Tải bản đầy đủ (.pdf) (85 trang)

đánh giá công tác lập quy hoạch , kế hoạch sử dụng đất tỉnh bắc kạn giai đoạn 2005-2010 , liên hệ thực tế tại huyện na ri

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.29 MB, 85 trang )

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên


ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN
TRƢỜNG ĐẠI HỌC NÔNG LÂM THÁI NGUYÊN



NGUYỄN ĐÌNH LAI




ĐÁNH GIÁ CÔNG TÁC LẬP QUI HOẠCH, KẾ HOẠCH
SỬ DỤNG ĐẤT TỈNH BẮC KẠN GIAI ĐOẠN 2005-2010,
LIÊN HỆ THỰC TẾ TẠI HUYỆN NA RÌ


Chuyên ngành: Quản lý đất đai
Mã số : 60.62.16



LUẬN VĂN THẠC SỸ KHOA HỌC NÔNG NGHIỆP




Người hướng dẫn khoa học: TS. Hoàng Hải








Thái Nguyên, năm 2011
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

LỜI CAM ĐOAN

Tôi xin cam đoan rằng đề tài luận văn tốt nghiệp: “Đánh giá công tác
lập qui hoạch, kế hoạch sử dụng đất tỉnh Bắc Kạn giai đoạn 2005-2010.
Liên hệ thực tế tại huyện Na Rì.”đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi.
Các số liệu và kết quả trong luận văn này là hoàn toàn trung thực và
chưa từng được bảo vệ ở một học vị nào.
Mọi sự giúp đỡ cho việc hoàn thành luận văn đều đã được cảm ơn. Các
thông tin, tài liệu trình bày trong luận văn này đã được ghi rõ nguồn gốc.

Tác giả



Nguyễn Đình Lai
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

LỜI CẢM ƠN

Trong quá trình học tập, nghiên cứu và hoàn thành luận văn Thạc sĩ khoa
học quản lý đất đai, với đề tài “Đánh giá công tác lập qui hoạch, kế hoạch
sử dụng đất tỉnh Bắc Kạn giai đoạn 2005-2010. Liên hệ thực tế tại huyện

Na Rì.” tôi luôn nhận được sự quan tâm, tạo điều kiện giúp đỡ quý báu của
Nhà trường, tập thể các Thầy, Cô giáo, Lãnh đạo Huyện Ủy, Ủy ban nhân dân
huyện; Lãnh đạo cơ quan chuyên môn chủ quản cấp trên; bạn bè đồng chí,
đồng nghiệp. Nhân dịp hoàn thành luận văn này tôi xin trân trọng bày tỏ lòng
biết ơn chân thành và sâu sắc nhất tới:
Ban giám hiệu Trường Đại học Nông Lâm Thái Nguyên, Khoa Sau Đại
học, khoa Tài nguyên và Môi trường cùng tập thể các thầy cô giáo đã tạo mọi
điều kiện thuận lợi cho tôi hoàn thành luận văn này.
Đặc biệt, tôi xin trân trọng cảm ơn sự quan tâm, giúp đỡ, hướng dẫn tận
tình của thầy giáo hướng dẫn: TS. Hoàng Hải
Nhân dịp này tôi cũng xin được bày tỏ lòng biết ơn chân thành nhất tới gia
đình, đồng nghiệp cơ quan đã giúp đỡ, gánh vác công việc, nhiệm vụ chuyên
môn, động viên, khuyến khích tôi trong quá trình học tập và nghiên cứu.
Tôi xin trân trọng gửi tới các thầy cô giáo, các quý vị trong Hội đồng
chấm luận văn lời cảm ơn chân thành và lời chúc tốt đẹp nhất.

Thái Nguyên, ngày tháng 9 năm 2011
TÁC GIẢ


Nguyễn Đình Lai
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

DANH MỤC CÁC BẢNG

Bảng 4.1. Diện tích, cơ cấu sử dụng các loại đất theo phương án quy
hoạch sử dụng tỉnh Bắc kạn giai đoạn 2005 - 2010 52
Bảng 4.2. Kết quả thực hiện phương án qui hoạch sử dụng đất giai đoạn
2005-2010 của tỉnh Bắc Kạn 54
Bảng 4.3. Đối tượng được giao đất 58

Bảng 4.4.Hiện trạng sử dụng đất nông nghiệp năm 2005 của huyện
Na Rì 61
Bảng 4.5: Diện tích cơ cấu sử dụng đất phi nông nghiệp năm 2005 huyện
Na Rì 62
Bảng 4.6: Diện tích, cơ cấu sử dụng đất chưa sử dụng năm 2005 63
Bảng 4.7: Đánh giá kết quả thực hiện phương án quy hoạch sử dụng đất
đến năm 2010 của huyện Na Rì, tỉnh Bắc Kạn 64
Bảng 4.8: Kết quả thực hiện các chỉ tiêu sử dụng đất nông nghiệp theo
phương án qui hoạch sử dụng đất đến năm 2010 65
Bảng 4.9: Kết quả thực hiện phương án quy hoạch sử dụng đất phi nông nghiệp 67

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

MỤC LỤC

PHẦN I: ĐẶT VẤN ĐỀ 1
1.1. Sự cần thiết của đề tài 1
1.2. Mục tiêu, yêu cầu và ý nghĩa của đề tài 3
1.2.1. Mục tiêu 3
1.2.2. Yêu cầu 3
1.2.3 Ý nghĩa của đề tài 3
PHẦN II: TỔNG QUAN TÀI LIỆU 4
2.1. Bản chất của quy hoạch sử dụng đất 4
2.2. Đặc điểm của quy hoạch sử dụng đất đai 6
2.3. Các loại hình quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất đai 9
2.3.1. Các loại hình quy hoạch sử dụng đất 9
2.3.2. Các loại hình kế hoạch sử dụng đất 11
2.4. Nhiệm vụ và nội dung quy hoạch sử dụng đất đai 12
2.5. Quy hoạch sử dụng đất đai ở một số nước trên thế giới 14
2.6. Quy hoạch đất đai ở Việt Nam 20

2.7. Công tác lập quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất tỉnh Bắc Kạn 30
2.7.1 Việc bố trí và tổ chức cán bộ làm công tác lập quy hoạch, kế
hoạch sử dụng đất 30
2.7.2. Công tác thẩm định quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất 30
2.7.3. Công tác kiểm tra, giám sát thực hiện quy hoạch, kế hoạch
sử dụng đất 31
PHẦN III: NỘI DUNG VÀ PHƢƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU 34
3.1. Địa điểm, thời gian nghiên cứu 34
3.2. Nội dung nghiên cứu 34
3.3. Phương pháp nghiên cứu 34
3.3.1. Phương pháp điều tra, thu thập tài liệu, số liệu 34
3.3.2. Phương pháp thống kê, phân tích, so sánh, tổng hợp các số
liệu điều tra có xử dụng phần mềm Excell 34
3.3.3. Phương pháp minh họa bằng bản đồ 35
3.3.4. Phương pháp chuyên gia 35
PHẦN IV: KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU 36
4.1. Điều kiện tự nhiên, kinh tế - xã hội huyện Na Rì 36
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

