Tải bản đầy đủ (.pdf) (10 trang)

phân tích và đề xuất mô hình tổ chức, cung ứng và tài trợ hợp lý nhất đối với dịch vụ khám chữa bệnh tại Việt Nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (201.14 KB, 10 trang )

Đề bài: Bằng kiến thức đã học ( vai trò/chức năng của chính phủ trong nền kinh tế; các
thất bại của thị trường; đặc thù của dịch vụ công... ) anh chị hãy phân tích và đề xuất mơ
hình tổ chức, cung ứng và tài trợ hợp lý nhất đối với dịch vụ khám chữa bệnh tại Việt
Nam
1. Giới thiệu về mơ hình cung ứng dịch vụ khám chữa bệnh tại Việt Nam
1.1. Dịch vụ khám chữa bệnh tại Việt Nam
Mạng lưới bệnh viện ở Việt Nam khá rộng khắp. Hầu hết được thiết lập tốt nhưng
các bệnh viện tại Việt Nam hiện đang phải đối mặt với một số thách thức lớn, các bệnh
viện công trong nước đã được xây dựng cách đây hơn hai thập kỷ, cơ sở hạ tầng đã cũ và
lạc hậu, cần được nâng cấp.
Tính đến năm 2020, ở Việt Nam mạng lưới các bệnh viện được phân bố khá rộng ở
mọi khu vực. Có tổng số 1.531 bệnh viện, trong đó hơn 86% là bệnh viện công và gần
14% là bệnh viên tư, chủ yếu tập trung ở các khu vực đô thị lớn như TP. Hồ Chí Minh,
Hà Nội và Đà Nẵng. 1.318 bệnh viện công được quản lý theo hệ thống phân cấp, được
phân loại theo tuyến trung ương, tuyến tỉnh và tuyến huyện hoặc tuyến xã. Thống kê cho
thấy, số lượng bệnh viện tư nhân tăng từ 102 bệnh viện, với 5.800 giường bệnh năm 2010
lên 231 bệnh viện (chiếm 19,4% tổng số bệnh viện), với khoảng 16.000 giường bệnh
(chiếm 5% tổng số giường bệnh, 1,7 giường trên 1 vạn dân). Những năm vừa qua, ngành
y tế đã chú trọng đầu tư nâng cấp hệ thống y tế cơ sở đồng thời đưa một số trang thiết bị
kỹ thuật mới vào sử dụng góp phần nâng cao chất lượng khám, chữa bệnh và năng lực
chăm sóc sức khỏe ban đầu cho nhân dân. Bên cạnh việc đẩy mạnh thực hiện việc nâng
cao chất lượng khám chữa bệnh, cải thiện tinh thần, thái độ phục vụ người bệnh, các bệnh
viện, Trung tâm Y tế từ tuyến tỉnh đến tuyến huyện đã thực hiện cải cách thủ tục hành
chính.
Kết hợp với việc phát triển đồng bộ, với chính sách về bảo hiểm y tế, các bệnh viện,
trung tâm y tế đã phối hợp với bảo hiểm xã hội thực hiện có hiệu quả việc ứng dụng công
nghệ thông tin kết nối liên thông điện tử dữ liệu bảo hiểm y tế của người bệnh. Nhằm tạo
điều kiện thuận lợi trong việc thanh toán và giám định bảo hiểm y tế cũng như tạo điều
kiện thuận tiện trong việc khám chữa bệnh cho người dân, giảm thời gian chờ đợi của
người bệnh. Tính đến năm 2020 số liệu thống kê của Bảo hiểm xã hội Việt Nam cơng bố
tồn quốc có khoảng 88 triệu người tham gia bảo hiểm y tế, chiếm 90,85% dân số, (vượt


0,15% chỉ tiêu Nghị quyết số 01/NQ-CP của Chính phủ giao, tăng 25,6% so với năm
2015. số lượt khám chữa bệnh Bảo hiểm y tế năm 2020 là 186 triệu lượt. Tần suất đi
khám chữa bệnh Bảo hiểm y tế trung bình là 2,15 lượt/người (thẻ). Chi khám chữa bệnh
Bảo hiểm y tế là khoảng 105.087 tỷ đồng, cao hơn năm 2018 khoảng 13.682 tỷ đồng.


