị Sâm

1


Bảo hiểm


GVHD: Th.S Nguyễn Thị Chính

vào tìm hiều, nghiên cứu các nghiệp vụ BHCN PNT và tìm ra các giải pháp
để khai thác tốt hơn các nghiệp vụ BHCN PNT của công ty Bảo Minh Hà Nội
em đã chọn đề tài “ Giải p nhằm tăng cường công tác khai thác các nghiệp
vụ Bảo hiểm con người phi nhân thọ tại công ty Bảo Minh Hà Nội” làm
chuyên đề thực tập tốt nghiệp.
Chuyên đề tốt nghiệp của em ngoài phẩn Lời mở đầu và phần Kết luận có
3 chương:
Chương I: Lý luận chung về BHCN PNT và công tác khai thác nghiệp
vụ BHCN PNT.
Chương II: Thực trạng khai thác các nghiệp vụ BHCN PNT tại công ty
Bảo Minh Hà Nội.
Chương III: Giải pháp nhằm tăng cường công tác khai thác các nghiệp
vụ BHCN PNT tại công ty Bảo Minh Hà Nội trong thời gian tới.
Do thời gian còn hạn chế, mặt khác chưa được tiếp cận nhiều với thực tế,
nên bài viết của em sẽ khơng tránh khỏi những thiếu sót nhất định. Em mong
nhận được sự chỉ dẫn góp ý của các thầy cô giáo.
Em xin chân thành cảm ơn các cô chú và các anh chị tại công ty Bảo Minh
Hà Nội và cơ giáo Th.S Nguyễn Thị Chính đã tạo điều kiện, giúp đỡ để em
hoàn thành đợt thực tập và hồn thành bài viết của mình.
Em xin chân thành cảm ơn!

Nguyễn Thị Sâm

2


Bảo hiểm


GVHD: Th.S Nguyễn Thị Chính

CHƯƠNG I – LÝ LUẬN CHUNG VỀ BẢO HIỂM CON NGƯỜI PHI
NHÂN THỌ VÀ CÔNG TÁC KHAI THÁC NGHIỆP VỤ BẢO HIỂM
CON NGƯỜI PHI NHÂN THỌ.
1.1. Khái quát về Bảo hiểm con người phi nhân thọ.
1.1.1. Sự cần thiết và vai trò của Bảo hiểm con người phi nhân thọ.
1.1.1.1. Sự cần thiết của BHCN PNT.
Ở mỗi quốc gia, trong mỗi thời kỳ, con người luôn được coi là lực lượng sản
xuất chủ yếu, là nhân tố quyết định sự phát triển kinh tế - xã hội,là mục tiêu
trung tâm của tất cả các nước trên thế giới cũng như tồn thể nhân loại. Chính
vì vậy phát triển nguồn lực con người trước hết phải đảm bảo được hai vấn đề
cốt lõi:
- Đảm bảo cuộc sống cho họ về mặt thu nhập
- Đảm bảo an toàn cho họ vì nhu cầu cuộc sống thiết yếu và nhu cầu an toàn
của mỗi con người là nhu cầu vĩnh cửu.
Tuy nhiên trong cuộc sống cũng như trong lao động sản xuất con người luôn
luôn gặp phải những rủi ro bất ngờ như: ốm đau, tai nạn, bệnh tật, tử vong…
Thực tế đã có nhiều biện pháp được áp dụng như: phịng tránh, cứu trợ, tiết
kiệm…nhưng bảo hiểm ln được đánh giá là một biện pháp hữu hiệu.Mặc dù
BHXH, BHYT là những loại hình bảo hiểm cho con người tuy nhiên các loại
hình này lại có một số hạn chế sau:
- Đối tượng tham gia và đối tượng thụ hương rất hạn hẹp chỉ giới hạn là người
lao động.
- Phạm vi bảo hiểm chỉ bó hẹp trong 9 chế độ trong khi có rất nhiều rủi ro
khác cần được bảo hiểm.
- Mức thụ hưởng của BHXH là rất thấp trong khi người có thu nhập cao muốn

được thụ hưởng cao hơn để được chăm sóc tốt hơn.
Nguyễn Thị Sâm

3

Bảo hiểm


GVHD: Th.S Nguyễn Thị Chính

Chính vì vậy bảo hiểm con người trong bảo hiểm thương mại ra đời là một tất
yếu khách quan và thậm chí nó ra đời sớm hơn rất nhiều so với BHXH và
BHYT. Khi BHXH và BHYT ra đời thì các loại hình Bảo hiểm con người
trong BHTM lại càng phát triển hơn bao giờ hết.BHCN đã bổ sung những hạn
chế của BHXH và BHYT với đối tượng bảo hiểm rộng hơn, phạm vi trách
nhiệm rộng hơn và mức thụ hưởng cũng lớn hơn đáp ứng nhu cầu đa dạng của
con người đặc biệt là khi xã hội càng phát triển, đời sống của con người ngày
càng được nâng cao. Sự khác nhau giữa BHXH và BHYT với BHCN trong
BHTM không hề mâu thuẫn với nhau mà lại còn bổ sung và hỗ trợ nhau để
đáp ứng ngày càng đa dạng nhu cầu của người tham gia bảo hiểm.
BHCN PNT là một bộ phận của BHCN trong BHTM , là loại hình bảo hiểm
chỉ liên quan đến các rủi ro như: bệnh tật, ốm đau, tai nạn, mất khả năng lao
động…liên quan đến sức khoẻ và thân thể con người. Vì vậy, BHCN PNT chỉ
đơn thuần mang tính rủi ro chứ khơng mang tính tiết kiệm như BHNT.
1.1.1.2. Vai trò của BHCN PNT.
BHCN PNT ra đời có một số vai trị cụ thể như sau:
- Thứ nhất góp phần ổn định đời sống cho mọi người dân, là chỗ dựa tinh
thần cho người được bảo hiểm.
Mặc dù hiện nay khoa học kỹ thuật đã phát triển cao, nhưng rủi ro bất ngờ
vẫn có thể xảy ra và thực tế đã chứng minh rằng nhiều cá nhân và gia đình đã