4.1.1. Điều kiện tự nhiên, tài nguyên thiên nhiên 36
4.2. Thực trạng phát triển kinh tế - xã hội 42
4.2.1. Khái quát thực trạng phát triển kinh tế 42
4.2.2. Thực trạng phát triển các khu vực kinh tế 43
4.2.3. Thực trạng phát triển dân số, lao động và việc làm 45
4.2.4. Thực trạng phát triển đô thị và khu dân cư nông thôn 46
4.2.5. Thực trạng phát triển kết cầu hạ tầng xã hội 47
4.2.6 Đánh giá chung về điều kiện tự nhiên, kinh tế- xã hội gây áp
lực đối với đất đai 49
4.2.7. Những vấn đề kinh tế - xã hội gây áp lực đối với đất đai 50
4.3. Thực trạng đất đai của tỉnh Bắc Kạn 51

4.3.1. Hiện trạng sử dụng đất tỉnh Bắc Kạn năm 2010 51
4.3.3. Kết quả thực hiện phương án quy hoạch sử dụng đất tỉnh
Bắc Kạn giai đoạn 2005 - 2010 53
4.4. Tình hình quản lý và sử dụng đất huyện Na Rì 57
4.4.1. Tình hình quản lý đất đai 57
4.4.2. Hiện trạng sử dụng đất tr ên địa bàn huyện Na Rì 60
4.4.3. Kết quả thực hiện phương án quy hoạch sử dụng đất đến
năm 2010 của huyện Na Rì, tỉnh Bắc Kạn 64
4.5. Những thuận lợi và khó khăn trong việc thực hiện phương án qui
hoạch sử dụng đất huyện Na Rì giai đoạn 2005 - 2010 70
4.5.1. Thuận lợi 70
4.5.2. Những khó khăn 70
4.6. Một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả và tính khả thi của
phương án quy hoạch sử dụng đất huyện Na Rì 72
4.6.1. Các giải pháp trước mắt 72
4.6.2. Các giải pháp lâu dài 73
PHẦN V: KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ 76
5.1. Kết luận 76
5.2. Kiến nghị 77
TÀI LIỆU THAM KHẢO 78




Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

1
PHẦN I
ĐẶT VẤN ĐỀ



1.1. Sự cần thiết của đề tài
Đất đai là tài nguyên thiên nhiên vô cùng quí giá, là tư liệu sản xuất
đặc biệt, là thành phần quan trọng hàng đầu của môi trường sống, là địa
bàn phân bố dân cư, phát triển các cơ sở kinh tế, văn hóa xã hội và an
ninh quốc phòng.v.v. Hiến pháp nước cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt
Nam năm 1992, Chương II điều 18 quy định: “Nhà nước thống nhất quản
lý toàn bộ đất đai theo quy hoạch và pháp luật, đảm bảo sử dụng đất
đúng mục đích và có hiệu quả”.
Thực hiện Luật Đất đai, công tác quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất trong
những năm qua đã được các cấp, các ngành quan tâm chỉ đạo thực hiện. Việc
lập quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất giai đoạn 2001 - 2010 được triển khai ở
4 cấp: Quy hoạch sử dụng đất đến năm 2010 và kế hoạch sử dụng đất 5 năm
(2006 – 2010) cấp quốc gia đã được Quốc hội thông qua; đối với địa phương,
tất cả các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương đã được Chính phủ xét duyệt
quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất; hầu hết các đơn vị hành chính cấp huyện,
cấp xã đã hoàn thành việc lập quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất đến năm 2010.
Nhìn chung, việc lập quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất của các cấp đã
dần đi vào nề nếp và trở thành công cụ quan trọng của công tác quản lý nhà
nước đối với đất đai, đảm bảo cơ sở pháp lý cho việc thu hồi đất, giao đất, cho
thuê đất, cho phép chuyển mục đích sử dụng đất. Nhận thức về vị trí, vai trò
của công tác quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất và ý thức chấp hành quy hoạch,
kế hoạch sử dụng đất của các cấp chính quyền đã được nâng lên. Thông qua
việc lập và thực hiện quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất đã bước đầu kiểm soát

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

2
được việc chuyển đổi cơ cấu sử dụng đất, cơ bản đáp ứng được nhu cầu về đất
đai cho quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.

Tỉnh Bắc Kạn đã được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt qui hoạch tại Quyết
định số 1424/QĐ-TTg ngày 06 tháng 11 năm 2001 và đưa vào triển khai thực
hiện. Việc quy hoạch sử dụng đất đến năm 2010 của tỉnh đã góp phần tích cực
vào việc hoàn thành các mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội trong thời kỳ 2005 -
2010, làm căn cứ cho Uỷ ban nhân dân tỉnh quản lý, sử dụng hợp lý nguồn tài
nguyên đất, là cơ sở cho việc xây dựng kế hoạch sử dụng đất 5 năm và hàng năm
của tỉnh Bắc Kạn.
Trong những năm qua, UBND tỉnh Bắc Kạn đã chỉ đạo các ngành, các
cấp căn cứ vào quy hoạch sử dụng đất của tỉnh được duyệt, tiến hành lập
quy hoạch sử dụng đất cho từng ngành, từng huyện, thị xã và kế hoạch sử
dụng đất 5 năm (2005 - 2010) trình Thủ tướng Chính phủ phê duyệt. Đồng
thời tổ chức triển khai thực hiện những nội dung cơ bản trong phương án
quy hoạch sử dụng đất đã đề ra, góp phần quan trọng vào phát triển kinh tế
- xã hội của tỉnh.
Việc đánh giá qui hoạch, kế hoạch sử dụng đất của tỉnh Bắc Kạn và
liên hệ thực tế tại huyện Na Rì là hết sức quan trọng, cần thiết vì: nó sẽ là
cơ sở, nền tảng cho việc hoạch định chiến lược sử dụng đất đai của tỉnh
một cách hợp lý, hiệu quả; làm tiền đề qui hoạch, kế hoạch sử dụng đất cho
các kỳ sau có tính khả thi cao hơn, tiết kiệm thời gian, kinh phí tổ chức
thực hiện, phù hợp với điều kiện, vị trí địa lý của tỉnh miền núi trước khi
lập qui hoạch, kế hoạch sử dụng đất; hạn chế tối đa việc trình, xin điều
chỉnh qui hoạch, kế hoạch sử dụng đất với các cơ quan Bộ, ngành cấp trên
khi chưa đến kỳ qui hoạch đất đai.
Từ thực trạng sử dụng đất của tỉnh trong 5 năm qua và sự điều chỉnh
phương hướng, mục tiêu, nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội của tỉnh đến

