Tải bản đầy đủ (.docx) (11 trang)

Chuyên đề quan điểm của lê nin về vật chất ý thức và lý luận thực tiễn

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (124.58 KB, 11 trang )

1
Câu 1: Trong bài diễn văn khai mạc lớp học lý luận khóa I trường Nguyễn
Ái Quốc ngày 7/9/1957, Chủ tịch Hồ Chí Minh viết “Thống nhất giữa lý luận và
thực tiễn là một nguyên tắc căn bản của chủ nghĩa Mác - Lênin. Thực tiễn không
có lý luận hướng dẫn thì thành thực tiễn mù quáng, lý luận mà không liên hệ với
thực tiễn là lý luận suông”. Đồng chí hãy giải thích luận điểm trên và nói rõ ý
nghĩa của vấn đề này trong đấu tranh, khắc phục bệnh kinh nghiệm và giáo điều ở
cán bộ hiện nay?
Trả lời: Trong cuộc đời hoạt động cách mạng của mình, Chủ tịch Hồ Chí Minh
đã để lại nhiều di sản lý luận quý báu, có ý nghĩa to lớn trong giáo dục, rèn luyện cán
bộ, đảng viên cũng như công tác xây dựng Đảng đồng thời góp phần bổ sung, phát triển
sáng tạo Chủ nghĩa Mác – Lê nin. Một trong những luận điểm quan trọng của Bác, có ý
nghĩa giáo dục to lớn đối với cán bộ đảng viên của Đảng đó là: “Thống nhất giữa lý
luận và thực tiễn là một nguyên tắc căn bản của chủ nghĩa Mác - Lênin. Thực tiễn
không có lý luận hướng dẫn thì thành thực tiễn mù quáng, lý luận mà không liên hệ với
thực tiễn là lý luận suông”.
Luận điểm trên của Bác trước hết khẳng định quan điểm của chủ ngĩa Mác về
thực tiễn và vai trò của nó đối với hoạt động nhận thức.
Mác là người đầu tiên nêu rõ vai trò quyết định của thực tiễn đối với nhận thức.
Đưa phạm trù thực tiễn vào lý luận nhận thức là một bước chuyển biến cách mạng
trong lý luận về nhận thức nói riêng và trong triết học nói chung. Đồng thời khắc phục
sự hạn chế của các trào lưu triết học trước đây, kể cả triết học của Phoiơbắc, xem xét
nhận thức tách rời hoạt động thực tiễn của con người. Khuyết điểm chủ yếu của chủ
nghĩa duy vật trước Mác là thiếu quan điểm thực tiễn, vì thế nó mang tính chất trực
quan. Chủ nghĩa duy tâm đã đề cập đến vai trò tích cực sáng tạo của con người, nhưng
lại chỉ giới hạn tính tích cực sáng tạo đó trong lĩnh vực tinh thần. Chủ nghĩa duy tâm đã
tuyệt đối hóa yếu tố tinh thần, chỉ hiểu thực tiễn như là hoạt động tinh thần, và như vậy,
thực chất là đã gạt bỏ vai trò của thực tiễn.
Theo quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin, thực tiễn là những hoạt động vật
chất cảm tính có mục đích mang tính lịch sử - xã hội của con người, nhằm cải tạo tự
nhiên và xã hội. Thực tiễn biểu hiện dưới nhiều hình thức. Hình thức đầu tiên của hoạt