Tuy nhiên, các bệnh viện ở Việt Nam đặc biệt là các bệnh viện công hạ tầng cơ sở
đã được xây dựng lâu đời, cùng với đó là các tình trạng quá tải thường xuyên xảy ở các
bệnh viện chuyên khoa sâu hay một số bệnh viện nổi tiếng đầu ngành. Số lượng bệnh
nhân muốn được điều trị ở các bệnh viện tuyến trung ương q đơng do có đầy đủ trang
thiết bị y tế và đội ngũ y bác sỹ tay nghề cao. Kết quả là các bác sĩ và y tá bị quá tải, phải
phục vụ số lượng lớn bệnh nhân, làm việc nhiều giờ trong điều kiện căng thẳng với mức
lương khá thấp. Theo Trung Hiếu (2021) trên báo Nhân Dân có đề cập đến thực trạng
hoạt động khám chữa bệnh tại các bệnh viện đặc biệt là các bệnh viện công tuyết trung
ương trong một thời gian dài, công tác khám, chữa bệnh tại các bệnh viện tồn tại nhiều
vấn đề bất cập như: “Tình trạng quá tải, nhất là ở các đơn vị tuyến trung ương; thủ tục
hành chính thì rườm rà, phức tạp, gây nhiều trở ngại; trình độ chun mơn của nhân viên
y tế giữa các tuyến không đồng đều; chất lượng dịch vụ tại một số bệnh viện cơng lập cịn
hạn chế; thiếu cơ sở vật chất, trang thiết bị... Mặt khác, những hiện tượng, hình ảnh, sự
việc vi phạm y đức và ứng xử kém của nhân viên y tế đã ảnh hưởng xấu đến quan hệ thầy
thuốc - người bệnh, giảm mức độ hài lòng của người bệnh đối với các dịch vụ của bệnh
viện cơng lập.”
Cùng với đó, tình trạng lối sống hiện đại hiện nay, các bệnh phát sinh do lối sống, tỷ
lệ truy cập Internet và kỹ thuật số thuộc nhóm cao nhất thế giới, với nhiều căn bệnh hiểm
nghèo tạo áp lực cho hệ thống y tế đặc biệt là việc khám chữa bệnh phải thay đổi phát
triển cho phù hợp với xu hướng phát triển chung của toàn nền kinh tế. Cùng với áp lực về
bệnh tật, tốc độ tăng dân số hiện nay cũng như các nhóm tuổi lao động và nhóm cao tuổi,
với q trình đơ thị hố diễn ra nhanh chóng tạo áp lực lớn cho các đơ thị, người dân có
thu nhập khá gia tăng đồng nghĩa với việc tăng các cơ sở y tế tư nhân. Thêm vào đó, Việt
Nam tầng lớp trung lưu đang gia tăng đáng kể, tăng chi tiêu bình qn đầu người, chi phí

phát sinh cho giáo dục và y tế tiếp tục tăng, xu hướng lựa chọn chăm sóc sức khoẻ có
chất lượng, có địi hỏi cao hơn về chất lượng và hàm lượng công nghệ cho các dịch vụ
chăm sóc sức khỏe, dẫn đến cần phải đáp ứng nhu cầu của tầng lớp trung lưu đang tăng
lên. Từ đó xảy ra tình trạng số lượng bệnh nhân muốn được điều trị ở các bệnh viện tuyến
trung ương q đơng do có đầy đủ trang thiết bị y tế và đội ngũ y bác sỹ tay nghề cao.
Kết quả là các bác sĩ và y tá bị quá tải, phải phục vụ số lượng lớn bệnh nhân, làm việc
nhiều giờ trong điều kiện căng thẳng với mức lương khá thấp.
Với những khó khăn như vậy, với những chính sách về bảo hiểm y tế hiện nay vẫn
còn bất cập trong khám chữa bệnh. Vấn đề về việc quản lý sức khỏe, hoạt động dự
phòng, khám sàng lọc và chẩn đốn sớm một số bệnh, nhóm bệnh. Các quy định về thông
tuyến khám chữa bệnh bảo hiểm y tế chưa thực sự bao quát, thủ tục phức tạp, xảy ra các
tình trạng những nhiễu trong các khâu chuyển chuyển.


Do đó, dịch vụ khám chữa bệnh ở các bệnh viện tại Việt Nam cần được nâng cấp cả
về cơ sở vật chất, trang thiết bị và dịch vụ. Những khoảng cách y tế hiện tại tạo cơ hội
cho các nhà đầu tư nước ngoài vào để tăng cường cung cấp dịch vụ chăm sóc sức khỏe và
nâng cao hiệu quả cũng như chất lượng dịch vụ.
1.2. Vai trò của Chính phủ trong cung ứng dịch vụ khám chữa bệnh tại Việt Nam
Nhà nước có vai trị rất quan trọng đối với việc cung ứng dịch vụ công , chất lượng
cung ứng dịch vụ công phụ thuộc vào sự quan tâm của nhà nước tới loại hình dịch vụ
cơng đó. Dù là chủ thể tác động trực tiếp hay gián tiếp, sự can thiệp nhiều hay ít đến dịch
vụ cơng thì nhà nước đểu hướng tới một mục đích chung là phục vụ, đáp ứng nhu cầu của
công dân và của toàn xã hội.
Trong hoạt động cung ứng dịch vụ khám chữa bệnh việc chính phủ trong hoạt động
cung ứng dịch vụ khám chữa bệnh để đảm bảo sản phẩm hàng hóa dịch vụ khám chữa
bệnh mọi người đề được tiếp xúc, khắc phục sự thất thoát từ những tổ chức thực hiện
dịch vụ. Trong hoạt động cung ứng dịch vụ khám chữa bệnh, đối với những nơi, những
đối tượng cần bảo trợ, những đối tượng có thu nhập đến mức khơng thể chi trả hoặc chăm
sóc sức khỏe khơng đầy đủ, Chính phủ có vai trị có thể nghiên cứu thay việc cấp kinh