trở nên khó khăn, túng quẫn khi một thành viên trong gia đình đặc biệt là
thành viên đó lại là người trụ cột bị chết, hoặc bị thương tật vĩnh viễn. Khi đó,
gia đình phải chi phí mai táng, chơn cất, chi phí nằm viện, thuốc men, chi phí
phẫu thuật và bù đắp những khoản thu thường xuyên bị mất đi. Dù rằng hệ
thống bảo trợ xã hội và các tổ chức xã hội có thể trợ cấp khó khăn, nhưng
cũng chỉ mang tính tạm thời trước mắt, chưa đảm bảo được lâu dài về mặt tài
chính. Tham gia BHCN PNT sẽ phần nào giải quyết được những khó khăn đó.
Nguyễn Thị Sâm

4

Bảo hiểm


GVHD: Th.S Nguyễn Thị Chính

- Thứ hai góp phần ổn định sản xuất kinh doanh cho các doanh nghiệp,
tạo lập mối quan hệ gần gũi, gắn bó giữa người lao động và người sử dụng lao
động.
Mua BHCN PNT cho người lao động hay nhân viên trong các doanh nghiệp
không chỉ nhằm ổn định cuộc sống cho người lao động mà cịn tạo ra sự gắn
bó của người lao động với doanh nghiệp. Do đó họ yên tâm làm việc và cống
hiến hơn cho doanh nghiệp, ổn định và phát triển sản xuất kinh doanh cho
doanh nghiệp. Đặc biệt đối với những lao động chủ chốt, nếu doanh nghiệp bị
mất họ thì khả năng thu lợi sẽ bị giảm và cơng việc sẽ gặp nhiều khó khăn.
Đặc biệt là đối với một thị trường lao động cạnh tranh gay gắt như hiện nay
thì có thể nói đây là một chế độ đãi ngộ hấp dẫn đối với người lao động.
- Thứ ba thơng qua dịch vụ BHCN, một dịch vụ có đối tượng tham gia
đông đảo, các nhà bảo hiểm thu được phí bảo hiểm để hình thành quỹ bảo
hiểm. Quỹ này được sử dụng chủ yếu vào mục đích bồi thường chi trả và dự

phịng. Khi nhàn rỗi, nó sẽ là nguồn vốn đầu tư hữu ích góp phần phát triển và
tăng trưởng kinh tế.
- Thứ tư BHCN PNT còn thể hiện tính nhân văn và nhân đạo cao cả. Nếu
một xã hội mà đa số mọi người tham gia bảo hiểm thì khó khăn, tổn thất của
một số người gặp rủi ro sẽ được san nhỏ cho tất cả mọi người, tức là vơ hình
chung đã có sự đùm bọc nhau trong cuộc sống. Như vậy xã hội sẽ phát triển
tốt đẹp hơn.
- Thứ năm BHCN PNT góp phần giải quyết một số vấn đề về mặt xã hội
như: Tạo thêm công ăn việc làm cho người lao động, tạo ra một nếp sống tốt
đẹp… Vì các doanh nghiệp bảo hiểm luôn cần một mạng lưới đại lý khai thác,
nhân viên hoạt động kinh doanh bảo hiểm ở các khâu cơng việc như giám
định, bồi thường, định phí bảo hiểm, kinh doanh bảo hiểm… nên nhu cầu
tuyển dụng là rất lớn, tạo ra nhiều cơ hội việc làm cho người lao động.
Nguyễn Thị Sâm

5

Bảo hiểm


GVHD: Th.S Nguyễn Thị Chính

1.1.2. Đặc điểm của BHCN PNT.
Măc dù cũng là loại hình BHCN nhưng BHCN PNT lại có những đặc
điểm chủ yếu sau:
- Hậu quả của những rủi ro mang tính chất thiệt hại.
Rủi ro bảo hiểm ở đây là tai nạn, bệnh tật, ốm đau, thai sản liên quan đến
thân thể và sức khoẻ con người. Những rủi ro ở đây khác với hai sự kiện sống
và chết trong BHNT. Vì thế tính chất rủi ro được bộc lộ khá rõ cịn tính chất
tiết kiệm khơng được bộc lộ.

- Người được bảo hiểm thường được quy định ở một độ tuổi nào đó, các
cơng ty bảo hiểm không chấp nhận bảo hiểm cho những người ở độ tuổi quá
thấp hoặc quá cao. Bởi vì ở độ tuổi quá thấp hoặc quá cao tình trạng rủi ro
diễn biến phức tạp, xác suất rủi ro cao,việc quản lý và kiểm sốt rủi ro rất khó
thực hiện.
- Thời hạn bảo hiểm ngắn thường là một năm như: bảo hiểm tai nạn 24/24,
bảo hiểm trợ cấp nằm viện phẫu thuật…Thậm chí có nghiệp vụ bảo hiểm thời
hạn chỉ trong vịng vài ngày như: bảo hiểm tai nạn hành khách, bảo hiểm du
lịch… Do đó, phí bảo hiểm thường nộp một lần khi kí kết hợp đồng bảo hiểm.
- Các nghiệp vụ BHCN PNT thường được triển khai kết hợp với các nghiệp
vụ bảo hiểm khác trong cùng một hợp đồng bảo hiểm. Chẳng hạn như: bảo
hiểm tai nạn được lồng ghép trong BHNT hỗn hợp, bảo hiểm tai nạn lái phụ
xe được triển khai với bảo hiểm trách nhiệm dân sự và bảo hiểm vật chất thân
xe trong HĐBH xe cơ giới… Việc triển khai kết hợp này sẽ làm cho chi phí
khai thác, chi phí quản lý…của cơng ty bảo hiểm giảm đi từ đó có điều kiện
giảm phí bảo hiểm.
-Ở hầu hết các nước BHCN PNT được triển khai sớm hơn BHNT. Họ vừa
triển khai vừa rút kinh nghiệm, đến khi điều kiện kinh tế- xã hội đã chín muồi
Nguyễn Thị Sâm