động thực tiễn, cơ sở của hoạt động sống của con người là hoạt động sản xuất vật chất.
Hoạt động cải tạo xã hội bao gồm những hoạt động của con người trong các lĩnh vực
chính trị - xã hội cũng là một dạng cơ bản của hoạt động thực tiễn. Những hoạt động
thực nghiệm khoa học cũng là một dạng đặc biệt của thực tiễn. Trong những hình thức
đó, hoạt động sản xuất vật chất là hoạt động cơ bản nhất, vì nó quyết định sự tồn tại và
phát triển của xã hội loài người trong mọi thời kỳ lịch sử. Hơn nữa, các hình thức hoạt
2
động khác suy cho cùng là từ hoạt động đó mà ra và nhằm mục đích phục vụ cho hoạt
động đó. Nói đến phạm trù thực tiễn, cần lưu ý đến hai đặc trưng:
Thứ nhất, hoạt động thực tiễn là những hoạt động vật chất của con người nhằm
cải tạo tự nhiên và xã hội. Nói đến hoạt động thực tiễn là hoạt động vật chất, điều đó có
nghĩa là, trong hoạt động thực tiễn, con người sử dụng những đối tượng vật chất, những
phương tiện vật chất … để tác động, trực tiếp làm thay đổi bản thân sự vật, trực tiếp cải
tạo thế giới trong hiện thực. Nói đến hoạt động vật chất, tức là nói đến sức mạnh vật
chất, sức mạnh trực tiếp cải tạo thế giới của con người. Trong quá trình hoạt động thực
tiễn, con người đã tạo ra một hiện thực mới, một “thiên nhiên thứ hai”, thế giới của văn
hóa tinh thần và vật chất, những điều kiện mới cho sự tồn tại và phát triển của con
người.
Thứ hai, hoạt động thực tiễn có tính lịch sử xã hội. Tính xã hội của hoạt động
thực tiễn có nghĩa là thực tiễn không chỉ là những hoạt động của từng con người riêng
lẻ, mà là dạng hoạt động cơ bản của xã hội loài người. Xét từ nội dung cũng như từ
phương thức thực hiện, hoạt động thực tiễn mang tính xã hội. Hoạt động thực tiễn là
một quá trình lịch sử, trải qua quá trình vận động và phát triển và các giai đoạn lịch sử
của nó. Có thể nói, thực tiễn là sản phẩm lịch sử, những mối quan hệ muôn vẻ và vô tận
giữa con người với giới tự nhiên và con người với con người.
Thực tiễn là cơ sở và động lực chủ yếu của nhận thức. Bằng hoạt động thực tiễn,
con người trực tiếp tác động vào sự vật, bắt các sự vật hiện tượng của thế giới phải bộc
lộ những thuộc tính và tính quy luật của chúng. Điều đó có nghĩa là thực tiễn đã cung
cấp những tài liệu làm cơ sở cho nhận thức. Tri thức của con người có thể thu nhận
được dưới dạng trực tiếp từ thực tiễn hoặc dưới dạng gián tiếp. Nhưng xét đến cùng thì

mọi tri thức của con người đều nảy sinh từ hoạt động thực tiễn. Không có thực tiễn thì
con người sẽ không có nhận thức, không có hiểu biết. Không có những kinh nghiệm
thực tiễn thì không có tri thức lý luận. Hơn nữa, chính trong quá trình hoạt động thực
tiễn là cơ sở phát huy tính tích cực sáng tạo của con người, là cơ sở của sự phát triển trí
tuệ con người. Thực tiễn không ngừng biến đổi và phát triển, luôn đặt ra những vấn đề
mới đòi hỏi nhận thức phải trả lời, đặt ra những nhiệm vụ và phương hướng phát triển
cho nhận thức, đòi hỏi những tri thức mới, những khái quát mới để lý giải những vấn đề
nảy sinh … Đó chính là động lực thúc đẩy nhận thức phát triển. Trong lịch sử, các môn
khoa học nối tiếp nhau ra đời và phát triển trên cơ sở quá trình hoạt động thực tiễn của
loài người, nhằm đáp ứng những nhu cầu do sự phát triển của thực tiễn đề ra.
Thực tiến có vai trò to lớn đối với hoạt động nhận thức của con người, là cơ sở,
động lực của nhận thức.
3
Hoạt động thực tiễn của con người ngay từ đầu đã bị quy định bởi những nhu cầu
thực tiễn. Muốn sống, muốn tồn tại, con người phải sản xuất, cải tạo tự nhiên và xã hội.
Chính nhu cầu sản xuất vật chất, cải tạo xã hội buộc con người phải tìm hiểu, khám
phá, nhận thức thế giới xung quanh. Bằng hoạt động thực tiễn, con người tác động vào
thế giới khách quan, làm cho thế giới khách quan phải bộc lộ những thuộc tính, những
tính chất, những quy luật để con người nhận thức. Chính thực tiễn đã cung cấp cho
nhận thức của con người những hiểu biết về thế giới. Như vậy, mọi tri thức của con
người, xét đến cùng đều bắt nguồn từ thực tiễn.
Thực tiễn còn đề ra nhu cầu, nhiệm vụ và phương hướng phát triển của nhận
thức, vì thế nó luôn thúc đẩy sự ra đời của các ngành khoa học mới. Thực tiễn có tác
dụng rèn luyện các giác quan của con người, làm cho chúng phát triển tinh tế hơn, hoàn
thiện hơn. Trên cơ sở đó giúp nhận thức của con người đạt hiệu quả hơn. Hoạt động
thực tiễn còn là cơ sở để chế tạo ra các công cụ, phương tiện, máy móc mới hỗ trợ con
người trong quá trình nhận thức. Chính nhu cầu chế tạo và cải tiến công cụ sản xuất
cũng như công cụ, máy móc hỗ trợ con người nhận thức đã thúc đẩy nhận thức, tư duy
phát triển.
Thực tiễn là mục đích của nhận thức. Nhận thức của con người là nhằm phục vụ