phí về bảo hiểm y tế đối với các đối tượng chính sách.
Cùng với đó, việc cung cấp dịch vụ khám chữa bệnh cần phải liên tục được Chính
phủ cải cách để đáp ứng được nhu cầu của người dân, đặc biệt là những người có khó
khăn về tài chính. Trong việc cung cấp các dịch vụ khám chữa bệnh phải chú ý hơn tới
những đối tượng dễ bị tổn thương, có nhu cầu thật sự cần phải trợ giúp như người nghèo
không nơi nương tựa, trẻ mồ cơi khơng có người ni dưỡng, những người tàn tật, người
ở vùng thiên tai, lũ lụt, hỏa hoạn lớn.
Chính phủ cịn có vai trị trong việc hồn thiện hệ thống thể chế, chính sách quản lý
dịch vụ cung ứng khám chữa bệnh trên cơ sở phân biệt rõ tổ chức. Xác lập cơ chế quản lý
và tổ chức cung ứng phù hợp với đặc điểm, tính chất của mỗi loại dịch vụ khám chữa
bệnh khác nhau. Quy định rõ trách nhiệm, mục tiêu, nội dung hoạt động, chất lượng dịch
vụ, đồng thời đảm bảo quyền tự chủ của các bệnh viện với hoạt động cung ứng dịch vụ
khám chữa bệnh.
2.

Phân tích mơ hình tổ chức, cung ứng và tài trợ dịch vụ khám chữa bệnh tại
Việt Nam
2.1. Thực trạng mơ hình cung ứng dịch vụ khám chữa bệnh tại Việt Nam hiện nay
2.2.1. Vấn đề xã hội hóa mơ hình cung ứng dịch vụ khám chữa bệnh tại Việt Nam
Mơ hình cung ứng dịch vụ y tế nói chung và khám chữa bệnh tại Việt Nam nói
riêng, sau thời kỳ kế hóa tập trung, với những chính sách đổi mới phát triển kinh tế xã
hội, tại Nghị quyết số 90/1997/NQ-CP ngày 21/8/1997 của Chính phủ về phương hướng


và chủ trương xã hội hóa các hoạt động giáo dục, y tế, văn hóa và tiếp theo là Nghị quyết
số 05/2005/NQ-CP của Chính phủ ngày 18/4/2005 về đẩy mạnh xã hội hóa các hoạt động
giáo dục, y tế, văn hóa và thể dục thể thao, cơ cấu ngành giáo dục có sự chuyển biến tích
cực. Với Nghị quyết số 20-NQ/TW ngày 25/10/2017 của Bộ Chính trị về tăng cường
cơng tác bảo vệ, chăm sóc và nâng cao sức khỏe nhân dân trong tình hình mới đã nhấn
mạnh: “Đầu tư cho bảo vệ, chăm sóc và nâng cao sức khoẻ nhân dân là đầu tư cho phát

triển. Nhà nước ưu tiên đầu tư ngân sách và có cơ chế, chính sách huy động, sử dụng hiệu
quả các nguồn lực để bảo vệ, chăm sóc và nâng cao sức khoẻ nhân dân; tổ chức cung cấp
dịch vụ công, bảo đảm các dịch vụ cơ bản, đồng thời khuyến khích hợp tác công - tư, đầu
tư tư nhân, cung cấp các dịch vụ theo yêu cầu.”.
Với việc đẩy mạnh xã hội hóa trong lĩnh vực y tế. Đối với các bệnh viện cơng, hình
thức phát triển mạnh nhất là liên doanh, liên kết để lắp đặt máy móc, trang thiết bị y tế.
Kể từ Nghị quyết số 18/2008/QH12 về đẩy mạnh xã hội hóa trong lĩnh vực y tế, các cơ sở
y tế công lập đã vay vốn, huy động vốn để đầu tư cơ sở hạ tầng, trang thiết bị; liên doanh,
liên kết; thuê cơ sở, trang thiết bị; hợp tác với nhà đầu tư để xây dựng bệnh viện trong
hoặc ngồi bệnh viện cơng; nhà đầu tư xây dựng bệnh viện để cho bệnh viện cơng th
lại… Chính phủ đã ban hành một số chính sách ưu đãi về đất, tín dụng, thuế, cho phép
hợp tác cơng tư để khuyến khích phát triển y tế tư nhân, đáp ứng nhu cầu ngày càng cao
và đa dạng của người dân. Theo đó, nhiều doanh nghiệp, tập đồn kinh tế lớn đã đầu tư
xây dựng bệnh viện, bước đầu hình thành một số tập đoàn bệnh viện.. Y tế tư nhân phát
triển nhanh cả về số lượng và quy mô, từ 74 bệnh viện năm 2009 đã lên tới 206 bệnh viện
vào năm 2018, trên 30.000 phòng khám đa khoa, chuyên khoa, cung cấp 43% dịch vụ
ngoại trú và 2,1% dịch vụ nội trú cho người dân.
Chính sách xã hội hóa y tế gồm 2 biện pháp chính nhằm tăng cường vai trò của khu
vực tư nhân trong cung ứng dịch vụ y tế: phát triển các nhà cung ứng dịch vụ y tế tư nhân
và nâng cao mức độ tự chủ về tài chính của các tổ chức sự nghiệp y tế, cơng lập. Chính
sách này đã mang lại nhiều kết quả tích cực, làm thay đổi sâu sắc và tồn diện hệ thống
chăm sóc sức khỏe ở Việt Nam nhờ kỹ thuật mới, hiện đại được áp dụng cho nâng cao
chất lượng về chun mơn, đưa trình độ y tế Việt Nam ngang tầm các nước trong khu
vực. Bệnh phức tạp đã được điều trị tại Việt Nam với chi phí thấp hơn nhiều lần khi điều
trị tại nước ngồi.
Thêm vào đó, chính sách xã hội hóa y tế cũng phát sinh mặt trái khác, đó là các hoạt
động xã hội hóa thường tập trung vào lĩnh vực có khả năng mang lại nhiều doanh thu,
dẫn đến tăng chi trả tiền túi của người bệnh. Đồng thời, chủ trương này chưa mở rộng
khả năng tiếp cận dịch vụ cho người dân sống ở khu vực có điều kiện khó khăn hơn,
những người khơng có khả năng chi trả cho dịch vụ y tế đắt tiền. Các bệnh viện trung