6

Bảo hiểm


GVHD: Th.S Nguyễn Thị Chính

mới tổ chức triển khai BHNT. Chính vì vậy BHCN PNT được coi là loại hình
bảo hiểm bổ sung hữu hiệu nhất cho các loại hình BHXH và BHYT.
1.1.3. Các nguyên tắc áp dụng khi triển khai các nghiệp vụ BHCN PNT.

1.1.3.1. Nguyên tắc số đông bù số ít.
Đây là nguyên tắc cơ bản, xuyên suốt khơng thể thiếu trong bất kì nghiệp vụ
bảo hiểm nào đặc biệt là nghiệp vụ bảo hiểm chỉ mang tính rủi ro như BHCN
PNT. Theo nguyên tắc này, càng nhiều người tham gia bảo hiểm thì quỹ bảo
hiểm càng lớn, do vậy khả năng chi trả cho một số ít người không may gặp rủi
ro càng dễ dàng hơn, rủi ro được san sẻ cho nhiều người hơn. Thông thường
một sản phẩm bảo hiểm chỉ có thể được triển khai khi có nhiều nhu cầu về
cùng một loại bảo đảm đó.
1.1.3.2. Nguyên tắc rủi ro có thể được bảo hiểm.
Đây là nguyên tắc không thể thiếu được trong hoạt động của các công ty bảo
hiểm. Theo nguyên tắc này, các rủi ro đã xảy ra, chắc chắn hoặc gần như chắc
chắn sẽ xảy ra thì bị từ chối bảo hiểm. Nói cách khác rủi ro được bảo hiểm là
những rủi ro bất ngờ không lường trước được.
Nguyên tắc này nhằm tránh cho công ty bảo hiểm phải bồi thường cho những
tổn thất thấy trước mà với nhiều trường hợp như vậy chắc chắn sẽ dẫn đến phá
sản. Đồng thời nguyên tắc này cũng giúp các cơng ty bảo hiểm có thể tính
được các mức phí chính xác, lập nên được một quỹ bảo hiểm đầy đủ để đảm
bảo cho công tác bồi thường. Không chỉ đảm bảo quyền lợi cho các cơng ty
bảo hiểm mà ngay chính người tham gia bảo hiêm cũng thấy công bằng hơn
khi nguyên tắc này được áp dụng.
1.1.3.3. Nguyên tắc phân tán rủi ro
Là người nhận các rủi ro được chuyển giao từ người tham gia bảo hiểm,
nhà bảo hiểm lúc này sẽ là người phải đối mặt với những tổn thất có thể rât
Nguyễn Thị Sâm

7

Bảo hiểm



GVHD: Th.S Nguyễn Thị Chính

lớn nếu rủi ro xảy ra. Mặc dù quỹ bảo hiểm là một quỹ tài chính lớn, với tư
cách là người huy động và quản lý quĩ, các cơng ty bảo hiểm có khả năng thực
hiện nhiệm vụ chi trả bảo hiểm. Nhưng trên thực tế không phải lúc nào các
công ty bảo hiểm cũng luôn đảm bảo được khả năng này. Điều này có thể thấy
rất rõ ở các công ty mới thành lập hoặc cơng ty bảo hiểm có quy mơ nhỏ.
Ngay cả những công ty bảo hiểm lớn cũng cần phân tán rủi ro vì chính các
nhà bảo hiểm cũng khơng thể lường trước được các rủi ro có thể xảy ra gây
tổn thất ảnh hưởng đến hoạt động kinh doanh của công ty. Để bảo vệ mình các
cơng ty bảo hiểm đã sử dụng các biện pháp phân tán rủi ro là đồng bảo hiểm
và tái bảo hiểm.
1.1.3.4. Nguyên tắc trung thực tuyệt đối.
Nguyên tắc này cần phải được thực hiện theo hai chiều: Trung thực từ phía
cơng ty bảo hiểm đối với khách hàng, đảm bảo quyền lợi khách hàng và trung
thực từ phía khách hàng tham gia bảo hiểm trong việc khai báo rủi ro và cung
cấp các thông tin về đối tượng bảo hiểm trong giấy yêu cầu bảo hiểm.
1.1.3.5. Nguyên tắc quyền lợi có thể được bảo hiểm.
Nguyên tắc này yêu cầu người tham gia bảo hiểm có lợi ích tài chính bị tổn
thất nếu đối tượng bảo hiểm gặp rủi ro. Hay người tham gia bảo hiểm phải có
một số quan hệ với đối tượng được bảo hiểm và được pháp luật công nhận.
Nguyên tắc này nhằm loại bỏ khả năng bảo hiểm cho tài sản của người khác,
hoặc cố tình gây thiệt hại hoặc tổn thất để thu lợi từ một đơn bảo hiểm.
1.1.3.6. Nguyên tắc khốn
Đối tượng của của BHCN là tính mạng và tình trạng sức khoẻ và những vấn
đề liên quan đến tuổi thọ. Với đối tượng này người ta không thể lượng hố ra
được bằng tiền vì nó là vơ giá. Cho nên khi triển khai các nghiệp vụ BHCN
trong BHTM các doanh nghiệp bảo hiểm thường đưa ra những hạn mức
STBH khác nhau để đáp ứng nhu cầu người tham gia bảo hiểm. Ứng với mỗi
Nguyễn Thị Sâm