thực tiễn, soi đường, dẫn dắt, chỉ đạo thực tiễn. Nhận thức mà không nhằm mục đích
phục vụ thực tiễn thì sẽ mất phương hướng, bế tắc. Mọi tri thức khoa học, mọi lý luận
chỉ có ý nghĩa đích thực khi chúng được áp dụng vào thực tiễn, nghĩa là được vận dụng
vào sản xuất vật chất, vào cải tạo xã hội và vào thực nghiệm khoa học nhằm phục vụ
con người.
Thực tiễn là tiêu chuẩn của chân lý. Tri thức của con người là kết quả của quá
trình nhận thức. Tri thức ấy có thể phản ánh đúng hoặc không đúng hiện thực khách
quan. Triết học Mác - Lênin cho rằng, thực tiễn là tiêu chuẩn khách quan duy nhất để
kiểm tra chân lý. “Vấn đề tìm hiểu xem tư duy của con người có thể đạt tới chân lý
khách quan không, hoàn toàn không phải là một vấn đề lý luận mà là một vấn đề thực
tiễn”
1
. “Con người chứng minh bằng thực tiễn của mình sự đúng đắn khách quan của
những ý niệm, khái niệm, tri thức của mình, của khoa học mình”
2
. Dựa vào thực tiễn,
người ta có thể chứng minh, kiểm nghiệm chân lý. Chỉ có thực tiễn mới có thể “vật chất
hóa” được tri thức, hiện thực hóa được tư tưởng, qua đó mới có thể khẳng định hay phủ
định một giả thiết khoa học nào đó. Có nhiều hình thức hoạt động thực tiễn khác nhau,
do vậy cũng có nhiều hình thức kiểm tra chân lý khác nhau, như bằng thực nghiệm
khoa học, bằng việc áp dụng lý luận xã hội vào cải biến xã hội v.v Thực tiễn là tiêu
1
2
4
chuẩn của chân lý vừa có tính tuyệt đối vừa có tính tương đối. Tính tuyệt đối thể hiện ở
chỗ, thực tiễn ở mỗi giai đoạn lịch sử cụ thể, là tiêu chuẩn khách quan duy nhất để
khẳng định chân lý, bác bỏ sai lầm. Tính tương đối thể hiện ở chỗ, thực tiễn luôn vận
động, biến đổi, phát triển, do đó “không bao giờ có thể xác nhận hoặc bác bỏ một cách
hoàn toàn một biểu tượng nào đó của con người, dù biểu tượng ấy là thế nào chăng
nữa”

3
. Vì vậy, xem xét thực tiễn trong không gian càng rộng, trong thời gian càng dài,
trong chỉnh thể thì càng rõ, đâu là chân lý, đâu là sai lầm. Cũng vì vậy, những tri thức
đã đạt được trước kia và đã được thực tiễn kiểm nghiệm vẫn phải thường xuyên được
kiểm tra bởi thực tiễn mới để được bổ sung, hoàn thiện hơn. Cho nên, chủ nghĩa Mác -
Lênin yêu cầu: “Quan điểm về đời sống, về thực tiễn phải là quan điểm thứ nhất và cơ
bản cảu lý luận về nhận thức”
4
.
Thực tiễn có vai trò to lớn, song không vì thế mà xem nhẹ vai trò của lý luận
khoa học.
Lý luận là hệ thống những tri thức được khái quát từ những kinh nghiệm thực
tiễn, phản ánh những mối liên hệ bản chất, tính quy luật của các sự vật, hiện tượng
trong thế giới khách quan.
Kinh nghiệm và lý luận đều là những tri thức, những hiểu biết của con người về
sự vật, hiện tượng nhưng ở những trình độ khác nhau. Kinh nghiệm được nảy sinh trực
tiếp từ cuộc sống và thực tiễn. Nó không chỉ là kết quả của hoạt động trực quan cảm
tính, mà còn có sự tham gia của yếu tố lý tính. Kinh nghiệm do đó đã mang tính trừu
tượng và khái quát, song mới là bước đầu và còn hạn chế. Nó chỉ mới đem lại sự hiểu
biết về các mặt riêng lẻ, về các mối liên hệ bên ngoài của sự vật, hiện tượng.
Còn lý luận là những tri thức được khái quát từ những kinh nghiệm thực tiễn, “là
sự tổng kết kinh nghiệm của loài người” (Hồ Chí Minh) thông qua sự trừu tượng hóa và
khái quát hóa của tư duy. Bằng sức mạnh của sự trừu tượng hóa và khái quát hóa, lý
luận đem lại sự hiểu biết sâu sắc về bản chất, tính tất nhiên, tính quy luật của sự vật,
hiện tượng.
Kinh nghiệm và lý luận đều có vai trò to lớn đối với thực tiễn. Kinh nghiệm do
sự hạn chế của nó nên phạm vi vận dụng (cả thời gian, cả không gian) hẹp hơn, đồng
thời hiệu quả thường không cao. Còn lý luận thể hiện tính chân lý sâu sắc hơn, chính
xác hơn, hệ thống hơn, nghĩa là có tính bản chất sâu sắc hơn, do đó phạm vi vận dụng
rộng hơn và có hiệu quả cao hơn.