ương, bệnh viện ở thành phố lớn cũng như người bệnh ở những bệnh viện này được


hưởng lợi nhiều hơn so với những bệnh nhân nghèo ở nơng thơn. Các dự án xã hội hóa
thường tập trung vào dự án có quy mơ nhỏ với thời gian hồn vốn ngắn thay vì dự án quy
mơ lớn, địi hỏi thời gian hồn vốn dài.
2.2.2. Mơ hình tự chủ tài chính của các bệnh viện cơng trong dịch vụ khám chữa bệnh
Ở Việt Nam, tự chủ của bệnh viện công cũng đang được triển khai từ nhiều năm
nay. Hiện đại hóa nhanh các trang thiết bị ở các bệnh viện lớn thơng qua nhiều cơ chế tài
chính khác nhau đã làm “thay da đổi thịt” các bệnh viện này trong một thời gian ngắn,
thu nhập tăng thêm của cán bộ, nhân viên bệnh viện được cải thiện đáng kể, bệnh nhân có
điều kiện tiếp cận với trang thiết bị hiện đại dễ dàng hơn, đặc biệt ở các bệnh viện tuyến
trên. Điều này thực sự cũng giúp cho Nhà nước một nguồn ngân sách đáng kể trong khi
chi tiêu cơng có q nhiều lĩnh vực phải đầu tư. Tuy nhiên, nghiên cứu tại Việt Nam cũng
đã chỉ ra, trên thực tế, cũng đã xảy ra hiện tượng chỉ định quá mức cần thiết các xét
nghiệm trong các bệnh viện công. Mặt khác, do cần nguồn bệnh nhân để tăng thu, cùng
với việc đầu tư trang thiết bị chủ yếu tập trung ở các bệnh viện tuyến trên - nơi có nhiều
chun gia giỏi (chứ khơng phân bố đều trên toàn hệ thống y tế) dẫn đến việc bệnh nhân
bị “hút” lên tuyến trên là tất nhiên và khó có thể giải quyết được vấn đề “quá tải bệnh
viện”. Trong thời gian qua, Bộ Y tế cùng Bảo hiểm Xã hội Việt Nam cũng đã và đang
phối hợp để đưa ra những quy định với mong muốn phát huy ưu điểm, hạn chế nhược
điểm của cơ chế tự chủ hiện nay trong các bệnh viện công. Sự thành công hay không hay
không của các quy định này trong tương lai hoàn toàn phụ thuộc vào việc phát hiện và
đưa ra được các chính sách phù hợp, trong đó có các giải pháp cho các hoạt động tự chủ
hiện nay trong bệnh viện công.
Vấn đề gây tranh cãi nhất hiện nay liên quan đến xã hội hóa y tế là việc tăng cường
lắp đặt các thiết bị chẩn đốn cơng nghệ cao, mở rộng dịch vụ theo yêu cầu. Có tới hơn
62% liên doanh đã đầu tư các thiết bị chẩn đốn hình ảnh, thiết bị xét nghiệm, dấy lên
quan ngại về việc lạm dụng các thiết bị chẩn đoán cơng nghệ cao, chi phí lớn. Một số
dịch vụ chăm sóc khơng phù hợp trên góc độ y khoa nhưng được cung cấp theo yêu cầu

của người bệnh như là bằng chứng của chất lượng cao. Việc cung cấp dịch vụ đắt tiền cho
nhóm người bệnh có thu nhập trung bình hoặc cao gây quan ngại về sự cơng bằng và tính
hiệu quả của các dịch vụ cơng cũng như nghi vấn về sự phù hợp của mơ hình liên doanh
chia sẻ lợi nhuận với các mục tiêu của chính sách xã hội hóa.
Việc quản lý chưa hiệu quả các đề án liên doanh cũng tạo ra một số thách thức, dấy
lên quan ngại về tính minh bạch trong quá trình lựa chọn đối tác tư nhân, tính cạnh tranh
trong đấu thầu tài sản và tính hiệu quả khi thẩm định kế hoạch tài chính. Khi vào hoạt
động, liên doanh không phải tiến hành giám sát hiệu quả hoạt động hoặc thực hiện các
quy trình kế tốn chuẩn mực. Nhân viên bệnh viện góp một phần vốn đầu tư thiết bị và
được hưởng lợi từ việc thu phí sử dụng các thiết bị đó. Do vậy có cơ sở để cho rằng điều