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

3
năm 2010 như trên, đòi hỏi cần phải đánh giá công tác lập quy hoạch sử dụng

đất phù hợp với yêu cầu sử dụng đất của các ngành trong tình hình mới. Xuất
phát từ thực tiễn đó tôi tiến hành nghiên cứu đề tài “Đánh giá công tác lập qui
hoạch, kế hoạch sử dụng đất tỉnh Bắc Kạn giai đoạn 2005-2010. Liên hệ thực
tế tại huyện Na Rì.”
1.2. Mục tiêu, yêu cầu và ý nghĩa của đề tài
1.2.1. Mục tiêu
Thông qua việc nghiên cứu nhằm đánh giá việc lập quy hoạch, kế
hoạch sử dụng đất của tỉnh Bắc Kạn và huyện Na Rì giai đoạn 2005-2010;
đề xuất các giải pháp cụ thể nâng cao hiệu quả việc lập quy hoạch, kế
hoạch sử dụng đất.
1.2.2. Yêu cầu
- Các số liệu về quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất của tỉnh Bắc Kạn và
huyện Na Rì giai đoạn 2005-2010 phải đầy đủ, chính xác.
- Phải phân tích, đánh giá được việc thực hiện quy hoạch, kế hoạch sử
dụng đất và đưa ra các giải pháp cụ thể việc thực hiện quy hoạch, kế hoạch sử
dụng đất của tỉnh Bắc Kạn và huyện Na Rì trong thời gian tới theo hướng
hiệu quả và bền vững.
1.2.3 Ý nghĩa của đề tài
- Ý nghĩa khoa học của đề tài
Kết quả nghiên cứu của đề tài góp phần hoàn thiện cơ sở lý luận công tác
lập quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất cấp tỉnh, cấp huyện.
- Ý nghĩa thực tiễn của đề tài
Đề tài đi sâu phân tích, đánh giá việc lập quy hoạch, kế hoạch sử dụng
đất tỉnh Bắc Kạn và huyện Na Rì giai đoạn 2005 - 2010. Trên cơ sở đó đề
xuất các giải pháp cụ thể nhằm nâng cao hiệu quả công tác lập quy hoạch, kế
hoạch sử dụng đất của tỉnh Bắc Kạn và huyện Na Rì.

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

4

PHẦN II
TỔNG QUAN TÀI LIỆU

2.1. Bản chất của quy hoạch sử dụng đất
“Đất đai” là một phần lãnh thổ nhất định (vùng đất, khoanh đất, vạt đất,
mảnh đất, miếng đất ) có vị trí, hình thể, diện tích với những tính chất tự
nhiên hoặc mới tạo thành (đặc tính thổ nhưỡng, điều kiện địa hình, địa chất,
thuỷ văn, chế độ nước, nhiệt độ, ánh sáng, thảm thực vật, các tính chất lý hoá
tính ), tạo ra những điều kiện nhất định cho việc sử dụng theo các mục đích
khác nhau. Như vậy, để sử dụng đất cần phải làm quy hoạch - đây là quá trình
nghiên cứu, lao động sáng tạo nhằm xác định ý nghĩa mục đích của từng phần
lãnh thổ và đề xuất một trật tự sử dụng đất nhất định.
Về mặt bản chất: đất đai là đối tượng của các mối quan hệ sản xuất
trong lĩnh vực sử dụng đất (gọi là các mối quan hệ đất đai) và việc tổ chức sử
dụng đất như “tư liệu sản xuất đặc biệt” gắn chặt với phát triển kinh tế - xã
hội. Như vậy, quy hoạch sử dụng đất sẽ là một hiện tượng kinh tế - xã hội thể
hiện đồng thời 3 tính chất: kinh tế, kỹ thuật và pháp chế. Trong đó:
- Tính kinh tế: Thể hiện bằng hiệu quả sử dụng đất đai.
- Tính kỹ thuật: Bao gồm các tác nghiệp chuyên môn kỹ thuật như điều
tra, khảo sát, xây dựng bản đồ, khoanh định, xử lý số liệu
- Tính pháp chế: Xác nhận tính pháp lý về mục đích và quyền sử dụng
đất theo quy hoạch nhằm đảm bảo sử dụng và quản lý đất đai đúng pháp luật.
Từ đó, có thể đưa ra định nghĩa: “Quy hoạch sử dụng đất là hệ thống các
biện pháp kinh tế, kỹ thuật và pháp chế của Nhà nước về tổ chức, sử dụng và quản
lý đất đai đầy đủ, hợp lý, khoa học và có hiệu quả cao nhất thông qua việc phân
bổ quỹ đất đai (khoanh định cho các mục đích và các ngành) và tổ chức sử dụng
đất như tư liệu sản xuất (các giải pháp sử dụng đất cụ thể), nhằm nâng cao hiệu

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên


5
quả sản xuất của xã hội, tạo điều kiện bảo vệ đất đai và môi trường".
Tính đầy đủ: Mọi loại đất đều được đưa vào sử dụng theo các mục đích
nhất định.
Tính hợp lý: Đặc điểm tính chất tự nhiên, vị trí, diện tích phù hợp với
yêu cầu và mục đích sử dụng.
Tính khoa học: Áp dụng thành tựu khoa học - kỹ thuật và các biện pháp
tiên tiến trong lập quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất
Tính hiệu quả: Đáp ứng đồng bộ các lợi ích kinh tế - xã hội - môi trường.
Như vậy, về thực chất quy hoạch sử dụng đất là quá trình hình thành
các quyết định nhằm tạo điều kiện đưa đất đai vào sử dụng bền vững để mang
lại lợi ích cao nhất, thực hiện đồng thời hai chức năng: Điều chỉnh các mối
quan hệ đất đai và tổ chức sử dụng đất như tư liệu sản xuất đặc biệt với mục
đích nâng cao hiệu quả sản xuất của xã hội kết hợp bảo vệ đất và môi trường.
Căn cứ vào đặc điểm điều kiện tự nhiên, phương hướng, nhiệm vụ và
mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội của mỗi vùng lãnh thổ, quy hoạch sử dụng
đất được tiến hành nhằm định hướng cho các cấp, các ngành trên địa bàn lập
quy hoạch và kế hoạch sử dụng đất chi tiết của mình; Xác lập sự ổn định về
mặt pháp lý cho công tác quản lý Nhà nước về đất đai; Làm cơ sở để tiến
hành giao cấp đất và đầu tư để phát triển sản xuất, đảm bảo an ninh lương
thực, phục vụ các nhu cầu dân sinh, văn hoá - xã hội.
Mặt khác, quy hoạch sử dụng đất còn là biện pháp hữu hiệu của Nhà
nước nhằm tổ chức lại việc sử dụng đất theo đúng mục đích, hạn chế sự chồng
chéo gây lãng phí đất đai, tránh tình trạng chuyển mục đích sử dụng đất tuỳ
tiện, làm giảm sút nghiêm trọng quỹ đất nông, lâm nghiệp (đặc biệt là diện
tích trồng lúa và đất lâm nghiệp có rừng); Ngăn chặn các hiện tượng tiêu cực,
tranh chấp, lấn chiếm huỷ hoại đất, phá vỡ cân bằng sinh thái, gây ô nhiễm
môi trường dẫn đến những tổn thất hoặc kìm hãm sản xuất, phát triển kinh tế -