8

Bảo hiểm


GVHD: Th.S Nguyễn Thị Chính

STBH sẽ có một mức phi phù hợp. Thực chất đây là số tiền được khoán trước
cho các nhà bảo hiểm, đổi lại nhà bảo hiểm sẽ nhận được một mức phí tương
ứng với số tiền đó.
Ngun tắc khốn trong BHCN PNT có một lợi thế đặc biệt với người được
bảo hiểm vì cùng một người được bảo hiểm có thể tham gia BHCN trong
nhiều loại hình và hợp đồng khác nhau. Khi sự kiện bảo hiểm xảy ra thuộc
phạm vi bảo hiểm sẽ được bảo hiểm ở tất cả các hợp đồng.
1.1.3.7. Nguyên tắc bồi thường.
Trong BHCN PNT, nguyên tắc bồi thường vẫn được áp dụng vì một số
trường hợp thiệt hại vẫn có những tổn thất có thể lượng hố được, ví dụ như:
nằm viện phẫu thuật, tai nạn phải điều trị,…có thể bồi thường dựa vào các chi
phí phát sinh như chi phí y tế, thuốc men, chi phí chăm sóc điều trị…được
viết trong các hoá đơn chứng từ.
1.1.4. Các nghiệp vụ BHCN PNT cơ bản
Các nghiệp vụ BHCN PNT được triển khai rất đa dạng và linh hoạt tuỳ
theo từng nước, ngay trong một nước cũng có sự khác biệt tuỳ theo từng thời
kỳ và từng doanh nghiệp triển khai. Các điểm khác biệt cơ bản như: Phạm vi
bảo hiểm, phí bảo hiểm, STBH, thủ tục trả tiền bảo hiểm,… tuỳ theo năng lực
và mục tiêu lợi nhuận của từng công ty. Hiện nay trên thế giới cũng như ở
Việt Nam, các công ty bảo hiểm phi nhân thọ thường triển khai các nghiệp vụ
BHCN PNT khác nhau, có thể kể đến một số nghiệp vụ BH được triển khai rất
phổ biến sau đây:

1.1.4.1. Bảo hiểm sinh mạng cá nhân.
- Mục đích: góp phần ổn định cuộc sống của người thân và gia đình sau cái
chết của người được bảo hiểm.
- Đối tượng bảo hiểm: là sinh mạng của con người.
Nguyễn Thị Sâm

9

Bảo hiểm


GVHD: Th.S Nguyễn Thị Chính

- Đối tượng tham gia bảo hiểm: Bao gồm tất cả những người từ 18 đến 60
tuổi. Tuy nhiên những người từ 61 đến 65 tuổi muốn tham gia thì phải tham
gia liên tục trước đó một số năm nhất định. Những trường hợp sau đây không
được tham gia: những người mắc bệnh hiểm nghèo, tàn tật hoặc đang điều trị
trong bệnh viện.
- Phạm vi bảo hiểm: Rủi ro được bảo hiểm là tất cả các rủi ro liên quan đến
tính mạng con người. Tuy nhiên những trường hợp sau đây nhà bảo hiểm
không chịu trách nhiệm bồi thường như: chết do vi phạm pháp luật, chết do tự
tử, những người đang điều trị trong bệnh viện, những người tàn tật hoặc đã bị
mắc bệnh hiểm nghèo.
- Thời hạn bảo hiểm: là một năm kể từ khi người được bảo hiểm hoặc người
tham gia bảo hiểm đóng phí bảo hiểm đầy đủ theo quy định trong hợp đồng
hoặc giấy chứng nhận bảo hiểm.
- Số tiền bảo hiểm(STBH): được ghi trong hợp đồng hoặc giấy chứng nhận
bảo hiểm, là giới hạn trách nhiệm tối đa của nhà bảo hiểm trong trường hợp
người được bảo hiểm bị chết. Thông thường do các công ty bảo hiểm tự đặt ra
với các mức khác nhau phù hợp với khả năng tham gia của mỗi người.

- Phí bảo hiểm: là số tiền mà người tham gia bảo hiểm phải trả cho nhà bảo
hiểm. Phí bảo hiểm phụ thuộc chủ yếu vào STBH, độ tuổi, ngành nghề cơng
tác.
Phí bảo hiểm được tính theo cơng thức sau:
P=f+d
Trong đó: P: phí bảo hiểm tồn bộ
f: phí thuần
d: phụ phí
Trong thực tế, mức phí bảo hiểm toàn bộ P thường được căn cứ vào STBH và
tỷ lệ phí theo cơng thức:
Nguyễn Thị Sâm