này dẫn tới lạm d ụng chỉ định các dịch vụ kỹ thuật. Chính vì vậy, Bộ Y tế đã nhiều lần
phải điều chỉnh chính sách về liên doanh đầu tư thiết bị và dịch vụ theo cầu trong hệ
thống công lập.
Đối với các bệnh viện, cơ sở khám chữa bệnh tư nhân, trong quá trình hoạt động với
mục tiêu lợi nhuận lên hàng đầu nên lợi dụng đặc trưng trong hoạt động khám chữa bệnh
mà còn tồn tại nhiều hiện tượng như: Không lập hồ sơ bệnh án cho người bệnh; thực hiện
kỹ thuật điều trị không theo phác đồ điều trị, khơng đúng quy trình kỹ thuật của Bộ Y tế;
thực hiện kỹ thuật khám bệnh, chữa bệnh chưa được phê duyệt cho phép; không đảm bảo
điều kiện cơ sở vật chất, điều kiện vệ sinh, kiểm soát nhiễm khuẩn trong phòng khám;
niêm yết giá dịch vụ khám bệnh, chữa bệnh khơng đúng quy định.
2.2.3. Mơ hình bệnh viện tư cung ứng dịch vụ khám chữa bệnh
Tại Việt Nam, vai trò của y tế tư nhân đã được khẳng định qua thực tiễn trong hoạt
động khám, chữa bệnh. Đối với khu vực tư nhân cung cấp dịch vụ khám chữa bệnh, theo
công bố của Sở y tế Thành phố Hồ Chí Minh năm 2019, khu vực y tế tư nhân cung cấp
60% lượt người dân đến với các dịch vụ khám, chữa bệnh ngoại trú. Và đa phần là phục
vụ những tầng lớp có điều kiện trong xã hội. Tại các bệnh viện tư hiện nay, không hoắc
rất ít khi xảy ra tình trạng phải chờ đợi dẫn đến quá tải trong hoạt động khám chữa bệnh
như tại các bệnh viện công. Các hoạt động khám chữa bệnh luôn được bệnh viện đảm bảo

cơ sở vật chất tiện nghi, sạch sẽ, trang thiết bị hiện đại, đặc biệt là sự quan tâm, ân cần
của đội ngũ y bác sĩ. Theo Thanh Tân (2019), tại các bệnh viện tư, bệnh nhân ln nhận
được sự niềm nở, tận tình giải đáp mọi thắc mắc, thủ tục nhanh gọn. Ở hầu hết các bệnh
viện tư, bệnh nhân còn là “khách hàng”, mà đã là “khách hàng” thì phải được phục vụ,
nên dù chi phí khá đắt, nhưng “cũng đáng đồng tiền bát gạo”.
Với mơ hình kinh doanh như một doanh nghiệp đặt lợi nhuận lên hàng đầu, cùng
với sự đáp ứng các yêu cầu của “khách hàng” bệnh nhân, Chi phí chi trả cho các dịch vụ
khám chữa bệnh là rào cản lớn trong cả hệ thống tư nhân và công lập. Một nghiên cứu
của Ngân hàng Thế giới cho thấy “chi phí người dùng tự chi trả từ tiền túi cao nhất là đối
với các cơ sở y tế tư nhân phi lợi nhuận, thấp nhất đối với các cơ sở y tế cơng lập, tự chủ
tài chính. Các dịch vụ y tế của khu vực tư nhân có xu hướng phục vụ nhiều hơn cho các
nhóm có thu nhập cao hơn và ít nhu cầu chăm sóc y tế hơn dẫn đến mất cân đối về độ bao
phủ của y tế tư nhân”. Việc đó đã tạo ra sự bất bình đẳng trong việc tiếp cận các dịch vụ y
tế nói chung và khám chữa bệnh nói riêng tại khu vực y tế tư nhân.
Với chi phí khám chữa bệnh cao, bệnh viện tư với chi phí đắt gấp đơi, gấp ba thậm
chí hơn các cơ sở, bệnh viện công nên tất yếu, người bệnh sẽ được thụ hưởng chất lượng
phục vụ cao, tuy nhiên chất lượng và hiệu quả khám chữa bệnh lại không được như mong
đợi. Thực tế, các bác sĩ tại bệnh viện tư nhân, đa phần là các bác sĩ trong bệnh viện công


tranh thủ thời gian làm ngoài giờ, đa phần các bệnh nặng và nguy cấp, bệnh nhân thường
chọn vào bệnh viện công hơn là các bệnh viện tư, bởi đa phần bác sỹ tại các bệnh viện tư
nhiều người không có chun mơn cao về nghiệp vụ khám chữa bệnh.
Có thể đánh giá, mơ hình cung ứng dịch vụ khám chữa bệnh tại các bệnh viện tư
cịn có nhiều hạn chế. Với mục tiêu lợi nhuận, khiến chi phí về dịch vụ tăng cao, không
thể phục vụ đại đa số cho phần đông người dân Việt Nam, đa phần các bệnh viện tư
hướng đến phục vụ một bộ phận những người có điều kiện kinh tế trong xã hội, dẫn đến
tình trạng bất bình đẳng trong cung ứng dịch vụ.
2.2.4. Mơ hình hợp tác cơng – tư trong dịch vụ khám chữa bệnh
Trong thị trường cung ứng dịch vụ y tế, căn cứ vào các quy định của chính phủ về