Nhờ có ưu điểm trên đây, lý luận có vai trò rất to lớn đối với thực tiễn. Cụ thể:
3
4
5
Một là: lý luận hướng dẫn, soi đường, dẫn dắt chỉ đạo thực tiễn, giúp cho thực
tiễn hoạt động đúng hướng, có hiệu quả, tránh mò mẫm, tự phát.
Hai là: lý luận góp phần giáo dục, động viên cổ vũ, tổ chức quần chúng, biến
thành niềm tin và phong trào quần chúng cải tạo hiện thực: “lý luận mỗi khi thâm nhập
vào quần chúng sẽ biến thành một sức mạnh vật chất vô cùng to lớn”.
Ba là: lý luận, do sức mạnh trừu tượng hóa, nó có khả năng dự kiến được sự vận
động và phát triển cuả sự vật trong tương lai, từ đó chỉ ra những phương hướng mới
cho sự phát triển của thực tiễn.
Nghiên cứu mối quan hệ giữa lý luận và thực tiễn có ý nghĩa rất quan trọng trong
nhận thức và hoạt động thực tiễn của con người, của mỗi quốc gia, dân tộc. Trong thời
đại văn minh trí tuệ ngày nay, lý luận có vai trò cực kỳ to lớn. Trên một ý nghĩa nào đó
nó quyết định sự thành bại của một chủ thể, của một quốc gia, dân tộc. Đặc biệt, nước
ta hiện nay đang định hướng đi lên chủ nghĩa xã hội bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa. Sự
nghiệp đó sẽ không thành công nếu thiếu lý luận khoa học soi đường.
Trong khi đó, thứ nhất, lý luận của chúng ta còn bất cập so với yêu cầu của thực
tiễn. Mặc dù lý luận ở nước ta đã có những bước phát triển quan trọng, nhận thức về
con đường và mô hình chủ nghĩa xã hội càng ngày càng rõ ràng và đầy đủ hơn, nhưng
nhiều vấn đề phức tạp nảy sinh trong thực tiễn đổi mới, lý luận chưa lý giải được, hoặc
chưa lý giải được một cách thuyết phục. Một số vấn đề ở tầm quan điểm, chủ trương
lớn chưa được làm rõ, nên chưa đạt được sự thống nhất cao về nhận thức và do đó thiếu
dứt khoát trong hoạch định chính sách, chỉ đạo điều hành.
Thứ hai, trình độ lý luận của cán bộ, đảng viên chưa đáp ứng được yêu cầu so
với thực tiễn. Điều đó biểu hiện trong lãnh đạo và chỉ đạo thực tiễn vẫn thường rơi vào
bệnh kinh nghiệm (tuyệt đối hóa kinh nghiệm, chỉ đạo thực tiễn bằng kinh nghiệm) và
bệnh giáo điều (vận dụng lý luận như những công thức cứng nhắc, nhận thức lý luận
chỉ dừng lại ở câu chữ, lý luận suông).