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên


6
xã hội và các hậu quả khó lường về những tình hình bất ổn định chính trị, an
ninh quốc phòng ở từng địa phương.
2.2. Đặc điểm của quy hoạch sử dụng đất đai
Quy hoạch sử dụng đất đai thuộc loại quy hoạch có tính lịch sử - xã
hội, tính khống chế vĩ mô, tính chỉ đạo, tính tổng hợp trung và dài hạn, là bộ
phận hợp thành quan trọng của hệ thống kế hoạch phát triển xã hội và kinh tế
quốc dân. Các đặc điểm của quy hoạch sử dụng đất đai được thể hiện cụ thể
như sau:
(1). Tính lịch sử - xã hội:
Lịch sử phát triển của xã hội chính là lịch sử phát triển của quy hoạch
sử dụng đất đai. Mỗi hình thái kinh tế - xã hội đều có một phương thức sản
xuất của xã hội thể hiện theo hai mặt: Lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất.
Trong quy hoạch sử dụng đất đai, luôn nảy sinh quan hệ giữa người với đất
đai, cũng như quan hệ giữa người với người. Quy hoạch sử dụng đất đai thể
hiện đồng thời là yếu tố thúc đẩy phát triển lực lượng sản xuất, vừa là yếu tố
thúc đẩy các mối quan hệ sản xuất. Vì vậy,nó luôn là một bộ phận của
phương thức sản xuất xã hội.
Tuy nhiên, trong xã hội có phân chia giai cấp, quy hoạch sử dụng đất
đai mang tính tự phát, hướng tới mục tiêu vì lợi nhuận tối đa và nặng về mặt
pháp lý. Ở nước ta, quy hoạch sử dụng đất đai phục vụ nhu cầu của người sử
dụng và quyền lợi của toàn xã hội; Góp phần tích cực thay đổi quan hệ sản
xuất ở nông thôn; Nhằm sử dụng, bảo vệ đất và nâng cao hiệu quả sản xuất xã
hội. Đặc biệt, trong nền kinh tế thị trường, quy hoạch sử dụng đất đai góp
phần giải quyết các mâu thuẫn nội tại của từng lợi ích kinh tế - xã hội - môi
trường nảy sinh trong quá trình sử dụng đất, cũng như mâu thuẫn giữa các lợi
ích khác nhau.

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên


7
(2). Tính tổng hợp:
Tính tổng hợp của quy hoạch sử dụng đất đai biểu hiện chủ yếu ở hai
mặt: Đối tượng của quy hoạch là khai thác, sử dụng, bảo vệ toàn bộ tài
nguyên đất đai cho nhu cầu của toàn bộ nền kinh tế quốc dân; Quy hoạch sử
dụng đất đai đề cập đến nhiều lĩnh vực về khoa học, kinh tế, xã hội như: Khoa
học tự nhiên, khoa học xã hội, dân số và đất đai, sản xuất nông - công nghiệp
và môi trường sinh thái
Với đặc điểm đó quy hoạch lãnh trách nhiệm tổng hợp toàn bộ nhu cầu
sử dụng đất; Điều hoà các nhu cầu về đất đai của các ngành, lĩnh vực; Xác
định và điều phối phương hướng, phương thức sử dụng đất phù hợp với mục
tiêu phát triển kinh tế - xã hội, đảm bảo cho nền kinh tế quốc dân phát triển
bền vững, đạt tốc độ cao và ổn định.
(3). Tính dài hạn:
Căn cứ vào các dự báo xu thế biến động dài hạn của những yếu tố kinh
tế - xã hội quan trọng như: Sự thay đổi về nhân khẩu, tiến bộ kỹ thuật, đô thị
hoá, công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp ,từ đó xác định quy hoạch
trung và dài hạn về sử dụng đất đai, đề ra phương hướng, chính sách và biện
pháp có tính chiến lược, tạo căn cứ khoa học cho việc xây dựng kế hoạch sử
dụng đất hàng năm và ngắn hạn.
Quy hoạch dài hạn nhằm đáp ứng nhu cầu đất để phát triển lâu dài kinh
tế - xã hội. Cơ cấu phương thức sử dụng đất được điều chỉnh từng bước trong
thời gian dài (cùng với sự phát triển dài hạn kinh tế - xã hội) cho đến khi đạt
được mục tiêu dự kiến. Thời hạn (xác định phương hướng, chính sách và biện
pháp sử dụng đất để phát triển kinh tế và hoạt động xã hội) của quy hoạch sử
dụng đất đai thường từ 10 năm đến 20 năm hoặc lâu hơn.
(4). Tính chiến lược và chỉ đạo vĩ mô.
Với đặc tính trung và dài hạn, quy hoạch sử dụng đất đai chỉ dự kiến


Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

8
trước được các xu thế thay đổi phương hướng, mục tiêu, cơ cấu và phân bố sử
dụng đất (mang tính đại thể, không dự kiến được các hình thức và nội dung cụ
thể, chi tiết của sự thay đổi). Vì vậy, quy hoạch sử dụng đất đai là quy hoạch
mang tính chiến lược, các chỉ tiêu của quy hoạch mang tính chỉ đạo vĩ mô,
tính phương hướng và khái lược về sử dụng đất của các ngành.
- Phương hướng, mục tiêu và trọng điểm chiến lược của việc sử dụng
đất trong vùng;
- Cân đối tổng quát nhu cầu sử dụng đất của các ngành;
- Điều chỉnh cơ cấu sử dụng đất và phân bố đất đai trong vùng;
- Đề xuất các biện pháp, các chính sách lớn để đạt được mục tiêu của
phương hướng sử dụng đất.
Do khoảng thời gian dự báo tương đối dài, chịu ảnh hưởng của nhiều
nhân tố kinh tế - xã hội khó xác định, nên chỉ tiêu quy hoạch càng khái lược
hoá quy hoạch sẽ càng ổn định.
(5). Tính chính sách:
Quy hoạch sử dụng đất đai thể hiện rất mạnh đặc tính chính trị và chính
sách xã hội. Khi xây dựng phương án phải quán triệt các chính sách và quy
định có liên quan đến đất đai của Đảng và Nhà nước, đảm bảo thực hiện cụ
thể trên mặt bằng đất đai các mục tiêu phát triển nền kinh tế quốc dân, phát
triển ổn định kế hoạch kinh tế - xã hội; đất đai và môi trường sinh thái.
(6). Tính khả biến:
Dưới tác động của nhiều nhân tố khó dự đoán trước, theo nhiều phương
diện khác nhau, quy hoạch sử dụng đất đai chỉ là một trong những giải pháp
biến đổi hiện trạng sử dụng đất đai sang trạng thái mới thích hợp hơn cho việc
phát triển kinh tế trong một thời kỳ nhất định. Khi xã hội phát triển, khoa học
kỹ thuật ngày càng tiến bộ, chính sách và tình hình kinh tế thay đổi, các dự
kiến của quy hoạch sử dụng đất đai không còn phù hợp. Việc chỉnh sửa, bổ


Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

9
sung, hoàn thiện quy hoạch và điều chỉnh biện pháp thực hiện là điều cần
thiết. Điều này thể hiện tính khả biến của quy hoạch. Quy hoạch sử dụng đất
đai luôn là quy hoạch động, một quá trình lặp lại theo chiều xoắn ốc: "Quy
hoạch - thực hiện - quy hoạch lại hoặc chỉnh lý - tiếp tục thực hiện " với chất
lượng, mức độ hoàn thiện và tính phù hợp ngày càng cao.
2.3. Các loại hình quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất đai
2.3.1. Các loại hình quy hoạch sử dụng đất
Có nhiều quan điểm khác nhau về cách phân loại quy hoạch sử dụng đất.
Tuy nhiên, mọi quan điểm đều dựa trên những căn cứ hoặc cơ sở chung như
sau: Nhiệm vụ đặt ra đối với quy hoạch; số lượng và thành phần đối tượng
nằm trong quy hoạch; Phạm vi lãnh thổ quy hoạch (cấp vị lãnh thổ hành
chính) cũng như nội dung và phương pháp quy hoạch. Thông thường hệ thống
quy hoạch sử dụng đất được phân loại theo nhiều cấp vị khác nhau (như loại
hình, dạng, hình thức quy hoạch ) nhằm giải quyết các nhiệm vụ cụ thể về sử
dụng đất đai (như điều chỉnh quan hệ đất đai hay tổ chức sử dụng đất như tư
liệu sản xuất) từ tổng thể đến thiết kế chi tiết.
Đối với Việt Nam, Luật Đất đai năm 2003 (Điều 25) quy định: quy
hoạch sử dụng đất được tiến hành theo lãnh thổ hành chính. [8]
(1). Quy hoạch sử dụng đất cả nước (gồm cả quy hoạch sử dụng đất các
vùng kinh tế tự nhiên);
(2). Quy hoạch sử dụng đất cấp tỉnh;
(3). Quy hoạch sử dụng đất cấp huyện;
(4). Quy hoạch sử dụng đất cấp xã (không thuộc khu vực quy hoạch phát
triển đô thị). [5]
Đối tượng của quy hoạch sử dụng đất theo lãnh thổ là toàn bộ diện tích
tự nhiên của lãnh thổ. Tuỳ thuộc vào cấp vị lãnh thổ hành chính, quy hoạch sử

dụng đất theo lãnh thổ sẽ có nội dung cụ thể, chi tiết khác nhau và được thực

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

10
hiện theo nguyên tắc: từ trên xuống, từ dưới lên, từ toàn cục đến bộ phận, từ
cái chung đến cái riêng, từ vĩ mô đến vi mô và bước sau chỉnh lý bước trước.
Mục đích chung của quy hoạch sử dụng đất theo lãnh thổ hành chính bao
gồm: Đáp ứng nhu cầu đất đai (tiết kiệm, khoa học, hợp lý và có hiệu quả) cho
hiện tại và tương lai để phát triển các ngành kinh tế quốc dân: Cụ thể hoá một
bước quy hoạch sử dụng đất của các ngành và đơn vị hành chính cấp cao hơn;
Làm căn cứ, cơ sở để các đơn vị hành chính cấp dưới triển khai quy hoạch sử
dụng đất của địa phương mình và để lập kế hoạch sử dụng đất 5 năm làm căn
cứ để giao đất, cho thuê đất, thu hồi đất phục vụ cho công tác quản lý Nhà
nước về đất đai.
Khác với Luật Đất đai năm 1993, Luật Đất đai năm 2003 không quy định
cụ thể quy hoạch sử dụng đất theo các ngành (nông nghiệp, lâm nghiệp, khu
dân cư nông thôn, đô thị, chuyên dùng). Quy hoạch sử dụng đất của các
ngành này đều nằm trong quy hoạch sử dụng đất theo lãnh thổ hành chính.
Đối với quy hoạch sử dụng đất vào mục đích quốc phòng, an ninh được quy
định riêng tại điều 30 ( Luật Đất đai 2003). [8]
Tuy nhiên, có thể hiểu mối quan hệ tương đối chặt chẽ giữa quy hoạch sử
dụng đất theo lãnh thổ và quy hoạch sử dụng đất theo ngành. Trước tiên, Nhà
nước căn cứ vào chiến lược phát triển kinh tế - xã hội của cả nước và hệ thống
thông tin tư liệu về điều kiện đất đai hiện có để xây dựng quy hoạch tổng thể
sử dụng các loại đất. Các ngành chức năng căn cứ vào quy hoạch tổng thể sử
dụng đất đai để xây dựng quy hoạch sử dụng đất cụ thể cho từng ngành phù
hợp với yêu cầu và nội dung sử dụng đất của ngành. Như vậy, quy hoạch tổng
thể đất đai phải đi trước và có tính định hướng cho quy hoạch sử dụng đất
theo ngành. Nói khác đi, quy hoạch ngành là một bộ phận cấu thành trong quy

hoạch sử dụng đất theo lãnh thổ.

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

11
Trong nông nghiệp, quy hoạch sử dụng đất theo ngành bao gồm quy
hoạch sử dụng đất các vùng sản xuất chuyên môn hoá và quy hoạch sử dụng
đất các xí nghiệp. Quy hoạch sử dụng đất cho các vùng chuyên môn hoá - sản
xuất hàng hoá có thể nằm gọn trong cấp vị lãnh thổ hoặc không trọn vẹn ở
một đơn vị hành chính. Do tính đặc thù của sản xuất nông nghiệp, ngoài sản
phẩm chuyên môn hóa phải kết hợp phát triển tổng hợp để sử dụng đầy đủ và
hợp lý đất đai. Quy hoạch sử dụng đất của xí nghiệp là hệ thống biện pháp về
tổ chức, kinh tế và kỹ thuật nhằm bố trí, sắp xếp, sử dụng các loại đất như tư
liệu sản xuất một cách hợp lý để tạo ra nhiều nông sản hàng hoá, đem lại
nguồn thu nhập lớn. Nội dung quy hoạch đất đai của xí nghiệp rất đa dạng và
phong phú, bao gồm: Quy hoạch ranh giới địa lý; Quy hoạch khu trung tâm;
Quy hoạch đất trồng trọt; Quy hoạch thuỷ lợi; Quy hoạch giao thông; Quy
hoạch rừng phòng hộ Quy hoạch sử dụng đất của xí nghiệp có thể tiến hành
trong các vùng sản xuất chuyên môn hóa hoặc có thể độc lập ở ngoài vùng.
2.3.2. Các loại hình kế hoạch sử dụng đất
Quy hoạch sử dụng đất được phân kỳ thực hiện theo kế hoạch 5 năm.
Kế hoạch sử dụng đất cũng được lập theo cấp lãnh thổ hành chính nhưng phải
đáp ứng được các yêu cầu sau:
- Bao quát được toàn bộ đất đai phục vụ cho nền kinh tế quốc dân ;
- Phát triển có kế hoạch tất cả các ngành kinh tế trên địa bàn nhất định;
- Thiết lập được cơ cấu sử dụng đất hợp lý trên địa bàn cả nước, trong
các ngành và trên từng địa bàn lãnh thổ;
- Đạt hiệu quả đồng bộ cả ba lợi ích kinh tế, xã hội và môi trường;
Kế hoạch sử dụng đất theo ngành và cả nước phải đảm bảo thực hiện
được các mục tiêu vĩ mô (bao quát chung cho toàn xã hội và cả nước) như:

An ninh lương thực, bảo vệ môi trường, công bằng xã hội Còn kế hoạch theo
lãnh thổ hành chính phải cụ thể hoá các mục tiêu vĩ mô, cùng với việc xử lý

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

12
các mục tiêu cụ thể của địa phương và các vấn đề cụ thể của từng chủ sử dụng
đất khác nhau trên địa bàn.
Kế hoạch sử dụng đất phải gắn với kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội,
dựa trên mục đích chung vì lợi ích lâu dài phát triển kinh tế - xã hội nhằm
thoả mãn nhu cầu của nhân dân về tinh thần và vật chất. Tuy nhiên, cần lưu ý
điểm khác biệt: Kế hoạch sử dụng đất chú trọng phát triển hình thức không
gian; kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội chú trọng phát triển hình thức thời
gian, nhưng nội dung lại được triển khai với hình thức không gian nhất định.
Kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội là tiền đề của kế hoạch sử dụng đất, kế
hoạch sử dụng đất là sự tiếp tục của kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội nhằm
bố trí không gian thống nhất đối với các hạng mục liên quan đến đất đai (xây
dựng, khai hoang, chuyển mục đích sử dụng đất ) trong thời kỳ kế hoạch.
Thời hạn lập kế hoạch sử dụng đất thường thống nhất với thời hạn lập
kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội của các ngành, các cấp lãnh thổ hành
chính và được thực hiện trong thời gian 5 năm.
2.4. Nhiệm vụ và nội dung quy hoạch sử dụng đất đai
Đối với mỗi quốc gia, cũng như từng vùng trong một nước (khác nhau về
không gian), nhiệm vụ và nội dung quy hoạch sử dụng đất ở các giai đoạn lịch
sử khác nhau (về thời gian) là rất khác nhau.
Trong giai đoạn hiện nay, nội dung của quy hoạch sử dụng đất bao gồm:
(1). Điều tra, nghiên cứu, phân tích tổng hợp điều kiện tự nhiên, kinh tế,
xã hội và hiện trạng sử dụng đất; đánh giá tiềm năng đất đai (đặc biệt là đất
chưa sử dụng);
(2). Đề xuất phương hướng, mục tiêu, trọng điểm và các nhiệm vụ cơ

bản về sử dụng đất trong kỳ quy hoạch (dựa trên cơ sở dự báo biến động sử
dụng đất đai, nhu cầu đất của các ngành kinh tế quốc dân, khả năng đáp ứng
về số lượng và chất lượng đất đai);

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

13
(3). Xác định diện tích các loại đất phân bổ cho nhu cầu phát triển kinh tế -
xã hội, quốc phòng, an ninh (điều chỉnh cơ cấu sử dụng đất, phân phối hợp lý
nguồn tài nguyên đất đai, xử lý, điều hoà nhu cầu sử dụng đất giữa các ngành,
đưa ra các chỉ tiêu khống chế - chỉ tiêu khung để quản lý vĩ mô đối với từng loại
sử dụng đất - 3 nhóm đất chính theo quy định của Luật Đất đai năm 2003 [8]
(4). Xác định diện tích đất phải thu hồi để thực hiện các công trình, dự án;
(5). Xác định các biện pháp khai thác, sử dụng, bảo vệ, cải tạo đất và bảo
vệ môi trường;
(6). Giải pháp tổ chức thực hiện quy hoạch sử dụng đất.
Như vậy, nhiệm vụ trọng tâm của quy hoạch sử dụng đất là: Phân phối
hợp lý đất đai cho nhu cầu phát triển kinh tế - xã hội; Hình thành hệ thống cơ
cấu sử dụng đất phù hợp với cơ cấu kinh tế; Khai thác tiềm năng đất đai và sử
dụng đất đúng mục đích; Hình thành, phân bố hợp lý các tổ hợp không gian
sử dụng đất nhằm đạt hiệu quả tổng hoà giữa 3 lợi ích kinh tế, xã hội và môi
trường cao nhất.
Quy hoạch sử dụng đất là hệ thống quy hoạch nhiều cấp. Ngoài lợi ích
chung của cả nước, mỗi vùng, mỗi địa phương tự quyết định những lợi ích
cục bộ của mình. Vì vậy, để đảm bảo sự thống nhất, khi xây dựng và triển
khai quy hoạch sử dụng đất phải tuân thủ các thể chế hành chính hiện hành
của Nhà nước.
Hệ thống quản lý hành chính của nước ta được phân chia thành 4 cấp:
toàn quốc (bao gồm cả cấp vùng), cấp tỉnh, cấp huyện và cấp xã. Tuỳ thuộc
vào chức năng, nhiệm vụ của mỗi cấp, quy hoạch sử dụng đất có nội dung và

ý nghĩa khác nhau. Quy hoạch của cấp trên là cơ sở và chỗ dựa cho quy hoạch
sử dụng đất của cấp dưới; quy hoạch của cấp dưới là phần tiếp theo, cụ thể
hóa quy hoạch của cấp trên và là căn cứ để điều chỉnh các quy hoạch vĩ mô.

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

14
2.5. Quy hoạch sử dụng đất đai ở một số nƣớc trên thế giới
Công tác quy hoạch luôn chiếm vị trí quan trọng trong quản lý đất đai
cũng như quá trình sản xuất. Tuỳ thuộc vào điều kiện của mình mà mỗi nước
có phương pháp quy hoạch sử dụng đất đặc thù khác nhau và quá trình thực
hiện cũng khác nhau. Trên thế giới, công tác quy hoạch sử dụng đất đã được
tiến hành từ nhiều năm trước đây nên hệ thống quy hoạch của họ tương đối
hoàn chỉnh, tạo đà thúc đẩy sự phát triển của nền kinh tế.
* Nhật Bản trong những năm gần đây, tốc độ công nghiệp hoá, hiện đại
hoá và đô thị tăng đã đặt ra nhu cầu sử dụng đất ngày một lớn cho tiến trình phát
triển kinh tế - xã hội, sự cạnh tranh về mục đích sử dụng đất diễn ra không chỉ ở
trong khu vực đô thị mà còn ở hầu hết trên lãnh thổ đất nước. “Trong những thập
kỷ vừa qua cơ cấu sử dụng đất đã có sự thay đổi, bình quân mỗi năm chuyển đổi
khoảng 30.000 ha đất sản xuất nông nghiệp sang các mục đích khác
Giá trị sinh thái, thẩm mỹ của môi trường thường xuyên được nhấn
mạnh trong quy hoạch. Sự phát triển kinh tế đòi hỏi sự kết hợp chặt chẽ việc
sử dụng đất và các xu hướng của xã hội, giải quyết có hiệu quả mối liên kết
trung ương và địa phương trong quản lý môi trường” .
* Tiến sĩ Azizi Bin Haji Muda cho rằng “cơ sở của sự phát triển nông
thôn là cải thiện đời sống kinh tế - xã hội của dân cư nông thôn. Quá trình
phát triển kinh tế (hiện đại hoá nền kinh tế thông qua phát triển công nghiệp)
ở Malaysia là nguyên nhân của những thay đổi sử dụng đất; Kết quả là nhiều
đất nông thôn màu mỡ được chuyển sang các hoạt động phi nông nghiệp đặc
biệt dành cho các ngành công nghiệp sản xuất, nhà ở và các hoạt động thương