hình thức đầu tư theo hình thức đối tác cơng tư, Bộ y tế đã ban hành Thông tư Quy định
về đầu tư theo hình thức đối tác cơng tư trong lĩnh vực Y tế. Một trong những hình thức
đối tác được các bệnh viện công tư kết hợp nhằm phục vụ giảm tải trong công tác khám
chữa bệnh trong bệnh viện công. Thực tế cho thấy, giữa hai mô hình bệnh viện này ln
có sự đối nghịch nhau như bệnh viện cơng lúc nào cũng trong tình trạng q tải, công
suất sử dụng giường bệnh luôn vượt trên 100% cịn bệnh viện ngồi cơng lập thì lại khá
vắng vẻ, dù cơ sở vật chất và trang thiết bị khá hiện đại. Ông Trần Duy Hưng, chuyên gia
tư vấn của Ngân hàng Thế giới tại Việt Nam đến năm 2019, Việt Nam hiện có 73 dự án
đối tác cơng tư y tế. Tuy nhiên, chỉ có 15 dự án đã có báo cáo nghiên cứu tiền khả thi,
trong đó có 6 dự án triển khai đến bước lựa chọn nhà đầu tư. Trong số 15 dự án nghiên
cứu tiền khả thi, có đến 9 dự án tại thành phố Hồ Chí Minh. Tuy nhiên, hợp tác theo hình
thức cơng - tư hiện nay, lại có những hạn chế, bác sĩ Hồ Mạnh Tường cho rằng thực chất
trong trường hợp này bệnh viện tư đầu tư cơ sở vật chất, tận dụng nguồn nhân lực, uy
tín... của bệnh viện cơng để kinh doanh. Đây không phải hợp tác công - tư, mà là mơ hình
hợp tác kinh doanh.
Một trong những khó khăn trong các dự án hợp tác công tư trong lĩnh vực y tế là do
các văn bản pháp lý về hình thức hợp tác cơng tư hiện có khơng thực sự phù hợp với lĩnh
vực y tế (Trần Duy Hưng, 2019), dẫn đến nhà đầu tư chưa biết chắc dịng tiền bỏ ra có
mang lại lợi nhuận khơng. Hiện nay, theo Nghị định 63 của Chính phủ về đầu tư theo
hình thức đối tác cơng tư quy định tám loại hợp đồng: xây dựng - chuyển giao (BT); xây
dựng - kinh doanh - chuyển giao (BOT); xây dựng - chuyển giao - kinh doanh (BTO);
xây dựng - chuyển giao - kinh doanh (BOO); kinh doanh - quản lý (OM); xây dựng chuyển giao - thuê dịch vụ (BTL); xây dựng - thuê dịch vụ - chuyển giao (BLT) và hợp
đồng hỗn hợp của các hình thức trên. Tuy nhiên, các hình thức BT, BTL, BLT dường như
khơng phù hợp với đầu tư y tế.


Đối với các hình thức đầu tư BOT và BTO có khả năng vận dụng cao trong lĩnh vực
y tế, nhưng phải chuyển giao cho Nhà nước sau một thời gian vận hành. Tuy nhiên, với
cơng trình y tế, thời gian hịa vốn dài và việc dự đốn bao lâu để đạt điểm hịa vốn rất khó
chính xác. Hình thức BOO khả dĩ tốt cho nhà đầu tư nhưng hiện nay chưa có hướng dẫn