Do đó, để đáp ứng nhu cầu thực tiễn của đất nước phải đẩy mạnh công tác
nghiên cứu lý luận, đồng thời phải tăng cường công tác giáo dục lý luận trên cơ sở đổi
mới nội dung, chương trình đào tạo, đổi mới phương pháp giảng dạy và học tập lý luận.
Vấn đề nghiên cứu này còn có ý nghĩa to lớn trong đấu tranh, khắc phục bệnh
kinh nghiệm và bệnh giáo điều ở một bộ phận cán bộ, đảng viên hiện nay.
Tri thức kinh nghiệm là những tri thức được chủ thể thu nhận trực tiếp trong quá
trình hoạt động thực tiễn. Tri thức kinh nghiệm hết sức quan trọng trong quá trình nhận
thức và cải tạo thế giới. Nó giúp cho con người kịp thời điều chỉnh hoạt động của mình,
6
giúp cho con người có được những quyết định nhanh chóng và đáng tin cậy trong một
phạm vi nhất định, trong một hoàn cảnh cụ thể nhất định.
Tuy nhiên, nhìn chung những tri thức kinh nghiệm thường chỉ mới là sự khái
quát ban đầu và trong một phạm vi hẹp, thường chỉ mới là sự phản ánh sự vật trong
những hoàn cảnh cụ thể, cục bộ riêng biệt, và trong nhiều trường hợp, tri thức kinh
nghiệm chỉ mới phản ánh được cái bề ngoài, cái ngẫu nhiên. Chính vì vậy, tri thức kinh
nghiệm chưa đi sâu vào bản chất và quy luật của sự vật, chưa tạo thành một hệ thống tri
thức chặt chẽ. Và cũng vì vậy, phạm vi áp dụng cũng như tính hướng dẫn, chỉ đạo của
tri thức kinh nghiệm thường bị hạn chế trong một phạm vi hẹp.
Ở trình độ tri thức lý luận, tư duy đã vượt ra ngoài giới hạn của những tri thức
kinh nghiệm. Lý luận là sự tổng kết, là sự khái quát những kinh nghiệm thực tiễn bằng
hệ thống những khái niệm, phạm trù, những nguyên lý và quy luật phản ánh sự vận
động và phát triển cuiar sự vật mà ta nghiên cứu.
Tri thức lý luận có tính trừu tượng và khái quát cao; nó đem lại sự hiểu biết sâu
sắc về bản chất và quy luật của sự vật; nó có tính hệ thống chặt chẽ. Chính vì vậy,
phạm vi áp dụng cũng như tính hướng dẫn, chỉ đạo của tri thức lý luận có một phạm vi
rộng lớn hơn rất nhiều so với tri thức kinh nghiệm. Chỉ có những tri thức lý luận mới
làm cho hoạt động của con người trở nên chủ động, tránh được tình trạng mò mẫm, tự
phát.
Tuy tri thức kinh nghiệm và tri thức lý luận có một số đặc điểm khác nhau,
nhưng giữa chúng lại có mối quan hệ chặt chẽ. Nói đến mối quan hệ giữa trình độ kinh

nghiệm và trình độ lý luận, về thực chất cũng chính là quan hệ biện chứng giữa thực
tiễn và lý luận, nói đến sự thống nhất giữa thực tiễn và lý luận.
Kinh nghiệm thực tiễn có vai trò rất quan trọng đối với lý luận. Kinh nghiệm là
cơ sở để tổng kết, khái quát thành lý luận. Kinh nghiệm là căn cứ để chúng ta không
ngừng xem xét lại, bổ sung, sửa đổi, phát triển lý luận. Tri thức lý luận hinh thành từ sự
tổng kết, khái quát kinh nghiệm, nhưng lại phải thông qua tư duy trừu tượng của cá
nhân nhà lý luận, cho nên nó cũng chứa đựng khả năng không chính xác, xa rời thực
tiễn. Vì vậy, tri thức lý luận phải được thể nghiệm trong thực tiễn để khẳng định, bổ
sung, sửa đổi, hoàn thiện. Mặt khác, lý luận một khi đã được hình thành thì nó không
phải thụ động mà có vai trò độc lập tương đối của nó. Lý luận tác động trở lại đối với
thực tiễn, hướng dẫn, chỉ đạo hoạt động thực tiễn, dự báo, dự đoán tình hình và phương
hướng hoạt động thực tiễn trong tương lai …
Chúng ta coi trọng những kinh nghiệm thực tiễn và không ngừng tích lũy vốn
kinh nghiệm quý báu đó. Nhưng nếu chỉ dừng lại ở trình độ kinh nghiệm, chỉ dựa vào
7
những hiểu biết ở trình độ kinh nghiệm, thỏa mãn với vốn liếng của bản thân, coi kinh
nghiệm là tất cả, tuyệt đối hóa kinh nghiệm, đồng thời coi nhẹ lý luận, không chịu học
tập, nghiên cứu lý luận, ít am hiểu lý luận, không chịu vươn lên để nắm lý luận, không
quan tâm tổng kết kinh nghiệm để đề xuất lý luận, v.v thì dễ mắc bệnh kinh nghiệm
chủ nghĩa.
Mặt khác, thái độ thực sự coi trọng lý luận đòi hỏi ngăn ngừa chủ nghĩa giáo
điều. Nếu tuyệt đối hóa lý luận, coi thường kinh nghiệm thực tiễn, coi lý luận bất di, bất
dịch, nắm lý luận chỉ dừng lại ở những nguyên lý chung trừu tượng, không chú ý đến
những hoàn cảnh lịch sử - cụ thể của sự vận dụng lý luận v.v thì sẽ mắc bệnh giáo
điều. Thực chất những sai lầm của bệnh kinh nghiệm và bệnh giáo điều là vi phạm sự
thống nhất giữa thực tiễn và lý luận.
Quán triệt sâu sắc vấn đề này, thiết nghĩ mỗi cán bộ đảng viên cần phải nghiên
cứu, nắm vững lý luận đồng thời vận dụng đúng đắn, sáng tạo vào thực tiễn công tác
của mình cho phù hợp. Thực hiện nói phải đi đôi với làm. Chống dập khuôn, máy móc
sẽ rơi vào giáo điều, kinh viện hoặc nói nhiều, làm ít, nói hay, làm dở. Mặt khác cũng