mại khác”.
* Quá trình phát triển xã hội Đài Loan trước đây cũng giống với hiện
trạng phát triển giai đoạn hiện nay của Việt Nam, tức là xã hội nông nghiệp là
chính. Những năm 40 trở lại đây, nền kinh tế Đài Loan có tăng trưởng với tốc

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

15
độ nhanh, giới công thương đã trở thành ngành nghề chủ lực của Đài Loan,
cũng là sức mạnh căn bản của đất nước. Hơn nữa, nông nghiệp cùng với sự
phát triển của kỹ thuật đã phát triển theo hướng thâm canh, chuyên sâu.
Nhân khẩu nông nghiệp và diện tích sử dụng đất trong nông nghiệp Đài
Loan giảm theo hàng năm, nhưng cùng với việc ứng dụng tiến bộ kỹ thuật và
chính sách thâm canh hóa, chuyên sâu hóa, giá trị sản lượng về tổng sản phẩm
quốc nội trong nông nghiệp vẫn tăng ổn định. Nhưng sự phát triển của nghề
chế tạo tuy chỉ với nhu cầu sử dụng đất không lớn nhưng phát huy hiệu quả sử
dụng đất lớn nhất; giá trị sản xuất trên đơn vị nhân khẩu và tổng sản phẩm
quốc nội trong nghề chế tạo đều có cống hiến to lớn hơn so với nông nghiệp.
“Từ kinh nghiệm phát triển Đài Loan có thể thấy sự phát triển nông
nghiệp Đài Loan tuy vẫn chiếm vị trí số một, nhưng cống hiến đối với phát
triển kinh tế vẫn dựa vào sự phát triển của nghề chế tạo. Đài Loan đã lấy nghề
chế tạo làm chủ lực, vì nó có thể sử dụng diện tích đất đai ít nhất, nhưng phát
huy hiệu quả kinh tế lớn nhất. Đối với phát triển nông nghiệp đã tích cực đưa
vào kỹ thuật sản xuất tiên tiến, nâng cao hiệu quả sản xuất nông nghiệp, giảm
bớt diện tích và nhu cầu nhân lực của nông nghiệp, chuyển một bộ phận nhân
lực và đất nông nghiệp đưa vào sản xuất trong nghề chế tạo, nâng cao hiệu
quả sử dụng đất, đồng thời tạo cơ hội việc làm, tiến tới nâng cao giá trị và thu
nhập quốc dân trong nước”.
Thực tiễn của nhiều nước trên thế giới cho thấy quá trình công nghiệp
hoá nếu không sớm có quy hoạch toàn diện về đất đai, nếu không biết khai

thác sử dụng hợp lý thì diện tích đất nông nghiệp bị giảm tại các vùng đồng
bằng đất tốt làm mất an ninh lương thực.
“Quá trình phát triển công nghiệp của Nhật Bản, Hàn Quốc, Đài Loan,
Ấn Độ và Trung Quốc trong vòng 10 năm gần đây đã lấy mất hơn 15 triệu ha
đất nông nghiệp.

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

16
Ở Indonesia mỗi năm có 50 ngàn ha đất trồng lúa "biến" mất để
nhường chỗ cho xây dựng nhà ở và các khu công nghiệp Bên cạnh việc
giảm diện tích đất canh tác, độ phì nhiêu của đất cũng suy giảm do ô nhiễm
chất thải từ công nghiệp hoặc do chế độ canh tác thiếu khoa học gây ra.
Chẳng hạn ở Mỹ, do những nguyên nhân này gây ra đã làm cho gần 20 triệu
ha đất không còn sử dụng được…”.
Hầu hết các nước trên thế giới, kể cả các nước phát triển và đang phát
triển, quy hoạch sử dụng đất đai mang tính đặc thù riêng, mỗi một loại hình
quy hoạch ở các nước đều có những quy định về nội dung, phương pháp tiến
hành phân ra các cấp, kiểu quy hoạch, song 2 loại hình quy hoạch này dù ở
đâu trên thế giới thì cũng có những mối quan hệ nhất định. Trên cơ sở quy
hoạch không gian người ta tiến hành phân vùng sử dụng đất sau đó tiến hành
quy hoạch chi tiết cho từng khu vực. Quy hoạch chi tiết phát triển từng vùng
thông thường được đấu thầu cho các cơ quan phát triển bất động sản tư nhân.
Tuy nhiên, mỗi phương án quy hoạch chi tiết đều phải tuân thủ chặt chẽ các
quy định về xây dựng và môi trường; các phương án quy hoạch chi tiết phải
được công bố công khai và trưng cầu ý kiến của cộng đồng dân cư nơi có quy
hoạch ít nhất là ba tháng trước khi phê duyệt và triển khai.
Ở Liên bang Australia (Úc) hầu hết các Tiểu bang đều có cơ quan quy
hoạch riêng (Planning Commision) trực thuộc Chính phủ Tiểu bang, người
đứng đầu cơ quan quy hoạch là thành viên Chính phủ có quyền hạn tương

đương các Bộ trưởng khác (hàm Bộ trưởng). Quy hoạch tổng thể không gian
và phân vùng sử dụng đất do ngân sách Nhà nước Tiểu bang cấp, quy hoạch
chi tiết do các công ty trúng thầu tự bỏ sau đó tính vào giá các khu đất hoặc
các toà nhà bán đấu giá sau này. Ở Úc khi tiến hành quy hoạch điều đầu tiên
người ta chú trọng là phân bổ sử dụng đất làm sao cho sử dụng có hiệu quả
nhất điều kiện tự nhiên sẵn có bảo đảm phát triển bền vững và có môi trường