hết chu kỳ dự án thì Nhà nước tính tốn cho nhà đầu tư ra sao. Hình thức OM khá hấp
dẫn nhưng cũng khơng rõ khi nhà đầu tư nhận cả dự án điều hành thì quy định ra sao.
Ngoài ra, một trong những rào cản về cơ chế tài chính khi chuyển giao bệnh nhân,
cách tính tiền cho bác sĩ cơng làm việc ngồi giờ hay sự chênh lệch giá viện phí giữa
bệnh viện cơng và bệnh viện theo hình thức đối tác cơng - tư chưa được quy định rõ ràng.
Đa số các bệnh viện đang thực hiện đề án phối hợp công – tư đều cho biết, sự chênh lệch
giá viện phí giữa bệnh viện cơng và bệnh viện tư vẫn cịn khá cao, nên nhiều bệnh nhân
không muốn chuyển qua nằm điều trị ở bệnh viện tư.
Cũng vì mơ hình hợp tác cơng - tư trong lĩnh vực y tế cịn nhiều trở ngại, nên việc
“xã hội hóa” y tế hiện nay chủ yếu vẫn là các bệnh viện công tự đi vay để đầu tư hoặc
hợp tác với tư nhân theo hình thức hợp tác kinh doanh.
Để giảm thiểu hạn chế của chính sách xã hội hóa y tế, có 6 giải pháp. Thứ nhất,
Chính phủ cần xây dựng các quy định và hướng dẫn liên quan đến những hình thức
hợp tác công - tư (PPP) trong lĩnh vực y tế. Thứ hai, xây dựng và tổ chức các khóa đào
tạo cho cán bộ quản lý dự án PPP trong ngành y tế; đồng thời, thúc đẩy và phổ biến
các thực hành tốt về quản lý các dự án PPP. Thứ ba, xây dựng danh mục lĩnh vực
được phép hợp tác PPP. Thứ tư, các cơ quan quản lý tham gia thẩm định, lựa chọn
nhà đầu tư và đàm phán hợp đồng PPP thuộc lĩnh vực mình quản lý. Thứ năm, kiểm
tra, giám sát và đánh giá hiệu quả dự án PPP trong lĩnh vực y tế. Thứ sáu, xây dựng
cơ sở dữ liệu quốc gia về dự án PPP, công khai, minh bạch các dự án để cơ quan chức
năng và người dân theo dõi, giám sát.
2.2. Phân tích thất bại thị trường về dịch vụ khám chữa bệnh tại Việt Nam
2.2.1. Độc quyền trong việc cung ứng dịch vụ khám chữa bệnh tại Việt Nam
Thị trường cung ứng dịch vụ khám chữa bệnh tại Việt Nam là một thị trường độc
quyền. Trong đó, giá của các dịch vụ do các bên cung ứng dịch vụ đưa ra mà không có
những sự thỏa thuận và tự nguyện giữa người khám bệnh và nhà cung ứng. Cụ thể dựa
vào Luật Khám chữa, chữa bệnh tại Điều 88 về giá dịch vụ khám bệnh, chữa bệnh “Bộ
trưởng Bộ Tài chính phối hợp với Bộ trưởng Bộ Y tế quy định khung giá dịch vụ khám
bệnh, chữa bệnh; Cơ sở khám bệnh, chữa bệnh tư nhân được quyền quyết định và phải
niêm yết công khai giá dịch vụ khám bệnh, chữa bệnh.” Từ đó lại đưa ra các thơng tư về

quy định giá của dịch vụ khám chữa bệnh, ví dụ như Thơng tư 37/2015/TTLT-BYT-BTC


về “Quy định thống nhất giá dịch vụ khám bệnh, chữa bệnh bảo hiểm y tế giữa các bệnh
viện cùng hạng trên toàn quốc”.
Hiện nay các bệnh viện chủ yếu bao gồm có ba loại hình khám bệnh phục vụ nhu
cầu của người bệnh, bao gồm khám Bảo hiểm y tế, khám chuyên khoa đặt ở các khoa,
khám theo yêu cầu. Theo ông Nguyễn Nam Liên - vụ trưởng Vụ Kế hoạch tài chính, Bộ
Y tế - cho biết giá dịch vụ y tế thông thường mới đang thu trực tiếp cấu thành nên chi phí
dịch vụ và tiền lương của y bác sĩ, chưa tính chi phí quản lý và khấu hao tài sản của bệnh
viện. (Lan Anh và Hồng Lộc, 2021).
Từ đó có thể thấy dịch vụ khám chữa bệnh tại Việt Nam không phải là thị trường tự
do, vì giữa người mua và người bán dịch vụ, cụ thể là người khám bệnh và bệnh viện
khơng có sự thỏa thuận này, giá dịch vụ do người cung ứng quyết định, cụ thể đối với các
bệnh viện công do Bộ Y tế và Bộ Tài chính quy định, đối với các bệnh viện tư được tự
quyền quyết định đối với giá các dịch vụ.
Đối với việc tham gia thị trường cung ứng dịch vụ y tế lại có các điều kiện hạn chế
nhất định đối với việc gia nhập. Theo Luật khám chữa bệnh quy định, muốn cung ứng
dịch vụ y tế cần được cấp giấy phép hành nghề và cần đảm bảo những điều kiện nhất
định về cơ sở vật chất. Như trong điều 43 về Điều kiện cấp giấy phép hoạt động đối với
cơ sở khám bệnh, chữa bệnh quy định cơ sở khám bệnh, chữa bệnh được cấp giấy phép
hoạt động phải có đủ các điều kiện sau đây:
“a) Đáp ứng các quy định của quy chuẩn kỹ thuật quốc gia về cơ sở khám bệnh,
chữa bệnh do Bộ trưởng Bộ Y tế ban hành.
b) Có đủ người hành nghề phù hợp với phạm vi hoạt động chuyên môn;
c) Người chịu trách nhiệm chuyên môn kỹ thuật của cơ sở khám bệnh, chữa bệnh
phải có thời gian hành nghề khám bệnh, chữa bệnh ít nhất là 36 tháng.”
Trong thực tế, các hoạt động khám chữa bệnh tại các bệnh viện đặc biệt là các bệnh
viện tuyến trên vẫn cịn các tình trạng “trong quản lý vẫn còn cơ chế "xin- cho" và độc
quyền, vừa làm mất đi tính định hướng của sự phát triển bền vững của hệ thống, vừa làm