cần phải biết tổng kết, rút kinh nghiệm, bổ sung phát triển lý luận. Khăc phục bệnh coi
khinh lý luận, xem thường lý luận, tuyệt đối hóa kinh nghiệm đều dẫn đến sai lầm,
không đem lại hiệu quả trong hoạt động thực tiễn ở đơn vị.
Câu 2: Nêu quan điểm triết học của Lê Nin về vật chât, ý thức ? quan hệ
biện chứng giữa vật chất và ý thức là cơ sở lý luận ?
Trả lời: Vật chất và YT là phạm trù cơ bản của triết học, làm sáng tỏ mối quan
hệ VC và YT chính là góp phần làm sáng tỏ vấn đề cơ bản của triết học, là chìa khoa để
đi nghiên cứu các vấn đề khác của triết học đồng thời là cơ sở phương pháp luận trong
nhận thức và cải tạo thực tiễn.
Trong lịch sử, khi đề cập đến mối quan hệ giữa VC và YT, cái nào có trước, cái
nào có sau, cái nào quyết định cái nào… đã có không ít ý kiến khác nhau, thậm chí đối
lập nhau. Chỉ đến khi CNDV Mác xít ra đời, mối quan hệ này mới được làm sáng tỏ.
Theo quan điểm DVBC, "Vật chất là phạm trù triết học dùng để chỉ thực tại khách
quan được đem lại cho con người trong cảm giác, được cảm giác của chúng ta chép
lại, chụp lại, phản ánh, và tồn tại không lệ thuộc vào cảm giác".
Còn, "Ý thức là hình ảnh chủ quan của thế giới quan". Theo C.Mác, ý thức
"chẳng qua chỉ là vật chất được đem chuyển vào trong đầu óc con người và được cải
biến đi trong đó" .
8
Ý thức của con người là sự phản ánh trong bộ não con người một cách tích cực
chủ động và sáng tạo đối với thế giới khách quan để có hình ảnh của các sự vật hiện
tượng giúp con người có tri thức, sự hiểu biết và tình cảm đối với thế giới trên cơ sở
của hoạt động thực tiễn (lao động đấu tranh ).
Trong mối quan hệ giữa VC và YT thì vật chất có trước, ý thức có sau. Vật chất
sinh ra ý thức, ý thức là chức năng của óc người - dạng vật chất có tổ chức cao nhất của
thế giới vật chất. Không thể có ý thức trước khi có con người hay ý thức nằm ngoài con
người, độc lập với con người. Ý thức là sự phản ánh thế giới vật chất vào óc con người.
Thế giới vật chất là nguồn gốc khách quan của ý thức.
Theo đó, tồn tại vật chất trong hoạt động thực tiễn trong xã hội của loài người
(sản xuất, đấu tranh ) quyết định đến nội dung hoạt động tư duy của loài người cũng