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

17
tốt. Thông thường các khu có hồ, rừng cây được giữ tối đa trong quá trình
quy hoạch. Các khu nhà ở thường được bố trí ven các dòng sông, bờ biển,
gần hồ. Các khu sản xuất bố trí xa khu dân cư, xa nguồn nước. Trong các
khu dân cư chú trọng bố trí đầy đủ các khu dịch vụ thương mại, trường học.
Thông thường khu trường học và trung tâm thương mại được bố trí ở vị trí
gần trung tâm nhất để thuận lợi cho mọi công dân trong khu. Tuy nhiên,
bệnh viện thông thường được bố trí ở phía ngoài khu dân cư, thuận lợi về
giao thông nhưng xa các đường cao tốc hoặc nhà ga để tránh tiếng ồn và để
ngăn chặn sự lây lan của dịch bệnh. Tất cả các khu đô thị mới hiện nay khi
thiết kế thường gắn với sử dụng tiết kiệm năng lượng, đèn chiếu sáng dùng
đèn tiết kiệm, các nhà ở sử dụng tối đa pin năng lượng mặt trời, nước thải
sinh hoạt được xử lý và theo đường ống riêng dành cho tưới cây và rửa xe để
tiết kiệm nước.
Malaysia và Indonesia có quy định quy hoạch tương đối giống nhau và
giống Liên bang Úc. Tuy nhiên, Malaysia đang có định hướng và đã tiến hành
với Chính phủ Trung ương tách khu hành chính (Thủ đô hành chính) ra khỏi
khu đô thị cũ, khu dân cư và khu thương mại. Đây là phương án quy hoạch
khá mới, một cách tiếp cận và tư duy hoàn toàn đổi mới. Với phương án này
Malaysia vừa bảo toàn được các khu phố cổ để duy trì du lịch, vừa có điều
kiện hiện đại hóa các cơ quan công quyền, thực hiện Chính phủ điện tử (E-

Government) vừa tránh được ùn tắc giao thông trong khu đô thị. Một vấn đề
đang đặt ra đối với Malaysia là Chính phủ cần có hỗ trợ để xây dựng các khu
dân cư dành cho công chức tại các khu hành chính mới này. Với quy hoạch
các “Thủ đô hành chính” tạo điều kiện thuận lợi cho người dân và các tổ chức
khi thực hiện các thủ tục hành chính và thuận lợi cho các cơ quan kiểm tra,
giám sát việc thực thi công vụ của các cơ quan công quyền.

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

18
Các bước đi của Indonesia có nét giống Việt Nam; vẫn chủ yếu dựa
trên việc cải tạo và tu bổ các đô thị cũ, tính chắp vá trong quy hoạch vẫn còn
tồn tại và khá phổ biến.
Kinh nghiệm của Trung Quốc và Đài Loan là bài học đáng nghiên cứu:
Những khu dân cư, khu công nghiệp, khu đô thị mới quy hoạch rất hiện đại và
có tầm nhìn phát triển bền vững cho một tương lai xa. Tuy nhiên, để quy
hoạch được như Trung Quốc và Đài Loan đòi hỏi phải có tiềm lực kinh tế lớn;
ở các nước này quy hoạch đô thị vẫn do cơ quan xây dựng đảm nhiệm, việc
quy hoạch sử dụng đất đai chủ yếu tập trung vào phân vùng các khu chức
năng do cơ quan quản lý đất đai đảm nhiệm.
Các nước thuộc Liên Xô (cũ) có bước đi tương tự nhau; trước hết là lập
sơ đồ tổng thể phát triển lực lượng sản xuất sau đó tiến hành quy hoạch chi
tiết các ngành, trên cơ sở nhu cầu sử dụng đất của các ngành để tiến hành quy
hoạch sử dụng đất đai. Tuy nhiên, việc phân bổ các khu chức năng để bảo
đảm phát triển bền vững và bảo vệ môi trường luôn luôn là vấn đề được quan
tâm hàng đầu. Một nguyên tắc cơ bản của các nước này là bảo vệ nghiêm ngặt
đất sản xuất, đặc biệt là đất canh tác. Tại các nước này quy hoạch tổng thể
phát triển lực lượng sản xuất do ủy Ban kế hoạch Nhà nước (tương đương Bộ
Kế hoạch và Đầu tư của Việt Nam) đảm trách; quy hoạch đô thị do ngành xây
dựng, quy hoạch sử dụng đất đai do cơ quan quản lý đất đai thực thi.

Ở Pháp, quy hoạch sử dụng đất đai được xây dựng theo hình thức mô
hình hoá nhằm đạt hiệu quả kinh tế cao trong việc sử dụng tài nguyên, môi
trường và lao động, áp dụng bài toán quy hoạch tuyến tính có cấu trúc và sản
xuất hợp lý, thúc đẩy nền kinh tế phát triển.
Ở Mỹ, Đức, nội dung quy hoạch sử dụng đất đã gắn liền với môi
trường, xây dựng một hệ thống quy hoạch tổng thể đảm bảo cảnh quan môi
trường và sử dụng đất hiệu quả, bền vững. Vì thế, quy hoạch sử dụng đất tại

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

19
những nước này có tính khả thi cao. Những nguyên tắc về sử dụng đất được
thông qua ở thành phố NewYork từ 1916 đến những năm 1930, hầu hết các
bang của nước Mỹ đều tuân theo nguyên tắc trên.
Đến những năm 1930, các bang này gặp phải một số vấn đề về môi
trường và sự bảo tồn các di tích lịch sử nên đòi hỏi phải có những nguyên tắc
có tầm nhìn xa hơn. Từ những đòi hỏi trên, Luật Đất đai mới của Mỹ ra đời
và hình thành hệ thống quy hoạch sử dụng đất
Ở Đức, điển hình là thành phố Berlin, hệ thống quy hoạch sử dụng đất
đã được xây dựng từ rất sớm. Chỉ vài năm sau khi có sự thống nhất toàn lãnh
thổ của đất nước, năm 1994, hệ thống quy hoạch sử dụng đất được xây dựng
với bản đồ tỷ lệ 1:50.000. Sau đó, việc điều chỉnh và cập nhật những biến
động đất đai cho phù hợp với sự thay đổi của nền kinh tế, xã hội và mục tiêu
của Chính phủ được tiến hành thường xuyên. Do đó, hệ thống quy hoạch sử
dụng đất của thành phố Berlin nói riêng và của Đức nói chung có hiệu quả cao,
đảm bảo sử dụng đất hiệu quả, tiết kiệm và bền vững, tạo đà cho sự phát triển
của nền kinh tế.
Tại Thụy Điển và các nước Đông Âu khác phân vùng sử dụng đất được
lồng ghép ngay trong khi tiến hành quy hoạch tổng thể không gian. Việc mọi
quan tâm chủ yếu tập trung vào quy hoạch chi tiết phát triển đô thị và vấn đề

bảo vệ môi trường sống luôn được đặt lên hàng đầu.
Nói tóm lại bước đi, cách làm và tổ chức bộ máy tiến hành của các
nước có khác nhau nhưng tất cả đều có nguyên tắc chung là sử dụng hợp lý tài
nguyên đất đai, bảo vệ được tài nguyên rừng hiện có, duy trì và bảo vệ các
khu phố cổ, bảo đảm phát triển bền vững và bảo vệ môi trường sống cho hiện
tại và thế hệ mai sau.
Nhìn chung, hệ thống Luật Đất đai ở những nước phát triển tương đối
hoàn thiện nên công tác xây dựng và thực hiện quy hoạch sử dụng đất được triển

×