phân tán mọi nguồn lực, chỗ thừa chỗ thiếu, nơi này thì lãng phí, nơi kia lại khơng có để
phục vụ bệnh nhân, v.v...” (Phương Anh, 2002). Từ đó có thể thấy trong thị trường cung
ứng dịch vụ y tế là thị trường độc quyền.
2.2.2. Thông tin không đối xứng trong việc cung ứng dịch vụ khám chữa bệnh tại Việt
Nam
Có thể thấy việc thơng tin không đối xứng là một trong những thất bại lớn nhất của
dịch vụ khám chữa bệnh tại Việt Nam. Dịch vụ khám chữa bệnh nói chung có hiện tượng
bất đối xứng thông tin giữa bên cung cấp dịch vụ và bên sử dụng dịch vụ. Bệnh nhân
khơng có trình độ chun mơn nghiệp vụ, hồn tồn phụ thuộc vào bác sĩ.


Trên thực tế, bệnh nhân hiểu biết rất ít về bệnh tật và các chỉ định điều trị, do vậy
hầu như người bệnh hoàn toàn phải dựa vào các quyết định của bác sĩ trong việc lựa chọn
các dịch vụ y tế. Cụ thể theo Ardeshir Sepehri và các cộng sự (2005), nghiên cứu chỉ ra
rằng Các bệnh nhân đóng bảo hiểm và bệnh nhân trả phí thì số xét nghiệm cao hơn từ 3
đến 4 lần so với bệnh nhân được miễn một phần hoặc tồn bộ chi phí. Tại hội nghị trực
tuyến ngành dược và các địa phương tổ chức ngày 23/6 tại Hà Nội, Nguyên Bộ trưởng
Bộ Y tế Nguyễn Quốc Triệu khẳng định: “Giá thành điều trị tăng do lạm dụng thuốc, lạm
dụng xét nghiệm. Bệnh đáng chỉ định sáu xét nghiệm có bác sĩ chỉ định luôn mười xét
nghiệm, bệnh đáng chỉ định ba thuốc, bác sĩ làm luôn... năm thuốc”. Theo Lan Anh
(2009), Một dược sĩ phát biểu rằng “Bệnh viện chúng tôi một tháng có thể bỏ phí 6-8 tỉ
đồng tiền thuốc do kê khơng cần thiết, kê sai. Cịn các bệnh viện khác, tơi nghĩ tình trạng
khơng sáng sủa hơn. Trong khi năm 2008, các bệnh viện trên toàn quốc sử dụng tới 7.000
tỉ đồng tiền thuốc, riêng các bệnh viện ở Thành phố Hà Nội và Thành phố Hồ Chí Minh
sử dụng 2.500 tỷ đồng”. Đó là đối với các bệnh viện công, đối với các dịch vụ khám chữa
bệnh tại các bệnh viện tư ông Trần Văn Tiến (2009), ông đưa ra rằng “chi phí điều trị tại
các cơ sở y tế kinh doanh vì lợi nhuận đắt hơn so với các cơ sở y tế hoạt động phi lợi
nhuận.” Cùng với đó, ơng cũng chỉ ra rằng “Vấn đề lạm dụng chỉ định các dịch vụ khám
chữa bệnh không cần thiết và các dịch vụ khám chữa bệnh có tác dụng phụ cũng nhiều
hơn ở khu vực y tế tư nhân vì lợi nhuận”.

Từ đó có thể thấy, do vấn đề thiếu thơng tin về phía người bệnh, khiến cho việc
cung ứng dịch vụ y tế Việt Nam hiện nay tồn tại nhiều vấn đề, ảnh hưởng trực tiếp đến
người bệnh, đặc biệt là các bệnh nhân nghèo, điều kiện kinh tế khó khăn. Nếu vấn đề này
khơng được kiểm sốt tốt sẽ dẫn tới tình trạng lạm dụng dịch vụ từ phía cung ứng, đẩy
cao chi phí y tế.
3.

Đề xuất mơ hình tổ chức, cung ứng và tài trợ đối với dịch vụ khám chữa bệnh
tại Việt Nam

Tự chủ bệnh viện và liên doanh liên kết xã hội hóa đã tạo ra những thay đổi đáng kể
trong cơng tác tài chính nói riêng và quản lý bệnh viện nói chung. Tuy nhiên, giống như
hầu hết các nước thực hiện cải cách theo hình thức này, cũng có một số vấn đề liên quan
đến tác động không mong muốn trong lĩnh vực tự chủ bệnh viện ví dụ như lạm dụng dịch
vụ, tăng phí dịch vụ và tăng gánh nặng chi phí chăm sóc sức khỏe đối với người dân và
bảo hiểm xã hội. Cùng với đó, các mơ hình bệnh viện tư hay bệnh viện theo hình thức đối
tác công - tư tại Việt Nam không đem lại hiệu quả cao. Một trong những hạn chế của các
mô hình là do vấn đề khung pháp lý tại Việt Nam để phát triển các mơ hình cịn nhiều
hạn chế. Qua phân tích đánh giá, có thể nhận thấy mơ hình bệnh viện cơng tự chủ tài
chính và mơ hình liên kết cơng tư đang có những mặt tích cực trong hoạt động cung ứng
dịch vụ khám chữa bệnh.



×