10

Bảo hiểm


GVHD: Th.S Nguyễn Thị Chính

Phí bảo hiểm = tỷ lệ phí * số tiền bảo hiểm
Trong đó tỷ lệ phí bảo hiểm thường được xác định theo một tỷ lệ % nhất định
tuỳ thuộc vào độ tuổi, cơng việc…
Phí bảo hiểm được nộp một lần và ngay sau khi kí kết hợp đồng, vì vậy hợp
đồng có hiệu lực từ ngày nộp phí.
- Quyền lợi của người được bảo hiểm: Trường hợp người được bảo hiểm
chết thuộc phạm vi bảo hiểm, cơng ty bảo hiểm trả tồn bộ STBH ghi trong
hợp đồng bảo hiểm hoặc giấy chứng nhận bảo hiểm.
Bảo hiểm sinh mạng cá nhân thường được kí kết theo hợp đồng nhóm.
1.1.4.2. Bảo hiểm tai nạn cá nhân 24/24.
- Mục đích: Giúp các cơ quan doanh nghiệp, người lao động làm việc ở

những ngành nghề những khu vực công tác dễ xảy ra tai nạn tham gia bảo
hiểm để từ đó góp phần ổn định cuộc sống cho bản thân và gia đình họ.
- Đối tượng tham gia: Thường bao gồm tất cả những người từ 18 đến 60 tuổi.
Những người bị bệnh thần kinh, tàn phế, thương tật vĩnh viễn ở một mức độ
nhất định không được chấp nhận tham gia.
- Phạm vi bảo hiểm: Bị tai nạn gây chết người hoặc thương tật, kể cả những
trường hợp người được bảo hiểm tham gia cứu người cứu tài sản của Nhà
nước và nhân dân, tham gia chống các hoạt động phạm pháp..
Tuy nhiên, người được bảo hiểm bị tai nạn do các nguyên nhân sau đây
sẽ không thuộc phạm vi bảo hiểm:
+ Người được bảo hiểm vi phạm pháp luật.
+ Hành động cố ý gây tai nạn hoặc tử vong.
+ Bị ảnh hưởng của bia rượu, ma tuý và các chất kích thích.
+ Ngộ độc thức ăn, sử dụng thuốc không đúng sự chỉ định của bác sĩ, trúng
gió.
Nguyễn Thị Sâm

11

Bảo hiểm


GVHD: Th.S Nguyễn Thị Chính

+ Động đất, núi lửa, phóng xạ
+ Chiến tranh, nội chiến, đình cơng.
- Thời hạn bảo hiểm: thường là một năm. Tuy nhiên cũng có những trường
hợp trong một vài tháng tuỳ theo nhu cầu và sự thoả thuận giữa các bên tham
gia bảo hiểm.
- Số tiền bảo hiểm và phí bảo hiểm:

+ STBH trong nghiệp vụ này thường được quy định ở các mức khác nhau
để người tham gia bảo hiểm dễ dàng lựa chọn cho phù hợp với khả năng tài
chính của mình.
+ Phí bảo hiểm: thường đóng một lần khi kí kết hợp đồng bảo hiểm.
Xét về mặt lý thuyết, phí bảo hiểm phụ thuộc vào khá nhiều yếu tố như:
STBH, xác suất thống kê số vụ tai nạn, số người bị chết và số người bị thương
tật, ngành nghề và lĩnh vực cơng tác, chi phí quản lý….Căn cứ vào những tài
liệu thống kê này, các công ty lập thành một biểu tỷ lệ phí tương ứng cho từng
ngành nghề từng hạn mức trách nhiệm bảo hiểm.
Xét trên phương diện kinh doanh, nếu các công ty bảo hiểm đã kinh doanh
nghiệp vụ này được một số năm, họ có thể dùng ngay số liệu thống kê của
mình từ những năm trước đó để tính phí bảo hiểm năm báo cáo.
Đối với những công ty bảo hiểm mới thành lập,hoặc các công ty bảo hiểm
lần đầu triển khai nghiệp vụ này họ thường dựa vào tài liệu thống kê bảo hiểm
tai nạn lao động trong BHXH hoặc bỏ tiền ra mua hẳn một biểu tỷ lệ phí sau
đó điều chỉnh lại cho phù hợp với cơng ty mình.
- Quyền lợi của người được bảo hiểm: Việc chi trả bồi thường được chi trả
theo nguyên tắc sau
+ Nếu người được bảo hiểm bị chết hoặc thương tật toàn bộ vĩnh viễn, số
tiền chi trả bằng STBH.

Nguyễn Thị Sâm

12

Bảo hiểm


GVHD: Th.S Nguyễn Thị Chính


+ Nếu người được bảo hiểm bị thương tật bộ phận, số tiền chi trả bằng
STBH nhân với tỷ lệ thương tật. Tỷ lệ thương tật được xác định thông qua
giám định y khoa hoặc các cơng ty bảo hiểm đã tính sẵn và đưa ra barem.
+ Nếu người được bảo hiểm bị thương tật tạm thời khơng để lại di chứng sẽ
được thanh tốn các chi phí thực tế điều trị, kể cả các chi phí để bồi dưỡng
trong thời gian điều trị giúp nhanh chóng phục hồi sức khoẻ. Nhưng số tiền
chi trả tối đa khơng vượt q STBH, các chi phí thực tế phải hợp lý.
+ Nếu người được bảo hiểm bị chết sau 1 năm kể từ khi xảy ra tai nạn( chết
do hậu quả tai nạn) số tiền chi trả bằng STBH trừ đi số tiền chi trả trước đó.
+ Nếu người được bảo hiểm bị thương tật nhiều lần trong một năm hợp
đồng, tổng số tiền chi trả các lần không vượt quá STBH.
Bảo hiểm tai nạn cá nhân 24/24 có thể được ký theo từng cá nhân hoặc theo
nhóm.
1.1.4.3. Bảo hiểm trợ cấp nằm viện phẫu thuật.
- Mục đích: Giúp con người khắc phục khó khăn khi khơng may họ bị ốm
đau, bệnh tật phải nằm viện điều trị hoặc phẫu thuật. Góp phần bổ sung cho
các loại hình BHYT và BHXH.
- Đối tượng tham gia bảo hiểm: Thường bao gồm tất cả những người từ 1
tuổi đến 65 tuổi. Các đối tượng sau không được chấp nhận tham gia bảo hiểm:
+ Những người bị mắc bệnh tâm thần, phong, ung thư, AIDS
+ Những người bị tàn phế hoặc bị thương tật vĩnh viễn.
+ Những người đang trong thời hạn điều trị thương tật, bệnh tật.
- Phạm vi bảo hiểm:
+ Ốm đau, bệnh tật,thương tật, thai sản phải nằm viện hoặc phẫu thuật
+ Chết trong quá trình nằm viện, phẫu thuật.
Tuy nhiên có một số trường hợp sau khơng thuộc phạm vi bảo hiểm:
Nguyễn Thị Sâm