như từng cá nhân con người. Trong đó, điều kiện địa lý là tồn tại vật chất chi phối sự
nhận thức của con người để tạo ra của cải vật chất (phải tính toán ). Đó là tài nguyên
thiên nhiên. Là tư liệu sản xuất cơ bản của xã hội, giai cấp nào nắm được sẽ trở thành
ông chủ và chi phối toàn xã hội.
Giai cấp nào nắm tư liệu sản xuất sẽ nắm quyền lực chính trị, vì vậy mọi hoạt
động văn hóa chính trị, tinh thần, tư tưởng phụ thuộc vào ông chủ. (Khi làm chủ được
chính trị lại nắm được kinh tế đó là sự tác động ngược trở lại).
Trong quá trình tổ chức hoạt động, con người phải căn cứ điều kiện vật chất
khách quan để hoạt động (sản xuất của cải vật chất nuôi sống xã hội; dựa vào điều kiện,
sự tồn tại vật chất để định ra tư duy về quốc phòng )
Điều kiện hoàn cảnh yếu tố địa lý gắn với từng dân tộc tạo ra yếu tố tâm lý, sinh
hoạt mang tính truyền thống và ảnh hưởng đến văn chương, hội họa, nghệ thuật, sắc
thái văn hóa.
Dân số và mật độ dân số liên quan đến mọi lĩnh vực: nguồn lực lao động.
Phương thức sản xuất: Lực lượng sản xuất (người lao động gắn với dân số,
nguồn lực lao động); Tư liệu sản xuất gắn với tài nguyên, đất đai; Quan hệ sản xuất: ai
nắm đất đai, tài nguyên, lực lượng lao động người đó có quyền phân phối của cải vật
chất.
VC quyết định YT, song ý thức có tính độc lập tương đối, tác động to lớn trở lại
VC. Điều này được thể hiện ở chỗ:
Ý thức có thể thúc đẩy hoặc kìm hãm với một mức độ nhất định sự biến đổi của
những điều kiện vật chất. Con người có khả năng nhận biết được các hiện tượng tự
9
nhiên xã hội trên cơ sở đó con người có khả năng tổ chức cải tạo tự nhiên xã hội tổ
chức các mặt của hoạt động thực tiễn (Bảo vệ ).
Sự tác động của ý thức đối với vật chất phải thông qua hoạt động của con người.
Con người dựa trên các tri thức về những quy luật khách quan mà đề ra mục tiêu,
phương hướng thực hiện; xác định các phương pháp và bằng ý thức thực hiện mục tiêu
ấy. Sự tác động của ý thức đối với vật chất dù có đến mức độ nào đi chăng nữa thì nó
vẫn phải dựa trên sự phản ánh thế giới vật chất.

Để cải tạo tự nhiên xã hội đòi hỏi con người phải có tri thức, nhận thức đúng và
nếu đề ra chủ trương chính sách hợp lý phù hợp quy luật thì sẽ thúc đẩy hoạt động thực
tiễn đi nhanh hơn, đời sống phát triển. Ngược lại trong một giai đoạn nào đó nếu chúng
ta đề ra những chủ trương chính sách xa thực tế hay làm trái quy luật thfi sẽ làm kinh tế
xã hội sa sút cản trở sự phát triển và tiến bộ xã hội.
Biểu hiện của mối quan hệ giữa vật chất và ý thức trong đời sống xã hội là quan
hệ giữa tồn tại xã hội và ý thức xã hội, trong đó tồn tại xã hội quyết định ý thức xã hội
và ý thức xã hội có tính độc lập tương đối tác động trở lại tồn tại xã hội. Ngoài ra, mối
quan hệ giữa vật chất và ý thức còn là cơ sở để xem xét các mối quan hệ khác nhau:
chủ thể và khách thể, lý luận và thực tiễn, điều kiện khách quan và nhân tố chủ quan
v.v
Nghiên cứu, làm sáng tỏ quan điểm của Lê nin về mối quan hệ VC và YT có ý
nghĩa to lớn cả về lý luận và thực tiễn. Chủ nghĩa duy vật biện chứng khẳng định trong
mối quan hệ giữa vật chất và ý thức thì: Vật chất có trước, ý thức có sau, vật chất là
nguồn gốc của ý thức, quyết định ý thức, song ý thức có thể tác động trở lại vật chất
thông qua hoạt động thực tiễn của con người; vì vậy, con người phải tôn trọng khách
quan, đồng thời phát huy tính năng động chủ quan của mình.
Vật chất quyết định ý thức, ý thức là sự phản ánh vật chất, cho nên trong nhận
thức phải bảo đảm nguyên tắc “tính khách quan của sự xem xét” và trong hoạt động
thực tiễn phải luôn luôn xuất phát từ thực tế, tôn trọng và hành động theo các quy luật
khách quan, biết tạo điều kiện và phương tiện vật chất tổ chức lực lượng thực hiện biến
khả năng thành hiện thực. Tôn trọng khách quan là tôn trọng tính khách quan của vật
chất, của các quy luật tự nhiên và xã hội. Điều này đòi hỏi trong hoạt động nhận thức
và hoạt động thực tiễn con người phải xuất phát từ thực tế khách quan, lấy thực tế
khách quan làm căn cứ cho mọi hoạt động của mình. V.I. Lênin dã nhiều lần nhấn
mạnh không được lấy ý muốn chủ quan của mình làm chính sách, không được lấy tình
cảm làm điểm xuất phát cho chiến lược và sách lược cách mạng. Nếu chỉ xuất phát từ ý
muốn chủ quan, nếu lấy ý chí áp đặt cho thực tế, lấy ảo tưởng thay cho hiện thực thì sẽ
10
mắc phải bệnh chủ quan duy ý chí. (Nguyên nhân: ảnh hưởng của tâm lý sản xuất nhỏ;