13


Bảo hiểm


GVHD: Th.S Nguyễn Thị Chính

+ Điều dưỡng, an dưỡng
+ Nằm viện kiểm tra sức khoẻ hoặc giám định y khoa mà không liên quan
đến việc điều trị bệnh tật, thương tật
+ Điều trị những bệnh bẩm sinh, bệnh nghề nghiệp.
+ Tạo hình, thẩm mỹ, chỉnh hình, phục hồi chức năng, làm chân tay giả,
răng giả.
+ Kế hoạch hố gia đình.
+ Say rượu, sử dụng ma tuý
+ Chiến tranh…
- Thời gian bảo hiểm: thường là một năm và HĐBH chỉ có hiệu lực sau một
thời gian nhất định. Thời gian từ khi kí hợp đồng đến khi hợp đồng có hiệu
lực do công ty bảo hiểm quy định.
- Số tiền bảo hiểm và phí bảo hiểm:
+ STBH được các cơng ty bảo hiểm quy định ở các mức khác nhau giúp
người tham gia dễ dàng lựa chọn cho phù hợp với khả năng tài chính của
mình.
+ Phí bảo hiểm:
Phí bảo hiểm trợ cấp nằm viện phẫu thuật phụ thuộc vào: Độ tuổi, giới tính,
STBH, thời gian bảo hiểm, tình trạng sức khoẻ, phạm vi bảo hiểm…
Đối với các công ty bảo hiểm mới thành lập hoặc lần đầu triển khai nghiệp
vụ này chuyên viên định phí phải dựa vào các số liệu thống kê về tình hình
khám chữa bệnh, phẫu thuật,các chi phí phát sinh và một loạt các yếu tố có
liên quan để tính tốn các mức phí cho phù hợp.
Đối với các công ty bảo hiểm đã triển khai nghiệp vụ này nhiều năm họ sẽ
dựa vào tài liệu thống kê của mình để điều chỉnh lại các mức phí cho phù hợp.

Hoặc họ có thể tính lại hồn tồn các mức phí để sử dụng cho những năm sau

Nguyễn Thị Sâm

14

Bảo hiểm


GVHD: Th.S Nguyễn Thị Chính

nhằm đảm bảo chính xác, tăng tính cạnh tranh. Khi đó có thể sử dụng cơng
thức:
P=f+d
- Quyền lợi bảo hiểm: Ở nghiệp vụ này nhà bảo hiểm áp dụng nguyên tắc bồi
thường thiệt hại. Việc chi trả bồi thường được tiến hành như sau:
+ Nếu người tham gia bảo hiểm nằm viện điều trị nhà bảo hiểm chi trả tồn
bộ chi phí có liên quan.
+ Nếu người tham gia bảo hiểm phải nằm viện phẫu thuật, nhà bảo hiểm căn
cứ vào phác đồ điều trị phẫu thuật để tiến.
+ Nếu người tham gia bảo hiểm không may bị chết, nhà bảo hiểm chi trả
toàn bộ mai táng phí và điều trị. Tuy nhiên số tiền bồi thường không vượt quá
STBH.
+ Số ngày được trợ cấp nằm viện là số ngày được định mức trên hợp đồng.
Thông thường các công ty bảo hiểm khống chế ở mức độ nhất định.
1.1.4.4. Bảo hiểm thân thể học sinh- sinh viên.
- Mục đích:
+ Trợ giúp cho học sinh- sinh viên và gia đình các em một số tiền nhất định
để nhanh chóng khắc phục khó khăn, phục hồi sức khoẻ và sớm trở lại trường
lớp khi không may họ gặp rủi ro, tai nạn.

+ Tạo lập mối quan hệ chặt chẽ giữa gia đình- nhà trường và nhà bảo hiểm
để từ đó làm tốt hơn cơng tác đề phịng hạn chế và ngăn ngừa tai nạn, nhanh
chóng khắc phục hậu quả của tai nạn, rủi ro xảy ra đối với học sinh- sinh viên.
+ Thông qua hoạt động bảo hiểm giúp học sinh- sinh viên nâng cao được ý
thức cộng đồng ngay từ khi còn nhỏ.
- Người được bảo hiểm: Là tất cả mọi học sinh từ nhà trẻ, mẫu giáo đến sinh
viên đại học.
Nguyễn Thị Sâm

15

Bảo hiểm


GVHD: Th.S Nguyễn Thị Chính

- Người tham gia bảo hiểm: Có thể là cha mẹ, anh chị, người đỡ đầu. Người
tham gia bảo hiểm ở đây không bị hạn chế bởi tuổi tác, mức độ thân thích hay
mức độ tàn tật.
- Phạm vi bảo hiểm:
+ Bị chết trong mọi trường hợp.
+ Bị tai nạn thương tật
+ Ốm đau, bệnh tật phải nằm viện điều trị và phẫu thuật.
Tuy nhiên, vẫn có một số trường hợp sau đây khơng thuộc phạm vi bảo
hiểm:
+ Học sinh đến tuổi vị thành niên bị chết do tự tử, tiêm chích ma tuý.
+ Do hành động cố ý của người được bảo hiểm, người tham gia bảo hiểm hay
người được hưởng quyền lợi bảo hiểm.
+ Điều trị hoặc phẫu thuật các bệnh bẩm sinh, chỉnh hình, thẩm mỹ làm chân
tay giả, răng giả…

+ Chiến tranh, phóng xạ…
- Thời hạn bảo hiểm: Thường là một năm( có thể là năm học hoặc năm
dương lịch).
- STBH và phí bảo hiểm:
+ STBH được ấn định thành nhiều mức để người tham gia dễ lựa chọn cho
phù hợp với khả năng tài chính của họ.
+ Phí bảo hiểm và quyền lợi bảo hiểm: Về nguyên tắc giống như bảo hiểm tai
nạn con người 24/24 và bảo hiểm trợ cấp nằm viện phẫu thuật bởi vì đây là
nghiệp vụ bảo hiểm hỗn hợp cả tai nạn và sức khoẻ.
1.1.4.5. Bảo hiểm tai nạn hành khách.
Khi nền kinh tế- xã hội ngày càng phát triển, nhu cầu đi lại của nhân dân
ngày càng tăng và lưu lượng khách tham gia giao thông ngày càng lớn. Kéo
Nguyễn Thị Sâm

16

Bảo hiểm


GVHD: Th.S Nguyễn Thị Chính

theo đó là là số lượng các loại phương tiện tham gia giao thông ngày càng tăng
và hết sức đa dạng, phong phú, được cải tiến hiện đại hơn. Cở sở hạ tầng giao
thông ngày càng được mở rộng, nâng cấp và hoàn thiện. Song tai nạn giao
thông vẫn ngày một gia tăng đã làm ảnh hưởng tới tính mạng và tình trạng sức
khoẻ của mọi hành khách. Vì thế bảo hiểm tai nạn hành khách được ra đời.
- Mục đích:
+ Góp phần ổn định cuộc sống của bản thân hành khách không may bị tai
nạn và gia đình họ.
+ Tạo điều kiện thuận lợi cho chính quyền địa phương nơi xảy ra tai nạn

khắc phục hậu quả tai nạn kịp thời, nhanh chóng.
+ Xét trên phạm vi xã hội, nó cịn góp phần ngăn ngừa và đề phịng tai nạn
giao thơng, tăng thu ngân sách cho Nhà nước để từ đó có điều kiện đầu tư trở
lại nâng cấp và xây dựng mới cơ sở hạ tầng giao thơng…
- Đối tượng bảo hiểm: Là tính mạng và tình trạng sức khoẻ của tất cả hành
khách đi trên các phương tiện giao thông kinh doanh chuyên chở hành khách.
Những người này không phân biệt lứa tuổi, nghề nghiệp, miễn là họ có vé hoăc
được miễn giảm vé theo quy định. Người được bảo hiểm còn bao gồm cả những
hành khách được ưu tiên đặc biệt không phải mua vé, trẻ em đi theo người lớn
được miễn vé.
- Phạm vi bảo hiểm: Là rủi ro do thiên tai và tai nạn bất ngờ xảy ra trong suốt
hành trình của hành khách gây thiệt hại đến tính mạng và tình trạng sức khoẻ
của người được bảo hiểm.
+ Thiên tai bao gồm: Thời tiết xấu, bão lốc, lũ lụt,…gây thiệt hại cho phương
tiện chuyên chở, do đó gây thiệt hại đến tính mạng và tình trạng sức khoẻ của
hành khách.

Nguyễn Thị Sâm

17

Bảo hiểm


GVHD: Th.S Nguyễn Thị Chính

+ Tai nạn bất ngờ như: Đâm va, cháy nổ, lật nghiêng , do sự cố kĩ thuật của
chính phương tiện, lỗi lầm của người điều khiển phương tiện hoặc do phương
tiện khác đâm vào…
Trong phạm vi bảo hiểm, không bao gồm các rủi ro sau:

+ Bị tai nạn do vi phạm trật tự an toàn giao thông, vi phạm pháp luật.
+ Bị tai nạn do những nguyên nhân không liên quan trực tiếp đến quá trình
vận chuyển hoặc bản thân tình trạng sức khoẻ của hành khách gây ra.
- Thời hạn bảo hiểm: Là thời gian hợp lý để thực hiện cuộc hành trình, tức là
bắt đầu từ lúc hành khách bước chân lên phương tiện và kết thúc khi hành
khách rời khỏi phương tiện một cách an toàn tại bến, ga hoặc sân bay cuối cùng
ghi trên vé.
- Số tiền bảo hiểm và phí bảo hiểm:
+ STBH: Được ấn định theo quy định chung đối với mỗi loại phương tiện hay
một số loại phương tiện. Vì nghiệp vụ này thực hiện dưới hình thức bắt buộc
nên người tham gia bảo hiểm khơng có quyền lựa chọn STBH . Trẻ em mua
nửa vé hoặc được miễn vé thì STBH chỉ bằng 50% STBH của người lớn.
+ Phí bảo hiểm: Vì thực hiện bảo hiểm bắt buộc nên phí bảo hiểm được tính
vào giá vé. Phí bảo hiểm phụ thuộc vào các yếu tố:
 STBH
 Loại phương tiện vận chuyển;
 Độ dài tuyến đường chuyên chở
 Đặc điểm tuyến đường hoạt động của phương tiện vận chuyển( chất
lượng đường sá, địa hình).
- Quyền lợi bảo hiểm:
+ Nếu bị tai nạn chết người: Số tiền chi trả cho một hành khách bằng STBH