yếu kém về lý luận; quan liêu xa rời thực tế).
Khi đánh giá kết luận các sự vật hiện tượng đòi hỏi chúng ta phải đảm bảo tính
khách quan: điều tra kiểm sát thông tin đối tượng một cách nghiêm túc và đảm bảo
thông tin phải trung thực, không được điều tra sơ sài đã kết luận dẫn đến suy diễn có
tính chủ quan sai lầm.
Khi đề ra những mục tiêu chương trình phát triển phải điều tra kiểm sát một
cách khách quan và phải nắm bắt đúng thực tế, dựa trên điều kiện thực tế khách quan
đồng thời phải tôn trọng những quy luật khách quan.
Khi đề ra chủ trương chính sách mục tiêu, chương trình phát triển đòi hỏi phải
tổng kết thực tiễn, nhưng tổng kết đòi hỏi phải khách quan (điều tra, kiểm sát, tổng kết,
báo cáo) nếu không sẽ nhiễu loạn thông tin gây khó khăn cho quản lý nhà nước (ví dụ
các vụ đất đai ở Hải Phòng, thanh tra dầu khí, giáo dục )
Ý thức có tính độc lập tương đối, tác động trở lại vật chất thông qua hoạt động
của con người, cho nên cần phải phát huy tính tích cực, tính năng động chủ quan của ý
thức đối với vật chất bằng cách nhằm nâng cao năng lực nhận thức các quy luật khách
quan và vận dụng chúng vào trong hoạt động thực tiễn của con người. Phát huy tính
năng động chủ quan tức là phát huy vai trò tích cực của ý thức, vai trò tích cực của
nhân tố con người. Bản thân ý thức tự nó không trực tiếp thay đổi được gì trong hiện
thực. Ý thức muốn tác động trở lại đời sống hiện thực phải bằng lực lượng vật chất,
nghĩa là phải được con người thực hiện trong thực tiễn. Điều ấy có nghĩa là sự tác động
của ý thức đối với vật chất phải thông qua hoạt động của con người được bắt đầu từ
khâu nhận thức cho được quy luật khách quan, biết vận dụng đúng đắn quy luật khách
quan, phải có ý chí, phải có phương pháp để tổ chức hành động, cần nhận rõ vai trò tích
cực của nhân tố ý thức, tinh thần trong việc sử dụng một cách có hiệu quả nhất những
điều kiện phương tiện vật chất hiện có.
Phải phát huy tính năng động sáng tạo của ý thức, của nhân tố con người để cải
tạo thế giới khách quan, phải tạo ra động lực hoạt động cho con người bằng cách quan
tâm tới đời sống kinh tế, lợi ích thiết thực của quần chúng, phát huy dân chủ rộng rãi
Vai trò của ý thức là ở chỗ trang bị cho con người những tri thức về bản chất quy luật
khách quan của đối tượng, trên cơ sở ấy, con người xác định đúng đắn mục tiêu và đề

ra phương hướng hoạt động phù hợp. Tiếp theo, con người với ý thức của mình xác
định các biện pháp để thực hiện tổ chức các hoạt động thực tiễn.
Cần phải chống lại bệnh chủ quan duy ý chí cũng như thái độ thụ động, chờ đợi
vào điều kiện vật chất, hoàn cảnh khách quan Bằng sự nỗ lực và ý chí mạnh mẽ của
11
mình, con người có thể thực hiện được mục tiêu đề ra. Ở đây ý thức, tư tưởng có thể
quyết định làm cho con người hoạt động đúng và thành công khi phản ánh đúng đắn,
sâu sắc thế giới khách quan, vì đó là cơ sở quan trọng cho việc xác định mục tiêu,
phương hướng và biện pháp chính xác. Ngược lại, ý thức, tư tưởng có thể làm cho con
người hoạt động sai và thất bại khi con người phản ánh sai thế giới khách quan. Vì vậy,
phải phát huy tính năng động sáng tạo của ý thức, cần phải phát huy tính năng động
sáng tạo của ý thức, cần phải khái quát, tổng kết hoạt động thực tiễn để thường xuyên
nâng cao năng lực nhận thức, năng lực chỉ đạo thực tiễn, phát huy vai trò nhân tố con
người để tác động cải tạo thế giới khách quan; đồng thời phải khắc phục bệnh bảo thủ
trì trệ, thái độ tiêu cực, thụ động, ngồi chờ, ỷ lại vào hoàn cảnh, vào điều kiện vật chất
trong quá trình đổi mới hiện nay.

×