Nguyễn Thị Sâm

18

Bảo hiểm


GVHD: Th.S Nguyễn Thị Chính


+ Nếu bị tai nạn thương tật: Số tiền chi trả bằng tỷ lệ thương tật nhân với
STBH ( tỷ lệ thương tật được xác định thông qua giám định y khoa).
+ Nếu hành khách bị tai nạn nhẹ, tạm thời: Số tiền chi trả có thể tính theo chi
phí thực tế( nằm viện, điều trị) hoặc cũng có thể bằng số tiền chi trả bình quân 1
ngày nhân với số ngày nằm viện. Số tiền chi trả 1 ngày và số ngày nằm viện
được quy định thống nhất căn cứ vào STBH. Nhưng số tiền chi trả tối đa không
vượt quá STBH.
1.2. Công tác khai thác nghiệp vụ BHCN PNT.
Khai thác bảo hiểm là một trong 3 khâu quan trọng nhất khi triển khai một
nghiệp vụ bảo hiểm. Nó ảnh hưởng trực tiếp đến kết quả và hiệu quả kinh
doanh của doanh nghiệp.
1.2.1. Vai trò của công tác khai thác.
Khai thác bảo hiểm là khâu đầu tiên và cũng là khâu tiên quyết trong quy
trình triển khai các nghiệp vụ bảo hiểm. Có thể hiểu đơn giản rằng khai thác
bảo hiểm chính là sự giới thiệu, tư vấn và thuyết phục khách hàng nhằm làm
cho khách hàng đi đến ký kết các hợp đồng bảo hiểm của doanh nghiệp hay là
nỗ lực của doanh nghiệp bảo hiểm để bán được hàng. Nếu khâu khai thác không
được thực hiện tức là sản phẩm bảo hiểm không được bán ra thị trường và như
vậy doanh nghiệp bảo hiểm khơng thu được phí bảo hiểm để hình thành nên
quỹ bảo hiểm theo đúng nghĩa của nó.
Khai thác bảo hiểm có ý nghĩa quyết định đến sự thành bại của doanh nghiệp
bảo hiểm nói chung và của từng nghiệp vụ bảo hiểm nói riêng, đặc biệt là các
nghiệp vụ bảo hiểm mới triển khai, những sản phẩm mới tung ra thị trường.
Xuất phát từ nguyên tắc chung của hoạt động kinh doanh bảo hiểm là “ số đông
bù số ít”, nhằm tạo lập nguồn quỹ đủ lớn để dễ dàng san sẻ rủi ro, doanh nghiệp
bảo hiểm phải tổ chức tốt khâu khai thác.
Nguyễn Thị Sâm

19


Bảo hiểm


GVHD: Th.S Nguyễn Thị Chính

Nếu khâu khai thác tốt, khách hàng tham gia bảo hiểm ngày càng tăng lên,
doanh thu phí bảo hiểm cuả doanh nghiệp tăng lên, xác suất rủi ro giảm, nguồn
quỹ đủ lớn để san sẻ rủi ro thì doanh nghiệp sẽ thu được lợi nhuận cao và quyền
lợi của khách hàng sẽ được đảm bảo và nâng cao.
Kết quả của khâu khai thác đánh giá được khách hàng có thực sự quan tâm
đến sản phẩm và có bị thuyết phục bởi những lợi ích mà sản phẩm đó mang lại
hay khơng, cũng như mức độ hài lịng với chất lượng dịch vụ của cơng ty.
Ngồi ra qua khâu khai thác nhân viên của công ty đại diện cho công ty tiếp xúc
với khách hàng, tạo nên thương hiệu cho công ty cũng như thu thập ý kiến phản
hồi của khách hàng đối với sản phẩm và dịch vụ nhằm bổ sung và cải thiện hơn
nữa chất lượng dịch vụ.
Kết qủa của khâu khai thác thể hiện chủ yếu qua các chỉ tiêu sau: Số lượng
khách hàng tham gia bảo hiểm( số HĐBH đã được ký kết, số giấy chứng nhận
bảo hiểm, số đơn bảo hiểm đã cấp), số phí bảo hiểm thu được,…. Nó phụ thuộc
vào rất nhiều yếu tố như: Độ hấp dẫn của sản phẩm bảo hiểm, chất lượng dịch
vụ( cơng tác chăm sóc khách hàng, giải quyết khiếu nại, bồi thường và chi trả
tiền bảo hiểm..), công tác quảng bá thương hiệu của cơng ty, trình độ của khai
thác viên bảo hiểm( kỹ năng giao tiếp, thuyết phục khách hàng, hiểu biết về sản
phẩm)…Do đó doanh nghiệp phải thực hiện thật tốt các khâu trên để có thể khai
thác được lượng khách hàng lớn nhất nhằm thu được doanh thu cao nhất.
1.2.2. Quy trình khai thác nghiệp vụ BHCN PNT.
Khi triển khai một nghiệp vụ bảo hiểm trước tiên phải có một quy trình khai
thác cụ thể và phải tiến hành trình tự qua các bước sau:
Bước 1: Tiếp nhận, nhận yêu cầu bảo hiểm từ khách hàng.

- Cung cấp GYCBH và các tài liệu có liên quan khác theo yêu cầu của khách
hàng.

Nguyễn Thị Sâm

20

Bảo hiểm



×